Phàm phu chọn Tịnh độ, vãng sanh thế giới Cực Lạc là đi làm Phật, cần bao nhiêu thời gian? Ba năm là đủ rồi.
Thật thà, nghe lời, thật làm. Sáu chữ này là điều kiện Sư thừa nhất định phải đầy đủ của Trung Quốc từ xưa đến nay, không có điều kiện này lão sư sẽ không dạy bạn. Nhưng người đầy đủ điều kiện này không nhiều, chúng ta xem thấy, nghe thấy quả thật không nhiều, nhưng chân thật có thành tựu.
Lúc đầu lão hòa thượng Đế Nhàn có một người đồ đệ làm thợ vá nồi, ông chính là đầy đủ điều kiện này. Ông không biết chữ, chưa từng được đi học, sanh trưởng ở nông thôn, vô cùng khổ cực, gia cảnh thanh bần. Sống ở nông thôn, không có đất đai, ngay cả điều kiện làm nông cũng không đủ, học làm thợ vá nồi, vá nồi vá chén. Lúc kháng chiến vẫn còn loại nghề nghiệp này, hiện nay không có, thời kỳ kháng chiến chúng tôi vẫn còn thấy qua. Ông với pháp sư Đế Nhàn là đồng hương, lúc nhỏ cùng nhau lớn lên ở nông thôn. Gia cảnh của Pháp sư Đế Nhàn tốt hơn một chút, được đi học, có học qua làm kinh doanh, học qua cách làm ăn. Về sau xuất gia, giảng kinh dạy học, trở thành Nhất Đại Tôn Sư. Ông cũng đã đi tìm rất lâu nhưng tìm không thấy, xem thấy việc xuất gia cũng không tệ, cuộc sống không đến nổi khổ cực như vậy, yêu cầu được xuất gia. Lão Pháp sư Đế Nhàn nói với ông, anh đã hơn 40 tuổi, không kịp nữa rồi, xuất gia ở trong tự miếu, mức độ thấp nhất 5 thời công khóa phải biết làm. Anh xem anh chậm hiểu, anh học không được, giảng kinh thuyết pháp anh lại không biết chữ, hiện nay học đều không còn kịp nữa. Nhưng ông nhất định yêu cầu không đáp ứng không được, sau cùng lão Hòa thượng bị ép, nói điều kiện với ông.
Người thợ vá nồi nói được, không luận ngài nói cái gì tôi cũng đều nghe theo, cứ như vậy mà thế độ cho ông. Sau khi thế độ, không thể ở trong tự miếu, đến Ninh Ba tìm một cái miếu bỏ hoang ở dưới quê, lúc đó ở dưới quê có rất nhiều. Tiểu Miếu ở nông thôn không có người ở, đã bỏ hoang, tìm một nơi như vậy để ông ở. Dưới quê vẫn có một số tín đồ, tìm một vài người hộ trì cho ông, gởi họ một ít gạo, một ít thức ăn, cũng tìm được một bà cụ, là bà cụ niệm Phật, chăm sóc sinh hoạt cho ông, đều này thật khó được. Bữa sáng ông tự lo, bữa trưa và bữa tối bà cụ sẽ lo cho ông, giặt y phục cho ông. Lão Hòa thượng chỉ dạy ông một câu Nam Mô A Di Đà Phật, nói với ông cứ thế mà niệm tiếp tục, niệm mệt thì nghĩ, nghĩ khỏe rồi lại tiếp tục niệm, không phân ngày đêm. Ông thật sự nghe lời, thật sự thật thà, chính là một câu A Di Đà Phật này niệm được 3 năm, biết trước ngày giờ vãng sanh, đứng mà vãng sanh, công phu được xem là không tệ. Lão hòa thượng Đế Nhàn thay ông lo việc hậu sự, vô cùng tán thán đối với ông, ông cũng coi như không xuất gia uổng phí, chân thật có thành tựu, làm một tấm gương tốt cho người niệm Phật. Điều kiện thành công của ông chính là thật thà, nghe lời, thật làm, một cách tuyệt đối mười phân vẹn mười.
Đại Thế Chí Bồ Tát trong hội Lăng Nghiêm nói với chúng ta: “Nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật”. Những người này niệm Phật có nhìn thấy Phật không? Chắc chắn có, có một số không chỉ thấy một lần. Thấy Phật, Phật nhất định nói với họ, con vẫn còn bao nhiêu năm thọ mạng, đợi đến lúc con mạng chung ta sẽ đến tiếp dẫn con vãng sanh, xem như là thọ ký.
Nhưng cũng có một số người, họ vẫn còn thọ mạng nhưng không cần nữa, bây giờ liền muốn theo Phật đến thế giới Cực Lạc, A Di Đà Phật rất từ bi không có chuyện không đồng ý. Vì thế chúng ta ở trong vãng sanh truyện Tịnh độ Thánh Hiền Lục xem thấy những người vãng sanh đó, hơn một nửa đại khái đều là 3 năm vãng sanh.
Lúc đầu tôi ở Đài Loan, có một đồng tham đạo hữu là pháp sư Đức Dung, cũng đã qua đời rồi, thầy ấy thường nghe tôi giảng Kinh, đưa ra một vấn đề. Thầy ấy xem Vãng sanh Truyện, Tịnh độ Thánh Hiền Lục có hoài nghi. Tôi nói thầy hoài nghi cái gì? Thầy ấy nói nhiều người như vậy đều là 3 năm vãng sanh, có phải thọ mạng đều đến rồi không? Dường như điều này thật không thể nào. Tôi nói với thầy, thật sự nếu như nói đều là 3 năm, làm gì có chuyện trùng hợp như vậy, vài người thì có thể, nhiều người như vậy, về mặt logic nói không thông.
Vậy sự việc này là như thế nào? Họ vẫn còn thọ mạng nhưng họ không cần. Hôm nay ta gặp được Phật là chuyện khó được, ta liền khẩn cầu Phật mang ta đi ngay bây giờ, khẩn nài, van xin, nài nỉ, từ đây về sau thọ mạng đều không cần. Phật nhất định sẽ mang họ đi, điều này mới hợp với logic, mới có thể nói được thông.
Hay nói cách khác, phàm phu chọn Tịnh độ vãng sanh thế giới Cực Lạc là đi làm Phật, cần bao nhiêu thời gian? Ba năm là đủ rồi. Hơn nữa chúng ta xem thấy có rất nhiều trường hợp, quá khứ, hiện tại. Hiện nay chúng tôi có rất nhiều đồng học niệm Phật vãng sanh, không ít người 3 năm là vãng sanh. Hơn nữa những người vãng sanh này đều có bản lĩnh, đó chính là không có sanh bệnh mọi thứ vô cùng bình thường, lúc ra đi là đi một cách tự nhiên. Có người đứng mà ra đi, có người ngồi mà ra đi, chính mắt chúng tôi xem thấy, chuyện này làm sao có thể lừa người được? Họ biết được họ đi vào ngày nào, họ cũng không nói với bất kỳ ai, nói với người sẽ gây ra phiền phức. Tại vì sao? Mọi người quấy nhiễu bạn, không cần trợ niệm, trợ niệm cũng có thể bị quấy nhiễu, vì thế họ vãng sanh một cách tự nhiên.
Chúng tôi ở nước Mỹ xem thấy một người, chuyện này đại khái cũng gần 20 năm trước, chính là ở San Francisco, có một bà cụ niệm Phật 3 năm. Con trai của cụ du học ở Mỹ, sau khi tốt nghiệp ở Mỹ làm việc, kết hôn, sanh được một cháu trai. Con trai sanh được cháu nhỏ, bà cụ ở Đài Loan, đón mẹ đến Mỹ để trông cháu nhỏ, chăm sóc sinh hoạt gia đình. Bà cụ vào lúc đó sáu, bảy mươi tuổi vẫn còn làm được. Ở được 3 năm, cháu nhỏ cũng đã lớn, có thể đi nhà trẻ, con trai, con dâu đều có công việc, cả một ngày chỉ có một mình bà. Bà là người niệm Phật, hoàn cảnh này tốt, không có người quấy nhiễu bà, láng giềng là người Ngoại Quốc, nói chuyện không được, ngôn ngữ không rành, không có qua lại, một hoàn cảnh thanh tịnh như vậy, đây chính là đạo tràng của bà, niệm Phật không gián đoạn.
Vào cái ngày vãng sanh, bởi vì buổi sáng mỗi ngày cụ đều dậy rất sớm chuẩn bị xong bữa sáng, con trai, con dâu, cháu trai sau khi thức dậy liền có thể ăn cơm, sau khi ăn xong đều đi học, đi làm hết. Buổi sáng hôm đó bà không thức dậy, không có người làm cơm, cảm thấy rất kỳ lạ, mở cửa phòng bà cụ, bà mặt áo tràng ngồi trên giường, xếp bằng ngồi trên giường, gọi bà không thấy trả lời, tỉ mỉ xem lại, đi rồi. Đi vào buổi tối, mấy giờ đi thì không biết, bên cạnh giường có để lại di chúc, viết rất dài, hơn nữa hiếu phục của con trai, con dâu, cháu trai đều đã làm xong, đều đặt ở bên cạnh, hậu sự đều chuẩn bị xong. Từ phương diện này mà xem, chí ít 3 tháng trước bà đã biết, nếu không chuẩn bị sẽ không chu đáo như vậy. Lúc này con trai gọi điện thoại thông báo cho những người bạn của bà là những người bạn niệm Phật, mọi người đều đến nhà xem, giúp bà lo việc hậu sự, không một ai không bội phục.
Bà là cư sĩ tại gia, sống ở nước Mỹ được 3 năm, thành tựu tốt như vậy. Nếu bà ở Đài Loan có thể sẽ không làm được, tại vì sao? Bạn bè nhiều, qua lại nhiều. Ở Mỹ không có người nói chuyện với bà, ngoài việc niệm Phật ra, bà không còn việc nào khác, duyên không giống nhau. Con trai đón mẹ đến Mỹ, không hề ngờ rằng duyên phận này lại quá thù thắng để cho mẹ của cậu có thể bình an tự tại mà vãng sanh, đây là sự việc mà cậu không hề ngờ tới. Nước Mỹ có hoàn cảnh như vậy, chính là xem bản thân bạn có biết cách dùng hay không. Chân thật vạn duyên buông xuống, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra cái gì cũng không có, 3 năm công phu thuần thục bà mới có thể làm được.
Ở Đài Loan cũng có, hơn 40 năm trước chúng tôi gặp được một vị, bà lão ở xã Tướng Quân Đài Nam đứng mà vãng sanh, cũng là 3 năm. Gia đình của bà cụ này vô cùng hòa mục, con cái hiếu thuận, bà không hề nói với bất kỳ ai, sợ bị quấy nhiễu, lúc ăn cơm tối thì đi. Lúc ăn cơm tối, bà nói với con trai, con dâu, người nhà, các con cứ ăn cơm trước, mẹ phải đi tắm. Bà thật sự đi tắm, thay y phục, người nhà đợi rất lâu nhưng bà vẫn chưa ra, đi xem thử, thật sự có thay y phục, gọi bà nhưng không có người trả lời. Trong nhà có một Phật đường nhỏ, kết quả xem thấy, bà cụ mặc áo tràng cầm lấy tràng hạt, mặt đối diện tượng Phật đứng ở nơi đó bất động, con trai gọi bà nhưng không trả lời, tỉ mỉ xem lại, đã đi rồi, đứng mà đi, cũng là 3 năm, tín nguyện trì danh, vãng sanh thế giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật, là thật không phải giả, đây là tấm gương tốt nhất cho người học Phật hiện đại.
Trích từ lớp học Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu 2014
Báo cáo tâm đắc của học sinh lớp Vô Lượng Thọ Kinh Khoa Chú
Thích Tự Liễu soạn
Hòa thượng Tịnh Không giám định
Bích Ngọc chuyển ngữ
Như Hòa giảo duyệt
A di đà phật
Thưa mọi người con biết đến pháp môn niệm phật thấy thật là thù thắng vi diệu. Nhưng tâm con vẫn còn nghi cho rằng cõi nước kia cùng Phật cõi đó chẳng có thật . Khi đọc các tích truyện vãng sanh con biết điều đó là thật không hề dối gạt nhưng như có một chuớng ngại nào đó cản con lại giống cái rào chắn vậy ,rất dày, nó cản trở không cho con phát tín tâm.
Cho con hỏi đây có phải nghiệp chướng không ạ . Nếu phải thì giải trừ ra sao còn không thì việc này thế nào ạ. Mong các vị thiện tri thức giúp đỡ con. Giờ con đang rất băn khoan.
Con xin đa tạ
Để bồi đắp Tín tâm thì chúng ta phải nên Nghe Pháp và Hành Pháp cho nhiều vào. Như thế Đạo tâm sẽ ngày càng kiên cố, Tín Nguyện ngày càng thiết tha, chân thật. Khuyên bạn hãy thường xuyên nghe Pháp của HT Tịnh Không, rất nhiều người từ chưa biết gì, đến sơ phát tâm, thâm nhập Pháp môn, cho đến thành tựu vãng sanh luôn, trong một thời gian thôi đều nhờ nghe Pháp HT giảng. Dưới đây một đoạn trích HT giảng
“Người có trí tuệ vui, người không có trí tuệ khổ. Trí tuệ là chúng ta vốn có, trên “Kinh Hoa Nghiêm” Thích Ca Mâu Ni Phật nói rất hay “tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng Như Lai”. Cho nên trí tuệ, phước đức, tướng hảo đều là từ trong tự tánh vốn sẵn có, có bao nhiêu? Vô lượng, vô biên, vô số, lấy không hết, dùng không cạn kiệt, dùng mười vạn năm, trăm vạn năm, ngàn vạn năm, vạn vạn năm, vô lượng thọ đều dùng không hết, quá nhiều rồi. Tự tánh vốn có, không phải từ bên ngoài đến, vậy làm thế nào mới có thể đem trí tuệ đức tướng của tự tánh hoàn toàn hiển lộ ra? Bí quyết chính là “nhìn thấu buông xả”.
Nhìn thấu là hiểu rõ chân tướng sự thật, buông xả là buông xả tất cả chướng ngại, tất cả ô nhiễm, quay về tự tánh là chứng được đại viên mãn. Đại viên mãn là gì? Thế giới Cực Lạc, chúng ta vãng sanh đến thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc là A Di Đà Phật biến hiện ra, đồng thời cũng là chính tự tánh chúng ta biến hiện ra. Việc này phải nên biết nếu trong tự tánh chúng ta không có thế giới Cực Lạc, thì A Di Đà Phật không thể kiến lập, chúng ta cũng không thể vãng sanh. Trong tự tánh chúng ta có, không phải từ bên ngoài đến, tự tánh của chúng ta với A Di Đà Phật là một tánh, cho nên ngài có thể kiến tạo, ta có thể đến bên đó hưởng thụ. Vì sao vậy? Vì một thể, không phải hai sự việc, là một sư việc. Việc này không thể không tin tưởng, phải toàn tâm toàn lực rộng kết thắng duyên. “Thắng” là thù thắng, người thông thường chúng ta gọi là “thiện duyên”, nhưng “thắng” là trí tuệ đã kết, còn gọi là “thiện duyên” thì trong “thiện, ác” vẫn còn có cảm tình, cũng chính là còn mang theo ô nhiễm, không mang theo bất cứ ô nhiễm nào, đây là thù thắng.
Cho nên chúng ta biết mục đích của Phật nói pháp là để người lìa khổ được vui. Phương pháp của Phật dùng là phá mê khai ngộ, hoàn toàn thực tiễn ở giáo học. Giáo học nhất định phải tiếp nhận dạy người học có thể “tín, thọ, phụng, hành” thì họ liền đạt được lợi ích. Còn như họ không thể tin tưởng, không thể tiếp nhận, không thể thực tiễn, thì đó chỉ là trong A Lại Da gieo xuống hạt giống, ngay đời này không có được thọ dụng. Nếu như bạn tín thọ phụng hành, thì ngay đời này quyết định được lợi ích, bất kể nam nữ già trẻ.”
Chúc bạn nhiều tinh tấn!
A Di Đà Phật
Chào Bạn Tín Tâm,
Thời nay là thời Mạt Pháp, nhất là nhiều ác tri thức khắp mọi nơi mang danh nghĩa Phật Giáo mà đi nói sai Chánh Pháp, nên việc làm cho đa số người tu học nghi ngờ là khó tránh phải.
Thời xưa con người Hiền Đức nhiều nên có nhiều sự hiện biến của thần thông của Chư Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh, Thần… Thời nay thì con người phần nhiều gian ác, nên những điềm lành ẩn đi nhiều. Nếu bạn gặp người thời đại trước, nói với họ tương lai (thời đại bây giờ) có Tivi, Máy Tính, Máy Bay, Điện Thoại… họ sẽ không thể chấp nhận nổi. Nhưng đâu có thể nói là không có?
Cũng vậy tuy người thời nay tuy không thể chứng kiến được những điềm lành của người thời đại trước, nhưng đâu có thể nói là không có được?
Việc bạn cần làm bây giờ là trước hết mỗi lần những nghi ngờ bạn khởi lên (phiền não) thì đừng có quan tâm đến nó, cứ gắng vượt qua mà niệm thẳng một mạch Nam Mô A Di Đà Phật là được. Thứ hai, thời gian còn lại bạn dành thời gian xem các Video bài giảng của Hòa Thượng Tịnh Không để hiểu thêm về Phật Pháp.
Bạn nên nhớ hiện nay tà sư rất nhiều nên phải cẩn thận mỗi khi nghe Pháp của một người thầy. Hòa Thượng Tịnh Không là một vị Bồ Tát Sống trong thời Mạt Pháp này để cứu độ chúng sanh, vì vậy tu học theo ngài là đúng đắn và trí tuệ.
Bạn hãy vào link sau đây, để nghe hết toàn 600 Video này của ngài Tịnh Không. Khi nghe hết xong bạn sẽ tin tưởng vào Phật Pháp. Đây là đường link: TỊNH ĐỘ ĐẠI KINH GIẢI DIỄN NGHĨA 600 TẬP http://www.youtube.com/playlist?list=PLYBVal-XuJHalsdiL1dHhiCw3XISHocaz
Mỗi ngày bạn chỉ cần bỏ khoảng 2 tiếng để nghe Pháp của Ngài Tịnh Không, thì sau 2 năm bạn sẽ hoàn tất xem hết 600 Video trên, rồi bạn sẽ có niềm tin tuyệt đối vào Tịnh Độ.
Hòa Thượng Thích Trí Thủ Nói:
Trí thức con người ở cõi nầy bị hạn cuộc trong một phạm vi nhỏ bé nên đã cố đúc thành một mớ thành kiến cố chấp. Đem cái mớ thành kiến cố chấp ấy mà phán đoán sức thần thông biến hóa của chư Phật, của thế giới Cực Lạc do tịnh thức tổng hợp của vô lượng vô biên vô số chúng sanh phát khởi, thì thật khác nào đem kiến thức của loài sâu kiến mà bàn luận công trình xây dựng và quá trình hoạt động của quốc gia xã hội loài người. Dù cho cùng năm mãn đời, trải qua vô lượng vô số tháng năm, loài sâu kiến cũng không thể nào dùng suy luận của chúng mà hiểu đúng như sự thật được. Chỉ vì sâu kiến không phải là người vậy. Cũng tương tợ như thế, chúng ta chưa phải là Phật thì chưa thể nào hiểu thấu sức thần thông và trí huệ của Phật một cách tỏ tường. Đã không thấu rõ được thì dù có suy luận đến cùng năm mãn đời cũng không đem lại kết quả nào. Vì vậy, chúng ta chỉ nên tin lời Phật mà thật hành theo, quyết không bị lầm lạc và để khỏi bỏ phí thì giờ trong hí đàm. Nếu tự phụ là thông minh trí tuệ không chịu tin theo, chung quy sẽ trở lại thua những người thật thà chất phác mà có tín tâm mạnh mẽ. Sở dĩ sanh tâm tự phụ kiêu căng như thế, chẳng qua là phước đức thiển bạc nên mới không thọ nạp được một pháp môn giản dị và rất khó gặp như pháp môn Tịnh Độ. Thật cũng đáng tiếc lắm thay!
Trên đây, hoàn toàn đứng về phương diện Tín mà nói, chứ chưa đề cập đến hai phương diện Nguyện và Hạnh . Nhưng hễ Tín đã vững chắc thì Nguyện và Hạnh tự nhiên thành tựu, khỏi cần nhắc nhủ, khuyến hóa. Vì như khi đã tin chắc rằng trước sân nhà có hầm vàng thì tự nhiên không ai sai bảo, vẫn hăng hái đào bới tìm tòi. Còn nếu nghe nói có hầm vàng mà chưa chịu đi đào là vì lòng tin chưa vững chắc vậy.
Pháp Sư Huệ Tịnh nói:
Sự hoài nghi của chúng ta đối với Phật A-di-đà sẽ biến mất trong danh hiệu ánh sáng của Phật A-di-đà, một mặt chúng ta chuyên sâu thảo luận giáo lí, thấu tỏ giáo lí, cũng có thể tin nhận chỉ cần chúng sanh xưng niệm thì nhất định được vãng sanh, không có hoài nghi; mặt khác, chỉ cần chuyên xưng danh hiệu Phật A-di-đà, vô hình trung cũng phá trừ nghi ngờ sanh niềm tin về sự cứu độ của Phật A-di-đà. Song, thông thường nhất định thông qua sự thấu hiểu, lãnh hội danh hiệu ánh sáng này thì dễ dàng ‘phá trừ nghi ngờ sanh niềm tin’.
Có người hỏi Pháp Sư Huệ Tịnh như sau:
Hỏi: Xin hỏi Pháp sư, có người cho rằng Pháp môn Phật A-di-đà, là Tổ sư sau này phát minh, thời xưa không có Phật A-di-đà, đúng vậy không?
Đáp: Kinh điển y cứ chính của pháp môn này là kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà, là do Phật nói, và kinh điển y cứ phụ rất nhiều, có hơn hai trăm bộ, cho nên có căn cứ của Phật nói, có sự truyền thừa của Tổ sư, cũng có sự chứng ở hiện tại. Sự chứng ở hiện tại chính là tác phẩm Niệm Phật cảm ứng lục mà tôi đã biên soạn; trong sách này mỗi câu chuyện đều nói về cảm ứng của niệm Phật, nếu không có Phật A-di-đà, thì bạn niệm như thế nào cũng không có cảm ứng. Niệm Phật có cảm ứng chữa bệnh, có cảm ứng xua đuổi ma quỷ, có cảm ứng bản thân niệm Phật, người nhà tiêu tai miễn nạn, có sự tích bình thường niệm Phật, lâm chung Phật đến tiếp dẫn; có người cả đời không niệm Phật, nhưng đến lúc lâm chung đứt hơi, họ chỉ niệm Phật với chúng tôi vài câu thì nói Phật A-di-đà đã đến phía trước tiếp dẫn họ. Thế nên, có văn chứng, có lí chứng, có sự chứng, sự thật vững chắc ở ngay trước mắt, không bị người lừa.
Nam-mô A-di-đà Phật
A Di Đà Phật. Bạn nên lạy Phật, niệm Phật cho nhiều để tiêu nghiệp chướng và cầu Tam Bảo gia hộ.
Bạn nên xem lá thư Tổ Ấn Quang trả lời cư sĩ Cố Hiển Vi, trong đó có rất nhiều ý hay giúp trừ nghi sinh tín:
https://tangthuphathoc.net/thu-tra-loi-cu-si-co-hien-vi/
A di đà phật vậy con chỉ cần nhất tâm chuyên niệm Phật thì cái nghi nó cũng tiêu trừ đúng không ạ.
A Di Đà Phật
Nhất tâm niệm Phật được thì rất tốt, chỉ sợ Tín tâm chưa mạnh thì việc niệm Phật khó được chuyên nhất. Thế nên khuyên bạn ngoài việc cố gắng siêng năng hành trì: niệm Phật, lạy Phật, tụng Kinh (Kinh Vô Lượng Thọ hoặc Kinh A Di Đà)… thì khi có thời gian bạn nên tranh thủ nghe Pháp, đọc giáo lý Kinh điển cho nhiều vô. Điều này rất có lợi cho việc học Phật với bậc sơ cơ như chúng ta. Tín – Nguyện – Hành, ba món tư lương của người tu Tịnh Độ phải luôn luôn được hun đúc tích lũy liên tục. Giới thiệu với bạn vài đ/c nghe Pháp HT Tịnh Không, CS Diệu Âm…
http://www.tinhkhongphapngu.net/
http://www.tinhthuquan.com/
Chúc bạn tinh tấn!
A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật! bạn cứ niệm rồi mặc kệ cái nghi, niệm cho nhiều là tín nguyện hạnh thiện căn đều tăng trưởng, HT Tịnh Không dạy vậy đó ạ!
Con không có nhiều thời gian nên cũng không nghe pháp được chỉ niệm phật thôi có được không ạ
A Di Đà Phật.
Mọi người có ai biết cái link tải Kinh Kim Cang tiếng Việt không ạ. Con tìm toàn link Kinh Kim Cang hán Việt ko ạ. Mọi người ai biết chỉ giúp ạ. Con xin cảm ơn ạ.
KINH KIM CANG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT
Hán dịch: Cưu Ma La Thập – Việt dịch: Thích Trí-Tịnh
https://thuvienhoasen.org/a758/kinh-kim-cang-bat-nha-ba-la-mat
Muốn download file pdf thì Thăng vào đây, có cả phần Âm Hán Việt và phần Nghĩa Việt
https://thuvienhoasen.org/images/file/-EIrcJ1G0QgQAIVW/kinhkimcang-doantrungcon.pdf
File PDF
Việt dịch: Đoàn Trung Còn – Nguyễn Minh Tiến
https://thuvienhoasen.org/images/file/N3Ffc51G0QgQAMks/kinh-kim-cang-doan-trung-con-dich.pdf
Xin chân thành cam ơn TL ạ.
Chúc bạn luôn luôn tu hành tinh tấn.
A Di Đà Phật
Xin cảm ơn chú TT và TL.
Chú TT sao lại là Thăng ạ, là ai ạ. Skt T1 ko hiểu ạ.
A Di Đà Phật
A Di Đà Phât
Cho con hỏi con biết pháp môn niệm phật này 1 năm nhưng có 1 lần coi phim người lớn và thủ dâm vậy có được vãng sanh không a.
A Di Đà Phật
Đã biết xấu thì phải đoạn, quyết chí đoạn, từ rày về sau thệ không tái phạm nữa, như vậy mới là thực tu, thực sám hối, quyết tâm đoạn ác tu thiện, trì giới tinh nghiêm.
Bạn hỏi có được vãng sanh không? “Tín, nguyện, trì danh” là câu trả lời cho ai muốn vãng sanh.
“Cho nên chư Phật Bồ Tát đại từ đại bi, vì chúng ta giới thiệu thế giới Tây Phương Cực Lạc, cái thế giới này thuần thiện không ác, ở trong cái thế giới này toàn là Phật, Bồ Tát. Chúng ta đi đến thế giới Cực Lạc rồi, cho dù là hạ hạ phẩm vãng sanh cũng là A Duy Việt Chí Bồ Tát đúng như trong 48 nguyện Di Đà đã nói với chúng ta. A Duy Việt Chí địa vị cao, người Trung Quốc chúng ta gọi là Bồ Tát bất thoái chuyển.
Pháp thân Bồ Tát như trên “Kinh Hoa Nghiêm” nói là 41 vị Pháp Thân Đại Sĩ trụ báo độ, cõi Thật Báo Trang Nghiêm độ. Chúng ta phải ghi nhớ, cái cơ hội vãng sanh Tây Phương cực lạc này là rất hi hữu khó gặp, chắc chắn chúng ta không thể để lỡ qua. Lão Hạ Liên ở ngay chỗ này, rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo dạy bảo chúng ta cái phương pháp tu hành này: ở ba bậc vãng sanh, vãng sanh chánh nhân hai phẩm này, dạy cho chúng ta phương pháp tu học “phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật”. Đơn giản, dễ dàng, chân thật là phương tiện cứu cánh, quả báo viên mãn thẳng tắp đi đến thế giới Cực Lạc làm Bồ Tát A Duy Việt Chí.
Việc này chúng ta phải nên biết, 28 tầng trời, người bất cứ một tầng trời nào, đều không thể so sánh được với người vãng sanh thế giới Tây Phương Cực lạc. Đao Lợi Thiên chủ, Đại Phạm Thiên Vương, Ma Hê Thủ La Thiên Vương, đây là đạt đến đỉnh cao nhất phú quý trong sáu cõi của thế giới Ta Bà, không có người nào có thể siêu vượt hơn họ, nhưng nếu so với Bồ Tát hạ hạ phẩm vãng sanh của thế giới Tây Phương, kém quá xa, không luận là trí tuệ, đạo hành, thần thông, đều không cách gì so sánh được với Bồ Tát Cực Lạc. Hơn nữa vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc dễ dàng hơn sanh thiên, bạn thấy cái điều kiện vãng sanh đó chỉ là “tín, nguyện, trì danh” thì được rồi. Trong khi nếu chỉ “tín, nguyện, trì danh” thì không thể sanh thiên, vì muốn sanh thiên phải đoạn ác tu thiện, phải đạt được thượng phẩm “Thập Thiện Nghiệp Đạo”, thiện tâm, thiện ngữ, thiện hạnh, vậy mới có thể sanh thiên. Lão tổ tông chúng ta thường nói “ngũ luân, ngũ thường, tứ duy, bát đức”, chăm chỉ tu học, có thể đạt đến 80-90%, vậy thì mới có thể sanh thiên, còn 50-60% thì không được sanh thiên, chỉ có thể ở cõi người.”
(HT Tịnh Không giảng)
MỘT SỐ LỜI DẠY TRONG TAM TẠNG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO NÓI VỀ TÁC HẠI CỦA SỰ TÀ DÂM
1. Phần thứ nhất: Bồ Tát quở trách sự dâm dục.
Kinh Đại Bảo Tích dạy rằng: “Bồ Tát quán sát trong chốn thế gian, thấy những chúng sinh ngu si điên đảo, đối với sự dâm dục đem lòng tham luyến, si mê, đối với mẹ hay chị, em gái của mình còn dám xâm hại làm nhục, huống chi đối với những người phụ nữ khác. Quán sát thấy rõ thực trạng như thế, Bồ Tát liền khởi tâm suy nghĩ rằng: ‘Thế gian này thật là chốn khổ sở thay! Những chúng sinh ngu si kia vốn từng ở trong bào thai của mẹ, được nuôi dưỡng lớn dần lên trong đó, lại sinh ra qua cửa mình người mẹ, sao không biết hổ thẹn mà còn làm chuyện loạn luân như thế? Thật đáng thương xót thay, những kẻ ấy rồi sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, [chịu hành hình] không một lúc nào được tạm dừng. Như một người mù bị bầy chó hung dữ rượt đuổi, nhất định phải rơi xuống hầm sâu, những chúng sinh si mê kia cũng giống như vậy, [chắc chắn rồi sẽ phải rơi vào những cảnh giới đọa lạc]. Lại như con lợn nuôi trong chuồng trại nhớp nhúa, sống giữa đống phẩn dơ hôi hám, ăn uống trong đó mà không hề biết ghê tởm chán ghét, những chúng sinh si mê kia [sống giữa tội lỗi mà không ghê sợ,] cũng giống như vậy. Nay ta sẽ vì những chúng sinh si mê tội nghiệp ấy mà tuyên thuyết giảng bày Chánh pháp mầu nhiệm, khiến cho họ [nghe theo rồi] liền vĩnh viễn dứt trừ tham dục, không còn phiền não.”
Kinh Nguyệt thượng nữ dạy rằng: “[Trong vô số kiếp luân hồi,] hoặc các người đã từng sinh ra làm cha ta, hoặc ta đã từng sinh ra làm mẹ các người, chúng ta đều đã từng là cha mẹ, anh em của nhau, làm sao có thể khởi tâm muốn làm chuyện dâm dục với nhau? [Trong vô số kiếp luân hồi,] ta cũng từng giết hại các người, hoặc các người đã từng giết hại ta, chúng ta đều đã từng có mối oán cừu giết hại lẫn nhau, làm sao có thể khởi tâm muốn làm chuyện dâm dục với nhau?”
Luận Trí độ nói: “Bồ Tát quán xét thấy trong tất cả các mối nguy hại thì [sự nguy hại từ] nữ sắc là nghiêm trọng nhất. Những mối nguy như đao kiếm, lửa thiêu, sấm sét, kẻ thù, rắn độc, vẫn còn có thể tạm thời gần gũi [mà chưa bị hại ngay], nhưng người phụ nữ có những tính xấu như keo kiệt, đố kỵ, sân hận, siểm nịnh, yêu mị, ô uế, ưa tranh chấp, tham lam thì không thể gần gũi được.”
Kinh Tăng nhất A-hàm dạy rằng: “[Người xuất gia] đừng tới lui quan hệ thường xuyên với nữ nhân, cũng đừng cùng họ nói năng bàn luận. Ai có thể xa lìa được nữ sắc, ắt có thể lìa xa được tám hoàn cảnh khó tu tập.”
Kinh Trường A-hàm chép rằng: “Ngài A-nan thưa hỏi Phật: “Sau khi Phật diệt độ, nếu có người nữ đến thưa hỏi giáo pháp, nên làm thế nào?’ Phật dạy: ‘[Chỉ dạy cho họ nhưng] không nên gặp mặt.’ Ngài A-nan lại hỏi: ‘Nếu phải gặp mặt thì nên làm thế nào?’ Phật dạy: ‘Không nên cùng họ chuyện trò qua lại.’ Ngài A-nan lại hỏi: ‘Nếu phải trò chuyện thì nên thế nào?’ Phật dạy: “Phải luôn biết tự kiểm thúc tâm mình.’”
Kinh Mật nghiêm dạy rằng: “Nam nữ cùng đam mê ái dục, tinh huyết cùng hòa hợp sinh con. Như loài trùng sinh ra trong bùn nhơ, người sinh từ bào thai của mẹ cũng nhơ nhớp như vậy.”
Trên đây có sáu phần được trích dẫn từ kinh luận. Hai phần đầu tiên dạy khởi tâm bi mẫn đối với tất cả chúng sinh. Các phần thứ ba, thứ tư và thứ năm dạy người đoạn tuyệt cội gốc dâm dục. Phần cuối cùng kết lại bằng cách chỉ rõ sự bất tịnh của xác thân máu thịt giả tạm này.
2. Phần thứ hai: Quả báo của tội tà dâm.
Sách Pháp uyển châu lâm chép: “Đức Phật dạy rằng tà dâm có mười tội báo. Một là [gian dâm với người vợ] nên thường phải lo sợ bị người chồng giết hại. Hai là khiến cho vợ chồng nhà mình không hòa thuận. Ba là điều ác ngày càng tăng thêm, điều lành ngày càng giảm bớt. Bốn là [chết sớm khiến cho] vợ con phải cô độc không người chăm sóc. Năm là tài sản gia đình mỗi ngày một hao tổn. Sáu là mỗi khi có chuyện xấu ác xảy ra, thường bị người khác nghi ngờ cho mình. Bảy là bị bạn bè thân hữu khinh bỉ phỉ báng. Tám là rộng kết oán thù với nhiều người. Chín là sau khi chết phải đọa vào địa ngục. Mười là sau khi chịu tội ở địa ngục xong, nếu sinh làm thân nam thì gặp phải người vợ không trinh tiết, nếu sinh làm thân nữ thì gặp phải người chồng đa thê.”
Kinh Bát sư dạy rằng: “Kẻ tà dâm dan díu với vợ người khác, hoặc bị người chồng bắt được, lập tức phải gặp tai ương, gây họa lây đến cho cả người trong gia đình, thân tộc; hoặc bị pháp luật trừng trị, phải chịu hình phạt đau đớn khổ sở. Sau khi chết lại phải đọa vào những cảnh giới địa ngục, súc sinh, tùy theo mức độ mà chịu tội. Ví như sau đó còn chút may mắn được sinh trở lại làm người, ắt phải rơi vào cảnh nhục nhã xấu hổ vì vợ con dâm loạn. Nay ta thấy rõ [những sự báo ứng] như vậy nên không dám phạm vào tà dâm.”
Kinh Tát-già Ni-kiền tử dạy rằng: “Người nào không biết đủ với vợ nhà, tham muốn dâm dục với vợ người khác, đó là không biết hổ thẹn, sẽ phải thường chịu khổ não, không được an vui.”
Kinh Ưu-bà-tắc giới dạy rằng: “Nếu người nào có quan hệ tình dục vào thời gian không thích hợp, hoặc ở địa điểm không thích hợp, hoặc quan hệ với người đồng tính, hoặc với phụ nữ chưa chồng, đều gọi là tà dâm. Nếu quan hệ với vợ mình mà nghĩ tưởng đến vợ người khác, hoặc quan hệ với vợ người khác mà nghĩ tưởng xem như vợ mình, đó cũng là tà dâm. Những sự tà dâm như thế cũng có phân ra nặng nhẹ khác nhau. Do phiền não nặng nề, ắt phải chịu tội báo nặng nề. Do phiền não kém nặng nề hơn, ắt chịu tội báo kém nặng nề hơn.”
Kinh Niết-bàn dạy rằng: “[Nếu có] Bồ Tát nào, tuy không cùng nữ nhân làm chuyện dâm dục, nhưng khi nhìn thấy những cặp nam nữ mê đắm theo đuổi nhau liền khởi sinh tâm tham muốn vướng chấp, đó gọi là hủy phạm giới hạnh thanh tịnh.”
Kinh Tạo tượng công đức chép rằng: “Phật dạy Bồ Tát Di-lặc: ‘Có bốn nhân duyên khiến cho nam giới phải chịu thân bất lực, không có khả năng hành dâm. Một là hủy hoại tàn khốc thân thể người khác, hoặc thậm chí là các loài súc sinh. Hai là đối với các vị tỳ-kheo trì giới mà khởi tâm sân hận hoặc chê cười, hủy báng. Ba là buông thả tâm ý tham dâm quá độ, cố ý phạm giới. Bốn là gần gũi kết giao với người phạm giới, lại khuyến khích, xúi giục người khác phạm giới. Nếu có người đã lỡ phạm vào bốn điều ấy, nhưng sau đó khởi tâm thành tín tin sâu Tam bảo, tạo tác hình tượng Phật, [nhờ công đức ấy sẽ] không phải chịu quả báo như trên. Lại có bốn loại nghiệp có thể khiến cho nam giới phải chịu thân lưỡng căn, trong người mang cả hai căn nam nữ. Một là dâm loạn với các bậc tôn túc trưởng thượng của mình. Hai là quan hệ tình dục với người đồng tính. Ba là tự mình thủ dâm. Bốn là làm việc môi giới mua bán dâm. Nếu có người đã lỡ phạm vào bốn điều ấy, nhưng sau đó khởi tâm thành tín tin sâu Tam bảo, tạo tác hình tượng Phật, [nhờ công đức ấy sẽ] không phải chịu quả báo như trên.”
Trên đây có sáu phần được trích dẫn từ Kinh điển, ba phần đầu tiên nói về [những sai lầm tội lỗi] của người xấu ác, phần thứ tư nói về [sai lầm tội lỗi] của người phát tâm tu thiện, phần thứ năm nói về [sai lầm tội lỗi] của người xuất gia, phần cuối cùng khuyên sám hối nếu đã lỡ phạm vào tội lỗi.
3. Phần thứ ba: Công đức của việc giữ giới không tà dâm.
Kinh Thất Phật diệt tội nói rằng: “Người thọ trì giới không tà dâm có năm vị thiện thần đi theo bảo vệ. Các vị ấy có tên là Trinh Khiết, Vô Dục, Tịnh Khiết, Vô Nhiễm và Đãng Địch.”
Kinh Phật bát Nê-hoàn chép: “Phật dạy Nại nữ: Người không tà dâm có năm điều phước lành tăng trưởng. Một là được nhiều người khen ngợi, hai là không sợ quan quyền, ba là được sống yên ổn, bốn là sau khi chết được sinh lên cõi trời, năm là tu tập theo đạo thanh tịnh, chứng đắc Niết-bàn.”
Kinh Giới đức hương dạy rằng: “Người không tà dâm, không xâm phạm đến vợ người khác, dù sinh ra ở đâu cũng được hóa sinh từ hoa sen.”
Kinh Lăng nghiêm dạy rằng: “Nếu chúng sinh trong sáu đường luân hồi giữ tâm không tham dâm, ắt không bị lôi cuốn mãi trong tướng trạng sinh tử. [Tỳ-kheo] các ông tu tập pháp Tam-muội, vốn là để thoát ra khỏi chốn trần lao, nhưng nếu không trừ tâm dâm dục thì không thể thoát ra được. Ví như hiện tại có được nhiều trí tuệ thiền định, nhưng nếu không trừ dứt tâm dâm dục ắt sẽ bị lạc vào ma đạo. Nếu như cả thân và tâm đều dứt sạch động cơ hành dâm, cho đến dứt cả ý niệm về sự đoạn trừ, may ra mới có khả năng chứng đắc quả Phật Bồ-đề.”
Kinh Đề-vị dạy rằng: “Mỗi năm vào 3 tháng ăn chay, mỗi tháng vào 6 ngày ăn chay, hoặc dưới ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và các vì sao, cùng với các ngày bát vương, đều phải giữ gìn kiêng kỵ [không được hành dâm].”
Kinh Thiền yếu ha dục dạy rằng: “Người tu tập cầu đạo giải thoát, trì giới tu định, phải trừ dứt sáu sự ham muốn. Một là ham muốn ngoại hình xinh đẹp, hai là ham muốn dung mạo xinh đẹp, ba là ham muốn dáng vẻ xinh đẹp, bốn là ham muốn âm thanh tiếng nói dịu ngọt, năm là ham muốn sự xúc chạm mềm mại êm ái, sáu là ham muốn cử chỉ hành vi dịu dàng. Nếu rơi vào những sự ham muốn như thế, nên quán tưởng sự bất tịnh, ô uế [của đối tượng].”
Trên đây có sáu phần được trích dẫn từ Kinh điển. Hai phần đầu tiên nêu những phước lành hội tụ [đến với người giữ giới không tà dâm]. Các phần thứ ba và thứ tư nói đến việc xuất ly sinh tử [nhờ giữ giới không dâm dục]. Hai phần cuối cùng nêu rõ thêm phương pháp giữ giới.
4. Phần thứ tư: Tỉnh giác răn ngừa trong đời sống thế tục.
Kinh Bồ Tát ha sắc dục pháp có nói: “Sắc đẹp nữ nhân là gông cùm của người thế gian, những kẻ phàm phu tham luyến vướng mắc rồi không thể tự thoát ra được. Sắc đẹp nữ nhân là khổ nạn nặng nề của người thế gian, những kẻ phàm phu bị vây khốn vào đó thì cho đến chết cũng không dứt được. Sắc đẹp nữ nhân là mối tai họa nguy hiểm của người thế gian, những kẻ phàm phu đã vướng phải rồi thì mọi thứ tai ách khổ nạn đều theo nhau kéo đến. Người tu tập một khi buông bỏ được [sự tham luyến sắc dục] rồi, nếu lại còn khởi lên tà niệm thì chẳng khác nào như vừa từ trong lao ngục được thoát ra đã quay trở vào, như người điên loạn vừa được tỉnh táo lại tái phát bệnh cuồng điên như cũ.”
Lại cũng nói rằng: “[Quán xét] tướng trạng của sắc dục, lời nói thì dịu dàng như mật ngọt, nhưng bên trong ẩn chứa sự nguy hiểm độc hại, khác nào như vực sâu nước trong vắt im lìm nhưng có loài thuồng luồng dữ tợn ẩn náu [chực chờ hại mạng], lại cũng như núi vàng hang báu nhưng có sư tử hung bạo nằm phục [sẵn sàng giết người]. Gia đình bất hòa, nguyên do thường phát sinh từ sự đam mê sắc dục. Gia tộc suy bại là tội lỗi của sắc dục. Sắc dục chính là kẻ giặc nghịch ngấm ngầm diệt mất sự sáng suốt trí tuệ của người. Ví như tấm lưới giăng cao ngang trời, bầy chim vướng phải thì không còn được tự do bay nhảy. Lại như tấm lưới bủa dày dưới sông, cá tôm đã mắc vào thì chắc chắn phải bỏ mạng vì dao thớt. Cho nên, người có trí tuệ nhận biết rõ ràng sự nguy hại như thế mà khéo tránh xa, không để cho sắc dục mê hoặc.”
Kinh Đại Bảo Tích dạy: “Nên biết rằng sự đam mê sắc dục là cội gốc của muôn điều khổ não, là căn bản của mọi chướng ngại, là gốc rễ của sự giết hại, của sự trói buộc, của sự oán thù đối địch, của sự mù quáng si mê. Nên biết rằng, sự đam mê sắc dục sẽ diệt mất con mắt trí tuệ của bậc thánh. Nên biết rằng, sự đam mê sắc dục là đốm lửa [văng ra khi đập] sắt nóng, nằm vung vãi trên mặt đất đợi chân người giẫm phải [gây bỏng].”
Lại cũng dạy rằng: “Vì sao gọi là mê đắm [sắc dục]? Nói mê đắm có nghĩa là khiến cho người ta như mang vác thêm vật nặng, phải chìm đắm [trong dòng đời], bơi lội tới lui đều phải vất vả mang theo.”
Lại cũng nói rằng: “Ta quán xét trong cùng khắp các cõi thế giới, mối oán cừu lớn lao nhất của tất cả chúng sinh không gì hơn sự đam mê tham muốn sắc dục. Vì đối với nữ sắc bị đam mê trói buộc nên hướng về các pháp lành nảy sinh rất nhiều chướng ngại.”
Kinh Tứ thập nhị chương nói: “[Đức Phật dạy rằng:] Con người bị vướng mắc trói buộc với vợ con, tài sản còn ghê gớm hơn cả tù ngục giam cầm. Tù ngục giam cầm còn có kỳ hạn được thả ra, trói buộc với vợ con thì [vĩnh viễn] chẳng lúc nào nghĩ đến sự xa lìa.”
Kinh Đạo hạnh Bát-nhã dạy rằng: “Người tại gia ngày ngày đối diện với nữ sắc, trong lòng không được vui vẻ an ổn, thường phải lo lắng sợ sệt. Cũng giống như người phải đi qua vùng hoang vu rộng lớn, trong lòng thường lo sợ bọn giặc cướp.”
Trên đây có sáu phần được trích dẫn từ Kinh điển. Ba phần đầu tiên luận tổng quát về những mối nguy hại của sự đam mê sắc dục. Các phần thứ tư và thứ năm nói đến việc chúng sinh bị sắc dục trói buộc. Phần cuối cùng khơi dậy sự tỉnh giác sợ sệt đối với sắc dục.
Trích từ quyển An Sĩ Toàn Thư – Khuyên Người Bỏ Sự Tham Dục
Bạn hãy bỏ 1 Tiếng 43 Phút vào đây, để xem Tác Hại Nặng Nề Của Chứng Thủ Dâm: https://youtu.be/2F9ooYciHDM
Xin cảm ơn Quý đạo hữu rất nhiều a. A Di Đà Phật
CHƯ KINH PHẬT THUYẾT ĐỊA NGỤC TẬP YẾU
Mấy năm trước, cũng do tôi mời một vị đồng tu già của chúng ta, ông là nhà họa sĩ, là nhà họa sĩ nổi tiếng đương đại – Giang Dật Tử, vẽ một bức địa ngục biến tướng đồ, là dựa theo “Ngọc Lịch Bảo Sao” của Đạo gia mà vẽ ra, vẽ vô cùng đẹp, ông dùng thời gian 1 năm, vẽ tỉ mỉ. Sau khi bức họa này ra đời, vào lúc này tôi ở Úc Châu, tôi bỗng nhiên nghĩ đến trong kinh Phật, Phật đã nói về tình trạng địa ngục cho chúng ta có lẽ rất nhiều. Nhưng cửa Phật không có một cuốn sách để chuyên nói về sự việc này, cho nên tôi đã tìm mấy vị đồng tu tra trong “Đại Tạng Kinh”, đem “Đại Tạng Kinh” từ đầu đến cuối lật tra một lần, tìm ra 25 loại sách, bên trong nói về địa ngục, vả lại nói rất rõ ràng. Cho nên chúng tôi bèn đem những chỗ này chép ra biên tập thành một quyển, tôi đã đặt cái tên là “Chư Kinh Phật Thuyết Địa Ngục Tập Yếu”. Vào lúc đó trong tâm tôi nghĩ rằng, tương lai nếu gặp được người có cái duyên phận này, đem cái địa ngục mà trong kinh Phật nói này, vẽ một bức biến tướng đồ. Cái mà trong kinh Phật nói nhân quả rõ ràng. “Ngọc Lịch Bảo Sao” quả báo nói nhiều, cái quả này là do tội nghiệp gì, nhưng vẫn còn có cái thiếu sót, có cái nói rõ, có một số không có. Nhưng ở trong kinh Phật đều có, nhân như thế nào cảm quả ra làm sao. Đặc biệt là cái thời đại này giáo hóa chúng sanh để họ hồi đầu thị ngạn, thảy đều dựa vào lý luận nhân quả và chân tướng sự thật, phải dạy cái này. Lý luận hiểu rõ ràng rồi thì họ không hoài nghi, thật sự có. Sự tướng thấy rõ ràng thì họ biết sợ rồi, tâm sợ hãi sinh khởi lên rồi, không dám làm ác. Luân lý đạo đức là khuyên người không nỡ làm việc ác, nhưng khi danh cao, lợi dày bày ngay trước mắt, thì có khi sẽ bị động tâm, sẽ không giữ được, nhưng mà nhân quả hiểu rồi thì họ có thể giữ được. Tại sao vậy? Họ biết sợ. Họ nghĩ đến ta làm cái việc này, sau khi chết đọa địa ngục, họ biết sợ rồi. Cho nên giáo dục tôn giáo đối với thế đạo nhân tâm, đối với sự an nguy của xã hội, có sự cống hiến rất lớn, chúng ta cần tìm nó trở lại. Nếu không tìm nó trở lại, thì cái xã hội này động loạn, vô phương hóa giải.
(Pháp Sư Tịnh Không)
01. KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Cù-đàm Bát-nhã-lưu-chi
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Phẩm 3: ĐỊA NGỤC
Lại nữa, Tỳ-kheo kia tùy thuận tư duy về pháp quả báo của nghiệp, quán chánh pháp và phi pháp.
Thế nào là nghiệp ác? Vô lượng đủ loại nghiệp đều nhân nơi tâm mà lưu chuyển liên tục, như dòng sông chảy xiết lôi cuốn các chúng sinh, khiến họ mắc quả báo của nghiệp ác bị đọa vào địa ngục chịu khổ não cùng cực.
Tỳ-kheo kia quán nghiệp thiện, nghiệp bất thiện, ý tư duy tận tường: Các chúng sinh này vì sao bị tâm lừa dối, bị ái lừa dối phải rơi vào nơi chốn xấu ác, sinh trong địa ngục: Hoạt, Hắc thằng, Hợp, Khiếu hoán, Đại khiếu hoán, Tiêu nhiệt, Đại tiêu nhiệt, A-tỳ. Các địa ngục này có từng khu riêng biệt, đều có người giữ ngục, theo nghiệp tương tự, mỗi mỗi đều biết rõ.
Những nơi chốn địa ngục kia gọi là những gì? Chúng sinh do nghiệp gì, đến địa ngục gì và rơi trong chỗ nào?
Tỳ-kheo kia thấy, nghe, biết, hoặc thấy bằng Thiên nhãn: Có đại địa ngục tên địa ngục Hoạt. Địa ngục này có các chỗ riêng biệt.
Có bao nhiêu chỗ riêng biệt và chúng được gọi tên là gì?
Có mười sáu chỗ riêng biệt:
Thỉ nê.
Đao luân.
Công thục.
Đa khổ.
Ám minh.
Bất hỷ.
Cực khổ.
Chúng bệnh.
Vũ thiết.
Ác trượng.
Hắc sắc thử lang.
Dị dị hồi chuyển.
Khổ bức.
Bát-đầu-ma-man.
Pha trì.
Không trung thọ khổ.
Đây là mười sáu chốn trong địa ngục Hoạt. Chúng sinh do tạo nghiệp gì mà rơi vào địa ngục này?
Tỳ-kheo kia thấy, nghe, biết, hoặc thấy bằng Thiên nhãn: Ai vui thích tạo, tạo nhiều và phổ biến về nghiệp sát sinh, tạo nghiệp sát sinh này tương ưng hòa hợp thì bị đọa vào chốn căn bản của địa ngục Hoạt. Nghiệp sát sinh có thượng, trung, hạ và thọ khổ ở địa ngục cũng có thượng, trung, hạ.
Nghiệp ở địa ngục kia sao gọi là thượng? Người sát sinh nếu giết người hiền lành, giết người thọ giới hoặc người hành thiện, có tưởng về chúng sinh, về chúng sinh khác, có tâm sát sinh mà đoạn mạng căn của họ, tạo nên việc này, tâm không hối hận, còn đi đến chỗ người khác khen ngợi việc làm ấy rồi tiếp tục tạo tác. Người sát sinh còn chỉ dạy người khác sát sinh, khuyến khích việc sát sinh, theo đấy mà tùy hỷ, ca ngợi việc sát sinh hoặc sai người khác sát sinh. Người ngu si cũng như vậy, tự mình làm hoặc bảo người khác làm, nghiệp của tội đã thành hình, khi qua đời sinh trong địa ngục Hoạt.
Như vậy, năm mươi năm trong cõi người là một ngày đêm ở cõi Tứ Thiên vương. Số kia cũng như thế, ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm. Năm ngàn năm ở cõi Tứ Thiên vương là một ngày đêm ở địa ngục Hoạt. Vì nghiệp ác có thượng, trung, hạ nên thọ mạng ở đại địa ngục Hoạt cũng có thượng, trung, hạ, cũng có người chết nửa chừng, tùy theo chủng tử của nghiệp nhiều hay ít, nặng hay nhẹ. Trong địa ngục Hoạt, có người thọ khổ một chỗ, có người thọ khổ hai chỗ, hoặc ba chỗ, bốn chỗ, năm chỗ, sáu chỗ. Như vậy, chịu khổ đến mười sáu chỗ mà nghiệp ác vẫn chưa hết, chưa chết, tập khí của nghiệp vẫn còn.
Sống trong địa ngục ấy năm trăm năm, là dựa vào số năm của cõi trời chứ không dựa vào cõi người.
…
CHƯ KINH PHẬT THUYẾT ĐỊA NGỤC TẬP YẾU
01. KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ
Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Đại sư Cù-đàm Bát-nhã-lưu-chi
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Phẩm 3: ĐỊA NGỤC
(tiếp)
Lại nữa, Tỳ-kheo kia quán biệt xứ thứ hai trong địa ngục Hoạt tên là Đao luân, là quả báo của nghiệp đã tạo, chúng sinh do tạo nghiệp gì mà sinh vào chốn ấy?
Người kia thấy, nghe, biết, hoặc thấy bằng Thiên nhãn: Người nào có tâm tham của cải, vì nhân duyên như vậy mà giết hại chúng sinh, hoặc nhằm để nuôi mạng sống mà dùng dao sát sinh. Người kia làm như vậy nhưng không hề sám hối, lại dạy cho người khác giết, nghiệp nghiệp phổ biến, như trước đã nói. Vì người kia đã tạo nhân là nghiệp ác nên sau khi qua đời, đọa vào chốn Đao luân trong địa ngục Hoạt. Chốn này luôn bị lửa thiêu đốt, bốn bên là tường bằng sắt cao mười do-tuần. Nơi chốn thứ hai của địa ngục đó lửa luôn bốc cháy dữ dội. Lửa nơi thế gian đối với lửa ở đây giống như mây. Ở chốn này thường có lửa sắt ập đến bám vào thân của tội nhân. Lửa sắt nóng ấy bằm thân của họ nát vụn như hạt cải, cháy tan tơi tả.
Những trận mưa sắt giống như mưa mùa hạ trong cõi Diêm phù-đề. Mười phương của chốn thứ hai ấy, chỗ nào cũng có mưa sắt nóng rất là khổ não. Người trong địa ngục này tuy bị bằm vụn ra nhưng không chết, đó là do quả báo của nghiệp ác. Vừa bị bằm nát vụn ra như vậy thì người kia liền sống trở lại. Chốn Đao luân kia có rừng lá đao, lưỡi đao rất bén, lại có hai đầu nhọn hoắt quay trở xuống. Từ xa trông thấy rừng ấy như màu xanh và có nhựa như nước. Các tội nhân trong đó luôn bị đói khát bức bách, do cùng nghiệp khổ nên la hét chạy ùa vào trong rừng ấy. Vì nhân tạo nghiệp nên bị mưa đao phủ khắp chặt bằm thân thể họ.
Lại nữa, người kia vì tham đắm mạng sống của mình mà nuôi dưỡng chúng sinh thì đó là lừa gạt họ. Quả báo của nghiệp kia là như vậy. Tâm nghiệp nơi họa sĩ vẽ nên cảnh địa ngục, như vậy địa ngục là bức tranh của nghiệp bất thiện. Thọ báo trong địa ngục thuộc về nghiệp bất thiện. Chúng sinh ở trong địa ngục này thường bị bằm nát, trải qua vô lượng trăm ngàn năm mà nghiệp ác vẫn chưa tan hoại, tập khí của nghiệp chưa dứt sạch, như tâm nghiệp nơi họa sĩ vẽ văn hoa không mất. Nói rộng như trước.
…
Lại nữa, Tỳ-kheo kia quán biệt xứ thứ tư trong địa ngục Hoạt tên là Đa khổ. Chúng sinh vì nghiệp gì mà sinh vào chốn này? Do chủng tử của nghiệp nhân như thế nào thì đưa đến quả báo tương tự thế đó. Như người tạo vô số khổ bức bách chúng sinh nhưng mạng sống của chúng sinh kia vẫn không diệt. Đó là bị cây đè nặng khiến người kia bị khổ. Hoặc dùng dây treo lên, dùng lửa thiêu đốt, cột tóc họ rồi kéo lên cao. Hoặc hun bằng khói, hoặc kéo chạy mau trên đường, hoặc bỏ trong gai gốc trên đất khiến cho khổ não. Hoặc đánh nhào xuống đất, hoặc từ trên sườn núi cao nguy hiểm xô xuống. Hoặc lấy kim chích, lấy dây cột, khiến cho voi đạp, hoặc quăng lên hư không để rơi chưa tới đất, lại dùng dao hứng lấy khiến tội nhân chịu khổ não. Hoặc vùi trong cát, hoặc lấy đá đè lên, lấy gậy đánh đập, hoặc kẹp đầu, hoặc cho lũ trẻ trêu chọc xô đánh, làm cho khổ não. Hoặc bỏ trong chỗ nóng phỏng, hoặc bỏ trong nước đá băng, hoặc lấy nước ngâm, nhận chìm trong nước. Hoặc lấy áo nước bịt mặt nhét vào miệng. Hoặc cột dính vào cây, hoặc treo lên cành cây, khiến cho khổ não. Hoặc làm cho sợ hãi, từ sườn núi cao nguy hiểm rớt xuống chỗ sâu thẳm. Hoặc giao cho giặc oán khiến họ dùng những phương cách trị phạt rất khổ sở. Hoặc cắt âm căn, rút móng tay, nhổ lông, dùng bánh xe sắt lăn cắt đầu khiến thọ khổ não. Hoặc lấy nước chì, thiếc, đồng, sắt nung sôi rưới lên thân thể tội nhân. Hoặc cắt mũi, hoặc lấy lưỡi sắt bén, mũi cây nhọn… đâm xuyên qua chỗ đại tiện khiến bị khổ não. Hoặc ngâm trong nước, hoặc lấy dây cột từ trên cao kéo xuống. Hoặc lấy lửa đốt xung quanh râu, hoặc nhổ tóc, hoặc bỏ trùng dữ vào thân để chúng cắn. Hoặc lột da, hoặc xô hoặc kéo, hoặc khiến cho thân thể lắc lư ngã nghiêng, hoặc bỏ vào trong nồi dùng lửa nấu khiến cho khổ não. Hoặc đánh đập rồi lấy muối xát vào người. Hoặc lấy bụi, lấy đất, bột… nhét vào miệng, mặt. Hoặc lấy ống tre đặt trong chỗ đại tiện, thổi cho nó phồng lên. Hoặc dùng dao bén cắt ngón chân. Hoặc bắt dùng hơi thổi nhưng không cho phát ra tiếng. Hoặc lấy đá nổi mài mạnh lên thân thể.
Hoặc chặt cả tay chân, hoặc đuổi chạy dài, ngăn cản việc cần làm. Hoặc cột vào cổ họng kéo qua lại trong đám hoa hoàng lam. Hoặc lấy thứ mỡ béo pha tạp đủ loại rót vào miệng. Hoặc lấy tất cả của cải, bằng vàng, vật báu. Hoặc đánh, hoặc đè, hoặc làm các thứ để mua vui. Hoặc đánh, bắn, hoặc đánh cho sưng lên, sưng rồi đánh tiếp. Hoặc lấy dây cột từ trên chỗ rất cao xô rơi xuống đất khiến bị khổ não. Bị vô lượng các thứ khổ não như vậy vì đã tạo những bức bách khổ nạn cho chúng sinh. Người kia do nhân tạo nghiệp ác, sau khi qua đời, bị đọa vào chốn Đa khổ thuộc địa ngục Hoạt. Theo nghiệp ác tương tự thế nào thì chịu quả báo tương tự thế đó. Chốn thứ tư của địa ngục này có vô lượng trăm ngàn các loại quả báo không thể nói hết.
Tất cả khổ não kia do mình tạo thì chính mình nhận quả báo. Cảnh giới địa ngục kia tâm nghiệp nơi họa sĩ dùng bút ái mà vẽ, do phân biệt bất thiện mà thành tất cả màu sắc. Yêu thương vợ con, cho là thứ đẹp đẽ, chấp trước vào đó cho nó là lâu bền. Mình tạo nghiệp thì chính mình chịu khổ, chẳng phải do cha mẹ tạo. Nghiệp ác chưa hoại, chưa tan, tập khí của nghiệp chưa dứt, ở trong các thời luôn bị khổ não không dừng nghỉ. Chốn ấy thoái chuyển, nếu ở đời quá khứ từ xa xưa về trước có nghiệp thiện thành thục thì không bị đọa vào ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong cõi người ở nơi đồng nghiệp thì thọ nghiệp còn sót lại, thường bị pháp vua trị phạt, hoặc đánh, trói, lo sợ, tranh giành, bị mọi người vu khống, thường bị khổ não, bị hàng Thiện tri thức, vợ con, quyến thuộc, bạn thân oán ghét.
Lại nữa, Tỳ-kheo kia quán biệt xứ thứ năm trong địa ngục Hoạt tên là Ám minh, là quả báo của nghiệp kia. Chúng sinh vì tạo nghiệp gì mà sinh vào chốn ấy?
Người kia thấy, nghe, biết, hoặc thấy bằng Thiên nhãn: Vì chúng sinh theo tà kiến nên bị nghiệp quả điên đảo. Nghĩa là trong các buổi tế lễ, trai hội của ngoại đạo, họ bịt miệng mũi dê để giết, hoặc kẹp rùa giữa hai khối đá đè khiến nó chết. Người kia vì nhân duyên tạo nghiệp ác mà sau khi qua đời bị đọa vào chốn Ám minh thuộc địa ngục Hoạt, bị lửa dữ thiêu đốt. Do nghiệp ác nên có gió dữ dội thổi, như núi kim cương hợp lại nghiền nát thân tội nhân vụn ra như rải cát, không bao giờ được chút vui. Tội nhân trong chốn ấy không hề thấy nhau, bị gió nóng bức thổi đến, như bị dao bén cắt khiến thân lìa từng phần. Thân bị nóng bức, đói khát, hết sức kêu gào nhưng không sao phát ra tiếng, như miệng con dê bị nhét, con rùa bị đè, thường bị lửa lớn thiêu đốt, luôn bị đè nặng trải qua vô lượng trăm ngàn năm, thường ở chỗ tối tăm, cho đến không có chút ánh sáng nhỏ như lỗ hổng của đầu ngọn kim. Từ khắp lỗ chân lông trên thân, cùng một lúc lửa khắp thân phát ra trở lại thiêu đốt thân. Thọ khổ như vậy cho tới khi nghiệp hết đều là do tâm khỉ vượn tạo ra. Tâm khỉ vượn kia đi trong núi kết sử. Núi kết sử là chỗ ẩn núp cao nhất của tâm kiêu mạn huyễn hoặc cho là bền chắc. Núi ác tà kiến là chỗ nó hoạt động, chỗ đi lại của nó là trong rừng kiêu căng phóng dật. Trong hang núi sân là chỗ nó ở. Công đức của tâm ganh ghét cho là các quả, bị trôi nổi trong sông ái, bị nghiệp bất thiện nhận chìm, cho đến khi nghiệp ác bị hủy hoại, ly tán mới thoát khỏi chốn Ám minh của địa ngục ấy. Nếu ở quá khứ từ đời trước lâu xa có nghiệp thiện thành thục thì không sinh vào hàng ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh trong loài người thì luôn bị trói buộc do nghiệp quả còn sót lại nên thân mạng hay bị chết yểu.
Về vấn đề nhân quả bị ngứa trong người khi ăn hải sản con tìm trên google kg thấy thưa thầy.kg biết là nhân qủa bị ngứa trong người là thế nào thầy
A DI ĐÀ PHẬT
Bạn Toàn hoan hỉ đọc kỹ câu chuyện Báo Ứng Hiện Đời dưới đây để tìm ra nguyên nhân nhé.
ĂN THỊT CHƯỚNG NGẠI THIỆN CHUNG
Có một phụ nữ hơn 50 tuổi, từng niệm Phật nhiều năm, hiện đang mắc bệnh tiểu đường. Hòa thượng Diệu Pháp bảo là do bà sát sinh quá nặng mà chiêu cảm nên.
Bà kể mình hồi nhỏ nhát gan, ngay cả con sâu cũng không dám giết. Khi Sư phụ hỏi bà có thường ăn thịt cua sống ven biển hay không? Bà kinh ngạc sững người. Liền khai ra mọi sự.
Con gái bà được phái qua Nhật Bản mấy năm, năm nào cũng rước bà qua Nhật chơi một tháng, do bà không ăn thịt, nên con gái bà tuần nào cũng lái xe đưa bà ra nhà hàng hải sản tươi sống ven biển. Còn giải thích là ăn thịt cua chưng cách thủy, đâu do mình giết nó.
Hòa thượng Diệu Pháp bảo bà:
– Những con cua biển đó nhân vì thực khách đòi ăn, nó mới bị bếp sư hấp chết.
Ngài lại bảo:
– Những món này dù là khi mua bà thấy nó đã chết, hay dù mua từ ngăn đông lạnh, hoặc được người làm xong cho bà ăn chín, nếu nói một cách nghiêm ngặt, đều tính vào tội tạo nghiệp sát sinh cả. Bởi vì nếu như người ăn giảm thiểu, thì hành vi sát cũng ít đi. Nói cho rốt ráo thì ăn thịt động vật chính là tạo nghiệp sát sinh!
Sư phụ thấy bà vẫn còn ngơ ngác chưa hiểu, liền khai thị tiếp:
– Có người sát sinh rất nhiều, thậm chí chỉ làm công việc “phụ sát sinh”, nhưng hiện tại thấy họ rất mạnh khỏe. Song có người mới giết qua một lần loài động vật nào đó, hoặc vừa mới ăn qua loại thịt nào đó, thì bệnh lại phát ra.
Nguyên nhân là do nghiệp lực và phước báo mỗi cá nhân tích lũy không đồng. Giống như có người mỗi ngày uống 1 cân rượu trắng, ngày ngày đều uống, trong thời gian ngắn vẫn không sao, nhưng có người ngay cả nhấm chút rượu thậm chí đến rượu bia cũng không uống được, hễ uống là say. Đây chính là do mỗi cá nhân tửu lượng không đồng.
Nhưng đối với hạng người có sở thích không tốt, ưa tạo nghiệp sát sinh, ưa ăn thịt động vật, thì sớm muộn gì quả báo cũng đến! Vì tham ăn ngon, muốn khoái khẩu mà người ta mặc tình tàn sát động vật, do thèm ăn mỹ vị máu tanh mà tự chiêu vào mình mồng mống oán hận, họa tai. Nên nói: “Bệnh từ khẩu nhập” là vậy.
Hòa thượng lại hỏi bà:
– Nhà bà có lư hương đồng giả đồ cổ không?
– Dạ có, bà lộ vẻ rất kinh ngạc, hai mắt nhìn Hòa thượng trân trối.
– Bà cất nó ở đâu?
– Hình như trên sân thượng!
Khi bà về mau lấy rửa sạch để ráo. Phàm là đồ cúng, nếu không dùng, cần bảo tồn, xử lý cho ổn. Hoặc là chuyển tặng cho người, đừng tùy tiện đặt để bừa bãi, như vậy là không cung kính.
Hòa thượng nói tha thiết:
– Tôi đã nhắc bà hai điều, nếu như biết lỗi sám hối, bệnh bà sẽ dần chuyển tốt. Nếu muốn thật sự khỏe mạnh, thì nên dứt hẳn thịt cá, ăn chay trường. Ăn thịt chúng sinh mà niệm Phật, là tham dục chẳng đoạn, tội lỗi không đoạn. Danh hiệu Phật và tâm khó thể tương ưng. Dù niệm hơn trăm năm cũng khó về cực lạc.
Tại Hương Cảng và ngoại thành Cửu Long thường có người đem tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, Tổ sư Đạt ma, Tế công…Tùy tiện bỏ ngoài ven lộ. Làm thế là không cung kính. Xin hãy cẩn thận tránh điều này. Hy vọng quý vị biết sai liền sửa, Bồ-tát là người tự giác bổn tính, khéo phổ độ, như Địa Tạng Vương Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, đều là các bậc đại Bồ Tát hóa độ chúng sinh thoát ly khổ nạn.
Kiếp người nhiều đau khổ, may là trong biển khổ còn có Bồ Tát trợ giúp. Đời nay có thể được thân cận, nghe danh Bồ-tát chính là nhờ quý vị nhiều đời tu thiện căn, tạo phúc đức nhân duyên sâu, mới có được điều đáng quý khó được. Bồ-tát là đệ nhất bảo tàng trong nhân thế. Nếu quý vị đem tượng Bồ-tát vứt bỏ ngoài đường, nghĩa là vứt bỏ bảo tàng, đoạn mất duyên lành, tổn thất lớn nhất vẫn là bản thân. Thực rất đáng tiếc. (Trích Báo Ứng Hiện Đời của Quả Khanh)
Mấy sư huynh cho em hoi. Việc đuổi kiến ấn quang đại sư dạy nhu thế nào ạ. Cho em địa chỉ nhé. Cảm ơn su huynh
Trích Liên Tông Thập Tam Tổ – HT Thích Thiền Tâm dịch:
“Về phần linh cảm, năm Đại sư bảy mươi tuổi được Tăng chúng thỉnh về chùa Báo Quốc. Và cuối mùa hạ, nơi đây sanh ra loài rệp rất nhiều. Từ gối chăn màn nệm, đến cửa sổ án kinh, đâu đâu cũng thấy chúng bò lai vãng. Hàng đệ tử thương ngài tuổi già sợ không kham chịu sự quấy nhiễu, xin vào để tìm cách thâu nhập. Đại sư không chấp thuận, chỉ yên tâm niệm Phật cầu nguyện cho chúng đi, không bao lâu loài rệp đều tuyệt tích. Ngoài thời niệm Phật, ngài thường tụng chú Đại Bi vào tàn hương, gạo, hoặc nước, để cứu những bịnh nặng mà các y sĩ đều bó tay. Mỗi lần như thế đều ứng nghiệm kỳ lạ. Một hôm, nơi lầu Tàng Kinh chùa Báo Quốc, phát hiện ra vô số mối trắng. Ngài hay được liền trì chú Đại Bi trong nước, bảo đem đến vẩy vào chúng. Loài mối đều kéo nhau bỏ đi nơi khác.”
SÁM HỐI VĂN
(Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội)
1. Đệ tử ______ tại trước Phật cầu sám hối, con xưa đã tạo bao ác nghiệp, đều do vô thủy tham sân si, bởi thân khẩu ý phát sinh ra, hết thảy con nay nguyện sám hối.
2. Đệ tử _______ nay tại trước Phật hướng tất cả chúng sinh hữu duyên chân thành sám hối xin lỗi: (Từ vô lượng kiếp đến nay cố ý, vô ý, đã giết, đã hại, đã ăn, đã ô nhục, đã đánh chửi cùng vứt bỏ hết thảy chúng sinh hữu duyên)
3. Bởi vì tôi đời quá khứ không được nghe Phật pháp, cho nên đối với chúng sinh trong vô lượng kiếp đã làm ra những hành vi tàn khốc. Tôi đời này may mắn nghe được Phật pháp, tôi nguyện ý cùng quý vị cùng nhau chia sẻ giáo dục trí tuệ chí cao, viên mãn của Phật Đà đối với chúng sinh. Để chúng ta cùng nhau phát vô thượng bồ đề tâm (chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi, nhìn thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên, niệm Phật). Chân thành niệm A Di Đà Phật cầu vãng sinh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đi học Phật, làm Phật, vĩnh viễn thoát ly lục đạo luân hồi thống khổ.
4. Đồng thời, tôi cũng đại biểu quý vị ở trước chư Phật, Bồ Tát cầu sám hối, nguyện cùng hết thảy chúng sinh hữu duyên từ vô lượng kiếp đến nay, từ nay về sau rộng kết thiện duyên, cùng nhau tu hành, cùng niệm Phật, thành Phật, cùng sinh cõi Cực Lạc.
5. Nguyện dưới Phật lực gia trì chúng ta có thể hóa giải oan kết, không cần lại oan oan tương báo không dứt, đây đối với chúng ta lẫn nhau đều không có ích, sẽ chỉ làm chúng ta lâm vào thống khổ càng sâu.
6. Hi vọng hết thảy chúng sinh hữu duyên từ vô lượng kiếp đến nay đều không thống khổ, đều phát tâm đại từ bi, mau chóng nhập Phật môn, niệm Phật, thành Phật, vãng sinh Tây Phương Tịnh Độ.
7. Vô luận như thế nào tôi đều sẽ phát nguyện cầu sinh Tịnh Độ, tôi sẽ thừa nguyện tái lai trợ giúp tất cả chúng sinh khổ nạn vãng sinh Tây Phương Tịnh Độ.
8. Thỉnh đại chúng chân thành tin lời dạy của Phật, Giới Định Huệ tam học, Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện, Tín Nguyện trì danh, cầu sinh Tịnh Độ, thân cận Di Đà. Đây là cơ hội duy nhất chúng ta có thể vĩnh viễn thoát ly biển khổ.
9. Tôi có lỗi với các vị, tôi hướng các vị chân thành sám hối xin lỗi.
10. Thỉnh mọi người theo tôi đồng loạt quy y Tam Bảo:
“Đệ tử con Diệu Âm bắt đầu từ hôm nay đến tận vị lai
Quy y Phật, không đọa địa ngục. Quy y Pháp, không đọa ngạ quỷ. Quy y Tăng, không đọa bàng sinh”. (Niệm ba lần)
11. Mặc niệm: A Di Đà Phật ﹒﹒﹒﹒﹒﹒﹒﹒﹒﹒
(Đề nghị: Sau mỗi khóa sáng tối, mỗi câu sám hối văn niệm ba lần)
NHỜ NIỆM PHẬT THOÁT KHỎI SỰ BÁO THÙ CỦA CÁ NGÁT
Tôi sinh năm 1982. Ngay từ thời bé tí tôi rất có hứng thú đối với Phật pháp. Mười mấy tuổi thì bắt đầu tiếp xúc Phật giáo, lúc xem Lục Tổ Đàn Kinh thấy dễ hiểu, đối với kinh văn rất ưa thích.
Nhưng bản thân nghiệp chướng còn sâu nặng, nên tôi chưa thực sự tu trì, bởi dù có xem sách, kinh tôi chỉ hiểu cạn cợt bên ngoài.
Mãi đến năm 2009, tôi có duyên lành gặp thầy Tịnh Không nghe giảng kinh Vô Lượng Thọ và cánh cửa lớn về đường sinh mệnh mới bỗng đại khai trước mắt tôi.
Lúc đó tôi tập tu niệm Phật, nhưng phát tâm chưa đủ mạnh, trì niệm không liên tục và hay gián đoạn, tâm tiến thủ không tăng. Mãi đến sau khi trải qua kinh nghiệm báo ứng rồi, tôi mới thực sự thay đổi trên đường tu:
“Mùa đông năm 2009, tôi theo chú đến Thẩm Quyến tạm trú. Chú rất ưa câu cá. Một chiều nọ chú câu trong hồ được con cá ngát nặng 8 kg, đem về nhà. Vì quá ngu si nên tôi hớn hở ra tay giết nó. Khi tôi đập đầu nó liên tục 7, 8 cái, nó giẫy giụa rất dữ. Lúc đó trong lòng tôi niệm sân bừng bừng khởi, muốn trừng trị nó cho hả giận, nên thẳng tay xuống đao.
Ba ngày sau, tối đó tôi nằm ngủ, đang mơ màng thì bỗng cảm giác như có một đôi tay to lớn, không ngừng đấm, nện, véo, ngắt tôi….còn dùng thân thể quái dị, cực nặng của nó đè lên tôi. Trong lòng rất sợ nhưng không biết làm sao. Tôi vội niệm Nam Mô A Di Đà Phật…. liên tục. Tôi niệm mãi, không dám nghĩ gì khác. Khoảng 10 phút trôi qua, thì thấy bên ngoài cửa sổ phía trước tôi xuất hiện ánh bạc quang, vầng sáng này không chói mắt, ấm áp, khiến người ta cảm thấy dễ chịu, lòng trở nên an tĩnh và từ dung đức Phật hiện ra, trang nghiêm vô tả, trước Phật còn hiện ra một ao nước, bên trong có rất nhiều hoa sen, mỹ lệ vô cùng, ngay giây phút đó tất cả hoảng sợ trong lòng tôi đều tan biến”.
Trải qua kinh nghiệm đó rồi, tôi hiểu rõ nhân quả có thực không dối, nếu không nhờ Phật, Bồ Tát cứu, ắt tôi đã gặp rắc rối lớn, thế là tôi dũng mãnh sám hối hành vi sát sinh, tụng kinh hồi hướng cho những chúng sinh bị mình giết.
Kể từ đó, tôi phát khởi tin tâm kiến cố đối với Phật pháp và luôn tin Phật, Bồ Tát luôn ở bên chúng ta, lúc nào cũng sẵn sàng trợ giúp, chỉ cần ta nhất tâm tu hành, niệm danh hiệu Ngài miên mật thì cảm ứng sẽ phát sinh, sẽ được uy lực các ngài che chở.
Chưa rõ tác giả
Thấy người khác sát sanh hãy niệm A Di Đà Phật thì con vật ấy được thọ sanh
Theo Long Thư Tịnh Độ Văn, vào đời Đường, quan Quân Điển của Nhiêu Châu là Trịnh Lân chết rồi vào cõi âm. Tra sổ thì ra bắt lầm, bèn được thả về. Vua (Diêm La Vương) khuyên nhủ: “Ngươi sống lại hãy gắng sức làm lành. Thấy người khác sát sanh, chỉ nhất tâm niệm A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát thì con vật ấy được thọ sanh mà ngươi cũng được phước”.
Trích Quán Thế Âm Bồ Tát Bổn Tích Cảm Ứng Tụng
Biết trước ngày giờ vãng sanh – Kỳ tích vãng sanh Cư sĩ Dương Hồng Mai
https://www.youtube.com/watch?v=Qfs8gr3sFSs
Pháp Ngữ Hòa Thượng TỊNH KHÔNG
PHÁP MÔN MỘT ĐỜI THÀNH PHẬT
Pháp môn niệm Phật vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc chính là pháp môn ngay đời này thành Phật, là pháp môn đệ nhất tất cả chư Phật tiếp dẫn chúng sanh, không hề quanh co uyển chuyển, dạy bạn ngay một đời chứng được cứu cánh viên mãn. Bạn nghĩ xem pháp môn này thù thắng dường nào.
Tuy nhiên pháp môn này nhất định chỉ độ chúng sanh căn tánh chín muồi. Làm sao biết chúng sanh căn tánh chín muồi? Sau khi nghe dạy, họ tin tưởng, tuyệt nhiên không hoài nghi, liền có thể phát nguyện không thoái chuyển. Họ dõng mãnh tinh tấn thành thật niệm Phật, không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Bổn tông gọi họ là chúng sanh căn tánh chín muồi, nói cách khác, duyên của họ làm Phật hiện tại đã chín muồi. Rất không dễ dàng. Họ không làm Bồ Tát, A La Hán mà làm Phật. Kinh Di Đà nói “không thể thiếu thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh nước kia”. Họ là thiện căn, phước đức, nhân duyên. Ba điều kiện chủ yếu đồng thời đầy đủ nên nhất định được sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc bất thoái thành Phật. Cứ hễ sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc liền làm Phật, dù hạ hạ phẩm vãng sanh. Trong 48 nguyện của kinh này, Phật A Di Đà cho biết, người vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát. Thực ra A Duy Việt Trí chính là Phật, không phải Bồ Tát thông thường.
Cho nên chư Phật Như Lai nói pháp môn này khó tin. Đương nhiên khó tin vì duyên làm Phật chưa chín muồi nên họ không tin tưởng. Chỉ có người làm Phật tin tưởng, còn không phải người làm Phật thì không tin tưởng. Đạo lý là như vậy. Người căn tánh Bồ tát không tin tưởng, người căn tánh Thanh Văn, Duyên giác đương nhiên càng không tin tưởng. Chỉ người căn tánh nhất Phật thừa mới tin sâu không hoài nghi. Họ cúng dường chư Phật qua việc xưng niệm một danh hiệu này, “một niệm tương ưng một niệm Phật”. Niệm này cúng dường hư không pháp giới mười phương ba đời tất cả chư Phật, gọi là pháp môn bình đẳng phổ cúng tất cả chư Phật Như Lai.
=A DI ĐÀ PHẬT=
Trích từ trang web https://adidaphatweb.wordpress.com
a di đà phật
nếu 1 người đã từng học phật rồi sai lầm mà đoạn địa ngục lúc xuống địa ngục rồi mà nhớ những gì mình đã học mà trì chú kinh phật thì lúc đó còn có thể được sớm thoát khỏi địa nục không ạ?
với đứa bạn có lần đã hỏi con, làng có 1 người chuyên làm chuyện xấu ăn trộm đánh nhau sau đó chết trẻ, có vài lần người đó nhập vào 1 người trong làng và nói giờ đã là quỷ nên nó hỏi con sao có diêm vương quản rồi mà họ vẫn lên trần hại người được ạ.
chuyện thứ 3 con từng nói sẽ thích 1 người không phải vì người đó xấu, không tốt, hoàn toàn ngược lại. chung tình , tóm lại tốt mọi mặt và được nhiều người để ý đến nhưng ngay nói chuyên cũng không nói được với người đó con lại nhìn mình không có gì so với những người đó ngay và với người con thích con cũng không bằng nên nghĩ chắc người ta sẽ gặp người tốt hơn mình. con làm quen được với người đó nhờ 1 cái gì đó con cũng không hiểu ở gần ai đó thì có thể cảm nhận được cảm xúc suy nghĩ người khác có thể thay đổi tính mình rất nhanh phù hợp với hoàn cảnh vì hiểu được con mới chia sẻ và làm quen được với người đó, còn nhiều thứ rất dài nữa. nhưng vì thế cuộc sống con đã hơn 3 năm buồn mặc dù người ta vẫn tốt, nhưng nếu sau này không bỏ được con sẽ phải như vậy mãi, có cách nào để con buông được không ạ? nhưng không phải bỏ lời đó nha, dù lỡ lời hay gì con vẫn muốn giữ lời mình đã nói cũng vì ghét mấy người nói không làm.con cũng ghen nữa, lúc trước thì chơi vui vẻ bây giờ như những đứa đó cách ly mình giống như trong cuộc sống này không còn ai cần đến sự tồn tại của con nữa, không sao mà buông được có cũng chỉ rất ít thời gian.