Triều Thanh, vào năm đầu tiên niên hiệu Khang Hy [1662] gỗ đàn hương rất có giá. Quận Tô có một hiệu buôn gỗ hương, bỏ ra 3 lượng bạc thỉnh về một pho tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Sau đó suy nghĩ tính toán rằng, nếu phá pho tượng này ra để bán gỗ vụn thì có thể được 16 lượng, liền chuẩn bị chẻ tượng ra. Có một người thợ sợ làm như vậy mang tội nên hết sức can ngăn, nhưng đứa con rể của ông chủ hiệu buôn lúc đó đến đón vợ, đang ở tại nhà cha vợ, liền chỉ mặt người thợ ấy mà nói: “Mày chỉ là người làm công, đâu phải việc của mày. Cứ nghe lời mà làm đi.”
Đêm hôm đó, người con gái của chủ hiệu buôn bỗng đau bụng không thể về nhà, phải ở lại ba hôm để trị bệnh. Qua hôm sau, trên đường phố có một đứa bé khoảng sáu tuổi đang đi theo cha, bỗng chỉ tay về phía hiệu buôn gỗ hương, hỏi cha: “Cha ơi, sao trên nóc nhà kia lại có niêm phong màu đỏ phong kín thế?” Người cha cho rằng đứa bé nói bậy nên cấm không cho nói nữa.
Đêm ấy, hiệu buôn gỗ hương bỗng tự nhiên phát hỏa, lửa thiêu duy nhất một nhà ấy thôi, cả nhà không ai sống sót. Đứa con rể của chủ hiệu định nhảy ra từ một lỗ thoát trên tầng lầu, nhưng bỗng thấy như có vật gì ngăn giữ lại, cuối cùng phải chịu chết trong lửa. Riêng người thợ làm công, ngay buổi sáng sớm hôm trước đó bỗng có một hiệu buôn trầm hương khác đến khẩn thiết mời sang giúp họ hai hôm, nhờ thế mà thoát khỏi nạn này.
- Lời bàn:
Trích An Sĩ Toàn Thư – Khuyên Người Tin Sâu Nhân Quả
Nguyên tác Hán văn: Âm Chất Văn Quảng Nghĩa
Tác Giả: Chu An Sĩ
Việt dịch và chú giải: Nguyễn Minh Tiến
Mình có chuyện này mong các bạn giải đáp . Mình nghe nói là thủ dâm thì sẽ gặp quả báo là tướng mạo xấu . và chịu mọi nhục hình nơi địa ngục , nhưng vẫn không hiểu là: mình thủ dâm đó là hiện tượng sinh lý của cơ thể . Chứ đâu phải hại ai hoặc quan hệ bất chính với ai . sao phải chịu như vậy .
Tôi xin hỏi vì sao tội thủ dâm phán nặng như vậy,kẻ phạm nhẹ cũng phải 1 vạn năm ?
Phán quan nói tại vì thủ dâm đặc biệt tổn thân bại đức,tổn hại tam bảo của thân người là tinh khí thần,càng rất bất hiếu với cha mẹ;cũng như tự sát vậy,tuy rằng không có xâm hại người khác nhưng cũng giết chết sinh mạng bản thân nên hình phạt nặng.Những chúng sinh thích thủ dâm thường phạm liên tục.Lúc còn sống phạm tội thủ dâm một lần,giảm phước thọ nữa tháng,lần thứ hai giảm phước thọ 1 tháng,mạng chung đọa vào địa ngục thọ báo.Nếu như lúc sống cố gắng sám hối thì có thể miễn địa ngục khổ hình,phải xem một án lệ thực tế phán xử.
Điều này thật là dễ.hễ ai chịu niệm NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT thì liền xa lìa dâm dục. Điều này là thật đấy.Vợ chồng tôi phòng ai nấy ngủ.Phòng của tôi có ảnh QUÁN THẾ ÂM, TƯỢNG A DI ĐÀ,TƯỢNG DI LẶC .ẢNH TÂY PHƯƠNG TAM THÁNH. Gần các vị này thì ngủ ngon. Trước kia tôi không biết PHẬT PHÁP phòng của tôi là 1 đôi nam nữ ăn mặc mát mẻ. Lòng dâm cuồn cuộn.Thật là nghĩ cái gì thì tâm duyên theo cái ấy.Nay nghĩ vẻ đẹp của tượng PHẬT,tướng tốt của PHẬT .Mấy cái kia…nhạt nhẽo vô cùng.
……..
Cái ảnh nam nữ đốt thành tro bụi rồi. Nghĩ cho khổ cái thân
Bạn Huy hùng ,
Quả thật việc ấy nhìn vào không giống như đang hại ai, nhưng thật ra là người thủ dâm thì đang tự hại CHÍNH mình và hại cha mẹ.
Nói theo đạo Phật thì chúng ta phải trừ khử tâm dâm để thoát khỏi luân hồi, đằng này, người thủ dâm là đang nuôi cái tâm dâm ấy ngày càng lớn thêm ! Vì khi ấy người đó có cảm giác rất kích thích, nên khiến họ càng thêm chìm đắm vào việc dâm dục. Vọng tưởng nghĩ rằng khi ấy rất ”sung sướng” nào nghờ cảm giác ấy là vọng tưởng mà thôi ! Ngày càng thủ dâm nhiều thêm, ấy chẳng phải là nuôi cái tâm dâm thêm lớn hay sao? Vậy lẽ nào không có tội? Tội rất nặng, quả báo cũng thảm khóc.
Nói về quả báo của dâm thì nhiều vô lượng bạn à! Không phải chỉ có tướng mạo xấu đâu. Mà hiện đời sẽ chiêu cảm ra rất nhiều điều bất hạnh trong cuộc sống : bệnh tật, sự nghiệp tiêu tan, và nhiều tai nạn thí dụ không hết nổi , cho đến giảm phước, lộc, và thọ , đều dần mất sạch! Nghiệp và phước mỗi người khác nhau nên lúc tai nạn đến cũng có khác nhau không thể so sánh. Cuối cùng là đọa địa ngục không ra khỏi đc .
Đó là chỉ nói sơ, về tác hại của việc tà dâm theo đạo Phật.
Còn nếu bạn vẫn không phục thì có thể nghiên cứu theo y học về thủ dâm.
Theo như Tiến sĩ Bành Tân, thì việc tà dâm, bao gồm thủ dâm cho đến quan hệ bừa bãi đều sẽ tổn hại đến thận khí, thận tinh. Mà khi thận tinh đã suy thì sẽ sanh ra nhiều tật bệnh. Cho nên chúng ta thấy rất nhiều người trẻ hiện nay bị tiểu đường, trí óc có vấn đề, cho đến trí nhớ giảm sút, rụng tóc, già trước tuổi và nhiều bệnh lạ khác . Những đều ấy là do BS Bành đã giảng, vì theo BS thì thận tinh rất quan trọng, nếu cứ tà dâm thì không thuốc gì có thể bổ thận đc nếu vẫn phạm tà dâm. Vì tà dâm mà gây ra bệnh tật, cha mẹ sầu lo, nên tính thêm tội bất hiếu! Còn theo Tây y thì thủ dâm là việc tốt, đều ấy là do Tây y không biết Nhân quả, không biết sự thật, là điên đảo, người đời chớ nên tin mà phạm tà dâm. Mong bạn và mọi người đều chớ phạm vào tội này, sẽ có quả báo rất thảm. Có người quả báo là chưa đến chứ không phải không có, nên chớ nhìn vào người khác mà nghi ngờ nhân quả. Đức Phật là Đấng Đại Giác, không điều gì không thấu, Ngài đã đặt ra giới không tà dâm, thì còn gì nghi hoặc?
A di đà phật .
Còn về bạn nguyên, tôi thật ngạc nhiên khi bạn nói xa lìa dâm dục là dễ. Bạn chắc phải là hạng thượng căn rồi. Bởi không ai dám nói điều ấy là dễ. Nếu là dễ thì quá dễ thoát khỏi tam giới rồi. Quán chiếu lại tâm, xem bạn có hơi ngạo mạn không?
Tuy phẩm Phổ môn có nói như thế, nhưng mấy ai thật sự xa lìa đc tâm dâm? Một niệm không để ý nó liền khởi dậy ngay. Gặp người nữ lạ có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành bạn có chắc tâm không động, niệm niệm bất động? mà cho là dễ?
Tôi không phải bắt bẻ bạn, tôi chỉ sợ những người mới biết đến chánh pháp đọc đc, thì cho là dâm niệm dễ trừ, nên lơ là không cố giữ chánh niệm cho là mình đã dứt đc dâm niệm, và sanh ngạo mạn.
Cũng vậy, với ảnh, tượng Phật, nếu thật sự cung kính thì không ai để trong phòng ngủ cả. Bởi trong phòng ngủ người thường bận đồ hở hang, đôi lúc còn thay đồ, lõa lồ trong phòng ngũ. Nên đều đó vô cùng bất kính với Tam bảo. Hơn nữa trong lúc nằm ngũ thường không giữ đc oai nghi, nằm lăn lộn nhiều kiểu xấu xí trước tượng Phật thì như thế nào? Có cung kính chăng?
Mong các bạn suy nghĩ kỹ khi đặt ảnh hay tượng Phật trong phòng. A di đà Phật .
A Di Đà Phật, sau khi nghe thấy tội thủ dâm này thì bản thân mình lại cảm thấy tội lỗi vô cùng! Không biết có cách nào giúp mình có thể thoát khỏi địa ngục không ạ??
bạn Hoàn,
Cách duy nhất là tu tịnh nghiệp để cầu vãng sanh cõi An Dưỡng nơi phương Tây. Cần nhất là phải bỏ ngay cái thói xấu ấy. Và nên nghe pháp của HT. Tịnh Không để hiểu them về cách niệm Phật, giữ giới để sanh Tịnh độ mới khỏi sa địa ngục. A di đà phật .
Adidaphat.
Chào bạn Nguyên,
Bạn làm vậy là đúng rồi. Không có gì sai hết. Lão PS Tịnh Không đã có nói, treo hình Phật ơ đâu cũng được, ngoại trừ nhà vệ sinh hoặc nơi k sạch sẽ.
Chào bạn Huy Hùng,
Bạn hãy chí thành niệm A Di Đà Phật hoặc Nam Mô Quán Thế Âm bồ tát, lâu ngày sẽ trừ được tâm dâm. Bạn có thể tham khảo cách của bạn Nguyên.
Adidaphat
Adidaphat
Kính chào chư vị liên hữu!
Chào bạn Nancy,
Trước tiên, cảm ơn bạn đã nhắc nhở mọi người phải cẩn thận khi treo hình Phật trong phòng ngủ.
Tất nhiên là khi bạn Nguyên treo hình Phật trong phòng ngủ, thì mỗi khi thay quần áo, bạn Nguyen sẽ tự biết phải vài toilet để thay. Nếu bạn ấy không làm như vậy thì không thể có cảm ứng với Bồ tát Quán Thế Âm được.
Cảm ơn Cư sĩ Hoằng Ẩn đã post bai giảng của Lão PS Tịnh Không làm chứng minh.
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ tát, trong Tây Phương Xác Chỉ có dạy: “Lìa tướng danh tự, lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng tâm duyên”. Nếu chúng ta cứ chấp chặt lời nói thì sẽ hiểu sai đi lời dạy của Ngài. Lão PS nói như vậy tức chúng ta phải tự hiểu là khi thờ hình hoặc tượng Phật trong phòng ngủ thì nhất định không được thay đồ trong đó. Lão PS còn nói, nếu thờ tượng Phật ở trong phòng ngủ thì nên dùng tấm vải vàng để che lại, khi nào công phu thì mở tấm vải ra.
Ấn Quang Đại Sư có dạy phải thành kính. Đó là đúng chứ không sai. Nhưng trong Văn Sao, khi Ngài khuyên những người phụ nữ sắp sanh con nên niệm Bồ tát Quán Âm, Ngài nói, lúc sanh nở, tuy thân thể loã lồ, không được sạch sẽ, nhưng đây là lúc nguy cấp, phật bồ tát không trách tội chúng ta. Phật bô tát đại từ đại bi, khi con mình té vào hầm phân, kếu cứu cha mẹ, cha mẹ chẵng lẽ nào vì con mình nhơ nhớp mà bỏ nó!
Lời dạy này của ngài Ấn Quang cũng giống như lời dạy của Lão PS Tịnh Không trong bài post của cư sĩ Hoằng Ẩn.
Còn nếu mọi người nói treo tranh ảnh trong phòng và sanh nở là 2 việc khác nhau, thì chúng ta đã quá chấp vào hình tướng và ngôn ngữ rồi.
Nói túm lại, thờ tranh Phật, tượng Phật trong phòng ngủ không có gì sai trái, quan trọng là phải thờ như thế nào cho đúng pháp (không được thay đồ,…)
Adidaphat
Chào bạn.
Nếu tôi mời bạn tới nhà chơi vài hôm chơi xong bạn nói:
Tôi phải về rồi.
Cũng vậy bạn là khách thì có gì mang về được.
Quan niệm mình là khác là tự lực.Niệm NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM là tha lực. Như vậy sẽ dễ nói.
………
Niệm phật 1 câu phước sanh vô lượng.
Lễ phật 1lễ tội diệt hà sa.
Bạn nói gì tôi cũng không động tâm đâu.
Chào bạn NANCY
Bồ tát ĐẠI THẾ CHÍ nói:
Nhớ PHẬT niệm PHẬT hiện tiền hoặc vị lai nhất định thấy PHẬT.
Nếu bạn cho là ảnh PHẬT để trong phòng là bất kính thì tôi sẽ không thường xuyên nhìn tướng tốt trong ảnh nữa. Và cũng không lễ lạy được.
…….
1 ngày tôi chỉ lễ 3 lễ nhưng tôi sẽ lễ nhiều hơn và niệm PHẬT nhiều hơn nữa. Cái nhớ của tôi cũng sẽ là nhớ PHẬT niệm PHẬT. Không nhớ vợ niệm vợ,không nhớ tiền niệm tiền. Cho cái ràng buộc nơi đây lợt lạt đi.
………
Bạn còn phân vân về danh hiệu NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT đây cũng là do bạn không chịu niệm .Bạn hãy đem nghi này hỏi những vị hơn tuổi.
bạn nguyên,
Tôi không mấy hiểu ý của bạn đang nói gì…? Không biết có ai hiểu không hay là chỉ do tôi không hiểu..
Vì tôi nói 1 đằng, bạn trả lời 1 ngã. Hoàn toàn không liên quan gì cả. Cũng như bạn trả lời cho bạn Huy Hùng cũng không liên quan gì đến cái câu hỏi của bạn ấy cả.
Cái thí dụ của bạn về nhà và khách không có giảng được ý nghĩa gì về chuyện này cả.
Vâng tôi có biết Thế Chí Đại sĩ có nói như vậy. Nhưng cái nhớ và niệm của Ngài nói thuộc về cái tâm nhớ và tâm niệm chứ không phải để ảnh tượng trong phòng là đã gọi nhớ và niệm Phật. Bạn trích ra câu nói đó nhưng có chắc là bạn hiểu đc câu ấy không?
Với những điều tôi đã nói ở trên mà bạn vẫn không thấy để ảnh tượng trong phòng là bất kính thì đều đó cho thấy bạn không đủ cung kính. Nhưng không sao, những người có cung kính thì sẽ hiểu đều ấy là đúng hay sai. Bạn thích trích ra những câu nói của Đại sĩ, thế bạn có học hết chưa?
Ấn Quang đại sư từng nói; ”Phàm là người niệm Phật nếu áo mũ không chỉnh tề, hoặc ngủ nghỉ, tắm giặt, đại tiểu tiện v.v… chỉ nên niệm thầm trong tâm, chẳng nên niệm ra tiếng rõ ràng.”
Từ đó suy sét xem phàm phu phải cung kính như thế nào..?
Ngài lại nói; ”Đến như tượng Phật, phải tôn kính như Phật sống không nên xem là đất, gỗ, giấy, đồng.”
Thế nên nếu có người xem tượng Phật như Phật sống, thì phải như Thế Tôn còn tại thế, đứng trước người ấy, thì người ấy có dám bận đồ ngủ, nằm ngủ lăn lộn trước mặt Phật không? Người ấy như thế có cung kính chăng ?
Bạn đã phúc đáp lại đầy ngạo mạn, thì tôi biết bạn sẽ không tin những đều này. Nhưng dầu sao thì những đều ấy cũng chẳng phải tôi nói, ấy là ý của Thế Chí đại sĩ đó thôi. Nên tôi nói ra để những người mới vào chánh pháp, người có đủ thiện căn đủ cung kính biết phải kính tượng Phật ra sao thôi, chứ nếu không thì tôi không phải phúc đáp giải thích làm gì.
Quả thật niệm QTA bồ tát thì sẽ đc gia trì để giảm tâm dâm sân si, nhưng không phải ‘dễ’ như bạn đã nói, nên tôi mới nói những đều ở trên. nhưng bạn cho đó là ‘nghi’ và không niệm QTA bồ tát. Thiết nghĩ trước khi chắc chắn điều gì thì chớ nên nói như mình biết bạn à. Người không có phước và trí, còn nghiệp thì có dư như tôi mà lại còn có cái ‘nghi’ như bạn nói thì học Phật sao được. Nhưng bởi vì tôi không dám ngạo mạn, cho là tôi niệm QTA Bồ tát lâu rồi, nên tâm dâm, sân si hết rồi…bởi vì kinh nói như vậy..nên nói với ng khác là trừ cái dâm dễ thôi! Nào dám nghĩ như thế. A di đà phật .
A Di Đà Phật, bạn Nancy mến: bạn Nguyên không phải ngạo mạn, mà là do tu tập có chỗ nào đó chưa đúng pháp nên tâm loạn. Có chịu khó niệm Phật, nghiên cứu Kinh điển nhưng sai pháp nên biểu hiện ra như vậy.
Bạn Nguyên mến, đã có lần DM nói với bạn rồi, tâm bạn quá loạn rồi. Bạn tiếp tục thế này cẩn trọng có ngày vướng vào ma chướng không thoát ra được. Nếu còn chút tỉnh táo hãy chỉ niệm Phật & nghiên cứu 1 bộ Kinh duy nhất. Hãy dừng việc lên dvct đọc và chia sẻ. Dvct không khác gì 1 xã hội thu nhỏ với đầy đủ các chúng sanh căn tánh khác nhau, đủ các lời phát biểu, có lời phát ra của người đang ở cảnh giới Bồ Tát, và cũng rất nhiều lời là ma nói. Nếu hiểu 1 chút về cách thức tu học mà định lực chưa có thì nên biết buông bỏ trang này. Hơn nữa, những lời chia sẻ lộn xộn của bạn làm cho các bạn sơ học loạn tâm, vậy là bạn đang tạo nghiệp.
A Di Đà Phật!
Cảm ơn bạn DM đã giải thích giùm.
Mình không biết bạn ấy bị như vậy.
A Di Đà Phật,
Mời bạn Nguyên và các liên hữu xem bài pháp của Lão PS Tịnh Không sau:
TREO HÌNH PHẬT TRONG PHÒNG NGỦ, TRONG PHÒNG VỆ SINH.. CÓ ĐƯỢC KHÔNG ???
Trong nhà quý vị, mỗi phòng đều có thể treo hình Phật, mỗi phòng đều có thể thấy Phật, giúp cho quý vị quán tưởng, nhắc nhở quý vị niệm niệm tưởng Phật. Người tu Tịnh Độ (Pháp Môn Niệm Phật) thật sự chẳng có gì kỵ húy, trong phòng ngủ cũng có thể treo hình Phật, vì sao? Khiến cho ta suốt ngày từ sáng đến tối trong mười hai thời đều chẳng rời Phật. Vì thế, chẳng cần nói khách sáo, chẳng cần nói tới chuyện cung kính, chẳng cần nói tới chuyện kỵ húy, thảy đều chẳng có. Giữa cha và con còn có kỵ húy chi nữa? Chẳng có kỵ húy! Giữa thầy và trò chẳng có kỵ húy. Không mong vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thì phải tôn trọng, phải khách sáo, phòng ngủ là chỗ chẳng sạch sẽ, chớ nên treo [hình Phật]. Thật sự mong vãng sanh Cực Lạc thì chẳng cần phải nói tới, vì sao? Ta phải đạt được mục đích của chính mình, trong niệm niệm, ta chẳng rời Phật.
Vì thế, giữa một người cầu sanh Cực Lạc và kẻ chẳng cầu sanh Cực Lạc, cách thờ phượng tượng Phật khác nhau, chư vị đồng tu phải nhớ điều này. Có rất nhiều người nói “có chỗ nào đó chẳng nên thờ tượng Phật”, nói kiểu đó cũng đúng. Vì sao? Kẻ ấy chẳng sanh về Cực Lạc, chẳng mong cầu sanh về Cực Lạc, chẳng niệm A Di Đà Phật, [kẻ ấy nói như vậy] là đúng. Phải cung kính, lễ phép đối với tượng Phật. Thật sự mong vãng sanh Cực Lạc, sẽ giống như con thơ nương cậy cha mẹ, một bước cũng chẳng chịu rời, kiêng kỵ gì cũng đều chẳng có. Chúng ta và A Di Đà Phật cũng là một bước chẳng rời, chúng ta giống như trẻ nít, phải cậy vào cha mẹ, chẳng thể rời một bước, chẳng trông thấy sẽ không được! Hễ không thấy liền khóc lóc, nên nơi nào cũng đều có thể thờ, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, chư vị đồng tu phải ghi nhớ điều này! Đối với người khác, chúng ta cũng phải nói với họ như vậy: Họ chẳng niệm Phật, chẳng cầu về Tây Phương Cực Lạc, họ tu những pháp môn khác, hãy nên thờ tượng trong Phật đường, hoặc thờ tại phòng khách trong nhà, chớ nên thờ tùy tiện. Nếu người ấy trong một đời này thật sự mong cầu sanh về Cực Lạc, quý vị liền bảo người ấy: Chỗ nào cũng có thể thờ, trừ phòng vệ sinh hoặc nhà xí là chỗ chẳng sạch sẽ, chớ nên thờ tượng Phật ra, chỗ nào cũng đều có thể thờ được!
Pháp Sư Tịnh Không
A DI ĐÀ PHẬT !
Nam mô A di đà phật.
Xin kính chào chư vị đồng tu
Chúng ta những kẻ mạt học phàm phu, mỗi khi đọc ở đâu đó một đoạn văn nào liền đem trích dẫn và cho đó là đúng, là khuôn vàng thước ngọc phải tuân theo mà ít khi chịu tư duy cho thấu đáo. Đây quả nhiên là một sai lầm tai hại, có thể hại mình và cho nhiều người khác.
Cụ thể là bài giảng Ps Tịnh Không mà cư sĩ Hoằng Ẩn post lên. Mới đọc qua thì mọi người đều cho rằng PS Tịnh Không khuyên nên treo tranh tượng Phật ở phòng ngủ bất tịnh, ngay trước chỗ vợ chồng ái ân dâm dục. Điều này, theo tôi không đúng, vì những lý do sau đây.
Thứ nhất, mâu thuẫn với lời khai thị của Đại sư Ấn Quang về lòng thành kính, rằng phải xem tranh tượng như Phật thật chẳng nên thất lễ. Bạn nằm ngủ giỡn cười, ân ái vợ chồng trước Thánh tượng thì không thể kh. không mang lấy cái tội nghiệp “thất lễ bất kính” vào thân được. Làm sao bạn có thể hành dâm trước mặt Phật Bồ tát được chứ?
Thứ hai, ý của Ps Tịnh Không là có thể treo nhưng phải có điều kiện hẳn hoi, chứ không phải ai treo cũng được. Điều kiện ấy là gì vậy?
Chúng ta hãy suy ngẫm kỹ hai đoạn sau đây:
” Chúng ta và A Di Đà Phật cũng là một bước chẳng rời, chúng ta giống như trẻ nít, phải cậy vào cha mẹ, chẳng thể rời một bước, chẳng trông thấy sẽ không được! Hễ không thấy liền khóc lóc, nên nơi nào cũng đều có thể thờ, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”.
“Thật sự mong vãng sanh Cực Lạc, sẽ giống như con thơ nương cậy cha mẹ, một bước cũng chẳng chịu rời, kiêng kỵ gì cũng đều chẳng có.
Bạn có thể treo không có huý kỵ gì nếu tự thấy mình đáp ứng được điều kiện này:
1. hoặc là hành giả đạt đến cảnh giới “Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”,
2. hoặc là thuộc loại căn khí “Thật sự mong cầu vãng sanh cực lạc” – niệm niệm chẳng rời Phật như con thơ nhớ mẹ, một bước cũng chẳng rời, không thấy liền khóc- nói khác hơn đây là người thật thà niệm Phật, Lão thật niệm Phật.
Lý sự vô ngại chẳng phải cảnh giới của phàm phu nghiệp lực sâu nặng như phàm phu chúng ta.
Lão thật niệm Phật như thế, tư duy phản tỉnh thật kỹ xem chúng ta có phần hay không, thì liền biết câu trả lời cho chính mình là treo hay không treo.
Nếu có thể buông bỏ hết thảy ngũ dục lục trần, thân tâm thế giới, cái gì cũng không cần, niệm niệm nhớ Phật niệm Phật thì có thể treo. Đây là thâm ý của Lão PS, nếu công phu chưa đến chỗ Lão Thật niệm như thế thì phải dè chừng trước khi treo ở phòng ngủ.
Chân thật mà nói, làm được như lời PS “Thật sự mong vãng sanh Cực Lạc, sẽ giống như con thơ nương cậy cha mẹ, một bước cũng chẳng chịu rời” không phải là căn khí của phàm phu chúng ta, vì chúng ta niệm niệm đều tương ưng với phiền não, niệm niệm đều tham sân si mạn nghi đủ cả. Bởi thế nên có lần PS nói “thời nay trong 100 người niệm Phật thì có 99 người là giả rồi”. Chúng ta niệm trước là A di đà phật thì niệm sau là vọng tưởng phiền não xen tạp rồi, bước trước là Phật bước sau là ma rồi thì làm sao có thể thoả mãn cái điều kiện “mỗi bước đều không rời Phật” ấy được chứ?
Do vậy, phải rất cẩn trọng khi phát ngôn và khi trích dẫn post bài lên diễn đàn, vì sẽ khiến bao người ngộ nhận. Chúng ta phải nên y theo giáo huấn của Tổ Ấn Quang mà phụng hành, kiệt thành tận kính, nhàn tà tồn thành mà niệm Phật.
Lời của PS Tịnh Không phải khéo hiểu ẩn ý bên trong, tự lượng sức mình.
Vài dòng chia sẻ, có gì mong quý bạn đồng tu góp ý xây dựng thêm
Nam mô A di đà phật
A Di Đà Phật
Hương Quang phúc đáp như thế cũng đúng, bạn Nguyên gỡ hình nam nữ thân mật để thay bằng hình Phật (phòng chỉ có bạn í nằm) cũng đúng, có bạn nào có ý kiến khác?
Xin đồng tình với CƯ SĨ HOẰNG ẤN. vì phương tiện có nhiều cửa. Sao cứ đem chuyện vợ chồng vào đây. Dựa trên lương tri thì tự hiểu.
Bạn Hương Quang thật khéo giải thích ý nghĩa bài pháp của PS Tịnh Không ở trên, khiến nhiều người không bị hiểu lầm mà tạo tội bất kính. Xin tán thán công đức của bạn. Gia Hữu mong rằng những bạn sơ học đọc được bài viết của bạn Hương Quang rồi phải nên hiểu rõ ràng về ý của PS Tịnh Không, chớ đừng hiểu lầm mà tạo nghiệp. A di đà Phật.
Cư Sĩ Hoằng Ẩn ,
Đại Thế Chí bồ tát tức Tổ Ấn Quang nói: ”Đến như tượng Phật, phải tôn kính như Phật sống không nên xem là đất, gỗ, giấy, đồng.”
Nếu cư sĩ cho người nằm một mình thì treo hình Phật đc, vậy hình Phật cũng chỉ là giấy màu, còn tượng thì cũng chỉ là đất đồng làm ra chứ không phải Phật à?
Vậy nếu chúng ta coi hình/tượng Phật như Phật sống thật thì cư sĩ cung kính như thế nào? Phật sống đứng trước mặt cư sĩ, thì cư sĩ phải quỳ xuống để thưa chuyện, còn chẳng dám ngồi nghiêng ngã, chứ chẳng lẽ cư sĩ dám nằm trước vị Phật sống đang đứng nhìn vào cư sĩ sao ?! Suy ra như vậy để hình Phật trong phòng ngủ có nên không?
Sở dĩ GH lôi đều này ra nói từ đầu là vì sợ những bạn sơ học không phân đc đúng sai mà phạm sai lầm, mang tội bất kính. Còn HA là một cư sĩ, chẳng lẽ bạn cũng cho là treo hình/thờ tượng Phật bừa bãi theo kiểu cách của thế gian như thế là đúng hay sao?
GH đã có trích ra những câu của Tổ Ấn Quang về sự cung kính, cũng như bạn HQ cũng có nhắc đến điều đó, nhưng xem ra vài vị đồng tu vẫn có những ý kiến bất đồng. Tuy nhiên, Người đầy đủ thiện căn phước đức thì sẽ hiểu đc lời của Ấn tổ. A di đà Phật.
A Di Đà Phật
Kính thưa các liên hữu. HÂ không dám có một ý của riêng mình trong này nhất là đối với lời của một vị Cao Tăng, một ân sư của chúng sanh trong thời mạt pháp tu theo pháp môn Tịnh Độ. HÂ cũng không dám có ý khác tranh biện vì HÂ cho rằng ai cũng có lý của người đó còn HÂ thì không có ý khác. Sự thực thì HÂ mới đầu cũng có những ý nghĩ như của các LH và cũng xuất phát từ lòng tôn kính Phật. HÂ đã chiêm nghiệm vấn đề này khá lâu (hơn 4 năm) trước khi HÂ gặp được bài của PS Tịnh Không.
– Lần thứ nhất HÂ mời một vị Thầy ở một ngôi chùa đến để làm lễ Yên Vị Phật. Khi đi qua phòng khách treo tới 3 hình Phật, Bồ tát thì vị Thầy này khen: treo nhiều hình Phật như thế là rất tốt. Lúc đó thì HÂ lại đang nghĩ rằng không biết mình treo hình Phật trong phòng này, ăn uống ngủ nghỉ (có một giường đơn trong phòng khách) như vậy có sao không?. HÂ hỏi Thầy như vậy có sao không? Thầy bảo việc này tốt. Sau đó HÂ vẫn để lại một hình Phật A Di Đà trong phòng từ đó đến nay.
– Lần thứ 2 HÂ theo dõi các ca hộ niệm thì thấy ban HN treo hình Phật ở nơi người nằm có thể luôn luôn nhìn thầy và ở trong phòng khách cũng có, phòng ngủ cũng có miễn là để cho người cần HN luôn luôn nhìn thấy hình Phật.
– Lần thứ 3 HÂ đọc được bài của PS Tịnh Không, đó là như những gì HÂ đã post lên ở trên. Ở đây PS Tịnh Không cũng có ý phá chấp cho những người quá câu nệ mà dễ mất đi chánh niệm. HÂ nghĩ, nếu một căn phòng ngủ đơn treo hình Phật, Bồ Tát hay treo hình cha mẹ cũng có sao đâu miễn là làm cho người tu không mất đi chánh niệm. Có lẽ Phật A Di Đà ở Tây Phương cũng không vì điều này mà cho là bất kính vì người nằm đó nhờ hình Phật mà được độ.
HÂ không dám nói bạn nào đó có ý sai đặc biệt không dám có ý khác với Ân Sư Tịnh Không. HÂ nghĩ có lẽ người tu hành đừng vì lòng kính trọng đối với Phật mà lại câu nệ, điều này làm cho việc vãng sanh của người tu càng khó khăn hơn. Đặc biệt hình Phật trong phòng ngủ đơn có thể giúp cho việc gieo trồng chủng tử Phật cho mọi chúng sanh, những người chưa phát tâm.
Qua đây HÂ cũng mong các LH xem lại lời của Ân Sư Tịnh Không và suy ngẫm thêm để nhiều chúng sanh sẽ nhờ việc này mà sớm được về Tây Phương Cực Lạc, thoát ly sinh tử luân hồi. Chư Phật mười phương luôn thương tưởng và muốn chúng sanh sớm ngày thành Phật nên người học Phật không nên để mất chánh niệm. Một hình Phật trong phòng, một hình Phật đeo nơi cổ… cũng nhằm luôn nhắc nhở chúng ta luôn nhớ Phật niệm Phật.
Xin cám ơn sự bày tỏ của quý liên hữu, A Di Đà Phật.
A di đà phật
Xin chào bạn Hoằng Ẩn
“HÂ nghĩ có lẽ người tu hành đừng vì lòng kính trọng đối với Phật mà lại câu nệ, điều này làm cho việc vãng sanh của người tu càng khó khăn hơn.”
Lời này của bạn thật nguy hiểm. Một lòng cung kính y giáo phụng hành lời giáo huấn của Ấn Tổ mà bạn cho là “câu nệ” ư? Nên biết hai chữ “Thành Kính” này là bí quyết của công phu niệm Phật và của mọi sự thành công, cũng là tâm huyết một đời của Ấn Tổ muốn trao truyền cho chúng sanh thời mạt pháp này. Vậy mà bạn lại dám “phán” ngược lại là “câu nệ” và “điều này làm cho việc vãng sanh của người tu càng khó khăn hơn”?
Bạn không nên so sánh với việc người bệnh sắp chết nằm trợ niệm và lúc nằm ngủ của người bình thường, vì đây là hai trường hợp khác nhau. Trợ niệm cần kíp như cứu lửa cháy đầu, còn nằm ngủ bình thường không thể kiểm soát oai nghi, lâu ngày sẽ sanh tâm kinh nhờn bất kính, mang lấy tội nghiệp như núi Thái.
Cho dù là nằm ngủ một mình sự việc này cũng không ngoại lệ
“Đặc biệt hình Phật trong phòng ngủ đơn có thể giúp cho việc gieo trồng chủng tử Phật cho mọi chúng sanh, những người chưa phát tâm.”
Tại sao trong phòng ngủ không gian nhỏ hẹp của bạn lại có thể “giúp cho việc gieo trồng chủng tử Phật cho mọi chúng sanh”? Bạn có nhầm ko vậy? Hay là phòng bạn như là phòng của Duy Ma Đại sĩ, có thể chứa hết 32 ngàn toà sư tử, độ được vô biên chúng sanh?
Chúng ta hiện mang thân phận phàm phu,thà chấp có như Núi Tu di chứ không nên chấp không, bắt chước công hạnh tự tại vô chấp vô ngã các vị Bồ tát.
Học mà chưa nắm được cái gốc thì làm sao có thể thành tựu được chứ?
Tôi cũng không đồng quan điểm với bạn HA. Đặc biệt là câu cuối “một hình Phật đeo nơi cổ… cũng nhằm luôn nhắc nhở chúng ta luôn nhớ Phật niệm Phật”. Đeo hình tượng Phật vào những nơi bất tịnh thì sao? Mỗi lần vào nhà xí hay thay y phục bạn có nhớ để tháo ra không?
Tổ Ấn Quang cũng từng răn đe chúng ta không nên thả trung tiện (đánh rắm hay xì hơi dưới) trước Tam Bảo. Vì nếu để mùi hôi xông lên Tam Bảo sẽ bị đoạ làm thân giòi. Vậy khi treo hình Phật trong phòng ngủ, bạn liệu sẽ giữ lễ mãi mãi được không?
Chúng ta là phàm phu, nên học giữ lễ nghĩa thì tốt hơn bạn ạ. Hãy y theo lời tổ mà làm. Được một phần thành kính thì lợi thêm một phần trong Phật pháp. Bản tính phàm phu chúng ta hễ thấy cái gì nhiều lần sẽ đâm ra quen, từ quen sẽ đâm ra nhờn và rồi mất đi sự cung kính trước Tam Bảo hay hình tượng Phật. Mà người học Phật thì nên lấy sự khiêm cung làm đầu, sau đó mới cầu pháp. Giống như thế gian pháp có câu “tiên học lễ, hậu học văn” vậy.
À, trường hợp người lâm chung được ban trợ niệm cho xem hình tượng Phật để giữ chánh niệm thì như bạn Minh Thành đã nói rồi. Không nên so sánh người lúc lâm chung và người bình thường. Giống như khi chúng ta đang thay y phục hay tắm rửa thì không nên niệm danh hiệu Phật, bồ tát lớn tiếng. Nhưng khi khẩn thiết như thai phụ lõa lồ lúc lâm bồn thì rất nên. Vì sao thì bạn hiểu chứ nhỉ?
Cũng theo lời tổ thì nếu bất đắc dĩ hình Phật treo gần nơi sinh hoạt hàng ngày, tốt nhất là nên lấy vải vàng che lại và chỉ mở ra mỗi khi vào khóa lễ. Sau đó lại che hình Phật lại như cũ để tránh phải tội khinh nhờn Tam Bảo.
Tổ Liên Trì khuyên không nên treo hình Phật nơi phòng khách:
http://www.duongvecoitinh.com/index.php/2015/10/dung-tuong-phat-lam-do-trang-tri-my-thuat-se-bi-doa/
Nam mô A di đà phật
Bạn Hoằng Ẩn và các Liên hữu đồng tu kính mến!
Đức Phật đã từng nói nếu tin mà không hiểu thì đó chính là huỷ báng Phật. Vì sao như vậy? Vì pháp Phật chẳng phải là định pháp, tuỳ theo căn cơ mà ứng pháp và người khi tiếp nhận pháp phải hiểu rõ vị trí của mình ở đâu, nếu không sẽ bị tổn hại như kinh Xà dụ đã từng ví với việc người bắt rắn nếu bắt ko đúng cách thì sẽ bị rắn cắn lại tử vong.
Điều này huynh đệ học Phật chúng ta nhất định phải ghi nhớ cho rõ ràng. Ân sư Tịnh Không cũng vậy, tuy Ngài là bậc Đại thiện tri thức của chúng ta hiện nay nhưng pháp của Ngài cũng không phải là định pháp, nên ko phải hễ Ngài cái gì thì nhất loạt tin theo mà ko có sự tư duy theo cái nhìn trạch pháp.
Hôm trước tôi đã có phân tích qua bài pháp của PS Tịnh Không về việc có thể treo ảnh Phật trong phòng ngủ là có điều kiện hẳn hoi là “phải là người Lão thật niệm Phật. Tuy vậy vẫn có nhiều người hoài nghi cho rằng PS Tịnh Không cho treo hoặc có người trong tâm khởi nghĩ lời dạy của PS ko đúng và mâu thuẫn với giáo huấn của Tổ sư Ấn Quang. Vì thế Hương Quang xin trích dẫn một mẩu chuyện của Shoma (1799-1871) trích từ The Essence of Buđhism của D.T. Suzuki, mời quý Liên hữu xem qua hi vọng mọi việc sẽ sáng tỏ rõ ràng hơn:
“Có lần Shoma viếng một ngôi chùa quê. Vừa vào chánh điện, anh thõng chân nằm dài tượng A Di Đà. Một người trách anh thất kính, anh trả lời : “Tôi vào đây là trở về nhà cha mẹ tôi, còn anh bắt bẻ tôi như vậy chẳng qua anh chỉ là người ngoài gia đình này thôi”. Có lẽ sống trong lòng đại bi bổn nguyện của Phật A Di Đà là như vậy. Có lần Shoma cùng các bạn đi trên một chiếc thuyền buồm, gặp lúc gió lớn sóng to như muốn nhận chìm thuyền. Mọi người quên hết việc niệm Phật mà chỉ biết van vái lung tung. Trong khi ấy, Shoma nằm ngủ cho đến lúc người ta đập anh dậy, anh dụi mắt hỏi : “Tôi có còn trong thế giới Ta bà không?” Có lần anh làm việc ngoài đồng, mệt bèn về nhà nghỉ. Gió mát khiến anh nhớ đến Phật A Di Đà. Anh liền mang tượng ra đặt bên cạnh nói : “Ngài ngồi đây hóng mát nhé !”. Một hôm giữa đường mắc bệnh, bạn bè mướn người võng anh về nhà, rồi dặn dò : “Nay anh đã về quê rồi, hãy nghỉ yên và tạ ơn A Di Đà”, Shoma đáp :”Cám ơn, nhưng tôi bệnh ở đâu thì chỗ đó là Tịnh độ của tôi, sát ngay bên cạnh tôi”. Có lần nghe người nói về hoạt động truyền giáo của một tôn giáo khác, Shoma nói : “Không gì tốt hơn là phàm phu thành Phật”. Khi có người hỏi làm sao giữ tròn được cuộc sống sau khi chết, Shoma đáp : “Việc ấy để A Di Đà lo liệu, đó không phải là chuyện của tôi”
Shoma chính là đối tượng có thể nằm ngủ tự nhiên trước tượng Phật, là đối tượng mà Ân sư Tịnh Không muốn nói, phải là người Thật thà niệm Phật, những người đã sống tương thông dung nhập vào ánh sáng Bổn nguyện của Phật. Do đó hết thảy mọi việc trong thế gian này đều đã buông xuống, trong Tâm chỉ có mỗi một việc, mỗi một niềm vui là niệm Phật. Cảnh giới này thì không còn sự ngăn cách giữa ta và Phật nữa, Tự tha bất nhị, người niệm Phật và Phật là một, giữa ta và Phật tình thâm như cha con nên con có thể nằm trước cha, thậm chí hai cha con có thể nằm ôm nhau mà ngủ 🙂 .
Đây chính là thâm ý của PS muốn nói:
“chẳng cần nói khách sáo, chẳng cần nói tới chuyện cung kính, chẳng cần nói tới chuyện kỵ húy, thảy đều chẳng có. Giữa cha và con còn có kỵ húy chi nữa? Chẳng có kỵ húy! Giữa thầy và trò chẳng có kỵ húy. Không mong vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thì phải tôn trọng, phải khách sáo, phòng ngủ là chỗ chẳng sạch sẽ, chớ nên treo [hình Phật]. Thật sự mong vãng sanh Cực Lạc thì chẳng cần phải nói tới”
Do đó, lời Ngài dạy của PS ko sai,
mà sai chỉ là sai trong cách nghĩ của chúng ta, tự nhận mình là Shoma. Thật sự mong vãng sinh cực lạc phải là người như Shoma, không phải như chúng ta ngày niệm mấy ngàn câu, lạy mấy trăm lạy nhưng khi đối nhân tiếp vật thì phiền não vọng tưởng tham sân đủ cả. Tự phản tỉnh lại, nếu tình trạng này vẫn mãi như thế thì đường về cõi tịnh vẫn còn xa lắm, nên ko dễ dàng gì nhận mình cái tiêu chuẩn “chơn tín thiết nguyện” của Ân sư Tịnh Không đâu.
Nam mô A di đà phật
A Di Đà Phật
Chào quý đạo hữu!
Lời của quý đạo hữu thật xác đáng, song nếu suy xét kỹ lưỡng e vẫn còn sự quan ngại cho hành giả tu Tịnh nghiệp. Thật ra những lời dạy của HT Tịnh Không phần nhiều đều dành cho chúng ta đây, đã là hàng thượng căn lão thật niệm Phật thì Ngài còn bận lòng mà diễn giải sao. Cũng giống như một người sắp thi đại học, sao còn nghe thầy giảng chương trình tiểu học, và vị thầy chắc chẳn phí công đi giảng chương trình tiểu học cho học sinh đại học làm gì. Chúng ta là phàm phu, hầu như chúng ta luôn muốn an phận phàm phu, bao giờ mới được siêu phàm nhập thánh. Lý thuyết nào cũng chẳng dành cho chúng ta thì rốt cuộc các bậc minh sư thuyết giảng đạo lý cho ai? Cho đại chúng thời Mạc Pháp căn tánh hạ liệt hay là số ít ỏi hạng thượng căn, và vô tình những bài thuyết giảng ấy bị “treo”??? Chúng ta đừng vì ý kiến cá nhân đem cái khó của cá nhân chấp thành núi Tu Di mà vô tình gây sự quan ngại cho các hành giả khác. Tu hành là việc khó trong khó, nhưng không phải khó đến mức chúng ta không thể hành được. Nếu vì cái khó chúng ta buông xuôi thì làm thể nào thoát luân hồi. Cái khó nằm ở nơi chúng ta không cố gắng, tu hành cốt chờ cái gì cũng thuận duyên chăng. Đại lão Tịnh Không dạy treo ảnh Phật nơi phòng ngủ thì tại sao không nên treo? Chúng ta sợ ăn mặc không chỉnh tề lúc ngủ, sao không nhớ lời dạy Tổ Ấn Quang lúc ngủ dù trời nóng nực cũng chớ mặc quần đùi cởi trần; trung tiện không nín được thì vào tolet mà trung tiện… Tất cả cái khó này, MD nghĩ chúng ta có thể khắc phục được, chỉ tại bản thân đã quen sống “phóng khoáng” từ cách ăn mặc cho đến sinh hoạt thường ngày mà thôi. MD nghĩ treo ảnh Phật nơi phòng ngủ là việc rất nên. Nơi này chẳng đơn giản là nơi ngủ nghỉ, đó sẽ là nơi chúng ta có ngủ mà chẳng có thức dậy- rất quan trọng. Đừng cho rằng chỉ có người bệnh và sản phụ mới ở trong tình trạng lửa cháy đầu, chúng ta đây đều bị lửa cháy đầu trong từng sát na. Do vậy niệm niệm đều cố gắng hết sức mà tu tập, chớ luống qua những lời giáo huấn bổ ích. Cứ treo ảnh Phật nơi phòng ngủ đi! Sáng thức dậy liền thấy A Di Đà Phật, trước khi ngủ nhìn A Di Đà Phật mà cầu Phật tiếp dẫn. Nếu ai có thói quen mặc đồ mát mẻ lúc ngủ thì giờ mặc quần dài áo dài tay mà ngủ, lúc trước nằm chỏng mông thì giờ tập nằm dũi thẳng tay chân hoặc nằm nghiêng mà ngủ, nếu lúc trước trung tiện thoải mái thì giờ nín đi, nín không được thì “chạy” vào nhà xí. Chúng ta làm được không?…
Đôi dòng vụng hiểu. Nếu có sai sót xin hoan hỷ cùng MD vậy.
Nam Mô A Di Đà Phật
Vì sao chúng ta không chịu nghe lời tổ dạy nhỉ? Tịnh Độ tông chúng ta chỉ có 13 vị tổ, trong đó hết 2 vị tổ đã dặn kỹ càng mà sao chúng ta không y giáo phụng hành? Tổ Liên Trì dặn chúng ta không nên treo hình tượng Phật lung tung nơi nào cũng được. Tổ Ấn Quang Đại sư thường nói: “Muốn được sự thật ích của Phật pháp, phải tìm nơi lòng kính sợ. Có một phần cung kính, tiêu một phần tội nghiệp, thêm một phần phước huệ. Có mười phần cung kính, tiêu mười phần tội nghiệp, thêm mười phần phước huệ. Nếu không mảy may cung kính, thì sự tụng kinh niệm Phật tuy chẳng phải hoàn toàn không lợi ích, nhưng do tội khinh lờn ấy, trước phải bị nhiều kiếp đọa vào tam đồ. Đến khi tội hết, mới nương thân nơi nhân lành ấy, lại được nghe pháp tu hành, ăn chay niệm Phật, cầu về Tây Phương để thoát đường sanh tử. Nếu hiện đời này hết lòng thành kính, thì hiện đời có thể nương sức từ của Phật đới nghiệp vãng sanh. Và một phen được vãng sanh, thì vượt phàm vào thánh, thoát khỏi luân hồi, hằng xa lìa các sự khổ, chỉ thuần hưởng những điều vui.”
Bạn muốn treo hình Phật trong phòng ngủ thì cứ treo, nhưng nhớ lấy vải vàng che lại khi xong buổi tụng niệm. Khi mở tấm vải vàng ấy lên nhìn thấy hình tượng Phật là phải xem như Phật thật, phải cung kính hành lễ, chứ không phải xem là giấy. Nhưng lưu ý phòng ngủ cuả cả vợ chồng thì đừng dại mà treo hình Phật nơi ấy nhé. A Di Đà Phật. 🙂
“Ở Phật đường chúng ta nhìn thấy tượng Phật không hề xem tượng Phật là Phật thật, đây chính là không đủ thành kính. Người chân thật đầy đủ thành kính nhìn thấy tượng Phật giống như thấy Phật thật vậy, lễ kính thừa sự cúng dường. Ngày nay chúng ta tu học, không luận tại gia xuất gia, nghiên giáo học kinh, niệm Phật dụng công, kém khuyết chính là chân thành cung kính. Tâm thành của chúng ta không đủ, cung kính của chúng ta không đủ, cho nên công phu niệm Phật không có lực.” (Pháp sư Tịnh Không)
Nam mô A di đà phật
Bạn Mỹ Diệp thân mến!
“Người chân thật đầy đủ thành kính nhìn thấy tượng Phật giống như thấy Phật thật vậy, lễ kính thừa sự cúng dường. Ngày nay chúng ta tu học, không luận tại gia xuất gia, nghiên giáo học kinh, niệm Phật dụng công, kém khuyết chính là chân thành cung kính. Tâm thành của chúng ta không đủ, cung kính của chúng ta không đủ, cho nên công phu niệm Phật không có lực.” (Pháp sư Tịnh Không)
“chẳng cần nói khách sáo, chẳng cần nói tới chuyện cung kính, chẳng cần nói tới chuyện kỵ húy, thảy đều chẳng có. Giữa cha và con còn có kỵ húy chi nữa? Chẳng có kỵ húy! Giữa thầy và trò chẳng có kỵ húy. (Pháp sư Tịnh Không)
Bạn MD có thấy sự mâu thuẫn giữa hai lời giảng trên của cùng một người là HT Tịnh Không ko? “Lễ kính thừa sự cúng dường” là gì vậy? “Xem tượng Phật giống Phật thật” là gì vậy ? Có phải là nằm ngủ trước mặt Phật ko?
HT thuyết pháp, theo bạn là “phần nhiều đều dành cho chúng ta đây”, vậy bạn chọn bài giảng nào? Đoạn trên dạy phải cung kính, đoạn dưới nói không cần cung kính’ cả hai đều là của HT có lẽ nào bạn chọn cả hai sao?
Nếu bạn vẫn còn phân vân thì hãy đọc tiếp đoạn văn sau, cũng của HT TK
“Gần đây tôi có nhìn thấy một số tư liệu, không biết là từ đâu mà các đồng tu viết cho tôi, sau khi tôi xem xong thì đưa cho các đồng học họ xử lý, họ thường thường nghe đĩa giảng kinh của Tôi, và đã tìm ra được rất nhiều những chỗ mâu thuẫn, đưa ra nghi nan, đây là thuộc về thế trí biện thông.
Không những Tôi giảng kinh đầy rẫy sự mâu thuẫn, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh cũng không ngoại lệ, vì sao vậy? Một cái nguyên tắc của việc giảng kinh, là giúp đỡ đại chúng giác ngộ, căn tánh của đại chúng không tương đồng, người mà chấp trước cái “có” thì nhất định phải giảng cái “không” với họ, để phá chấp trước của họ, người chấp trước cái “không” vậy thì giảng cái “có” với họ, để phá chấp không của họ, những người thế trí biện thông này nghe thấy, bạn sao có lúc nói là có, có lúc lại nói là không, rốt cuộc là không hay là có?
Bạn nói pháp không phải tự mình mâu thuẫn rồi hay sao? Họ không biết được là nói với những người nào, là đối tượng không giống nhau, cùng một cái sự việc là nói pháp không giống nhau, không những Phật như vậy, chúng tôi đọc “Luận Ngữ”, Khổng lão phu tử dạy người thì cũng như vậy, học trò của Khổng lão phu tử hỏi nhân hỏi hiếu, Khổng lão phu tử giảng giải với người này, cùng với người khác ngài nói không giống nhau, đây là các vị có thể xem thấy được ở trên “Luận Ngữ”, Phu Tử cũng có rất nhiều cách giải thích đối với cùng một con chữ, tại sao mà không thể có một cách giải thích? Không thể được, còn phải xem người đến hỏi ấy, dùng cách nói nào thì có lợi ích đối với người này, thì người này lãnh ngộ được, đây gọi là khế cơ khế lý.”
Bạn phải biết đương cơ thuyết pháp của HT Tịnh Không rất rộng, ko chỉ cho con người mà còn cho các chúng sanh ở các tầng không gian khác nên ở Tịnh Tông Học hội thường mở các băng giảng của HT cho các vị chúng sanh vô hình khác nghe. Lại nữa, ngay trong loài người chúng ta đây cũng có rất nhiều chủng tánh sai biệt, thượng trung hạ đều có, thượng căn dẫu ít nhưng ko phải là ko có.
Vì vậy pháp của HT cũng rộng hẹp ko đồng, sao bạn lại nói “bị treo”?
Nam mô A di đà phật
Chào bạn Mỹ Diệp
MD:
“Chúng ta là phàm phu, hầu như chúng ta luôn muốn an phận phàm phu, bao giờ mới được siêu phàm nhập thánh”.
Bạn sao lẩm cẩm quá vậy? Sao bạn có thể nhầm lẫn giữa cái khởi đầu và cái đích đến. Đích đến là vãng sanh thành Phật, còn khởi đầu là vị trí xuất phát của ta. Vị trí xuất phát của ta ra sao, tự ta phải biết, chớ nên phạm vào cái lỗi “quá phận”. Muốn bước lên cao phải từ chỗ khởi đầu thấp nhất đúng với thân phận của mình. Giữa hai việc này, điểm đầu và điểm đến, chớ nên nhầm lẫn!
MD:
“đã là hàng thượng căn lão thật niệm Phật thì Ngài còn bận lòng mà diễn giải sao”
Bạn lại nhầm lẫn nữa rồi!
Nhầm giữa cái nhân và cái duyên trong tiến trình “Nhân-Duyên-Quả”.
Chủng tử thượng căn có sẳn từ nhiều đời là Nhân. Nhưng Nhân ấy muốn trở thành Quả, phải có thành tố quan trọng là Duyên. Duyên ở đây là những yếu tố như môi trường tu học xung quanh, sự nỗ lực tu tập và đặc biệt là sự khai thị của bậc Thầy thì cái Nhân ấy mới có thể thành tựu. Do đó dẫu là bậc thượng căn cũng phải nhờ đến duyên thuyết pháp khai thị của bậc Thầy mới có thể khai ngộ được.
MD:
“Đừng cho rằng chỉ có người bệnh và sản phụ mới ở trong tình trạng lửa cháy đầu, chúng ta đây đều bị lửa cháy đầu trong từng sát na”
Tôi nhận thấy bạn toàn nói cái Lý mà quên mất cái Sự. Lửa cháy đầu trong từng sát na, là cái Lý thuyết rất tuyệt vời nhưng về mặt Sự tu hành thì bạn đủ khả năng chánh niệm liên tục như vậy chăng?
Nếu đủ thì cần gì treo ảnh Phật cho khỏi quên niệm Phật nữa?
Nếu cho rằng mọi lúc mọi nơi đều cần kíp như lửa cháy đầu thì cứ việc niệm Phật to tiếng y như lúc sản phụ lâm bồn thì tại sao Ấn Tổ và HT Tịnh Không lại khuyến cáo ko nên niệm to tiếng hay treo ảnh Phật nơi phòng vệ sinh? Lẽ nào bạn cao minh hơn hai vị thượng túc đó sao?
Tôi nhận thấy bạn rõ ràng là có tâm huyết tham gia giải trình những vấn đề thảo luận nhưng những kiến thức cơ bản lại có vấn đề, nên cần phải rất thận trọng trong những lần phúc đáp sau.
Vài dòng thẳn thắn mong bạn hoan hỷ cho.
Nam mô A di đà phật
A Di Đà Phật
Kính chào Bác sỹ Hương Quang cùng quý đạo hữu!
Ở đây MD không nhầm lẫn: người tu hành phải có lòng thành kính với Phật như thế nào, ra sao… MD chỉ thắc mắc: vì sao quý đạo hữu cho rằng chỉ có hạng thượng căn, lão thật niệm Phật mới được treo ảnh trong phòng, còn với người căn tánh hạ liệt thì không nên treo vì phải tội bất kính? MD treo ảnh Phật nơi phòng, dựa vào đâu quý vị cho rằng MD đã mắc tội bất kính với Phật? Hay là quý vị cho rằng bởi vì MD là hạng độn căn, trí huệ kém cỏi nên lòng thành kính cũng thấp kém?
Cũng giống như 1 người con ưu tú thì được treo ảnh Cha trong phòng để thỏa nhớ mong. Còn tôi, một người con ngu dốt thì không được phép như vậy, bởi sẽ bị gán vào tội bất kính với Cha. Anh là người đại diện pháp lý, muốn gán tội cho tôi cũng phải đưa ra dẫn chứng từ thân-khẩu-ý của tôi, tôi mắc tội ra sao. Không thể cứ phán: vì anh ngu dốt nên anh mắc tội bất kính được. Như vậy là không hợp đạo lý.
Nếu quả nhiên quý vị nghĩ MD bất kính, cũng bởi quý vị khởi tâm phân biệt thượng căn- hạ căn, trí huệ- kém trí huệ… mà nên. A Di Đà Từ phụ không hề phân biệt.
Nam Mô A Di Đà Phật
Theo tôi được biết thì cô MD đã lập gia đình rồi thì phải, và theo như tôi hiểu thì cô đang treo ảnh Phật trong phòng ngủ. Thật đáng tiếc thay! Nói nhiều thì đâm ra rơi vào thế trí biện thông. Thôi thì đành vậy.
Nam mô A di đà phật
Bạn Mỹ Diệp thân mến!
Hơn một năm rồi mới gặp lại, bạn còn nhớ Bác sĩ này sao? Bạn vẫn khoẻ chứ? 🙂
Thực ra, HQ rất cảm ơn bạn đã nêu ra những thắc mắc này để vấn đề có cơ hội được sáng tỏ hơn.
Bạn hãy bình tĩnh một chút đọc kỹ phúc đáp này của HQ nhé!
Như chúng ta đều biết, ngôn ngữ văn tự, bao gồm cả Tam tạng giáo điển và cả những lời khai thị của các vậc Thầy, là vô cùng quý báu. Tuy vậy, nó cũng sẽ gây nhiều phiền phức nếu chúng ta thiếu con mắt trí tuệ trạch pháp. Vì bản thân ngôn ngữ vẫn chỉ là phương tiện chuyển tải chứ chưa phải cứu cánh. Cứu cánh thì phi ngôn thuyết. Do vì là phương tiện nên nó chỉ mang tính tương đối, bất định pháp, có thể nói có có thể nói không, có thể khẳng định có thể phủ định. Trong cùng một vấn đề nhưng tuỳ mỗi căn cơ hoàn cảnh mà có những đáp án khác nhau. Do vậy, đối với việc chọn lọc tiếp nhận Phật pháp phải hết sức cẩn trọng.
Ở trên HQ có phân tích qua vấn đề HT Tịnh Không cho treo ảnh Phật trong phòng ngủ ko sạch sẽ là để phá đi cái chấp của đại đa số huynh đệ đồng học chúng ta hiện nay. Cái chấp gì vậy? Chấp rằng:
“Đại Lão HT Tịnh Không dạy cái gì thì phải nhất loạt nghe theo”. Biết nghe lời thật làm là tốt nhưng nếu như thế thì lại không biết nghe lời rồi. Vì sao? vì chính HT đã nói “Không những Tôi giảng kinh đầy rẫy sự mâu thuẫn, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh cũng không ngoại lệ”.
“với cùng một con chữ, không thể có một cách giải thích? Không thể được, còn phải xem người đến hỏi ấy, dùng cách nói nào thì có lợi ích đối với người này, thì người này lãnh ngộ được, đây gọi là khế cơ khế lý.”
Do vậy đối với việc nằm ngủ trước tượng/ ảnh Phật cũng vậy, HT cũng có hai bài pháp với quan điểm trái ngược nhau:
1. Phải giữ sự lễ kính chân thành
“Người chân thật đầy đủ thành kính nhìn thấy tượng Phật giống như thấy Phật thật vậy, lễ kính thừa sự cúng dường. Ngày nay chúng ta tu học, không luận tại gia xuất gia, nghiên giáo học kinh, niệm Phật dụng công, kém khuyết chính là chân thành cung kính. Tâm thành của chúng ta không đủ, cung kính của chúng ta không đủ, cho nên công phu niệm Phật không có lực”.
Lời dạy này hoàn toàn giống với Đại sư Ấn Quang và đương cơ thuyết pháp trong đoạn khai thị này là “Ngày nay chúng ta tu học, không luận tại gia xuất gia”, trong đó có tất cả huynh đệ chúng ta, cả HQ và MD nữa. Đặc tánh của đương cơ này như thế nào? Đó là “Tâm thành của chúng ta không đủ, cung kính của chúng ta không đủ, cho nên công phu niệm Phật không có lực.”
Đây là lời của HT TK nói, chứ ko phải của HQ hay các LH khác, nên bạn đừng nghĩ rằng”quý vị nghĩ MD bất kính, cũng bởi quý vị khởi tâm phân biệt”.
Vì sao HT nói căn khí của chúng ta thấp kém. Vì “Người chân thật đầy đủ thành kính nhìn thấy tượng Phật giống như thấy Phật thật vậy, lễ kính thừa sự cúng dường.”
Bạn MD thử bình tĩnh nghĩ xem chúng ta có được tâm thái thành kính xem ảnh Phật như Phật thật hay chưa thì liền biết tâm thành của mình có “chân thật đầy đủ thành kính” hay ko. Lại nữa bạn hãy để ý chữ “lễ kính” thì biết là nằm hay ko nằm rồi, có phải ko?
2. Không cần giữ sự lễ kính:
“chẳng cần nói khách sáo, chẳng cần nói tới chuyện cung kính, chẳng cần nói tới chuyện kỵ húy, thảy đều chẳng có. Giữa cha và con còn có kỵ húy chi nữa? Chẳng có kỵ húy! Giữa thầy và trò chẳng có kỵ húy.”
Đương cơ thuyết pháp trong đoạn này là tâm của hành giả niệm Phật đã đạt đến chỗ tương thông với Phật, không có sự ngăn cách nào cả, tình thâm như cha và con. Liệu đây có phải là cảnh giới của bạn MD hay của HQ hay ko? Hoàn toàn ko phải. Bạn hãy xem Shoma là một ví dụ hay cho trường hợp này:
“Có lần Shoma viếng một ngôi chùa quê. Vừa vào chánh điện, anh thõng chân nằm dài tượng A Di Đà. Một người trách anh thất kính, anh trả lời : “Tôi vào đây là trở về nhà cha mẹ tôi, còn anh bắt bẻ tôi như vậy chẳng qua anh chỉ là người ngoài gia đình này thôi”. Có lẽ sống trong lòng đại bi bổn nguyện của Phật A Di Đà là như vậy.”
Bạn xem lời Shoma nói thì liền biết
anh ra là người “đã về nhà cha mẹ” rồi. Thân tuy còn ở Ta bà nhưng tâm của anh ra thì luôn sống ở Tây phương cực lạc. Tây phương cực lạc là nhà cha mẹ của anh ta. Còn chúng ta thì sao? Đối với quê nhà Tây phương thì hãy còn là lữ khách, vua Trần Thái Tông đã nói bài kệ thật đúng với tình hình của chúng ta:
“Mũi vướng vị ngon, tai vướng tiếng.
Mắt theo hình sắc mũi theo hương.
Lênh đênh làm khách phong trần mãi.
Ngày hết quê xa vạn dặm đường”
Qua vài phân tích này hi vọng giúp cho bạn nhận rõ vấn đề hơn một chút.
Chúc bạn tinh tấn tu học
Nam mô A di đà phật
A Di Đà Phật
Kính chào Bác sỹ Hương Quang!
Cảm ơn lời thăm hỏi của HQ. Bận này cuối năm công việc lu bù, không tránh khỏi cảm mạo thương hàn, nhưng MD vẫn duy trì được thời khóa. Lúc trước MD bị đau khớp, nay không thuốc tự khỏi, còn bệnh sỏi gan cách đây gần 3 năm-lúc ấy là sỏi 5mm, hiện cũng chưa thấy gì bất thường. Chưa quá nữa cuộc đời mà cơ thể đã hư hao nhiều quá, âu đó là cái duyên để mình chẳng dám lơ là trong việc tu tập. ?
Trở lại vấn đề treo ảnh Phật trong phòng. Khi vấn đề chưa được ngã ngũ. MD có một vài ý sau:
-Thời Mạc Pháp Tịnh độ hưng thịnh nhất. Lại chúng sanh thời Mạc Pháp đa phần là hàng hạ căn như chúng ta đây. Do vậy quý đạo hữu chớ dựa vào phán đoán mà kết luận bài pháp này là dành riêng cho đối tượng nào.
-Nếu HQ đọc kỹ lại bài pháp của HT Tịnh Không (Hoằng Ẩn cư sỹ) đã post lên, HQ sẽ nhận thấy HT thuyết giảng riêng cho người niệm Phật, việc treo ảnh Phật chỉ nhằm mục đích nhắc nhở việc niệm Phật.
-HQ cho rằng người niệm Phật đạt đến lý sự vô ngại, có thể an nhiên nằm trước hình Phật thì không bất kính; người niệm Phật chưa đạt đến cảnh giới này thì bất kính. Vậy theo HQ đây là sự phân biệt của chúng ta hay là sự phân biệt của A Di Đà Từ phụ?
-Mỗi người mỗi căn tánh khác nhau, với người này nói không- người kia nói có. Vậy nên chúng ta chớ nên đưa ra một kết luận chung: hàng hạ căn không nên treo ảnh Phật trong phòng. Đừng nên nhất quán quan điểm cá nhân mà khiến các hành giả khác mất đi phần lợi ích trong việc tu tập.
Kính chúc HQ an lạc, tu hành đạt nhiều thành quả!
Nam Mô A Di Đà Phật
A Di Đà Phật
Chị Mỹ Diệp và cư sĩ Hữu Ân có thiên hướng về bản nguyện niệm Phật,bác sỹ Hương Quang có thiên hướng về lễ kính niệm Phật.
Trong bản nguyện có sẵn lễ kính,trong lễ kính có sẵn bản nguyện.Cho nên người bản nguyện niệm Phật cũng chính tức là người lễ kính niệm Phật.Và người lễ kính niệm Phật cũng là người bản nguyện niệm Phật,chẳng phải một chẳng phải khác.Chẳng phải một vì trên hình tướng hành trì đôi khi khác nhau.Chẳng phải khác là vì đều cùng niệm Phật nên đều được quang minh nhiếp thọ.
-Cho nên phải tùy duyên thôi,có người thiên hướng về bản nguyện thì nên nói nhiều về bản nguyện,họ cảm thấy mình có thể làm được,và khi đó họ mới chịu niệm Phật.Có người thiên về lễ kính thì nói nhiều về lễ kính.Có người thì bản nguyện và lễ kính cân bằng nhau thì nói cả hai,có người thì thiên hướng về trì giới niệm Phật,lại có người thiên hướng về thiền định niệm Phật,có người thiên hướng về đọc tụng kinh niệm Phật,…rất nhiều
– -Niệm Phật chỉ cần nương vào một trong hai hoăc là bản nguyện,hoặc là lễ kính,hoặc cả hai thì đều thành tựu.Chỉ sợ nhất người chẳng có một thứ gì,không bản nguyện mà cũng không có lễ kính thì rất nguy hiểm
-Đôi điều tỏ bày
Nam mô A di đà phật
Bạn Mỹ Diệp thân mến!
MD:
“Thời Mạc Pháp Tịnh độ hưng thịnh nhất. Lại chúng sanh thời Mạc Pháp đa phần là hàng hạ căn như chúng ta đây. Do vậy quý đạo hữu chớ dựa vào phán đoán mà kết luận bài pháp này là dành riêng cho đối tượng nào”
Bạn MD hãy đọc kỷ một chút các bài phúc đáp trên. Ở ĐÂY MÌNH KO NHẮC LẠI NỮA.
MD:
-Nếu HQ đọc kỹ lại bài pháp của HT Tịnh Không (Hoằng Ẩn cư sỹ) đã post lên, HQ sẽ nhận thấy HT thuyết giảng riêng cho người niệm Phật, việc treo ảnh Phật chỉ nhằm mục đích nhắc nhở việc niệm Phật.
Không phải là “người niệm Phật” mà là “người THỰC SỰ niệm Phật”,ĐẦY ĐỦ tín nguyện. MẤU CHỐT CỦA VẤN ĐỀ ĐỀU NẰM Ở ĐÂY, nghĩ mình đã là người “THẬT SỰ NIỆM PHẬT CẦU SANH CỰC LẠC”.
Mình xin trích dẫn lời dạy của HT. Tịnh Không giảng về “TÍN” trong Kinh VLT như sau cho các huynh đệ tham khảo nhé:
Trong chương “Tam Bối Vãng Sanh” nói ra cho chúng ta điều kiện thấp nhất, chúng ta nhất định phải làm đến được, không thể nói “tin rồi” thì được. Chữ “Tín” này có rất nhiều người giải thích, thế nhưng ý nghĩa của chữ này rất sâu, chúng ta vạn nhất không nên hiểu lầm. “Tôi đã tin Phật rồi”, cái quan niệm sai lầm này rất nhiều người đều có, có thể chúng ta chính mình cũng phạm phải sai lầm này, cho rằng chính mình tin rồi, Tín-Nguyện-Hạnh đều đầy đủ rồi. Ở trong niệm Phật đường này của chúng ta, các vị có cơ hội ngày ngày đọc Kinh, nghe Kinh, cũng đang ở niệm Phật đường niệm Phật, há chẳng phải là Tín-Nguyện-Hạnh ba tư lương đều đầy đủ rồi hay sao? Niệm Phật đường của chúng ta có thể bảo đảm mỗi mỗi đều vãng sanh, không sót người nào hay không? Nếu như không thể bảo đảm thì Tín-Nguyện-Hạnh này chẳng phải có vấn đề rồi sao? Chân thật là như vậy!
Năm xưa, sau khi tôi xuất gia thọ giới. Chiếu theo quy củ, sau khi thọ giới xong thì phải đi bái tạ lão sư. Thầy của tôi là lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, ở Đài Trung. Tôi đến gặp thầy. Thầy vừa nhìn thấy tôi, liền từ xa mà chỉ nói: “Ông phải tin Phật!”. Vào lúc đó tôi đã học Phật chín năm, xuất gia hai năm, dạy Phật học viện cũng đã được hai năm, đã thọ đại giới rồi, vừa gặp mặt, thầy chỉ vào tôi mà nói “ông phải tin Phật!”. Bạn nói xem, người khác nghe qua chẳng cảm thấy kỳ lạ hay sao? Sau đó thầy bảo tôi ngồi xuống, giải thích cho tôi hai chữ “tin Phật” là không dễ dàng. Thầy nói được rất hay: “Có rất nhiều lão hòa thượng xuất gia, sống hết một đời cũng không tin Phật”. Không tin Phật thì làm sao xuất gia? Chúng ta hiểu sai đi hai chữ tin Phật này. Lão sư Ngài đem hai chữ tin Phật này định ở một câu nói mà Thế Tôn thường hay nói: “Thọ trì đọc tụng, vì người diễn nói”. Bạn đem câu nói này chân thật có thể làm được, thực tiễn, bạn mới có thể được gọi là tin Phật. Tiêu chuẩn này thì cao…”
MD:
-HQ cho rằng người niệm Phật đạt đến lý sự vô ngại, có thể an nhiên nằm trước hình Phật thì không bất kính; người niệm Phật chưa đạt đến cảnh giới này thì bất kính.
Không phải mình đã nói rồi sao? ngôn thuyết bất định! CHỈ LÀ MUỐN PHÁ BỎ CÁI CHẤP NGUY HIỂM RẰNG “phải treo hình Phật chỉ vì lý do đó là lời của HT TK”.
Nay bạn lại cho lời ấy của mình phương tiện phá chấp là đúng thì bạn lại ko nắm được nguyên tắc bất định trong luận thuyết rồi.
Vậy rốt cuộc sự việc này như thế nào? Bậc thượng căn lão thật nằm trước Phật được ko?
Câu trả lời là không thể khẳng định hay phủ định được.
Phaỉ biết mục đích hành tung phương tiện của người các bậc căn tánh thượng trí là ứng pháp tùy cơ,thuộc cảnh giới ko thể nghĩ bàn, hoặc nằm hoặc không nằm đều được, tất cả chỉ là thị hiện biểu pháp độ sanh.
Tổ ẤN QUANG là bậc Thượng trí thị hiện biểu pháp chí thành cung kính trong mọi oai nghi, ko nằm ngồi quỳ lạy thất kính trước mặt Phật tượng,xem Phật tượng như Phật thật, là vì Ngài thấy rằng điều này sẽ mang lại lợi ích chân thật trong Phật pháp. Tất cả lợi ích đều có thể thành tựu từ hai chữ THÀNH KÍNH.
“Niệm Phật phương năng tiêu túc nghiệp.
Kiệt thành tự khả chuyển phàm tâm’
SHOMA nằm ngủ tự tại trước mặt PhậT cũng làm cái biểu pháp thành kính,nhưng đây là cái đức THÀNH KÍNH THƯỢNG THẶNG.Làm biểu pháp cho MỘT TÁNH ĐỨC HOÀN HẢO. Thế nào là tánh đức, là sự thành kính đến chỗ không còn phân biệt năng sở ko hai, Phật và người niệm Phật ko có ngăn cách. KO những thế ông ta còn thấy tất cả người khác là Phật, lễ kính tất cả MỌI NGƯỜI. Cái biểu pháp thành kính này chúng ta phải biết rõ. Nhưng làm thế nào để đạt được Tánh đức ấy? Phải nhờ vào Tu đức, nghĩa là công phu thực hành hai chữ THÀNH KÍNH mà Tổ Ấn Quang đã làm tiêu biểu cho chúng ta. Vì vậy, mới biết rằng Phật bồ tát rất từ bi, hành mọi phương tiện chỉ dạy cho chúng ta hiểu, NẰM HAY KO NẰM đều được cả.
NẾU KO NHẬN CHÂN ĐƯỢC ĐIỀU NÀY, nhầm lẫn giữa Tu đức và Tánh đức thì vô tình ko phải tự mình làm hại chính mình hay sao?
Do đó nếu bạn MD tiếp cận bài pháp của HT theo cách xem SHOMA là biểu pháp cho Tánh đức, là cái đích đi đến mà ko phải là Tu đức bắt chước theo thì bài pháp ấy tự nhiên trở thành đối tượng thuyết pháp cho tất cả chúng ta. Chúng ta xem qua biểu pháp của SHOMA tuy mình chưa làm được nhưng ít nhất cũng đã khiến cho tín tâm của ta mỗi ngày thêm tăng trưởng. Chỉ cần đừng bắt chước theo, nhầm lẫn giữa Tánh đức và Tu đức là được.
Sự việc này cũng giống như khi chúng ta xem kinh Hoa nghiêm vậy. Đương cơ Phật thuyết kinh Hoa nghiêm là các vị pháp thân Đại sĩ,tuy chúng ta ko thể làm theo nhưng tín tâm của chúng ta với Phật bồ tát cũng như với sự vãng sanh sẽ được trưỡng dưỡng rất nhiều. HT TK cũng nhờ kinh này mà mới đạt đến chỗ quyết định buông bỏ mọi pháp môn trước.
Cùng một viên thuốc nhưng nếu biết cách sử dụng thì là thuốc tốt sẽ chữa lành bệnh nhưng nếu ngược lại thì viên thuốc ấy lại trở thành độc dược.
MD
-Mỗi người mỗi căn tánh khác nhau, với người này nói không- người kia nói có. Vậy nên chúng ta chớ nên đưa ra một kết luận chung: hàng hạ căn không nên treo ảnh Phật trong phòng. Đừng nên nhất quán quan điểm cá nhân mà khiến các hành giả khác mất đi phần lợi ích trong việc tu tập.
Bạn MD hãy đọc lại các phúc đáp trên, mình ko cần giải thích lại nữa.
Chúc bạn luôn mạnh khỏe và an lạc nhé.
Nam mô A di đà phật
P/S: mình xin dừng phúc đáp về vấn đề này nơi đây.
Một lời khuyên duy nhất cho bạn Mỹ Diệp và một số bạn sen hữu duyên:
“Mỗi chúng ta hãy tư duy cho thật kỷ về chữ TÍN trong pháp môn Tịnh độ”, đặc biệt nghiên cứu kỷ đoạn giảng của HT tỊNH không phía trên.
Dù niệm Phật theo cách nào cũng đều tuân theo một nguyên tắc bất biến: Giới- Định-Tuệ. Giới bao gồm giới luật và oai mghi tế hạnh. Mà oai nghi tế hạnh là sự Lễ kính còn gì nữa phải ko bạn?
Treo hình Phật chung với phòng ngủ của vợ chồng, rồi vợ chồng mỗi khi ân ái làm chuyện hành dâm trước hình tượng Phật, vậy thì có còn gọi là lễ kính nữa chăng? Nếu cứ theo lý mà cho rằng tu là chú trọng bên trong, miễn sao tâm mình chân thành lễ kính mà bỏ qua phần sự bên ngoài thì không được. Các bậc cao tăng mỗi khi thấy hình tượng Phật đều cung kính xá lạy, huống hồ dám làm chuyện thất kính ư? Tuy hình thức bên ngoài không quan trọng, nhưng nó phần nào phản ảnh từ nội tâm bên trong mà ra. Cho nên người xưa nói: “Người tu hành chân thật xem hình vẽ, tượng gỗ đồng với Phật thật. Thương như cha mẹ, kính như quân vương, sớm chiều yết kiến, hết lòng thành kính, lạy xuống như núi đổ, đứng dậy tợ mây thăng, ra thì chấp tay vái chào. Người mà chấp tay vái chào thì dù xa trăm ngàn dặm cũng như thường ở trước mặt”.
Trước mắt đã là như thế, còn quả báo sau này của việc hành dâm trước hình Phật (là một trong ba ngôi Tam Bảo) thì thật đáng sợ. Điều này đã nói rõ trong Kinh Địa Tạng. Hãy nên lấy đó mà kinh sợ, chân thành sám hối.
Nếu chúng ta muốn dùng phương tiện để nhắc nhở niệm Phật thì không gì hơn là mở máy niệm Phật cả ngày không ngưng nghỉ. Vì sao? Vì như trên kinh nói cho chúng ta biết chúng sanh ở cõi Ta Bà này nhĩ căn lanh lợi hơn các căn khác. Vì thế Phật Thích Ca mới dùng âm thanh để thuyết pháp. Còn ở các cõi khác ví dụ như cõi nước Chúng Hương, chúng sanh nơi ấy tỷ căn lanh lợi hơn các căn khác, cho nên khi thuyết pháp Phật Hương Tích dùng hương như cơm thơm để thuyết pháp chứ không dùng pháp âm như ở cõi Ta Bà này. Cho nên chúng ta ở nhà nên mở máy niệm Phật để câu Phật hiệu thường xuyên rơi vào tâm thức của chúng ta kể cả khi ngủ nghỉ. Đó là hình thức trợ duyên niệm Phật tốt đẹp nhất.
A Di Đà Phật.
A DI ĐÀ PHẬT…
Xin chào các liên hữu:
Xin cảm ơn Hoằng Ẩn đã post lên bài này. Tịnh Độ đã đọc trên Facebook cách đây vài ngày.
-Cho mình hỏi: nếu mình ở một mình thì để hình Adidaphat mọi nơi cũng được. Nhưng mình có vợ, khi ân ái với nhau để hình Phật trong phòng đang ân ái, có tội bất kính hay không? Khi ân ái với vợ mình vẫn niệm Adidaphat? Phòng tắm và vệ sinh để hình Adidaphat bảo đảm là Mẹ và vợ không đồng ý rồi? Mẹ nghe pháp rất nhiều, nhưng chưa tin mấy về niệm Phật VSTPCL, Mẹ sợ chết? TĐ có khuyên Mẹ niệm Phật nguyện VSTPCL. Khổ nổi TĐ bịnh suy nhược thần kinh, nên khó khuyên Mẹ? Khi Mẹ đi vệ sinh nói Mẹ niệm Phật thầm trong tâm mẹ cho là bất kính, làm sao mà mình treo hình Phật trong nhà vệ sinh?
Xin Hoằng Ẩn và các liên hữu góp ý dùm TĐ, xin chân thành cảm ơn…
A DI ĐÀ PHẬT…
Chào chú TỊNH ĐỘ.
Kinh LĂNG NGHIÊM viết:
Người tu chánh định ,cốt đễ ra khỏi trần lao,nếu tâm dâm dục chẳng trừ thì chẳng thểcra khỏi,dẫu cho có nhiều trí thiền định hiện tiền,nếu chẳng đoạn dâm,ắt phải lạc vào ma đạo,hạng trên thành ma vương,hạng giữa thành ma dân,hạng dưới thành ma nữ.Bọn ma kia cũng có đồ chúng,mỗi mỗi tự xưng đã thành đạo vô thượng,sau khi ta diệt độ,trong đời mạt pháp,bọn ma dân này sôi nổi trên thế gian,thịnh hành tham dâm,tự xưng là thiện tri thức,khiến chúng sanh sa vào hầm ái kiến,lạc mất đạo bồ đề.
Ngươi dạy người đời tu TAM MA ĐỊA,trước hết phải dứt dâm dục,ấy là lời
dạy bảo rõ ràng trong sạch,gọi là nghĩa quyết định thứ nhất của chư PHẬT.
A NAN nếu chẳng dứt dâm dục mà tu thiền định,cũng như nấu cát mà muốn thành cơm,dù trải qua trăm ngàn kiếp,cũng chỉ là cát nóng.
Tại sao?
Vì cát vốn chẳng phải là cơm vậy.Nếu lấy thân dâm mà cầu diệu quả của PHẬT,dẫu được khai ngộ cũng chỉ là gốc dâm.Cội gốc đã thành dâm thì phải trôi lăn trong TAM ÁC ĐẠO.Chẳng thể thoát khỏi,vậy làm sao có thể tu chứng đạo NIẾT BÀN.Ắt phải khiến thân tâm đều dứt hết sự dâm,cả cái dứt cũng chẳng có,thì mới có thể hi vọng chứng quả BỒ ĐỀ.
NHƯ LỜI TA THUYẾT GỌI LÀ PHẬT THUYẾT,CHẲNG THUYẾT NHƯ THẾ LÀ TÀ MA THUYẾT.
……….
Hi vọng chú TỊNH ĐỘ ngẫm nghĩ 1 chút xem tác hại của nó thế nào.
Với người chưa đọc kinh thì khuyên họ niệm PHẬT mà chẳng nói giới là vì khi niệm PHẬThọ sẽ được 25 vị BỒ TÁT như ĐỨC QUÁN THẾ ÂM và tất cả các BỒ TÁT theo thủ hộ bên mình.
Được chư PHẬT ngày đêm hộ niệm ,ĐỨC A DI ĐÀ thường phóng quang nhiếp thọ người ấy.
….A DI ĐÀ PHẬT.
Ân ái không được để hình PHẬT trong phòng,đã THANH TỊNH thì sao còn gọi là vừa hành dâm mà niệm được PHẬT,phòng tắm vệ sinh cũng không nên.
Người chân thật học Phật khi thấy hình tượng Phật để nơi bất tịnh lòng vô cùng đau xót, kẻ không tin không hiểu, không chân thật học Phật thì dùng hình tượng Phật như đồ trang trí tầm thường, người chân thật học Phật trân trọng yêu quí lời dạy của Phật, kẻ không chân thật học xem lời dạy như gió thoảng mây bay. Người đời mấy ai chân thật học Phật, vì lũ giặc bủa vây làm thân tâm điên đảo. Chớ nên để tượng, để hình, để lời Phật dạy nơi không thanh tịnh, trong tâm càng có Phật tự ta chẳng bao giờ dám bất kính. Thường hỏi mình có thấy khổ chưa, có muốn giải thoát, có còn tham gì ở thế giới này không, nếu chưa thấy khổ khó lòng gieo nhân giải thoát, nếu chưa thấy khổ chưa sợ khổ thì cái nguyện giải thoát kia còn mong manh dễ đứt, mỗi mỗi hãy cảnh giác lũ giặc xung quanh.
Thế gian vô thường, đời là bể khổ
Trôi lăn sáu nẻo chẳng biết đường về
Một niệm bất giác đoạ lạc chẳng ngưng
Gieo nhân giải thoát tự tánh ta tìm về
Sinh tử chẳng còn khổ đau chẳng lại
Chớ nên tham vui để rồi lạc lối
Cơm ăn ba bữa đủ no là vừa
Giàu nghèo cũng được mỗi mỗi biết dừng
Cả đời thong dòng tìm về Phật tánh
Vạn sự tuỳ duyên trôi theo dòng trải
Cưỡng cầu chi lo ham thích chi mệt
Áo này rồi cũng mục theo thời gian
Người trí dùng áo nhưng chẳng mắc vào áo
Sinh tử ở lại phía sau lưng
Một đời như vậy chẳng còn điều lo.
câu thơ của trên của chú NP rất hay. A di đà phật
Nhân không khí tết đang tràn ngập các phố phường, mình xin hỏi vui các bạn: Mấy trái dưa hấu ở đầu trang có dán chữ hay câu đối gì vậy? 🙂
A Di Đà Phật.
Theo mình nhìn thấy là 4 chữ A Di Đà Phật ^_^
Vì sao bạn không nghĩ đó có thể là
Cung Chúc Tân Xuân
hay:
Phát Tài Phát Lộc
hay:
Vạn Sự Như Ý
hoặc:
Tiền Vô Ào Ào (ủa hình như là Tiền Vô Như Nước đúng hơn 🙂 )
Vì những câu ấy là nói theo thế gian.
Còn đây là dvct mà .
Dán hồng danh khắp mọi nơi ^_^
A Di Đà Phật 🙂
Bạn Apple
Dán hồng danh khắp mọi nơi nhưng phải nhớ trừ những nơi bất tịnh ra nhé 🙂
Nhiều lúc tôi thấy câu hồng danh trên apple hỏng bị vứt trên đống rác ngoài đường mà đau xót vô cùng
Cảm ơn samsung nhắc nhở cho apple.
Samsung là đối thủ cạnh tranh với apple mà nay lại nhắc nhở nhau 🙂 haha
Thật ra mình kg có dán trên đt , vì đôi lúc bỏ đt vô túi sau nên kg dám dán lên đt
mong mọi người đều dán hồng danh vào trong tâm.
Adidaphat
Vận dụng hết 100% phần công lực cộng với thiên nhãn thông, mình đã “thấy” rõ được câu đối Tết như vầy nè. Bạn Táo giỏi thiệt nhen. 🙂
Haha công lực và thần thông của bạn thật cao minh 😉
Chúc bạn an lạc và niệm Phật ngày càng tinh tấn để “công lực” càng trội hơn nhé ^_^
Nam Mô A Di Đà Phật . Nghiệp ác nên tránh,nghiệp lành nên làm
A DI ĐÀ PHẬT…
Xin chào các liên hữu :
Hoằng Ẩn đã post trong Facebook lên DVCT, về treo hình Adidaphat trong phòng ngủ, phòng vệ sinh? Độ có hỏi :là khi ân ái trong phòng ngủ để hình Adidaphat có bất kính không? Hương Quang hiểu lầm là Hoằng Ẩn nói về ân ái để hình trong phòng ngủ.
Chân thành cảm ơn các liên hữu đã phúc đáp cho Tịnh Độ. Trang DVCT luôn luôn hỏi? , đáp? Giúp ít cho các bạn sen hồi đầu. Liên hữu phúc đáp thì nhiều, nhưng hỏi thì hơi ít? Các câu hỏi là đời và đạo? Nên mình cũng sẽ tìm những câu hỏi, để các liên hữu trong duongvecoitinh sẽ phúc đáp lợi lạc cho các bạn sen.
A DI ĐÀ PHẬT…
Bạn Tịnh Độ
Liên hữu HQ trình bày rất rõ ràng, giải toả khúc mắc cho nhiều người, không có sự hiểu lầm nào đâu. Bạn xem kỷ các bài phúc đáp ở trên sẽ rõ.
A di đà phật
A DI ĐÀ PHẬT…
Xin chào các liên hữu :
-Về việc treo hình Adidaphat trong phòng ngủ. Pháp Sư Tịnh Không giảng.
– Có phải là quán tưởng (nhớ Phật)?
Cách đây vài năm TĐ có bạn sen chỉ mình nhìn hình Adidaphat, để nhớ tới hình Adidaphat trong Tâm, bạn sen thí dụ nhớ Phật như nhớ người mình yêu thích? Hình Adidaphat có cần phải một hình ảnh TĐ thích? Vì hình Adidaphat có nhiều màu khác nhau? Hình Adidaphat để trong bóp (ví) được không?
Xin các liên hữu góp ý dùm cho Tịnh Độ, chân thành cảm ơn các liên hữu…
A DI ĐÀ PHẬT…
Đây chỉ là một chuyện nhỏ. Với người trân trọng có thể mang ra tặng họ với người chẳng trân trọng dù có thêm vàng cũng không ân thua gì. Ví như con nhớ bố mẹ thì tự tìm về nhà. Nếu con chẳng nhớ cha mẹ có đăng TÌM TRẺ LẠC thì cũng vô dụng.
A Di Đà Phật
Các bạn Sen quý kính,
Bài pháp của HT Tịnh Không nhắm vào hai đối tượng: Người tu và người chẳng tu, nói khác đi:
– Người tin Phật A Di Đà, niệm Phật A Di Đà và nguyện một lòng về cõi Phật A Di Đà và
– Người không tin, không niệm và không nguyện về cõi Phật A Di Đà.
Người đã thực có tín-nguyện-hạnh chân chánh rồi thì nơi nơi đều là Phật A Di Đà, nơi nơi đều có Phật A Di Đà. Nói khác đi: Phật A Di Đà niệm niệm chẳng rời tâm, trong tâm niệm niệm chẳng rời A Di Đà Phật. Tâm niệm đã nhất như thì có hình hay không hình cũng là một, trái lại hình A Di Đà là cần thiết, bởi thấy hình tức thấy Phật, đã thấy Phật tâm còn khởi sanh bất kính được sao?
Cái nhìn của HT Tịnh Không là cái nhìn từ chân như tự tánh thanh tịnh của mỗi chúng sanh: Tâm tịnh cõi Phật tịnh! Còn cái nhìn của chúng ta là cái nhìn của vọng tưởng: phân biệt và chấp trước. Vì phân biệt nên có cấu-có tịnh, có tăng-có giảm, có cao-có thấp, có trắng-có đen, có chánh-có tà…v.v… và vì chấp trước những phân biệt đó nên chúng ta luôn sống trong phiền não và vọng tưởng, vì thế chúng ta vĩnh viễn là chúng sanh và Phật vĩnh viễn là Phật.
Học Phật chúng ta phải tự mình dũng mãnh phá bỏ cái tâm phân biệt chấp trước đó thì mới tiến tu được.
TĐ
Nam mô A di đà phật
Huynh Trung Đạo kính mến!
Thế nào là phân biệt chấp trước và ai trong chúng ta đây có thể phá bỏ được điều ấy?
Kinh dạy:
“Thật tế lý địa bất thọ nhất trần.
Phật sự muôn trung bất xả nhất pháp”
Nghĩa là về mặt Lý thì không có một pháp nào thì làm sao mà có thể phân biệt chấp trước. Thế nhưng về mặt Sự tu hành thì nhất định phải phân biệt tà chánh, nhân quả, lý sự,thứ tự tu tập trước sau cho rõ ràng. Cái nào ác ko đúng pháp thì xả bỏ đi. Cái nào thiện, đúng chánh pháp thì một lòng cung kính giữ lấy. Đây gọi là TRẠCH PHÁP, là đoạn ác tu thiện. Điều này có lẽ huynh đã rất rõ rồi
TĐ:
“trái lại, hình A Di Đà là cần thiết, bởi thấy hình tức thấy Phật, đã thấy Phật tâm còn khởi sanh bất kính được sao?”.
Thấy hình Phật thì ko thể sanh tâm bất kính.
Đệ thấy câu này ko ổn.
Vì sao?
Vì chỉ đúng trên lý thuyết mà ko đúng trên mặt Sự về bản tính và diễn biến tâm sinh lý của con người, đặc biệt là con người trong thời đại thác loạn hiện nay.
Tâm sinh lý của con người là gì? Hễ cái gì nhìn thấy lâu ngày thì thành quen, hễ quen rồi thì sinh tâm khinh nhờn. Từ chỗ khinh nhờn rồi lâu ngày sẽ dẫn đến chỗ thiếu sự kính sợ. Mà chắc huynh đã thừa biết rồi, tu hành mà thiếu sự kính sợ Phật bồ tát thì sự tu hành chẳng thể nào thành tựu được. Không kính sợ chất chứa lâu này thành thói thì không phải LÀ ĐANG TẠO NGHIỆP bất kính đó sao? Cái diễn biến tâm lý này là hoàn toàn sự thật mà chính Tổ Ấn Quang cũng đã nói qua. Vì vậy, Tổ bảo “nếu bất đắc dĩ treo tranh/ tượng gần chỗ sanh hoạt thì phải lấy vải vàng che lại.Đến thời khóa thì mở ra và phải xem như Phật thật. Xong thời khóa tụng niệm thì che lại y như cũ”. Dựa vào lời này thì liền biết có treo hay ko rồi. Tại sao chúng ta cứ ngoan cố ko chịu nghe lời? Nếu nghe lời của Tổ thì việc “chấp trước” như thế này có nên ko?
Lời của Tổ hoàn toàn ko cao sâu huyền diệu gì cả mà chính là những việc nhỏ nhất thực tế trong cuộc sống hằng ngày, mà mọi người đều có thể làm được để thực sự hưởng được lợi ích chân thật trong Phật pháp.
Diễn biến tâm lý này là tất yếu, nếu ko thì Tổ nhọc công giảng dạy để làm gì? Bởi thế khi xưa Phật chế bát kỉnh pháp đối với hàng Tỳ kheo ni là cũng vì cái diễn biến tâm lý ấy. Thân cận lâu thành quen, quen thành nhờn, nhờn thành bất kính. Điều này ko chỉ Phật nói mà Khổng Lão phu tử cũng đã khẳng định trong Luận ngữ cách đây gần 3000 năm:
“Có hai hạng người mà Ta rất khó dạy. Đó là phụ nữ và kẻ tiểu nhân. Gần thì sinh nhờn. Xa thì họ oán giận”.
Tiểu nhân là hạng phàm phu chúng ta chứ ko phải ai khác.
Dân gian ta cũng có câu “Gần Phật kêu Phật bằng anh” hay “Nhất niên Phật tại tiền, nhị niên Phật sanh Thiên. Tam niên Phật về Tây Thiên”, đại khái là như vậy để chỉ cái diễn biến tâm lý ấy. Vì vậy mọi người phải rất cẩn trọng nhận thức cho rõ, đâu là Lý thuyết tuyệt đối đâu là Sự việc tu hành trong cuộc sống hằng ngày, đừng nên lẫn lộn hai điều này thì rất phiền phức.
Vài dòng thô thiển mong huynh lượng thứ cho.
Nam mô A di đà phật
A Di Đà Phật
Chánh hạnh Vãng Sanh là xưng danh,những chuyện khác là trợ hạnh nên tùy duyên.Việc đê ảnh trong ví có người nói có,có người nói không nên hãy tùy duyên.Nếu ở nơi mọi người đều hoan hỉ chuyện này thì mình làm,còn ở nơi người ta phản đối thì mình thôi cũng được,vì dù sao cũng không phải là chánh hạnh vãng sanh.
Việc treo ảnh trong phòng là nhắc nhở người niệm Phật,đó cũng là trợ hạnh cho xưng danh,chứ nói đó là quán tưởng thì chưa phải,vì nếu quán tưởng thì phải làm theo từng bước như trong kinh quán vô lượng thọ thì mới gọi là quán tưởng.Ví như khi đi đường nhìn thấy biển báo giao thông sẽ nhắc nhở chúng ta để ta khỏi lơ là mà tập chung vào việc điều khiển xe tốt hơn.Có những lúc ta bận cả ngày ko niệm Phật,về nhà vừa nhìn thấy tranh A Di Đà Phật,ta liền nhớ ra và khi đó ta liền buột miệng niệm A Di Đà Phật.
Các vị nên khẩu hoà vô tranh và nghĩ xem mình đang ở cảnh giới nào trong lục đạo?
Bạn NGUYÊN
Trên trang này có nhiều người lớn tuổi hơn bạn, bạn không nên nói những lời thiếu lễ kính như vậy. Tốt nhất là yên lặng cung kính lắng nghe sự chia sẻ của các Liên hữu
A Di Đà Phật
Bạn Diệp Thuỷ thân mến,
1. “Thế nào là phân biệt chấp trước và ai trong chúng ta đây có thể phá bỏ được điều ấy?”
Không phải Phật, không phải Bồ tát, không phải chư Hộ pháp, chẳng phải chư Tổ, chẳng ai khác ngoài bạn ra – Bạn phải là người người tiên phong để làm chuyện đó. Nếu bạn cho rằng tôi còn làm phàm phu, nghiệp chướng sâu nặng làm sao tôi làm được? điều này đồng nghĩa bạn đang cột chặt chân mình rồi kêu mình đang bị chói. Đây là vi tế nghĩa, chúng ta phải sáng suốt để mà quán chiếu.
2. “trái lại, hình A Di Đà là cần thiết, bởi thấy hình tức thấy Phật, đã thấy Phật tâm còn khởi sanh bất kính được sao?”.
Hàng ngày hẳn chúng ta đều tụng Thập Nguyện Đại Hạnh của Phổ Hiền Bồ tát? trong đó hạnh đầu tiên là: Nhất giả lễ kính chư Phật!
Sao gọi là lễ kính? Chẳng phải thấy Phật, phải đối trước Phật, phải nghe thấy lời Phật… mới sanh tâm lễ kính, mà tâm tâm niệm niệm luôn hành theo lời Phật dạy. Phật dạy chúng ta điều gì? Đoạn hết thảy pháp ác, tu hết thảy pháp lành, độ tận chúng sanh khổ.
– Pháp ác là gì? Treo ảnh Phật trong phòng ngủ, ăn mặc, cợt nhả, thân thể loã lồ, hành dục trước tôn ảnh Phật, đó là pháp ác.
– Tu hết thảy pháp lành là gì? Treo ảnh Phật trong phòng ngủ, tâm thường niệm Phật, dẫu chẳng thấy tôn ảnh, nhưng tâm luôn có Phật, vì có Phật nên niệm niệm bất kính chẳng thể dấy khởi.
– Độ tận chúng sanh khổ là gì? Chớ nghĩ chúng sanh là người A,B,C,D… mà là những chúng sanh niệm trong tâm của mỗi chúng ta. Trước phải độ cho bằng được những chúng sanh đó: tham, sân, si, mạn, nghi, phân biệt, chấp trước.
3. “Tâm sinh lý của con người là gì? Hễ cái gì nhìn thấy lâu ngày thì thành quen, hễ quen rồi thì sinh tâm khinh nhờn. Từ chỗ khinh nhờn rồi lâu ngày sẽ dẫn đến chỗ thiếu sự kính sợ…”
Bạn đang dùng tâm thanh tịnh của chính mình để học và tri kiến pháp hay đang dùng tâm phân biệt, chấp trước của thế gian? Đã tịnh thì làm gì có nhờn và chẳng nhờn? kinh sợ-chẳng kinh sợ?
Học pháp chúng ta luôn đi từ thô vào vi tế. Thô là còn thấy thiện-ác, nhơ-sạch, tịnh-bất tịnh… nhưng nhận ra rồi thì cái niệm nhận ra đó cũng phải xả cho bằng hết, đó là bước thứ nhất của sự vi tế. Bước thứ hai là không còn cả niệm xả đó mới là chân xả chứ chẳng nên nắm giữ nó, bằng không chính chúng ta tự cột chân mình rồi nói mình bị chói. Chuyện treo tôn ảnh Phật trong phòng ngủ cũng vậy; ăn chay, niệm Phật, tu thiền, trì chú, giữ giới cũng vậy, chúng ta phải ý thức được mọi hành vi, động niệm của bản thân, bằng không chúng ta đang tu theo cảm tính, theo phong trào.
4. Hàng ngày tu học chúng ta mới chỉ đơn thuần nhận ra được thiện-ác, rồi ráng bỏ ác, giữ thiện, nhưng kế đó là gì? phê phán, phỉ báng, chê bai, tán phát cái ác, kế đó là gì? giữ mãi cái thiện, cho tôi là thiện, người đó mới thực thiện, mà không chịu buông bỏ cái niệm thiện đó. Giữ thiện lâu ngày tất thiện trở thành ác. Trong thiện có ác là nghĩa này.
Mong bạn cùng các liên hữu chúng ta phát tâm thanh tịnh để học pháp tất sẽ không bị cột trong pháp.
Nam Mô A Di Đà Phật,
Xin được chia sẻ với các bạn sen một câu chuyện nhỏ như sau. Có một vị sư đến một thiền viện xin được nhập chúng. Ở đó có một luật là không được giữ tiền. Vị đó mới thưa với vị trụ trì ở đó là mình đã giữ được tâm thanh tịnh, không phân biệt, không bị trói buộc, dính mắc rồi nên xin được phép giữ tiền. Vị trụ trì mới bảo “Ông hãy ăn một muỗng muối ngay tại đây, nếu không thấy mặn thì tôi tin ông”. Cuối cùng thì vị đó đã rời đi. Ở đây, tâm thanh tịnh, không chấp trước,..chẳng phải là chuyện giỡn chơi, nói tâm thanh tịnh thì là thanh tịnh, mà phải là thực chứng thì mới không bị lầm lạc. Có lẽ phần đông chúng ta đều là những kẻ tâm không thanh tịnh, sáu căn dính chặt sáu trần, nếu lầm lẫn cho rằng ta không còn dính mắc thì e rằng sẽ gặp ma nạn.
Ai mới không bị cột trong pháp? Người không còn giữ giới vì họ và giới là một. Người không chấp pháp vì họ đã “được” pháp, họ chính là pháp. Còn chúng ta, đâu đã “đến nơi”, có được thực chứng gì mà cho là mình có thể thong dong không trói buộc trong pháp?
Nguyện cho chư huynh, đệ, tỉ, muội chúng ta thường tự kiểm mình để không bị lầm lạc.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam mô A di đà phật
Huynh Trung Đạo cùng quý Liên hữu kính mến!
“Phân biệt chấp trước”, ý nghĩa của nó là gì, mời Huynh Trung Đạo và quý Liên hữu tham khảo bài giảng của HT Tịnh Không trong Tịnh độ đại kinh khoa chú như sau:
“Phá phiền não thành (kiến Đường dịch). Phiền não giả, tham, sân, si đẳng, phiền tâm, não thân, cố danh phiền não”(“Phá phiền não thành” (câu này trích từ bản Đường dịch). Phiền não là phiền tâm, não thân, nên gọi là “phiền não”). Trước hết, giới thiệu đơn giản danh từ “phiền não”. Vì sao gọi nó là “phiền não”? Nó khiến cho tâm quý vị phiền muộn, khiến cho thân quý vị khổ não, nên gọi là “phiền não”. Tham, sân, si là cội rễ của phiền não, vô lượng vô biên phiền não đều sanh từ chỗ này. Trong Phật pháp, ba cội rễ ấy được gọi là Tam Độc Phiền Não, đúng là bẩm sanh. Tiếp theo đó, sách viết: “Hựu tham, sân, si, mạn, nghi, Thân Kiến, Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ, Giới Thủ” (lại nữa, tham, sân, si, mạn, nghi, Thân Kiến, Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ, Giới Thủ), những thứ này được gọi chung là “mười loại phiền não”. Mười loại phiền não này còn gọi là Kiến Tư phiền não. “Thiên Thai Tông dĩ Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh Tam Hoặc xưng vi tam phiền não” (Thiên Thai Tông gọi Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh Tam Hoặc là ba phiền não). Các phiền não này được quy nạp lại thành ba loại lớn: Thứ nhất là Kiến Tư. Kiến Tư là mười loại phiền não đã nói trên đây, mười thứ phiền não ấy được gọi là Kiến Tư phiền não. [Hai loại kia là] Trần Sa và Vô Minh, trong phần trước, chúng ta cũng thường nhắc tới [hai loại này]. Tham là tham ái, Sân là sân khuể, [Si là] ngu si, [Mạn là] ngạo mạn, [Nghi là] hoài nghi. Hoài nghi ở đây chẳng phải là hoài nghi thông thường, mà là nghi ngờ Phật pháp, tức là hoài nghi thánh giáo, hoài nghi giáo huấn của thánh nhân. Đó là phiền não nghiêm trọng.Trong kinh Đại Thừa, đức Phật đã nói đến khởi nguyên của vũ trụ, đây là một vấn đề căn bản trong Phật pháp, triết học và khoa học. Mãi cho đến hiện thời, khoa học và triết học vẫn chưa thể hiểu rõ ràng, minh bạch vấn đề này. Trong mấy năm gần đây nhất, do Lượng Tử Lực Học xuất hiện, chuyện này đã có cách giải thích mới mẻ. Họ tìm ra cách giải thích mới, cách giải thích mới mẻ ấy hết sức gần với kinh Phật. Nói theo Phật pháp, kinh Đại Thừa thường nói: “Nhất niệm bất giác nhi hữu vô minh” (do một niệm bất giác bèn có vô minh), từ vô minh biến hiện A Lại Da. Chân tâm là tự tánh. Tự tánh là chân tâm, A Lại Da là vọng tâm; Vọng do đâu mà có? Đương nhiên chẳng thể rời Chân; rời khỏi Chân há có hư vọng? Giống như chúng ta đứng dưới ánh nắng bèn có bóng, cái bóng ấy là hư vọng. Bóng do đâu mà có? Do thân người mà có. Nếu chẳng có thân người, lấy đâu ra bóng? Chúng ta sánh ví thân người như tự tánh, bóng là A Lại Da. Tự tánh chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, thứ gì cũng đều chẳng phải, trong Tịnh Tông gọi là Thường Tịch Quang. Đồng học Tịnh Tông đều biết Tây Phương Cực Lạc thế giới có bốn cõi, ba bậc, chín phẩm. Bốn cõi là Thường Tịch Quang Tịnh Độ, Thật Báo Trang Nghiêm Độ, Phương Tiện Hữu Dư Độ, và Phàm Thánh Đồng Cư Độ. Cõi Phàm Thánh Đồng Cư tương đương với lục đạo luân hồi nơi này, cõi Phương Tiện Hữu Dư tương đương với bốn thánh pháp giới trong thế giới của chúng ta. Đối với Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, cõi Thật Báo giống nhau, cõi Thường Tịch Quang cũng giống nhau. Thường Tịch Quang là bản thể, không đâu chẳng tồn tại, không lúc nào chẳng hiện hữu, nó là Lý Thể của vạn sự vạn vật trong vũ trụ.Vọng tâm xuất hiện, A Lại Da xuất hiện. A Lại Da có ba tánh chất. Phật pháp gọi [ba tánh chất ấy] là ba tế tướng, hết sức vi tế, rất khó thấy. Nói theo giáo pháp Đại Thừa, Bát Địa Bồ Tát mới thấy [ba tế tướng ấy]. Đây là nói đến công phu định lực, phải đạt đến mức độ sâu như Bát Địa, tức là đại định rất sâu mới thấy được! Trên Bát Địa còn có Cửu Địa, Thập Địa, Đẳng Giác, và Diệu Giác; do vậy, trong hàng Bồ Tát, kể cả [địa vị] Phật, trong bốn mươi hai địa vị thì năm địa vị tột đỉnh sẽ có thể thấy [ba tế tướng ấy], đương nhiên [những tế tướng ấy] chẳng phải là giả. Một người trông thấy, chưa chắc đã là thật, nhưng chỉ cần chứng đắc từ Bát Địa trở lên, quý vị đều thấy, [tức là những tế tướng ấy] chẳng phải là giả! Do vậy, [cảnh giới] trong Thiền Định là cảnh giới Hiện Lượng, nó có ba tánh chất gì? Nó bao quát [các đặc tánh sau đây], nếu dùng danh từ hiện thời để nói, nó có năng lượng, có hiện tượng vật chất, và hiện tượng thông tin. Thông tin là hiện tượng tinh thần, chúng ta thường nói tinh thần là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nó có hiện tượng ấy. Những hiện tượng ấy do đâu mà có? Đều là vốn sẵn trọn đủ trong tự tánh, trong tự tánh sẵn có. Bất quá là bị mê. Tự tánh bị mê bèn gọi là A Lại Da, A Lại Da khiến cho những hiện tượng ấy bị biến chất. Trong tự tánh có trí huệ, có đức năng, có tướng hảo, hễ một thứ bị mê, toàn bộ sẽ bị biến đổi, trí huệ biến thành phiền não, ở đây chúng ta nói là Kiến Tư phiền não. Nói theo tông Thiên Thai, phạm vi sẽ to lớn, Kiến Tư, Trần Sa, và Vô Minh hoàn toàn là trí huệ Bát Nhã vốn sẵn có trong tự tánh bị biến chất, biến thành những thứ ấy. Đức năng biến thành tạo nghiệp, khởi tâm động niệm, tạo tác hết thảy nhiễm, tịnh, thiện, ác, cội nguồn của chúng là đức năng trong tự tánh. Lục đạo, mười pháp giới vốn là tướng hảo trong tự tánh, toàn bộ đã bị biến chất, nên trong kinh đức Phật thường nói: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Đức Phật lại thường dạy chúng ta, điều này được nói trong kinh Hoa Nghiêm, vũ trụ và vạn pháp được hình thành như thế nào? “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Cái có thể hiện, có thể sanh là tâm chúng ta; nó có thể biến, sanh ra vô lượng vô biên biến hóa, đó là thức của chúng ta khởi tác dụng. Thức là gì? Phân biệt, chấp trước! Phân biệt, chấp trước bèn sanh ra biến hóa. Chẳng có phân biệt, chấp trước, nó bèn hiện tướng, chẳng nẩy sanh biến hóa, nó có thể hiện ra. Vì thế, cõi Thật Báo Trang Nghiêm là do tâm hiện, trong ấy chẳng có biến hóa vì chẳng có phân biệt, chấp trước.Phiền não là chuyện như thế đó. Do vậy, tuy phiền não vô lượng, vô biên, Phật, Bồ Tát quy nạp chúng thành mười loại lớn, gọi là mười phiền não. Tông Thiên Thai gọi mười phiền não ấy là Kiến Tư phiền não, [nói chi tiết thì] “tham, sân, si mạn, nghi” là cách nghĩ sai lầm, nên gọi là Tư (思: suy nghĩ), tức Tư Phiền Não. Năm thứ Thân Kiến, Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ Kiến, và Giới Thủ Kiến là cách nhìn sai lầm, [đó là Kiến phiền não]. Đối với mọi chuyện quý vị đã nhìn sai rồi, đó là cách nhìn sai lầm, hợp với cách nghĩ sai lầm trong phần trước, sẽ gồm trọn tất cả những sai lầm, chẳng có gì lọt ra ngoài được! Trần Sa cũng là phiền não, vì sao? Quý vị chưa thể liễu giải chân tướng của nó. Đây là gì? Quá nửa là nói về các hiện tượng vũ trụ. Đối với những gặp gỡ trong đời chúng ta, Lý, Sự, nhân, quả quá phức tạp, quá nhiều, chẳng thể biết rõ số lượng, nên dùng Trần Sa làm tỷ dụ, [sánh ví các phiền não ấy] giống như bụi đất, giống như cát bụi, quá nhiều, chẳng thể biết rõ số, nên gọi là Trần Sa phiền não. Vô Minh: Minh (明) là hiểu rõ. Đối với vạn sự vạn vật trong vũ trụ, quý vị chẳng hiểu rõ: Thể của chúng là gì, hiện hình tượng gì, nhân quả là gì, những gì là Sự, những thứ nào là Lý, đều chẳng hiểu rõ ràng! Do đó, mê hoặc, đấy cũng là phiền não. [Phiền não] gồm ba loại lớn, tức Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não, và Vô Minh phiền não. Trong kinh Hoa Nghiêm, Kiến Tư phiền não được gọi là chấp trước, Trần Sa phiền não được gọi là phân biệt, Vô Minh phiền não được gọi là vọng tưởng. Vì lẽ đó, “vọng tưởng, phân biệt, chấp trước” như kinh Hoa Nghiêm nói có cùng một ý nghĩa [với ba loại đại phiền não] trong tông Thiên Thai; danh xưng khác nhau, nhưng ý nghĩa hoàn toàn tương đồng. Vô minh là khởi tâm động niệm. Chẳng khởi tâm, không động niệm, trí huệ hiện tiền. Khởi tâm động niệm thì trí huệ chẳng còn, biến thành vô minh phiền não. Cổ đại đức cũng dùng tỷ dụ trong kinh, kinh sánh ví chân tâm như nước. Một ao nước, nước [trong ấy] rất sạch, chẳng có nhiễm ô, thanh tịnh. Nước chẳng nổi sóng, gió lặng, mặt nước giống như một tấm gương, chiếu soi cảnh giới bên ngoài rõ ràng, rành rẽ. Đó là gì? Đó là Minh, minh tâm. Nếu là động thì hễ động bèn cuộn sóng, nếu gió nổi lên, nước bèn sanh ra sóng. Nếu nước nổi sóng, sẽ chẳng soi rõ rệt cảnh giới bên ngoài. Chân tâm cũng giống như vậy, nên tâm chẳng thể động. Tâm hễ động bèn mê, tâm biến thành A Lại Da. Chẳng động thì A Lại Da khôi phục thành chân tâm. Vì thế, Pháp Tướng Tông nói A Lại Da là “nửa chân, nửa vọng, nửa thật, nửa giả”, đúng vậy! [A Lại Da] xác thực có tánh chất ấy. Làm thế nào để gạt bỏ cái phân nửa hư vọng để khôi phục thuần chân thì sẽ thành Phật”
Vọng tưởng, trần sa hoặc vi tế, kiến tư phiền não tự lực phàm phu chúng ta chân thật không thể đoạn được trong một đời này. Trên kinh luận nói phải trãi qua 3 đại a tăng kỳ kiếp, một quãng thời gian lâu xa vô tận! nhưng tính từ khi nào? không phải từ ngày hôm nay mà tính từ khi chúng ta vào địa vị Thánh sơ quả Tu đà hoàn Tạng giáo hay phải là Sơ tín bồ tát trong Biệt giáo!
Mức độ sâu cạn của căn bệnh “Phân biệt chấp trước” ra sao và đến địa vị nào mới đoạn được? Mời quý LH xem qua Tam tế lục thô trong Đại thừa khởi tín luận của Mã Minh Đại sĩ, tóm tắc như sau:
Do nhất niệm bất giác (vô minh) mà lập tức phát sinh ba trạng thái vô minh rất vi tế (gọi là Tam tế) và sáu trạng thái “chi mạt vô minh” (gọi là lục thô) sau đây:
Tam tế gồm có:
1. Nghiệp tướng(Còn gọi là vô minh nghiệp tướng hay năng động)Bất giác thì vọng động, gọi là nghiệp. vọng động thì khổ não
2. Chuyển tướng(Hay năng kiến tướng, năng kiến)Tức là vọng động chuyển thành nhận thức
3. Hiện tướng(cảnh giới tướng, năng hiện)Nhận thức hình thành đối cảnhBa thứ vi tế này chính là ba mặt của Tàng thức (A lại da thức)Nghiệp tướng là Tự chứng phần. Chuyển tướng là kiến phần và Hiện tướng là tướng phần của Tạng thức
Lục thô gồm có:
1. Trí tướng (Phân biệt, năng tri, pháp chấp câu sanh)Là sự phân biệt đối cảnh cái dễ ưa và dễ ghét
2. Tương tục tướng (Liên tục, sở tri, pháp chấp phân biệt)Tức là do sự phân biệt phát sinh khổ vui khiến cho cảm giác liên tụcHai cái tướng chấp pháp, ngã này thuộc thức thứ bảy (Mạt na thức). Tuy nói là thô thật ra rất vi tế khó thấy vì nó được khởi từ tâm bất giác
3. Chấp thủ tướng (nhân chấp câu sanh)Do sự liên tục mà có sự bám chấp đối cảnhCái này thuộc về thức thứ sáu (ý thức)
4. Kế danh tự tướng( nhân chấp phân biệt)Do sự chấp thủ tướng mà phân biệt đặt tên rồi chấp vào ngôn ngữ văn tự ấy, thuộc về ngũ tiền ý thức (nhãn thức, nhĩ thức, thân thức, thiệt thức, tỷ thức)
5. Khởi nghiệp tướng:Y hoặc tạo nghiệp (hành vi)
6. Nghiệp hệ khổ tướng:Do tạo nghiệp nên bị các nghiệp kéo dẫn lãnh thọ khổ báo
Ý nghĩa của Tam tế lục thô đã giải thích.
Bồ tát Mã minh rất từ bi đã giúp chúng ta xác định vị trí của mình đang ở đâu?
1. Phàm phu chúng ta tam tế lục thô không thiếu món nào
2. Hàng tiểu quả Thanh văn( Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm) và địa vị dưới Thập tín Bồ tát có ba món tế và bốn món thô
3. A la hán và Thập tín Bồ tát: ba tế, trong lục thô đã hủy diệt hoàn toàn đến chấp thủ tướng
4. Đến Sơ địa bồ tát (Tịnh tâm dịa) hủy diệt hoàn toàn tương tục tướng
5. Từ Nhị địa (Cụ giới địa) đến Thất địa (Vô tướng phương tiện địa) hủy diệt hoàn toàn Trí tướng tức là mới hoàn toàn sạch hết lục thô
6. Bát địa bồ tát (Sắc tự tại địa hay Bất động địa) mới hủy diệt được cái Tam tế thứ ba là Hiện tướng hay cảnh giới tướng hay tướng phần của A lại da thức
7. Cửu địa bồ tát (Tâm tự tại địa) hủy diệt năng kiến tướng hay kiến phần của A lại da thức
8. Thập địa bồ tát (Pháp vân địa) mới hủy diệt được nghiệp tướng vô minh. Đây là bồ tát tận cùng địa vị, nhập Như lai địa
Mong các huynh đệ hãy tự nhìn lại mình xem công phu ĐOẠN HOẶC, phá bỏ PHÂN BIỆT CHẤP TRƯỚC của mình đang trong gian đoạn nào, để tránh sự nhầm lẫn đáng tiếc.
Cổ đức có bài kệ rất hay:
Đốn ngộ tuy đồng PhậtĐa sanh tập khí thâmPhong đình ba thượng dũngLý hiện niệm du xâm.Nghĩa:Đốn ngộ tuy đồng PhậtNhiều đời tập khí sâuGió dừng sóng còn vỗLý hiện niệm vẫn vàoThiền sư Vô Văn Thông ở Hương Sơn, nối pháp ngài ThiếtSơn Quỳnh, đã từng kể lại kinh nghiệm của mình: “Tuy kiếngiải về thiền đã rõ ràng và đầy đủ nhưng vọng tâm vẫn còn ẩn kín sâu sa chưa hoàn toàn dứt sạch. Thế rồi tôi lại lánh mình vào trong núi sáu năm ở Châu Quang, kế sáu năm nữa ở Lục An và sau rốt lại ba năm ở Châu Quang nữa, bấy giờmới thật được thảnh thơi.”Thiền sư Hân ở Dũng Tuyền từng bảo: “Ta bốn mươi năm tại chỗ này còn có chạy lọt, các ông chớ mở miệng to. Kẻ kiến giải thì nhiều, người hạnh giải thì trong muôn người mới có một.”
A Di Đà Phật
Các bạn Sen kính mến,
Phật dạy: Các pháp của Ta dụ như thuyền bè!
– Có người nghe thấy bè là lảng
– Lại có người nghe thấy bè rất vui thích nhưng chỉ đứng ngắm từ xa
– Lại có người thấy bè, vội vã leo lên rồi lại vội vã nhảy xuống
– Lại có người vội vã leo lên, rồi cũng vội vã chèo, không cần biết nó hợp với sức mình hay không, chèo chống đi đâu
– Lại có người leo lên rồi đứng đó để ngắm núi, thưởng trăng
– Lại có người leo lên rồi để bè muốn trôi tới đâu thì tới
– Lại có người leo lên rồi vội vã chèo miễn sao cho nhanh về đích
– Lại có người nhận bè rồi chỉ lo trang điểm cho bè của mình thêm bề thế
– Lại có người chỉ lo tìm kiếm những khiếm khuyết của bè
– Lại có người leo lên, chèo chống một đoạn, thấy bè khác hay hơn, vội nhảy xuống để leo lên bè khác rồi lại bè khác khác nữa…
– Lại có người vừa thận trọng quán xét liệu bè đó có hợp với mình, rồi cũng thận trọng chèo chống theo đúng hành trình đã định…v.v…
Chúng ta đang thuộc hạng người nào trong số ví dụ trên? TĐ nghĩ đã đến lúc chúng ta phải tỉ mỉ, tường tận mà quan sát để nhận rõ chính mình rồi dũng mãnh, kiên định mà tiến bước, đừng lo tranh luận bè hay-dở, tốt-xấu nữa, bằng không trọn đời cũng chỉ là người ôm bè trôi sông, chẳng thể nào tới bến.
TĐ
Kính thưa các huynh đệ:
Đức Phật đã nói rõ: Thời kỳ chúng ta đang sống là thời kỳ đấu tranh kiên cố. Ngay trong cửa Phật cũng có đấu tranh…đấu tranh rất kiên cố. Chánh pháp đấu tranh với Chánh Pháp, người nào cũng cho pháp của mình hiểu là đúng, luôn muốn tranh phần đúng về mình, chẳng ai chịu nhường ai, rốt cuộc biến thành gì? Chẳng phải biến thành tranh hơn tranh thua hay sao?
Học Phật rồi thì tâm trí loạn xị cả lên, ngay trong Phật pháp tu học bao ngày liền bị pháp chuyển chứ chẳng chuyển pháp thành Giới Định Huệ của chính mình, bị cảnh chuyển chứ chẳng chuyển cảnh thành Thanh tịnh an vui.
Con Tịnh Thái phàm phu, đôi lúc bị phiền não như thế…nay xin sám hối trước đại chúng, ngõ hầu mong ai có bị giống con như vậy thì có thể đọc được những dòng chữ sám hối này của con mà tự phản tỉnh, dừng bặt tất cả vọng tưởng mà ôm trọn lấy A Di Đà Phật từng phút từng giây…vậy thì vãng sanh mới có phần.
Con mong lắm thay…
Lời con nói có nhiều chỗ thô tháo, kính mong các huynh đệ lượng tình bao dung cho con, để con có được cơ hội phát lồ sám hối trước đại chúng được viên mãn.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Thật là vui khi chú TỊNH THÁI trở lại. Tiếc là chú HUỆ TỊNH lại vắng mặt. Tuy là bất đồng quan điểm nhưng nó là chuyện nhỏ. Có rất nhiều điều quan trọng mà các chú biết nhưng nhân duyên người khác chưa thể lãnh hội được. Sự nhẫn nại của các chú mới khiến người khác cảm tạ.a di đà phật
A Di Đà Phật.
@Nguyên:
Huệ Tịnh có mặt thì có hữu ích gì đâu.
Ngày nào Huệ Tịnh chưa có thể về Tây Phương Cực Lạc, lời nói vô ích hơn là hữu ích.
Góp ý nhiều phiền não nhiều, đường về nhà còn xa vậy.
“Có rất nhiều điều quan trọng mà các chú biết nhưng nhân duyên người khác chưa thể lãnh hội được.”
Thật muốn lãnh hội được các pháp thì nên thật lòng muốn về Tây Phương Cực Lạc. Nếu chưa có thể thật lòng muốn về thì muốn lãnh hội được các pháp chỉ là sự ràng buộc thêm thôi.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật
Huệ Tịnh huynh kính mến!
Đã gần nữa năm chẳng thấy huynh trên ĐVCT nữa, chẳng hay thời gian qua việc tu tập của huynh đến đâu rồi?
_()_
A Di Đà Phật.
Mỹ Diệp kính mến.
Gió nghiệp thử thách, mới biết lòng tin.
Đã gần nữa năm, đường về còn xa.
MD cố gắng giữ gìn sức khỏe, xem nhẹ chuyện đúng sai.
—————————-
68) Thọ giáo và phát tâm không hẳn là cùng lúc, vì phát tâm thì gặp duyên mà phát khởi. Trước đây có một vị sơn tăng hỏi tôi rằng: “Tôi học pháp môn Tịnh Độ đã lâu, hiểu được đôi chút nhưng chưa phát khởi được tín tâm. Phải dùng phương tiện gì để thành lập tín tâm?”. Tôi đáp: “Hãy cầu nguyện Tam Bảo gia bị”. Vị tăng kia tuân theo lời dạy. Một hôm ông ấy đến chùa Đại Đông, gặp lúc đang gác cây đòn dông ở chánh điện. Ông bèn đứng xem, bỗng nhiên tín tâm phát khởi rồi tự nhủ rằng: “Nếu không có sự tính toán khéo của người thợ thì làm sao cây đòn dông lên đó được?! Người thợ tầm thường còn vậy huống gì sức thiện xảo không thể nghĩ bàn của Như Lai! Mình có cái chí nguyện vãng sinh, Phật có lời thề tiếp dẫn. Vãng sinh Tịnh Độ hẳn nhiên là tương ứng!”
Từ đó không còn tâm nghi ngờ nữa. Sau nầy ông có đến cho tôi biết. Ba năm sau thì được vãng sinh, điềm lành rất nhiều. Bởi thế nên thường cầu nguyện Tam Bảo gia bị.
*** Niệm Phật Tông Yếu – Pháp Nhiên Thượng Nhân ***
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật
Chào quý đạo hữu!
Quả thực như Hương Quang và Diệp Thủy nhận xét: MD thật lẩm cẩm, chưa nắm được kiến thức đơn giản nhất trong Phật pháp. Quý vị nhận xét như vậy là không sai. Chỉ có điều khi quý vị giảng giải về “ngôn thuyết bất định” nhưng rồi lại tự mâu thuẫn với chính mình vì chung quy vẫn là khẳng định: hàng hạ căn không nên treo ảnh Phật trong phòng. Từ đó mới dẫn đến những thắc mắc ngây ngô của MD đây. Với MD không khẳng định, phủ định về việc treo ảnh Phật bởi như lúc đầu MD đã trình bày: đừng đem quan điểm cá nhân (phủ định việc treo ảnh Phật trong phòng) mà gây sự quan ngại cho các hành giả khác. Việc nên hay không nên đều tùy vào từng hành giả, nếu hành giả nào có thể giữ được sự khiêm nhường trước ảnh Phật thì rất nên. Và từ đó nên hay không nên đều phụ thuộc vào sự cố gắng của chúng ta. Tu hành đều cần có sự cố gắng nỗ lực rất nhiều, nếu không nói là khó khổ. Chúng ta đã quen với cuộc sống thường ngày sinh hoạt trong phòng ngủ: ân ái vợ chồng, mặc đồ lõa lồ, nằm ngủ đủ tư thế… Nên không dám treo ảnh Phật vì sợ thất kính; chớ nên nghĩ ai cũng như vậy, rồi phán đoán chung. Hoặc bản thân quý vị đã quen với nếp sinh hoạt ấy thì từ giờ hãy dần sửa đổi- đấy gọi là sự cố gắng.
Treo ảnh Phật trong phòng để làm gì? Sáng thức dậy liền thấy A Di Đà Phật, liền niệm Phật; tối đến ngắm thân tướng oai nghi của Phật, không quên niệm Phật trước khi ngủ; gán A Di Đà Phật lên màn hình điện thoại, khi cần dùng điện thoại thì lập tức có A Di Đà Phật nhắc nhở; đặt hình Phật nơi bàn làm việc, công việc dù bận đến đâu cũng nhìn thất A Di Đà Phật, hoặc có việc không vừa ý, sân si nổi lên, nhìn thấy A Di Đà Phật tâm từ từ mát mẻ; dán A Di Đà Phật lên đầu xe, vừa đi xe vừa niệm Phật; dán A Di Đà Phật lên trụ cửa ngõ, vừa về đến nhà liền có A Di Đà Phật lai nghinh… Đó là những việc làm có lợi cho việc niệm Phật mà MD nghĩ là ai cũng có thể hành được.
MD là người kém hiểu biết, quý vị dùng pháp thoại cao siêu thì MD đành chịu, MD chỉ nói đến những điều đơn giản, mình làm được mới dám nói, làm không được mà chỉ nói đó gọi là lý thuyết suông.
A Di Đà Phật. Mong quý vị lượng thứ.
_()_
@ Mỹ Diệp
Nguyên tắc nói pháp, khế lý khế cơ, ngôn thuyết ko nhất định nhưng luôn dựa vào Tứ y pháp, tam pháp ấn, v.v Mỗi mỗi Phật đều có dạy rõ ràng….Bạn cần phải học thêm nhiều nữa….
@ Huynh Tịnh Thái
Cám ơn huynh nhiều lắm, chúng đệ xin sám hối trước mọi người.
Ở đây, chúng ta ko nên nói chuyện đúng sai nữa mà quý huynh trong Ban biên tập nên ra một hướng dẫn chung nhất. “Là có treo ảnh Phật trong phòng ngủ hay ko?”
Bạn Mỹ Diệp
Bạn không nghe huynh Tịnh Thái nói gì sao?
Tốt nhất bạn hãy lo sám hối cái tâm “đấu tranh kiên cố” mà lo niệm Phật đi nhé!
A DI ĐÀ PHẬT…
Xin chào các sư huynh, sư đệ:
-Về việc treo hình Adidaphat trong phòng ngủ, theo TĐ nghĩ dành cho các vị xuất gia, vì các vị xuất gia phần đông chỉ có giường để ngủ, đôi khi không có phòng thay quần áo trong phòng ngủ (ở nước ngoài) nên việc treo hình Adidaphat không trở ngại với các vị xuất gia.
– Còn các vị cư sĩ tại gia độc thân thì có thể treo hình Adidaphat trong phòng ngủ, vì đôi khi không có phòng thay quần áo trong phòng ngủ, ( nếu có phòng thì cũng thay quần áo trong nhà vệ sinh). Phần đông ở nước ngoài ngủ máy lạnh và máy sưởi. TĐ ở Mỹ ngủ thì mặt quần dài áo thun (đau khớp), lúc trước thì chỉ mặt quần soạt để ngủ. Đôi khi TĐ trước ghi ngủ mở điện thoại di dộng nhìn hình Adidaphat vài phút rồi đi ngủ, tắt phone?
Theo TĐ nghĩ có gì sơ soát các liên hữu góp ý thêm. Nhìn hình Adidaphat để cho mình ghi nhớ trong tâm và niệm Phật, lúc lâm chung thì Adidaphat đến tiếp dẫn giống như hình trong tâm từ lâu mình ghi nhớ? Có phải treo hình Adidaphat như trên, có phải là nhớ Phật, niệm Phật, sẽ gặp Phật? Mong các sư huynh, sư đệ phúc đáp dùm Tịnh Độ, xin chân thành cảm ơn.
A DI ĐÀ PHẬT…
Theo cháu nghĩ thì pháp sư tịnh không giảng cho phàm phu nghe chứ thiệc ra chẳng cho những ng thượng căn. Tuỳ ý của mỗi người mà hiểu khác nhau. Vậy thôi. Nam mô A Di Đà Phật
Mình thấy lời của Bs Hương Quang, Cư sĩ Phước Huệ, Thật Thà Niệm Phật, Nance là thấu tình đạt lý
A di đà phật .
Đọc những dòng sám hối của Huynh Tịnh Thái, GH tự dưng cảm thấy hổ thẹn. Huynh TT chẳng có ý kiến gì về việc ấy cả, mà lại tự đứng ra sám hối để làm gương cho chúng ta thấy, hòng nhắc nhở GH và các bạn đồng tu.
GH mới phải nên sám hối, dầu GH chẳng có ý tranh cãi đều chi, nhưng chính GH là người đầu tiên bình luận về việc kia, khiến nhiều vị đồng tu lại từ đó nêu ra ý kiến thêm, sanh ra đấu tranh. Thật ra, lúc đầu GH bình luận về đều đó, chỉ vì 1 ý duy nhất, đó là sợ những bạn sơ cơ, mới vào chánh pháp, mới bắt đầu học tập, chưa có vững như các bạn khác, chưa nắm rõ lý lẽ thế nào vv đọc thấy bạn nguyên để tượng trong phòng, rồi hùa theo làm như thế, mong là sẽ ”ngũ ngon” như bạn nguyên nói, mà không hiểu rõ ý nghĩa của việc thờ tượng Phật…đâm ra tạo nghiệp bất kính. Nên GH mới trích ra những câu nói của Tổ Ấn Quang để các bạn sơ cơ đọc rồi hiểu phải như thế nào trước Phật thôi. Những lời của GH đều là căn cứ theo ý của Ấn Tổ chứ tự thân GH không hiểu biết chi cả nên không có nói ý của mình.
Ban đầu, ý GH là nói ra lời của Ấn Tổ để những bạn mới phát tâm đọc, chứ không dám nhắc nhở những bạn đã tu học lâu năm, nhưng không ngờ đều đó gây ra sự tranh cãi qua lại. Những bạn sơ cơ cần phải giữ cung kính từ ban đầu, rồi sau đó nếu họ đã vững chắc như các sư Huynh khác, thì có thể hành theo sự hiểu biết của riêng họ. Trang này chủ yếu là các bạn sơ cơ đặt câu hỏi, nên phải nói sao cho các bạn ấy lợi lạc, bắt đầu đi vào đường tu cho đúng cách, chứ những bạn đã ‘giỏi’ rồi thì tâm tự biết, chứ việc gì phải tranh phần thắng, nói rằng có thể treo hình tượng trong phòng được vì như tôi, đối trước tượng tôi giữ đc sự cung kính vv…
Bởi vì chưa chắc các bạn mới học tu mà giữ đc tâm niệm, hoặc hành vi đều cung kính trước thánh tượng như các bạn tu học lâu năm. Chúng ta phải nên sợ những bạn mới phát tâm bắt chước theo các bạn không nổi mà sanh thêm tội chứ phải không?
Thí như tất cả chúng ta không thể bắt chước Tế Phật ăn thịt uống rượu, vì Ngài làm thế không tội, nhưng chúng ta làm thì….có tội. Cũng vậy, những bạn nào tự tin rằng để thánh tượng trong phòng mà vẫn có thể giữ tâm như Ấn Tổ dạy thì tốt thôi, như thế thì không có tội. GH tùy hỷ tán thán công đức của bạn ấy. Nhưng nếu làm đc thế thì tâm tự biết là đc, chứ còn trang này là đa số các bạn sơ cơ lên hỏi, và học từ đây, nên không thể nào không nhắc nhở họ là phải bắt đầu bằng sự cung kính mà đi lên.
Khi bạn nguyên nói đều ấy không ai phúc đáp nói gì cả, nhưng sau khi GH nói về việc đặt tượng Phật sau đó lại thu hút nhiều ý kiến khác nhau như thế. Tất cả đều bởi do GH, xin cho GH sám hối. Nếu biết trước sẽ gây ra sự tranh cãi nhiều ngày thì chắc GH không đem đề tài ấy ra nói vậy.
A di đà phật .
A DI ĐÀ PHẬT
Gửi quý Đạo hữu, liên hữu kính mến,
*TN quan sát suốt mấy tuần qua về việc treo hình Phật như thế nào cho đúng? và nhận thấy dường như chúng ta chỉ chú ý về văn tự trong các bài giảng của HT Tịnh Không mà không chịu đào sâu suy nghĩ những lời giảng, những lời nhắn nhủ của Hoà Thượng dành cho chúng ta. Đó là điều thật đáng tiếc khi chúng ta muốn học Phật và học Pháp của Phật. Cũng vì lý do bám chấp vào văn tự nên chúng ta mải mê tranh biện về sự sai-đúng. Phật pháp là pháp phương tiện, vì là phương tiện nên chẳng có sai-đúng, mà tuỳ theo căn cơ, chủng nghiệp của mỗi chúng sanh mà Phật chế phương tiện cho phù hợp. Mỗi mỗi người trong chúng ta phải nắm thật vững cái lý này, bằng không sẽ rơi vào tình trạng cang cường tranh đấu trong Phật pháp.
*Phật dạy pháp của Phật giống như vị cam lồ nhưng cũng sẽ là thuốc độc. Cam lồ nếu biết dụng đúng pháp. Thuốc độc nếu dụng sai pháp.
*Việc treo ảnh Phật trong phòng ngủ về lý và sự đều không nên, bởi chiếu xét tâm phàm phu thì cho dù chúng ta có giữ giới và muốn giữ giới thanh tịnh chăng nữa thì người bạn đời của chúng ta chưa chắc đã giữ chọn, ngược lại nếu cả hai đều trọn giới thanh tịnh thì không có vấn đề. Do vậy nếu chúng ta ráng gượng ép mình phải treo tôn ảnh Phật trong phòng ngủ, đồng nghĩa chúng ta đang tự làm khó chính mình, đã ép pháp và làm khó cho cả người bạn đời của mình.
TN thấy có một tôn ảnh Phật dễ nhớ nhất, thời thời, khắc khắc đều có thể chiêm nhớ đến đó là hồng danh: A DI ĐÀ PHẬT! Điều này TN cũng đã chia sẻ khá nhiều rồi, bởi chúng ta phát tín-nguyện-hạnh không gì khác hơn là luôn thường noi theo lời giáo huấn của Phật: bỏ ác, hành thiện. Làm được rốt ráo chính là chúng ta đang niệm Phật. Phật là Giác. Phật là phá phiền não. Hàng ngày chúng ta niệm Phật mà tâm không giác, tâm vẫn chứa chất đầy phiền não thì cho dù chúng ta đang đứng trước Phật A DI ĐÀ chăng nữa, đó cũng chỉ là kết duyên pháp Phật.
*TN khẩn mong quý đạo hữu, quý liên hữu hãy thật cẩn trọng khi trích dẫn pháp và những lời khai thị của Phật, chư Tổ, và ngay cả của HT Tịnh Không. Lý do? Phải tuỳ thời, tuỳ căn cơ, tuỳ chủng nghiệp của mỗi người mà tác pháp, bằng không sẽ có tác dụng ngược, bởi người mới học pháp sẽ bị lạc vào một rừng kiến thức Phật pháp rồi bị kẹt cứng trong đó mà không biết lối ra. Chúng ta phải thực sự loại bỏ ý niệm: chỉ cần tác pháp cho người khác là có công đức. Đó là sai lầm, bởi công đức phải tự mình tu hành, trì giới thanh tịnh mới có được, còn việc giới thiệu pháp không đúng thời, không đúng chủng căn của chúng sanh sẽ tạo nghiệp cho chúng sanh chứ không phải chuyện: ai hiểu thì tốt, không hiểu thì thôi như chúng ta thường nghĩ.
*Pháp của HT Tịnh Không không phải ai cũng học được, nghe được và hiểu được. Từ nghe đến hiểu là một giai đoạn; từ hiểu đến giác là một giai đoạn nữa; từ giác đến hành và hành đúng pháp lại là giai đoạn kế tiếp và quan trọng hơn cả. Vì thế mong quý đạo hữu luôn khởi tâm từ bi: nếu nhất thiết phải trích dẫn pháp của Ngài thì chỉ nên trích từng đoạn thích hợp với câu hỏi và nên có lời giải thích cặn kẽ để tránh trình trạng người hỏi, người đáp bị lạc, rối trong pháp.
*TN là người mạng căn kém cỏi, nghiệp chướng sâu nặng, vì thế nguyện những tháng ngày còn lại của cuộc đời, nơi nơi lúc lúc, thuận cũng như nghịch đều ráng nương vào 4 chữ A DI ĐÀ PHẬT, nói cách khác A DI ĐÀ PHẬT làm pháp phương tiện, là chiếc BÈ LỚN cứu mạng để chuyển khổ thành vui. TN cũng rất mong các đạo hữu, liên hữu đồng nguyện phát tâm thanh tịnh nương vào chiếc BÈ LỚN mà Phật Thích Ca đã tạo dựng sẵn này rồi hàng ngày tận tâm, tận sức mà chèo chống để về bến giác.
Được thế thật là hạnh phúc cho mỗi người.
TN
Gửi các liên hữu một đoạn trích từ Đường Về Cực Lạc, xuất bản ngày 07/09/2011, bài “Thiện Diệu”, trang 355-356:
ThIện Diệu Đại Sư, người Lâm Tuy, từng vào trước Đại Tạng Kinh chí thành rút lấy một tập, nhằm quyển “Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh”. Từ đó trở đi, Đại Sư chuyên tâm niệm Phật, tu thập lục diệu quán […] Khi ẩn ở núi Chung Nam tu Bát Chu Tam Muội vài năm, cảm bửu lâm bửu trì luôn hiện trước mặt. Rồi Đại Sư qua Tấn Dương học Vô Lượng Thọ Kinh nơi Đạo Xước Thiền Sư. Thường khi Đại Sư nhập định bảy ngày mới xuất. Đạo Xước Thiền Sư thỉnh xem chỗ sanh của mình. Đại Sư bảo rằng: “Thiền Sư phải SÁM HỐI ba tội mới được vãng sanh. THIỀN SƯ TỪNG ĐỂ TƯỢNG PHẬT BÊN CỬA SỔ CÒN MÌNH THỜI TỰ Ở GIỮA NHÀ, đây là tội thứ nhất, phải đối Phật mà sám hối. Sư lại thường sai khiến người xuất gia, đây là tội thứ hai, phải đối chư tăng mà sám hối. Lại vì xây dựng nhà cửa làm tổn hại nhiều côn trùng, đây là tội thứ ba, phải đối tất cả chúng sanh mà sám hối”. Xước thiền sư nghe xong bèn tự xét nhớ kỹ lại những lỗi của mình, rồi chí tâm sám hối. Ít lâu sau, một hôm xuất định. Đại Sư bảo Xước thiền sư rằng: “Sư đã sạch tội. Ngày sau, bao giờ có bạch quan chiếu đến đó là triệu chứng vãng sanh”.
Gửi MD: Hình ảnh Phật đề nghị không nên dán bất cứ nơi nào, nhất là trên trụ cửa ngõ. Liên hữu hãy xét lại câu: “Dán A Di Đà Phật trên trụ cửa ngõ, vừa về đến nhà liền có A Di Đà Phật lai nghinh…”. Khi đã đi đứng nằm ngồi niệm Phật được thì không cần thiết phải có hình ảnh Phật mọi lúc mọi nơi. Xin thông cảm nếu lời góp ý của tôi làm liên hữu không hài lòng. A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật
Nhân dịp năm mới HÂ xin trân trọng kính chào toàn thể các liên hữu trên trang ĐVCT. HÂ xin gửi lời sám hối chân thành tới các LH vì có nhiều phúc đáp trên này HÂ không đủ duyên để trả lời. Nếu HÂ trả lời có lẽ chỉ là bạn đúng, A Di Đà Phật; bạn cũng đúng, A Di Đà Phật…HÂ thật sự không muốn cãi lý đối với một bài pháp của một vị Pháp sư đã đại triệt đại ngộ, thông suốt kinh giáo. Lời của Ngài là từ chân tánh lưu xuất ra nên cái thấy đó là cái thấy chân thực còn cái thấy của HÂ, câu trả lời cũng vậy là từ cái tâm ý thức phân biệt, chấp trước lưu xuất ra hoặc cũng chỉ là copy và paste nên không đáng tin. HÂ cũng không có ý gì về phúc đáp của các LH. Theo HÂ thì không nên đưa ra câu hỏi nên hay không nên …nữa, tùy tâm mỗi người mà có cách hiểu và áp dụng như thế nào vậy.
Bây giờ ngoài cửa hoa đào, hoa mai đang buông cánh xuống thềm nhà. Mùa xuân trong cái nhìn của Phật giáo gọi là mùa xuân Di Lặc do nét mặt tươi cười của Ngài đầy vẻ từ bi hỷ xả.
Trân trọng kính chào. Nam mô A Di Đà Phật.
Kính gửi quý Liên hữu đồng tu đoạn kinh Thuỷ sám này để biết mình cần phải làm gì. Không luận là người xuất gia hay tại gia đều phải tuân thủ, xem như là GIỚI LUẬT bắt buột của nhà Phật.
“Đọan 2: Sám Hối Ác Nghiệp Đối Với Phật Bảo
Đệ tử chúng con kể từ vô thỉ cho đến ngày nay, thường bị vô minh che mất tâm trí, phối hợp phiền não khuất mờ tâm tư, đến nỗi thấy được tôn tượng của Phật mà cũng không biết hết lòng kính ngưỡng; khinh miệt tăng chúng, tác hại thiện hữu; phá tháp phá chùa, đốt kinh đốt tượng, đến nỗi làm cho thân Phật rỉ máu. Lại còn có kẻ thân mình thì ở phòng ốc hoa lệ, còn tượng tôn nghiêm để chỗ thấp xấu, khói xông nắng táp, gió lộng mưa xoang, bụi đóng đất dính, chim phá chuột gặm. CŨNG CÓ NHỮNG KẺ ĐẶT TƯỢNG TÔN NGHIÊM NGAY TRONG PHÒNG MÌNH, Ở ĐÃ Ở ĐÓ, NGỦ CŨNG Ở ĐÓ, KHÔNG BIẾT TÔN TRỌNG. Có lúc khỏa thân ngang qua trước tượng, cũng không lưu tâm ăn mặc nghiêm chỉnh. Che đèn ngăn nến, đóng chùa bít điện, làm mất ánh sáng nơi tôn tượng Phật. Tội lỗi như vậy, ngày nay chúng con chí thành phát lộ, sám hối tất cả.”
Lành thay 🙂
Lâu quá mới thấy lại bộ thủy sám này.
“Những tội lỗi như vậy, ngày nay chúng con chí thành phát lộ, sám hối tất cả.”
Bạn Gia Hữu thân mến
Bộ Thuỷ Sám này cùng với Lương Hoàng Sám là hai bộ kinh sám quan trọng nhất của hàng xuất gia. Vì vậy mới biết rằng mọi sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày của người đệ tử Phật, kể cả xuất gia và tại gia, đều có phép tắc oai nghi được quy định rõ ràng trong các bộ Luật nghi hay Kinh Sám của nhà Phật.
Sách Sa di luật tắc cấm hàng Xuất gia mang đồ trang sức trong người, lại cấm mang ảnh tượng Phật đến nhà xí. Điều này đồng nghĩa với việc cấm mang ảnh Phật trong người.
Kinh Thuỷ sán cấm treo ảnh/ tượng Phật trong phòng ngủ lại xem hành vi ấy là “ác nghiệp đối với Phật bảo”.
Chúng ta ngày nay học Phật phải lấy Giới Luật làm Thầy.
Điều này nếu ko biết thì tội còn nhẹ, còn nếu đã biết rồi mà còn cố phạm thì tội lỗi chắc chắn sẽ rất nặng nề.
Hàng xuất gia sống đạm bạc thanh tịnh, oai nghi tế hạnh còn bị Luật cấm huống gì là hàng tại gia ư
”Điều này nếu ko biết thì tội còn nhẹ, còn nếu đã biết rồi mà còn cố phạm thì tội lỗi chắc chắn sẽ rất nặng nề.”
Huynh MT có hiểu lầm gì GH không..? Nếu huynh đọc lại những comments trên thì GH luôn phản đối việc bất kính đặt ảnh tượng Phật trong phòng ngủ, nên tự thân GH đương nhiên không và cũng chưa bao giờ tạo một ác nghiệp như vậy cả. Câu sám hối kia chỉ là GH trích lại từ đoạn sám ở trên thôi 🙂
Kính,
GH
Minh Thành luôn đồng quan điểm với bạn.
Nay nêu tên của bạn ra để ngầm chỉ ra rằng pháp của Phật chỉ có thể độ người hữu duyên nhưng lại vẫn rất có ích cho người nhân duyên phước đức chưa hội đủ, vì biết đâu nhờ sự trao đổi này lại chính là cơ duyên hữu ích cho vô số quý bạn đồng học khác.
Xin cám ơn sự thẳn thắn và rất hợp tình hợp lý của bạn Gia Hữu. 🙂
TẠO TƯỢNG PHẬT CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN
Mỗi một ý niệm, mỗi một hành động dù là nhỏ nhất hướng đến Phật, Bồ Tát đều đem đến cho ta phước báu vô lượng hoặc quả báo vô lượng khổ, vì các ngài là đấng tối tôn, tối thượng của vũ trụ pháp giới, là đấng vĩ đại của những đấng vĩ đại. Sinh vào thời mạt Pháp, chúng ta không có may mắn được gặp Phật với kim thân sáng chói, uy nghiêm rực rỡ, chính vì thế bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu niềm tôn kính ta chỉ có thể dâng lên Đức Phật cùng các vị Đại Bồ Tát thông qua hình – tượng Phật và Bồ Tát.
Mặc dù không phải Phật, nhưng hình – tượng Phật chính là đại diện của Phật trên thế gian này, là cầu nối giao cảm để chúng ta dâng kính lên Đấng Từ Phụ những điều tốt đẹp nhất. Vì lẽ đó, mọi phước báo, quả báo liên quan đến hình tượng Phật – Bồ Tát đều được nhân lên gấp bội bội lần, hoặc phước vô lượng, hoặc tội khủng khiếp.
Phúc đức thay cho những ai đã -đang và sẽ tôn tạo,đúc tạc, tô vẽ, trang nghiêm hình Phật, tượng Phật. Đáng thương thay cho những ai xúc phạm, bôi nhọ, phá hủy hình – tượng Phật dù cho là một hình Phật nhỏ nhất .
Điều đáng buồn là hiện nay xã hội đang vô tình xúc phạm đến hình Phật một cách vô tư, ngay cả trong những hàng đệ tử Phật. Việc gì ư?
Người ta đem hình Phật- Bồ Tát in trên những lọ dầu, lọ chao hay hộp nhang, nến .v.v…sau khi dùng xong liền quăng bỏ vào thùng rác bẩn thỉu, hay ném dưới mặt đất cho người , súc vật trà đạp lên. Thật mọi người không hiểu hết được đó là tội phỉ báng Phật, quả báo khôn lường.
Hay có người lại in hình Phật – Bồ Tát dán lên xe như thứ đồ trang trí, như một loại ” bùa ” , hay đeo những trang sức hình Phật rồi đi vào nơi ô uế như nhà vệ sinh, và làm những điều dâm dục trước hình Phật đeo trên người đó. Hoặc lập bàn thờ trong nhà , nhưng ngay dưới bàn thờ, mọi người thoải mái cởi trần, ăn nhậu, chửi bới, thậm chí hành dâm trước bàn thờ một cách hồn nhiên…
Mỗi mõi hành vi tưởng như vô hại đó đều khiến ta tổn phước ghê gớm nếu không muốn nói là vô cùng tội. Xin mọi người hãy nhớ, hình – tượng Phật, Bồ Tát chỉ có thể để nơi trang nghiêm để thờ phụng, để lễ lạy. Phải tôn kính hình- tượng Phật, Bồ Tát giống như đang đứng trước một vị Phật sống, Bồ Tát sống vậy, làm trái đi điều này là tự gieo quả báo khổ đau cho mình.
Ngược lại, những ai thấy hình – tượng Phật bị quăng bỏ, bị xúc phạm, bị phá hủy mà ngăn cản , hay đem hình – tượng Phật đó về tu sửa , thờ phượng, hay chí ít thì cũng lấy tâm cung kính mà rửa sạch, sau đó đốt rồi đem tro rải nơi sông suối hay biển cả. Làm như thế ta sẽ được phước báo to lớn không ngờ.
Phước báo của việc tôn tạo, tô vẽ, sửa sang hình tượng Phật , Bồ Tát :
– Thân tướng trang nghiêm , đẹp đẽ
– Thân thể khỏe mạnh, bệnh tật tiêu trừ
– Giải trừ tai ách, khổ nạn
– Được thành tựu điều mình mong cầu
– Được thần linh bảo trợ và vô số phúc lành khác
– Đạo hạnh tăng trưởng đến vô lượng, cuối cùng sẽ thành Phật.
Ngược lại là những quả báo của việc hủy báng, phá hoại hình , tượng Phật và Bồ Tát :
– Quỷ thần trừng phạt tức khắc
– Gia đạo suy vong, khổ đau, tai ách, bệnh tật liên tiếp kéo tới
– Đọa địa ngục chịu vô lượng khổ
– Tái sinh làm ngạ quỷ, súc sinh hoặc người hèn hạ, tàn tật…
Xin được kể ra đây một số câu truyện liên quan đến phước báu của việc tôn tạo cũng như quả báo của việc hủy báng hình- tượng Phật và Bồ Tát.
Xin mọi người cũng lưu tâm điều này, khi ta tạo tội đối với hình- tượng Phật mà chịu sự báo ứng, đó chẳng phải sự trả thù của Phật , ngài là đấng Từ bi đâu bao giờ muốn gieo khổ đau cho chúng sinh, mà đó là do sự trừng phạt của luật Nhân quả. Luật Nhân quả này là vô tư, công minh tuyệt đối, sự trừng phạt của luật Nhân quả không gì làm sai khác đi được, vì thế không nên vô cớ trách Phật – Bồ Tát mà gây nghiệp xấu.
DÁT VÀNG TRANG NGHIÊM TƯỢNG PHẬT, LỬA NHẢY QUA KHỎI NHÀ
[Trích sách ” Những chuyện niệm Phật cảm ứng]
Sư tỷ Khoan Kim là một thành viên ban niệm Phật ở Đài Trung, Đài Loan, là người có đầy đủ căn lành từ kiếp trước, từ lúc mất con, quá đau buồn, liền tính kế dời chỗ ở, thay đổi hoàn cảnh, cho nên mười tám năm trước, lưu con trai trưởng ở lại quê, quản lý tài sản, mình thì dẫn đứa con thứ ba là Tấn Truyền dời đến ở xứ Hạn Khê ở Đài Trung, mướn nhà ở. Hai mẹ con nương nhau mà sống, tự lực cánh sinh, đến một nhà máy giày dép cao su làm thuê để sống, không bao lâu liền cùng với những vị liên hữu của vùng Hạn Khê, mỗi thứ hai cùng đến liên xã niệm Phật, thứ bảy cũng đến liên xã nghe kinh, làm một vị đệ tử Tam Bảo rất cung kính.
Có một hôm vào buổi chiều, sư tỷ từ nhà máy đi về nhà. Trên đường đi ngang qua cửa nhà của một cô gái ở vùng đó tên là Kê Thỉ, nhìn thấy đứa con nhỏ của cô ta trong tay cầm một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát chơi dưới đất. Sư tỷ nhìn thấy, rất không nhẫn tâm, lập tức tìm mẹ nó nói: “Kê Thỉ, cô không nên tạo tội, tại sao lại để con nít giỡn chơi Thánh tượng Bồ Tát như thế? Như vậy sẽ tạo ra tội nghiệp rất lớn!”. Kê Thỉ liền đó trả lời sư tỷ rằng: “Đây là tượng mà mẹ chồng tôi hồi còn sống thờ cúng, tôi là người không có tin và lạy khúc gỗ đó đâu, tôi không cần, bà cần thì bà lấy đi là được rồi”. Sư tỷ Khoan Kim hớn hở ra mặt, thỉnh qua xem thì là một tượng Bồ Tát cao sáu, bảy tấc (Tàu) khắc bằng cây, mặt mũi đã hư hết, liền thỉnh tượng đó đến cửa hàng làm tượng Phật, dùng hơn 100 đồng dát vàng cho tượng Bồ Tát, rồi an vị trong nhà thờ cúng, sớm tối lễ bái cung kính, xưng niệm Thánh hiệu Bồ Tát, thật là pháp hỷ sung mãn, tâm không rời Phật, Phật không rời tâm. Tôi liền hỏi thêm sư tỷ: “Còn người nữ không có căn lành kia hiện thế nào rồi?”. Sư tỷ nói: “Tội nghiệp người nữ tên hợp với đời thực này (Kê Thỉ tức là cứt gà) không bao lâu của cải tán thất, người không biết hiện giờ dời đi ở xứ nào rồi?”. Tôi nghĩ: Đây là một sự thật do vì ngu si không biết mà tạo nghiệp, nên chịu lấy ác báo.
Qua hơn một năm, một hôm lúc sư tỷ làm việc ở công xưởng, bỗng có một người hớt hải đến nói rằng: “Bà ơi, Bà! nhà gần bên nhà của bà bị cháy, hiện lửa lớn đang cháy lan sắp sửa cháy nhà của bà rồi”. Sư tỷ vừa nghe thật là hồn phi phách tán, vội vã chạy về nhà, trên đường bị té một cái, vừa bò dậy lại bị té nữa nhưng trong miệng của bà vẫn cứ niệm riết “Quán Thế Âm Bồ Tát”, thầm khấn Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, may sao gặp một người đàn ông chạy xe đạp, xem thấy bà đáng thương như thế, hỏi rõ tình hình, liền dùng xe đạp chở đưa sư tỷ về nhà. Vừa đến nhà vừa xem thật là không thể ngờ, tại sao lửa biết nhảy qua khỏi nhà mình? Những nhà bên trái, bên phải đều bị lửa cháy thành tro, mà nhà của mình chính giữa lại còn nguyên? Nhiều người xúm lại chúc phúc cho sư tỷ, nói nhờ sư tỷ cung kính lạy Phật, Bồ Tát mà được cảm ứng. Điều kỳ lạ nhứt là mọi người đều nói: “Cửa của nhà bà khóa lại, tại sao lại có khói trắng thơm phức từng lọn từng lọn bay ra từ trong khe cửa, mọi người chúng tôi từ sanh ra đến giờ đều chưa từng ngửi qua mùi thơm nào như thế”. Sư tỷ nói: “Đây nhứt định là kỳ tích của Quán Thế Âm Bồ Tát hiển thị”. Câu chuyện trên đây là một trong những chuyện cảm ứng mà sư tỷ Khoan Kim do niệm Phật được chuyển nghiệp.
HỦY BÁNG TƯỢNG PHẬT _ SINH CON MẶT QUỶ
(Trích từ Báo ứng hiện đời – Quả Khanh )
Một người mở một tòa soạn báo nhỏ ở Thái Lan tên là Từ Ô Mục, ai cũng gọi anh là “anh Mục”. Anh Mục là chủ tòa báo, tự mình đảm trách việc biên tập, phóng viên, in ấn, phát hành và quảng cáo. Tình trạng này thường gặp ở Thái Lan bởi vì các tờ báo mỗi tháng chỉ phát hành hai lần, cùng với ngày Nhà nước xổ số. Anh Mục là người rất nhiệt tình dốc tâm vì lợi ích của xã hội mà phục vụ nên được mọi người quý mến, thậm chí được sự tín nhiệm của nhân viên Nhà Nước, vì thế lần ra báo nào cũng đảm bảo số lượng nhiều.
Có một năm, thị trấn mà anh Mục đang sống có một ngôi chùa Phật, chủ trì và hòa thượng trong chùa quyết định xây một bức tượng cao lớn hướng ra ngoài trời. Nhân dân trong thành ai ấy đều góp tiền góp của, hy vọng bức tượng ấy sớm được hoàn thành. Lúc đó anh Mục, ông chủ tòa soạn nổi tiếng, không biết vì lý do gì mà đột nhiên đề lên mấy chữ công kích, huỷ báng chùa Phật, coi bức tượng Phật lớn ấy là bức tượng ma, tiếng Thái phát âm là “rơ sưa”.
“Rơ sưa” không hoàn toàn có ý nghĩa là tà quỷ yêu ma, mà nó còn có ý nghĩa là lớn, cao to đến nỗi không thể tả xiết, ở chùa người ta gọi là ma quỷ, ma có Phật ma ở trước cổng chùa, cứ thế huỷ báng chùa. Mọi người nghe nói đều cho là xây tượng ma. Đây là một thái độ bất kính. Thậm chí tờ báo còn nói rõ: Sau sự kiện xây tượng ma, mọi người phải đề phòng thiên tai, địch họa. Sự kiện này càng khiến cho chủ trì cùng các tín đồ Phật giáo phẫn nộ, không hiểu đã kết oán gì mà huỷ báng Phật tồi tệ như thế.
Ngôi chùa vốn được xây trên núi hoàn toàn không quyên góp bên ngoài, chỉ có những tín đồ tự nguyện quyên tiền trợ giúp. Trước đây nhà chùa cùng với tòa soạn chưa hề có mâu thuẫn gì, vả lại anh Mục và chủ trì đã từng biết nhau nhưng lần này xây tượng Phật, anh không những không ủng hộ mà còn huỷ báng công kích, luôn miệng nói rằng tượng Phật là hạo kiếp của thời mạt kiếp. Điều đó làm náo động toàn phủ khiến cho mọi người đều cho là chùa đang xây tượng ma.
Việc anh huỷ báng quá đáng như thế khiến cho mối quan hệ giữa anh và chùa Phật có một sự rạn nứt. Trong chùa có vị Bồ đại sư, vốn là vị cao tăng nhẫn nhục thâm hậu, lúc đầu còn mỉm cười thờ ơ trước sự huỷ báng của tòa soạn. Nhưng sau đó tất cả những tín đồ Phật giáo đều cho là tòa soạn hiếp người quá đáng, ỷ thế lực hiếp đáp Phật Tổ, huỷ báng Thánh Hiền, liền đến yêu cầu chủ trì kiện cáo tòa soạn vì tội miễu thị Phật giáo, khinh thường người xuất gia.
Lão hòa thượng lên tận tòa án để kiện tổng biên tập. Tin tức này nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh thành, tòa báo vốn truy tìm tin tức mới thì giờ đây chính nó lại trở thành tin tức nóng bổng khiến cho mọi người phải quan tâm. Ở các quán trà tiệm rượu, mọi người đều bàn tán xôn xao, ai cũng coi việc này rất lạ làm náo động cả thành, thậm chí có người dùng nó để đánh cuộc xem ai thắng trong vụ kiện. Người khác thì cho là lão hòa thượng đại biểu Phật Tổ, quan tòa sẽ đứng về phía hòa thượng, bởi lẽ đất Thái là đất Phật; cũng có người nghĩ anh Mục quyền cao chức trọng, quan tòa sẽ bênh vực, vả lại anh Mục trước khi trở thành biên tập cũng xuất thân từ nghề luật sư.
Lão hòa thượng hoàn toàn không có luật sư biện hộ, ông phải trình đơn kiện để quan tòa tham khảo. Vì Viện Kiểm Sát và quan tòa vô cùng kính trọng lão hòa thượng, đồng thời cũng là bạn giao hữu với anh Mục nên có ý muốn giải hòa. Một bên là hòa thượng, một bên là danh nhân. Cả hai đều được mọi người kính trọng khiến quan tòa thật khó xử, liền mời hai vị đến công đường đối chất.
Anh Mục tuy đã làm nghề luật sư nhưng lần này vẫn phải mời một vị luật sư danh tiếng để biện hộ. Vào ngày ra tòa ai nấy đều đứng ở trước xem, đông nghẹt đến nổi phá kỷ lục cao nhất từ khi mở tòa đến nay, họ phải xếp hàng ở trước hành lang để xem.
Viện kiểm sát sau khi đọc tờ báo và đơn kiện tụng của hòa thượng, liền hỏi luật sư của bị cáo có điều gì để biện hộ không? Luật sư bị cáo hoàn toàn nắm rõ vụ kiện liền giải thích một cách khéo léo rằng: chữ “ma” (tiếng Thái gọi là “rơ sưa”) là để chỉ tượng Phật lớn chứ không có nghĩa là “ma quỷ” như trong tiếng Anh vậy. Báo chí nói ở đây là xây dựng tượng Phật lớn, cả thành phố sắp gặp họa kiếp, tất cả đều là ý tốt. Nếu như nền móng và tượng Phật xây không được kiên cố thì sẽ gặp tai họa, dân trong thành sẽ bị thiệt hại, đó cũng đều là ý tốt muốn chùa cảnh giác, cẩn thận. Một trận cuồng phong bão táp như thế, vậy mà chỉ bằng những lời hay ý đẹp đã dập tắt lòng hận thù bốc lửa giữa họ. Quan tòa chờ hai bên hòa giải, bảo anh Mục xin lỗi hòa thượng đồng thời nói với hòa thượng vì lòng từ bi của Phật Tổ mà rộng lòng tha thứ. Lúc đầu hòa thượng còn chút cố chấp nhưng sau đó vì lòng hữu nghị và sự khuyên giải của xã hội mà bỏ qua chuyện này.
Câu chuyện giữa anh Mục và hòa thượng trải qua một trận tranh cãi quyết liệt, cuối cùng cũng kết thúc, làm cho một số người thất vọng.
Nhưng câu chuyện không dừng kại ở đó mà nó được tiếp diễn bằng một sự việc kì lạ, khiến mọi người ai nấy đều kinh ngạc.
Anh Mục và người vợ cùng tuổi (39 tuổi) có hai đứa bé trai và một bé gái. Nhưng điều kỳ lạ đã xảy ra, vợ anh lại sinh ra một đứa bé trai sáu ngón.
Việc nuôi con, sinh con là trách nhiệm của hai vợ chồng. Tuy cách mười năm mới mang thai có chút e ngại nhưng vẫn là lẽ thường vì tuổi tác của họ vẫn còn trẻ. Chỉ có điều là chuyện lạ đã xảy ra: Tuy sản phụ và thai nhi đều bình an vô sự, bé trai đều bình thường khoẻ mạnh, nhưng có ba vết nhăn trên trán, hai hàng lông mày đỏ nhô ra phía trước, khuôn mặt dẹp dẹp vuông vuông cùng với cái miệng to tướng trông giống hệt như một con quỷ, nhìn kỹ càng giống với con quỷ phía sau chùa. Y tá hộ sinh giật mình đến tái cả mặt. Tất cả bác sĩ, y tá đều vây xung quanh nhìn, mọi người đều không thể tin rằng con người lại có thể sinh ra đứa thai nhi như thế, đáng lẽ phải xuất thân từ ma quỷ. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, cuối cùng cũng phải đem về nuôi.
Nghe tin vợ anh Mục sinh ra một quái thai, đã chấn động cả bệnh viện và lan truyền ra ngoài, ai nấy đều đến xem, xem xong lại bàn luận, truy tìm căn nguyên. Căn nguyên chính là chỗ: Mấy năm trước, anh Mục đã dùng ngòi bút sắc bén huỷ báng tượng Phật, coi đó là xây tượng ma, lão hòa thượng cũng không có cách giải quyết. Tuy thời gian trôi qua đã lâu nhưng ma quỷ cứ theo sát anh, đầu thai vào nhà anh. Mỗi ngày đều có hàng ngàn người đến xem, náo loạn khiến cho hai vợ chồng tinh thần sa sút, đau khổ cực độ, chỉ muốn dọn nhà đi nơi khác. Nhưng dọn nhà không bao lâu lại có người biết đến, lại đến xem. Thậm chí các chương trình truyền hình quốc tế cũng muốn đến để quay phim chụp hình.
Đứa bé mỗi ngày một lớn khôn, cái miệng to tướng và một cặp lông mày đỏ ngày một hiện lên giống hệt như quỷ, nhưng kỳ dị thay răng của em ngày một nhọn hoắc trước tiên là răng nanh, dài đến tận môi. Trước tình cảnh ấy, anh Mục không thể không thừa nhận nhân quả báo ứng của mình, mấy lần muốn đầu độc chết con nhưng sau đó nghĩ lại dù sao đi chăng nữa cũng là máu mủ ruột thịt, chỉ biết dọn nhà tới, dọn nhà lui. Sau đó được một bác sĩ hoàng gia tiếp nhận điều trị phẫu thuật, đã cắt bỏ hai chiếc răng nanh nhọn nhưng vẫn không thể nào làm mất đi vết sẹo và cái miệng to ấy.
Hủy báng Tam bảo là tội lỗi vô cùng. Đây chỉ là hoa báo, hậu báo còn đáng sợ hơn nữa là địa ngục vô gián bao giờ thoát khỏi đây. Cần phải sám hối nhiều mới may ra chuộc lại lỗi lầm. A Di Đà Phật, chỉ vì chúng ta không tin Nhân Quả báo ứng nên hàng ngày Thân, khẩu, ý khởi lên toàn niệm tự tư tự lợi thật quá đáng sợ!
Chúng ta tu học cần phải phản tỉnh hàng ngày tâm niệm của chính mình.
PHƯỚC LÀNH & SỰ CẢM ỨNG KHI TÔN TẠO TƯỢNG PHẬT
Trích: Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược Lục
Việt dịch: HT. Thích Thiền Diệu
Thích Huệ Cảnh, người Truy Châu, xuất gia tu ở chùa Ngộ Chân. Sau khi thế phát, Sư gắng công khai giới khổ hạnh. Lòng mến cảnh Tịnh độ, Sư tạo hai tượng Thích ca và Di đà, hằng lễ bái cúng dường.
Đến lúc sáu mươi bảy tuổi, ngày rằm tháng giêng, Huệ Cảnh nằm mộng thấy một vị Sa môn thân sắc vàng ròng, bảo rằng:
– Ngươi muốn thấy Phật và cảnh Tịnh độ chăng?
Đáp:
– Thưa, từ lâu tôi rất ước mong được chiêm ngưỡng!
Sa môn trao bát cho và bảo:
– Hãy nhìn vào trong bát!
Huệ Cảnh tiếp lấy và nhìn vào, bỗng như lạc đến cõi khác, thấy cảnh Tịnh độ rộng rãi trang nghiêm, các thứ báu đẹp lạ. Đất toàn bằng vàng ròng, đường sá có dây vàng làm ranh giới. Cung điện lầu các trùng điệp không cùng tận, trong đó các thiên đồng vui vẻ nhàn du. Chúng Bồ tát, Thanh văn đông như mây, rộng như biển, hội lại vây quanh đức Thế Tôn nghe thuyết pháp.
Lúc đó, Huệ Cảnh thấy vị Sa môn đi trước, mình nối gót theo sau, lần tới chỗ Phật. Đến nơi, vị Sa môn bỗng biến mất. Huệ Cảnh chắp tay đứng trước kim dung, bỗng nghe Phật hỏi:
– Ngươi có biết vị Sa môn dẫn đường đó chăng?
Đáp:
– Bạch Thế Tôn! Con không được biết.
Đấng Từ Tôn bảo:
– Đó là Phật Thích ca Mâu ni, còn ta là Phật A di đà, hai vị mà người đã tạo tượng. Phật Thích ca như ông cha, ta như bà mẹ, chúng sinh ở thế giới Ta bà như con khờ dại thơ ngây, lầm rớt xuống bùn lầy. Cha vào nơi bùn sâu bồng con lên, để trên bờ cao ráo sạch sẽ, mẹ lại ôm con nuôi nấng, dạy bảo đừng nên trở lại chốn bùn nhơ. Chúng ta cũng như thế. Phật Thích ca dạy dỗ chúng sinh mê tối trược ác ở cõi Ta bà, làm vị mở đường dẫn lối về nơi Tịnh độ. Còn ta ở cõi Tịnh độ còn bổn phận nhiếp hóa, khiến cho các chúng sinh ấy không còn luân hồi thối chuyển.
Huệ Cảnh nghe nói vui mừng khấp khởi, muốn đến gần tham bái đức Thế Tôn, nhưng cảnh tượng bỗng biến mất.
Tỉnh giấc, Sư cảm thấy thân tâm an vui, như vào thiền định. Từ đó, Sư càng tin tưởng sự cúng lễ tượng hai đức Như Lai.
Một hôm, Huệ Cảnh lại mộng thấy vị Sa môn khi trước bảo:
– Hai mươi năm sau, ngươi sẽ sinh về Tịnh độ.
Nghe lời ấy, ngày đêm Sư lại thêm tinh tấn tu hành, không khi nào biếng trễ. Đến năm tám mươi chín tuổi, một hôm nọ, Huệ Cảnh từ giã đại chúng, rồi an nhiên vãng sinh. Đang lúc ấy, có vị tăng ở phòng bên, nằm mộng thấy trăm ngàn Thánh chúng từ phương Tây đến rước Sư đi. Trên hư không, tiếng âm nhạc dìu dặt rồi xa nhỏ lần, nhiều người khác cũng được nghe biết.
(Trích lục: Tân Lục)
SỰ CẢM ỨNG THỜ HỌA TƯỢNG PHẬT A DI ĐÀ ĐƯỢC VÃNG SINH
Đời Tùy, Thích Huệ Hải, tục tánh họ Trương, gốc người ở Võ Thành, xứ Thanh Hà. Sau khi xuất gia, sư thường ngụ nơi chùa An Lạc tại Giang Đô. Tuy thông hiểu các kinh luận, sư không thích bàn diệu nói huyền, chỉ thành thật tu hành, lấy Tịnh độ làm nơi quy hướng. Hàng ngày, sư chuyên tịnh niệm Phật, được nhiều điều linh cảm.
Một hôm, có Tỷ kheo Thích Đạo Linh ở Tể Châu, đem một bức tượng cổ đến bảo:
– Đây là họa tượng đức A di đà Thế Tôn, Phật ở chính giữa, xung quanh là năm mươi vị Bồ tát, tất cả đều ngồi trên hoa sen. Tượng này khởi nguyên do một vị Bồ tát ở chùa Kê đầu ma bên xứ Thiên Trúc, dùng thần thông đến cõi Cực Lạc, mô tả lại kim dung để làm duyên tín hướng cho chúng sinh ở Ta bà. Bức tượng này là một trong các bức được truyền họa lại, nay tôi xin đem kính tặng.
Huệ Hải đã từ lâu tu Tịnh độ, lại được bức tượng ấy thật là thâm hợp với sở nguyện, tự nghĩ đây là một duyên lành. Vì thế, đối với bức tượng, Sư hết lòng thành kính cúng dường tôn phụng. Thường thường mỗi khi lễ sớm, nơi bức tượng bỗng chớp ra những tia thần quang sáng lạ. Thấy vậy, Sư càng tin tưởng, đem hết tâm tư họa lại một bức khác, nguyện nhờ công đức ấy sớm được thoát khổ, sinh về Tây Phương.
Năm sáu mươi chín tuổi, một đêm sau khi lễ sám, Sư đối trước tượng, ngồi kiết già trì niệm Phật thật lâu. Đến sáng thấy vẫn còn ngồi, chư tăng lại xem thì sư đã vãng sinh, gương mặt an hòa vui tươi như người còn sống.
(Trích lục: Đường Cao Tăng Truyện)
SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG A DI ĐÀ CAO BA TẤC CỦA THÍCH ĐẠO DŨ
Đời Tùy, Thích Đạo Dũ ở chùa Khai Giác, chuyên tu Tịnh độ. Sư có tượng Phật A di đà bằng gỗ chiên đàn, cao ba tấc mộc. Mỗi khi hành đạo, Sư thường để tượng Phật ấy trên đầu.
Một hôm, Đạo Dũ bỗng tắt hơi, nơi ngực còn ấm, bảy ngày sau chợt sống lại bảo:
– Trước tiên, tôi thấy mình cùng một hiền giả vãng sinh đến một ao báu bên Tây Phương. Hiền giả đi nhiễu quanh hoa sen ba vòng, hoa liền nở ra, vị ấy bước vào ngồi chính giữa. Tôi cũng đi nhiễu quanh hoa sen ba vòng, nhưng hoa không nở. Tôi vuốt mở cánh hoa, hoa theo tay héo rụng. Lúc ấy, Phật A di đà bỗng xuất hiện đến bảo: “Ngươi còn tội chướng, hãy trở lại cõi Ta bà dùng nước thơm tắm gội và sám hối. Chờ lúc sao mai mọc ra ta sẽ đến rước. Nhưng tại sao ngươi tạo tượng ta lại quá nhỏ?”. Tôi đáp: “Tâm lớn Phật lớn, tâm nhỏ Phật nhỏ”. Đáp xong tượng Phật bỗng lớn đầy khắp hư không”.
Nói đoạn, Đạo Dũ nhờ tăng chúng nấu nước thơm. Sau khi tắm gội sạch sẽ, Sư đến trước Phật chí tâm sám hối cả đêm. Khi sao mai mọc, Đạo Dũ bạch chúng xin trợ niệm. Đạo chúng tề tựu đông đủ niệm Phật được một lúc, tất cả đều thấy kim quang sáng rỡ, hóa Phật từ Tây Phương đến tiếp rước.
Nhìn lại thì Đạo Dũ đã chắp tay vãng sinh. Lúc ấy, nhằm niên hiệu Khai Hoàng thứ tám.
(Trích lục: Thoại Ứng Truyện)
SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU ĐƯỢC SONG THÂN
Trương Ngươn Thọ, người ở Tinh Châu, tuy có tâm lành, nhưng sống về nghề sát sinh. Sau khi cha mẹ qua đời, ông dứt nghiệp sát, phát tâm niệm Phật. Vì muốn cứu độ song thân, ông tạo tượng Phật A di đà cao ba thước, để thờ nơi gian nhà cũ của cha mẹ ở. Hàng ngày, Ngươn Thọ đều trì niệm lễ bái, hương hoa đèn nến thường tiếp tục luôn.
Một đêm, sau thời khóa lễ, ông nằm mộng thấy trong nhà hào quang rực rỡ. Trong ánh sáng có hơn hai mươi người thân tướng cao đẹp ngồi trên đài sen. Hai người trong đó bay tới trước kêu:
– Trương Ngươn Thọ!
Ông hỏi là ai, thì đáp:
– Chúng ta là cha mẹ của con lúc sinh tiền. Chúng ta tuy biết niệm Phật, nhưng vì ưa rượu thịt, giết hại loài chim cá quá nhiều, nên khi chết đọa vào địa ngục Khiêu Hoán. Tuy đọa địa ngục nhưng nhờ sức niệm Phật, nước đồng sôi hóa thành mát mẻ. Hôm trước, có vị Sa môn thân vàng cao ba thước, đến thuyết pháp. Chúng ta cùng hơn hai mươi người đồng nghiệp nơi địa ngục đều được thoát khổ sinh về Tây Phương. Do nhân duyên đó, chúng ta đến đây mách bảo cho con biết. Những vị ngồi đài sen đây là các vị đồng nghiệp được vãng sinh.
Nói xong, tất cả đồng bay về Phương Tây.
Tỉnh mộng, sáng ra Ngươn Thọ đến chùa đem việc ấy thưa hỏi. Một vị tăng bảo:
– Đó là do tâm hiếu kính tạo tượng của ông hiện thành sức cảm ứng, nên tượng Phật đến cứu thoát được các đồng nghiệp địa ngục, trong đó có lệnh từ nghiêm (nghiêm phụ, từ mẫu).
(Trích lục: Tinh Châu Ký)
SỰ CẢM ỨNG TẠO TƯỢNG PHẬT CỨU CHÚNG SINH Ở TAM ĐỒ
Thích Đạo Như, người ở Tấn Dương tại Tinh Châu. Sư chuyên tu Tịnh độ, là hàng đệ tử huyền tôn của Đạo Xước thiền sư. Đạo Như tâm tánh nhân từ, thương chúng sinh ở tam đồ hằng chịu khổ, phát nguyện tạo kim thân Phật A di đà cao một trượng sáu. Vì thanh tu, phương tiện thiếu kém, nên ba năm sau tượng mới hoàn thành. Sư hằng tinh cần cúng dường tượng, nguyện nhờ Phật lực, chúng hữu tình ở tam đồ được sớm siêu sinh.
Đêm nọ, đang ngồi tịnh niệm trước Phật tượng, Đạo Như chợt mơ màng đường vào mộng, thấy một vị minh quan đem điệp vàng đến bảo:
– Đây là điệp thư vua Diêm la tùy hỷ sự phát nguyện của pháp sư.
Đạo Như tiếp lấy mở ra xem, thấy trong đó đại khái nói: “Pháp sư vì thương xót muốn cứu chúng sinh chịu khổ ở tam đồ, nên tạo tượng Phật A di đà, tượng ấy thường vào địa ngục, phóng ánh sáng, thuyết pháp cứu độ chúng sinh, y như Phật sống. Sự lợi ích thật không thể nghĩ bàn! Những chúng sinh nghiệp nhẹ ở địa ngục đều lìa khổ được vui, thoát về nơi An Lạc…
Tỉnh lại, sư càng thêm chuyên tâm niệm Phật, cầu nguyện. Những ngày trai, nơi ngực tượng Phật thường phóng quang minh, nhưng mười người chỉ năm sáu người được trông thấy. Có kẻ nằm mộng thấy Đạo Như hiện thân sắc vàng vào nơi địa ngục, hoặc vào chỗ ngạ quỷ, súc sinh mà thuyết pháp. Những sự cảm ứng như thế rất nhiều.
“Hữu thành hữu cảm” âu là một việc tất nhiên.
(Trích lục: Tinh Châu Ký)
SỰ CẢM ỨNG KHI TẠO TƯỢNG ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT
Cha của ông Lý Triệu Đải, người huyện Du ở Ung Châu, nhân hủy báng Phật pháp, mộng thấy thần quở trách, mang bệnh thổ huyết rồi chết. Triệu Đài kính thành quy y Đại Thế Chí, niệm danh hiệu Phật, Bồ tát cầu nguyện cho cha. Ông lại thuê thợ giỏi tạo kim thân đức Đại Thế Chí cao ba thước để cúng dường. Ngày khởi công, đất khắp nơi bỗng rung chuyển, nhiều người cho là cơn địa chấn, luận bàn tốt xấu phân vân. Hai tháng sau tượng thành, Triệu Đải mộng thấy một vị kim thân, đầu đội bảo quan, đến nói:
– Ta là Đại Thế Chí Bồ tát. Ngươi có biết nguyên do cơn động đất hôm trước chăng? Đó là do ngươi phát nguyện tạo tượng, ta đến đây để chứng minh, khi đặt chân xuống thế giới này, cõi đại thiên rung động, chúng sinh trong đó đều được thoát khổ. Ta y theo môn niệm Phật chứng vào Vô sinh nhẫn, nhiếp thủ chúng sinh niệm Phật ở mười phương. Ngươi tạo tượng ta lại niệm Phật, nên ta đã cứu cha ngươi thoát khỏi địa ngục, đưa về Tịnh độ.
Lý Triệu Đải nghe nói, chắp tay chiêm ngưỡng Bồ tát, vừa muốn cúi xuống đảnh lễ, bỗng giật mình thức giấc. Ông vừa vui mừng vừa cảm động, từ đó chuyên niệm Phật không biếng trễ.
(Trích lục: Tư Mạng Chi)
HỦY TƯỢNG PHẬT QUẢ BÁO TỨC KHẮC
[Trích An Sĩ tòan thư]
Triều Thanh, vào năm đầu tiên niên hiệu Khang Hy ( năm 1662) gỗ đàn hương rất có giá. Quận Tô có một hiệu buôn gỗ hương, bỏ ra 3 lượng bạc mua về một pho tượng Bồ Tát Quán Thế Âm bằng gỗ hương.
Sau đó suy nghĩ tính toán rằng, nếu phá pho tượng này ra để bán gỗ vụn thì có thể được 16 lượng. Liền chuẩn bị chẻ tượng ra.
Có một người thợ làm công sợ làm như vậy mang tội nên hết sức can ngăn, nhưng đứa con rể của ông chủ hiệu buôn lúc đó đến đón vợ, đang ở tại nhà cha vợ, liền chỉ mặt người làm công mà nói: “Mày chỉ là người làm công, đâu phải việc của mày. Cứ nghe lời mà làm đi.”
Đêm hôm đó, người con gái của chủ hiệu buôn bỗng đau bụng không thể về nhà, phải ở lại ba hôm để trị bệnh.
Qua hôm sau, trên đường phố có một đứa bé khoảng sáu tuổi đang đi theo cha, bỗng chỉ tay về phía hiệu buôn gỗ hương, hỏi cha:
“Cha ơi, sao trên nóc nhà kia lại có niêm phong màu đỏ phong kín thế?” Người cha cho rằng đứa bé nói bậy nên cấm không cho nói nữa.
Đêm ấy, hiệu buôn gỗ hương bỗng tự nhiên phát hỏa, lửa thiêu duy nhất một nhà ấy thôi, cả nhà không ai sống sót. Đứa con rể của chủ hiệu định nhảy ra từ một lỗ thoát trên tầng lầu, nhưng bỗng thấy như có vật gì ngăn giữ lại, cuối cùng phải chịu chết trong lửa.
Riêng người thợ làm công, ngay buổi sáng sớm hôm trước chưa xảy ra hỏa hoạn, bỗng có một hiệu buôn trầm hương khác đến khẩn thiết mời sang giúp họ hai hôm, nhờ thế mà thoát khỏi nạn này.
Lời bàn
Hủy hoại tượng Phật, làm thân Phật chảy máu, là một trong 5 tội nghịch phải đọa vào địa ngục vô gián. Vì thế, nếu thấy việc như vậy mà không khuyên can ngăn cản, ắt sẽ gặp nạn dữ vào thân, còn nếu khởi dù một chút tâm lành, liền được thiện thần bảo vệ. Chỉ do tâm niệm của đứa con rể ông chủ hiệu buôn gỗ hương và người thợ làm công kia hoàn toàn khác nhau, nên một người vốn đang muốn rời khỏi hiệu buôn ấy để về nhà, nhưng lại khiến cho không về được; một người vốn không có ý muốn rời khỏi hiệu buôn ấy, nhưng lại khiến cho phải rời đi để tránh tai họa. Quả thật là: “Họa với phúc vốn không định sẵn, chỉ do người tự chuốc lấy mà thôi.”
HỦY TƯỢNG PHẬT CHẾT THÊ THẢM
Vào những năm Chính Hòa thời Bắc Tống (1111-1118 ), Hoàng đế bấy giờ là Tống Huy Tông nâng đỡ Đạo giáo, chèn ép Phật giáo, bởi vậy Phổ Chiếu Tự, một ngôi chùa Phật giáo nổi tiếng trong thành Tứ Châu bị người ta chiếm cứ. Phổ Chiếu Tự có một bức tượng Phật rất lớn, không chỉ hoa lệ hùng vĩ mà còn cực kỳ trang nghiêm tôn quý. Những kẻ chiếm cứ muốn hủy bức tượng Phật, nhưng lại sợ sự uy nghiêm của Thần Phật, nên họ tuyển mộ giá cao kẻ cả gan dám hủy bức tượng tôn Phật này.
Khi ấy một kẻ vô lại họ Triệu thèm muốn tiền thưởng nên đã tới nhận nhiệm vụ này. Hắn ta lại kiếm thêm mấy người cùng hắn cầm búa tới Phổ Chiếu Tự. Kẻ vô lại dẫn đầu đám người cầm búa tới đập bức tượng Phật, cuối cùng tượng Phật bị phá hoại hoàn toàn, đúng là, “huy hoàng trăm thước, bể nát một giờ”. Quần chúng đứng xem than thở không thôi, có người còn rơi nước mắt. Chưa đầy mười ngày sau, hai tay của kẻ vô lại họ Triệu bắt đầu thối rữa, không thuốc trị được, hơn nữa phạm vi càng ngày càng lớn, dần dần lan lên cánh tay, bả vai cho tới toàn thân trên dưới, khắp mình lở loét, đau đớn như nghìn vạn thanh đao cứa vào. Kêu khóc cả ngày, từ lúc bắt đầu thối rữa cho tới tận khi chết, khổ sở đủ một trăm ngày, người xem đều thấy rùng mình kinh hãi.
Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo. Trong lịch sử tuy không ghi lại kết cục nhũng người cùng tham gia hủy hoại tượng Phật, nhưng có lẽ họ cũng khó thoát khỏi ác báo như kẻ vô lại kia. Ngay cả Hoàng đế Tống Huy Tông vốn hạ lệnh đè nén Phật giáo cuối cùng cũng bị nước Kim bắt làm tù binh, chịu đủ nỗi khuất nhục, chết trong thê thảm. Có thể thấy ác hữu ác báo, dẫu kẻ ác có địa vị cao đến đâu, cũng tất phải trả giá cho hành vi ác của mình.