Vĩnh Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì đều là những thiền sư nổi tiếng bên Thiền Tông sau khi tham thiền đạt ngộ, chuyển hướng niệm Phật cầu vãng sanh. Phải biết pháp môn niệm Phật là nhiệm mầu và hợp cơ với chúng sanh thời mạt pháp đến dường nào. Quí Tổ sư là bậc thạc đức cao tăng mà còn niệm Phật mong cầu sanh về Tây Phương huống hồ chi ta là hàng hậu học phước mỏng tội dày; vả lại, hàng cư sĩ tại gia duyên nghiệp chồng chất mà không mong hướng về Tây Phương Cực Lạc thì còn đường nào khác để đi?
Hầu hết Bắc Tông Phật giáo bao gồm tu sĩ và cư sĩ hằng ngày đều niệm câu “Nam mô A Di Đà Phật” ít nhất là trong lúc chào hỏi gặp nhau. Điều này cho thấy là pháp môn Tịnh Độ đã ăn sâu vào tư tưởng của người Phật tử. Tuy hầu hết đều biết niệm câu “Nam mô A Di Đà Phật” nhưng không biết mục đích của sự niệm Phật nên thường hay rơi vào những trường hợp như sau:
Vậy chúng ta phải niệm Phật như thế nào mới đúng tinh thần mong cầu của mình và hợp với bản nguyện của chư Phật xuất thế độ sanh trong mười phương thế giới ba đời?
Chư Phật trong mười phương ứng thân nhập thế là vì muốn cho tất các chúng sanh đi vào đạo quả giải thoát, liễu sanh thoát tử. Bản nguyện này nói rất rõ trong kinh Pháp Hoa. Chư Phật nhìn thấy chúng sanh sẵn có đầy đủ các đức tướng Như Lai; nhưng, vì nghiệp duyên trần lao trói buộc nên mãi chịu sống loạn thác cuồng trong mê lầm ảo ảnh. Khi có được chút ít thiện duyên phước đức thì sanh lên các cõi Trời hưởng phước, tuy nhiên khi hết phước thì cũng bị đọa lạc trong vòng ba ác đạo. Nếu thiện duyên không có, mà ác nghiệp lại nhiều thì con đường ác đạo mở cửa đón chờ. Cho nên, Thế Tôn muốn cho chúng sanh trong sáu nẻo luân hồi thật sự phải đoạn trừ sanh tử. Đoạn trừ sanh tử ấy là chứng quả vị A La hán, nhưng quả vị A La Hán chỉ có những vị xuất gia mới chứng được, còn lại đa số quần chúng Phật tử thì lại không đạt được. Đoạn sanh tử thiền gia gọi là kiến tánh chứng ngộ, nhưng mấy ai mà thiền tọa được chứng ngộ, họa chăng cũng chỉ dành riêng cho hàng tu sĩ xuất gia mới có đủ công năng thiền tọa đến chỗ kiến tánh chứng ngộ còn lại đa số quần chúng thì không. Nhìn chung cũng chỉ rất ít người xuất gia thiền tọa kiến tánh chứng ngộ, mà đa phần phải nhập thai chuyển thế để tiếp tục tu; nhưng thời mạt pháp, Phật pháp dần dần đi vào chỗ suy tàn theo định luật tự nhiên: thành, trụ, hoại, không của vạn pháp. Vậy chuyển thế để tiếp tục tu, con đường nghịch cảnh khó khăn vạn lần, trăm người chuyển thế một vài người chứng ngộ. Đa số quần chúng tu tập theo thiền tọa thì nhiều lắm cũng chỉ đạt được chút ít định tâm; nhưng định tâm thì giống như lấy đá đè cỏ, cỏ tuy không mọc nhưng cội rễ vẫn còn, gặp duyên tảng đá bị lăn đi nơi khác thì cỏ liền mọc trở lại. Cho nên biết rằng chỉ có pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương là dễ dàng và phổ cập cho mọi tầng lớp từ kẻ xuất gia đến người tại gia cư sĩ muốn mong cầu đoạn trừ sanh tử chứng quả Niết Bàn ở thời đại mạt pháp này. Vậy nên niệm Phật mà chỉ mong cầu chút ít phước báo ở cõi trời hoặc cõi người; hay niệm Phật mà mong cầu chuyển thế làm vị cao tăng đều là phí công chưa đúng mức của sự niệm Phật, mà, cũng không hợp với bản nguyện độ sanh của chư Phật. Hành giả phải một lòng phát đại hùng tâm; tín, hạnh, nguyện đầy đủ mong quyết xả bỏ thân ngũ uẩn giả tạm đời này ở thế giới Ta Bà mà cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc, nhập vào đại chúng bất thối Bồ Tát; việc này rất phù hợp với bản nguyện của chư Phật xuất thế độ sanh. Khi đã nhập vào đại chúng bất thối Bồ Tát thì con đường chứng quả Phật đạo không còn xa, lúc ấy hành giả cũng có thể ứng thân trở lại thế giới Ta Bà mà không sợ bị ác duyên làm mê muội.
Như vậy, hiện tại là đến thời kỳ mạt pháp, chướng duyên nghịch cảnh trùng trùng, ác hữu ác nhân đầy dẫy, kẻ tu thì nhiều, người chứng đạt thì quá ít; phần nhiều xuôi theo thế tục, hoặc họa lắm thì chỉ hiểu trên văn chương chữ nghĩa; hay nói đến thiền tọa hình như chỉ còn là phong trào, còn sự chứng ngộ kể như ánh sáng đom đóm ở giữa đêm đen. Do vậy, đại chúng đồng tu có tâm mong cầu đoạn sanh tử trong một đời thì không còn pháp môn tu nào thuận tiện và dễ dàng cho quí vị hơn là pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc gặp Phật Di Đà.
Ấn Quang đại sư, một bậc cao tăng cận đại, là Tổ thứ mười ba của Tịnh Độ Tông ở Trung Hoa có dạy: “Thời mạt pháp, chúng sanh nghiệp nặng, tâm tạp; nếu ngoài pháp môn niệm Phật mà tu các pháp môn khác, chỉ gieo được phần trí tuệ, phước đức căn lành thì có; nhưng phần liễu thoát sanh tử luân hồi trong hiện thế thì không. Tuy có một vài vị cao đức phi thường, song đó chỉ là những bậc Bồ Tát hiện thế mà làm mô phạm cho chúng sanh, như kinh Lăng Nghiêm đã nói. Nhưng các vị ấy cũng chỉ nương theo trình độ chúng sanh mà thị hiện ngộ đạo chứ không phải chứng đạo. Pháp môn Tịnh Độ thời nay tuy ít người chứng được niệm Phật tam muội như xưa; nhưng cũng có thể nương theo nguyện lực của mình và bản nguyện của A Di Đà mà đới nghiệp vãng sanh về cõi Cực Lạc. Từ đây không còn sanh tử luân hồi, mà lần tu tập cho đến lúc chứng quả vô sanh.”
Sự thù thắng cao diệu của pháp môn niệm Phật cho quảng đại quần chúng ngoài sự giới thiệu của đức Thích Ca Mâu Ni, tiếp theo còn có các vị Bồ Tát khuyên bảo mọi người nên nguyện vãng sanh về Tây Phương như: Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ; các vị Tổ sư cả thiền lẫn tịnh như: Vĩnh Minh, Trí Giả, Triệt Ngộ, Liên Trì, Thiện Đạo, Ngẫu Ích, Ấn Quang…
Vĩnh Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì đều là những thiền sư nổi tiếng bên Thiền Tông sau khi tham thiền đạt ngộ, chuyển hướng niệm Phật cầu vãng sanh. Phải biết pháp môn niệm Phật là nhiệm mầu và hợp cơ với chúng sanh thời mạt pháp đến dường nào. Quí Tổ sư là bậc thạc đức cao tăng mà còn niệm Phật mong cầu sanh về Tây Phương huống hồ chi ta là hàng hậu học phước mỏng tội dày; vả lại, hàng cư sĩ tại gia duyên nghiệp chồng chất mà không mong hướng về Tây Phương Cực Lạc thì còn đường nào khác để đi?
Trong kinh Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền, sau khi Bồ Tát Phổ Hiền phát mười đại nguyện, khuyến phát các vị Bồ Tát từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hướng cho đến Thập Địa đều nên phát nguyện cầu sanh về Tây Phương. Cho nên biết rằng những ai vì bảo vệ Tông Môn hay có lối nhìn thiên kiến mà chê hay phê bình pháp môn Tịnh Độ là yếu kém, không tự lực được phải nhờ tha lực, là môn tu để cho ông già bà cả, cho những người dốt nát ít học, là Phật Thích Ca không phải do niệm Phật mà thành Phật… là họ tự khinh chê chính bản thân của họ, hoặc tệ hại hơn, họ đã khinh chê đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, các vị Bồ Tát Mã Minh, Long Thọ, Văn Thù, Phổ Hiền là những vị Tổ của Thiền Tông, hay các vị Thiền sư chính tông như: Vĩnh Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì… do đây xin nhắc nhở những người tu thiền, hãy chuyên tâm thiền định cho đến ngày kiến tánh, chứng đạo; không phải chỉ ở chỗ ngộ đạo; đừng nên tạp niệm để ý phân biệt đó đây mà rơi vào vòng biên kiến. Đối với hành giả niệm Phật nên vững tâm tiến bước trên đường niệm Phật với đầy đủ tín, hạnh, nguyện vững chắc, mong cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc, đừng bận tâm đối với ngoại cảnh chung quanh, dầu cho ngoại cảnh ấy là những trường hợp đặc biệt. Có như vậy thì một hoa sen ở ao Liên Trì nơi cảnh Tây Phương vừa mọc lên đã ghi sẵn tên riêng của mình để chờ ngày đón rước quí vị.
Thượng Tọa Thích Phước Nhơn
nam mô bổn sư thíh ca mâu ni phật,kính bậc thầy cho con hỏi.người đi theo đạo thánh(hầu đồng)có thể tụng kinh đi theo niệm phật đc k a
Gở đạo hữu Tuyết Nhung
Đạo Phật là chân lý (là lẽ thật chứ không hư dối ).Lời Phật dạy trong kinh có đủ 3 yếu tố:
1/-KHẾ LÝ: Hợp lý chứ không hư ngụy mơ hồ.
2/-KHẾ CƠ: Thích hợp mọi căn cơ, trình độ cho mỗi chúng sinh. Lời Phật dạy như 1 cơn mưa bình đẳng, không phân biệt, nhưng cây lớn hấp thụ được nước nhiều, cây nhỏ hấp thụ nước nhỏ hơn. Cũng như thế, lời Phật dạy tùy trình độ mỗi chúng sinh mà hấp thu khác nhau
3/KHẾ THỜI: Đức Phật đi trước nền văn minh. Lời Phật nói ra đều hợp với mọi thời đại. Chẳng hạn cách nay trên 2556 năm mà Phật đã nói “có vô lượng thế giới có sự sống”,… ‘trong 1 bát nước có vô số vi trùng”…Thời đó ít ai tin nhưng ngày nay khoa học cũng chỉ mới tìm ra và tin lời Phật là đúng.
Như vậy, Đạo Phật không dành riêng cho ai, tất cả chúng sinh ai ai cũng có thể tụng Kinh để hiểu lời Phật , niệm Phật, trì chú và hành theo những điều Phật dạy : Trừ mê, khai ngô, bỏ ác làm lành, tu hành cầu giác thoát…
Người các tôn giáo bạn ( như ở Pháp các vị Linh mục ngoài những những buổi Thánh lễ ở Nhà thờ, các ngài còn theo Thầy Thích Nhất Hạnh tu Thiền ). Vậy thì người theo Đạo Thánh đã sẵn có niềm tin cũng nên Tụng Kinh niệm Phật để hiểu lời Phật dạy, để thêm công đức.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Kính thưa ban quản trị website
May mắn thay khi tôi được biết đến website này , để được học hỏi những điều bổ ích
Hiện tôi đang thực tập tu tập tai gia , trì chú đại bi cũng như niệm danh hieu đức Phật A Di Đà cùng danh hiệu của đức Quán Thế Âm
Xin ban quản trị website cho biết không biết ban quản trị có thành lập niệm phật đường nào ở gần khu vực chùa Già Lam , đường Lê Quang Định , Quận Bình Thạnh , TPHCM , Việt Nam , tôi xin đăng ký tham gia để có thể được cùng quí vị thiện hữu tri thức học hỏi và tiến tu trên con đường về Tây Phương Cực Lạc Quốc
Xin chân thành cám ơn
Gởi anh Minh Triều.
Để tham gia vào Ban Hộ Niệm và làm các công đức khác anh hãy đến gặp tôi : Phật tử, lương y Phan văn Sang Phòng khám Đông Y số 7 ( số cũ ), số mới 79 Đường Nguyễn Văn Nghi, Phường 7 Quận Gò Vấp, ĐT số 0902323549 ( cách anh không xa ). Hân hạnh đón tiếp anh.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
cho con hỏi: Người phương đông niệm Phật cầu về phương tây thế người phương tây niẹm Phật cầu về phương nào
Nam Mô A Di Đà Phật
Mến chào Đức Thành
Cái câu hỏi này VT thấy quen quen nha. Uhmm!…để nhớ lại coi…À phải rồi!…Trong cuốn Pháp Bảo Đàn, Ngài Lục Tổ Huệ Năng nói: “Người phương Đông tạo tội cầu sanh Tây Phương. Còn người Tây Phương tạo tội cầu sanh cõi nào?”Ngài Triệu Châu nói: “Một chữ Phật ta không thích nghe.” Và lại nói :” Lão Tăng mà niệm Phật một tiếng thời súc miệng ba ngày “.Ngoài ra còn có các câu hỏi tương tự như :”Thế nào là duy tâm Tịnh Độ, Di Đà tự tánh?” và rất nhiều những câu hỏi thuộc về dạng “đem Thiền gạn Tịnh” .Tất cả đều đã được Mộ Liên Pháp Sư trả lời trong quyển Đường Về Cực Lạc của HT Thích Trí Tịnh trang 534 hàng thứ 6.
Tại sao lại nêu câu hỏi :”Người phương Đông niệm Phật cầu về phương Tây, thế còn người phương Tây niệm Phật cầu về phương nào?”Uhmm!…Để VT đoán thử xem nha. Có hai giả thuyết :
1:Bạn là người sơ cơ mới học Phật nhưng lại đọc trúng nhầm những quyển sách nói đến chỗ cao siêu vi diệu thù thắng của Thiền Tông nên không hiểu nổi rồi sanh nghi vấn. Thực ra thì Ngài Lục Tổ muốn khai thị cho chúng ta hiểu thế nào là Phật tại tâm hay tức tâm tức Phật, vì muốn phá chấp là phải niệm Phật để cầu sanh Tây Phương trong khi đó lại bỏ quên Phật Tánh của chính mình. Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh, đều sẽ thành Phật, chỉ là vì vô minh che mờ cho nên vọng nhận tứ đại làm tướng tự thân, duyên ảnh sáu trần làm tướng tự tâm. Yếu chỉ của Thiền Tông chính là chuyển mê khai ngộ, trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật.
2:Bạn là một người tu Thiền rất giỏi, muốn đến đây để khai thị, phá chấp cho những người đang tu Tịnh Độ vì họ chỉ biết Phật tại Tây Phương chứ chưa biết Phật tại tâm. Nếu quả thật là thế thì VT xin cám ơn ý đẹp này nhưng VT không dám tu Thiền đâu vì sợ “tẩu quả nhập ma” lắm. Hơn nữa nghe nói tu Thiền chỉ là tự lực mà thôi, không có được tha lực như Tịnh Độ. Hơn nữa VT nhớ mang máng cái gì thời kỳ chánh pháp tu Giới Luật là thành tựu, thời tượng pháp tu Thiền là thành tựu, thời Mạt Pháp tu Tịnh Độ là thành tựu vì chúng sanh thời mạt pháp đa số đều là người hạ căn.
Trở lại vấn đề chính, người đã về Tây Phương tức là đã thoát vòng sanh tử luân hồi, trở thành Bồ Tát và có đủ thần thông, dạo khắp mười phương, muốn đến đâu thì đến, không cần phải cầu đi đâu nữa hết vì trong mười phương ba cõi không nơi nào tốt bằng Tây Phương Cực Lạc. Có muốn đi nơi khác có lẻ là vì nguyện lực muốn phổ độ chúng sanh nên mới thị hiện đến những nơi khác mà thôi.
Nói tóm lại, người đã vãng sanh Tây Phương Cực Lạc tức là đã thành tựu pháp môn niệm Phật rồi ( vãng sanh đồng nghĩa với thành Phật ) , không cần phải niệm Phật cầu sanh đi đâu nữa hết.
Sẳn đây, VT xin kể quý vị nghe một câu chuyện trong kinh Bách Dụ :
Có một ông thầy đã già yếu, có hai người đệ tử thường xuyên chăm sóc, nhưng hai người đệ tử này không hòa hợp với nhau. Người sư huynh thì thường xuyên thoa thuốc và nắn bóp chân bên phải cho thầy, người sư đệ thì thường xuyên thoa thuốc nắn bóp chân bên trái của thầy.
Một hôm, người sư huynh có việc phải đi xa, không thể trông nom thầy nữa, nên đến xin cáo biệt và hẹn sẽ trở về khi xong việc. Trong thời gian vắng nhà thì người sư đệ vì ganh ghét người sư huynh nên đã lấy cây búa đập gẩy chân bên phải của thầy.
Người sư huynh sau khi trở về nhìn thấy chân bên phải của thầy bị gẩy và biết được nguyên do là người sư đệ đã làm nên tức quá, muốn trả thù nên đã lấy một tảng đá lớn đập gẩy chân bên trái của thầy.
Trong câu chuyện trên có phải chăng Đức Bổn Sư muốn nói vị Thầy ấy chính là Đức Bổn Sư, hai người đệ tử là hai nhóm người tu Thiền và Tịnh? Còn hai đôi chân phải và trái chính là hai pháp môn Thiền và Tịnh? Có phải chăng Đức Bổn Sư muốn hai phái Thiền và Tịnh phải hòa hợp và giúp đở thương yêu nhau như anh em chung một nhà?
Thôi,xin chào bạn
Nam Mô A Di Đà Phật
xin cho con hỏi về vãng sanh cực lạc ?
Vừa rồi ba con mất, cả nhà đều niệm phật cho ba con khoảng 9 tiếng có 1 cô đến khai thị tướng sắc ba con nhìn đẹp khẽ như có 1 nụ cười, da mặt đầy đặn có hơi ấm đỉnh đầu, cô khai thị nói ba con như vậy là tốt được 1 búp sen nhỏ và khuyên cả nhà tiếp tục ăn chay niệm phật, phóng sanh để ba con có nhiều phước hơn, nhưng mà trong vòng 2 thất nay mẹ con hay gặp ba trong mơ hay dẫn đi chơi, con thì không thấy. Như vậy là ba con có được vãng sanh chưa?
Lại có một sư thầy hay cúng thất cũng khuyên mọi người không nên trợ niệm cho người lúc lâm chung vì hơi của người chết rất độc, thầy cũng nói sở dĩ mà chân tay mềm là do hơi người sống được đưa vào người chết đều này có đúng ko? Kính mong các cư sĩ cho con lời giải để hiểu rộng thêm.
Nam Mô A Di Đà Phật
Xin chào bạn Hạnh Phước! Tịnh Sơn xin gửi bạn một số pháp bảo hộ niệm Lâm chung.
1. Hỏi đáp trợ niệm khi lâm chung
http://www.youtube.com/watch?v=qL7Pdse2-SI
2. Việc lớn nhất của đời người
http://www.youtube.com/watch?v=k_Q0ko8JoFo
3. Hành trang cho ngày cuối
http://www.youtube.com/watch?v=XRbBC3wgBJM
Xin gửi bạn ĐỨC THÀNH
“cho con hỏi: Người phương đông niệm Phật cầu về phương tây thế người phương tây niẹm Phật cầu về phương nào”
với câu hỏi trên của bạn Tịnh Sơn xin trích một bài trong quyển Đường Về Cực Lạc của Hòa thượng Thích Trí Tịnh.
II GIÁ TRỊ CỦA PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
Có một vị Thượng tọa nhiều năm tham cứu Thiền tông lại thông cả giáo lý, mắt ngài xem bốn biển trống không, tự thệ chứng Nhứt thừa viên quả.
Thượng tọa theo gương ngài Thiện Tài Bồ Tát đi tham phỏng khắp các bậc Thiện tri thức.
Một hôm, Thượng tọa đến Hồng Loa Sơn vấn đạo nơi tôi. Nhằm lúc tôi đang muốn sưu tập giáo lý Thiên Thai đặng chú thích quyển A Di Đà Kinh Yếu Giải([9]), để cho người sơ cơ học Phật có phần tiến bộ. Chứ nguyên bản Yếu Giải, văn thời sâu, ý lại kín rất không tiện cho hạng mông học.
Tôi kính tặng Thượng tọa một tập Yếu Giải và ngỏ ý mình muốn soạn chú thích trình Thượng tọa.
Thượng tọa bảo : “A Di Đà Kinh Yếu Giải tôi đã từng xem, thấy trong ấy nhiều đoạn nói : Áo tạng của Hoa Nghiêm, bí tủy của Pháp Hoa, tâm yếu của chư Phật, chỉ nam của Bồ Tát đều không ngoài nơi đây. Những lời ấy rõ là đè bẹp Thiền tông cùng giáo lý mà khen tặng Tịnh độ một cách quá đáng. Thật là hủy báng Chánh pháp luân, đưa chúng sanh vào chỗ nghi lầm.
Bất ngờ Ngẫu Ích Đại sư là bậc tri thức mà chẳng trực chỉ chơn tâm cùng hoằng dương chỉ quán, trở đi viết tập Yếu Giải này để làm lá bùa hộ thân cho hạng ngu phu ngu phụ. Khiến cho bao nhiêu người tại gia cũng như xuất gia giữ chặt một môn mà bỏ vạn hạnh, gìn nước vũng mà quên biển cả, đua nhau chạy vào đường mê trái hẳn giác lộ, đoạn diệt Phật chủng. Thật là tội lỗi dẫy trời. Những ai có chí muốn báo Phật ân, nên mau thủ tiêu tập Yếu Giải mới phải, có đâu lại muốn soạn chú thích để giúp tập ấy lưu thông ?”
Chờ cho Thượng tọa khí bình, Mộ Liên Pháp sư chậm rãi nói : “Ông cho rằng Ngẫu Ích Đại sư soạn tập Yếu Giải này là có tội rất nặng, đó là ông chỉ biết ngọn ngành mà không rõ nguồn gốc. Phải biết tội ấy thiệt không phải nơi bộ Yếu Giải của Ngẫu Ích Đại sư, mà chính là tại nơi Đức Thích Ca Mâu Ni, Đức A Di Đà, thập phương chư Phật cùng Tịnh Độ Tam Kinh và tại nơi các Kinh giáo Đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bửu Tích, Bi Hoa v.v… cùng tại nơi các đại Bồ Tát Tổ Sư như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Thiện Đạo, Thanh Lương, Vĩnh Minh ([10]) v.v…
Nếu quả thiệt ông là vị đại Pháp Vương([11]) tuyên bố trị tội ấy, mọi người mới có thể tuân theo lời của ông. Bằng không thời nào khác gì gã dân ngu ở thôn dã tự xưng Hoàng đế, tự đặt pháp luật, trái nghịch chỉ dụ của chính phủ, tất khó khỏi tội chết. Lời kết tội của ông quả là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng tất sẽ đọa địa ngục chịu khổ nhiều kiếp, thật đáng thương thay!”.
Pháp sư nói đến đây, Thượng tọa chẩm hẩm bảo : “Sao Sư lại trái với lệ thường mà nói tội tại nơi Phật, Bồ Tát và Tổ Sư. Xin Sư biện rõ duyên cớ. Nếu lời lẽ của Sư đúng lý, tôi đâu dám chẳng tuân theo”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “Đức Như Lai vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời. Đại sự nhân duyên là chi ? Là muốn làm cho chúng sanh khai thị ngộ nhập Phật tri kiến để thành Phật mà thôi.
Đó là mục đích độ sanh duy nhứt của Đức Phật.
Ngặt vì chúng sanh căn tánh không đồng, có bậc đại căn, có hạng tiểu căn([12]), chỗ mê chướng lại kẻ sâu người cạn. Đức Phật không thể thực hành sự giáo hóa theo chủ định tối tiên, phải theo trình độ từng lớp người mà dạy dỗ, theo bệnh mà cho thuốc. Vì THẬT mà khai QUYỀN rồi khai QUYỀN mà hiển THẬT([13]). Nơi trên pháp Nhứt thừa nói ra nhiều giáo thuyết. Với hạng người căn lành thuần thục thời làm cho thẳng lên bờ giác. Với hạng nghiệp chướng sâu dày thời đưa lần ra khỏi trần lao. Đức Phật chịu khó dạy bảo, theo dõi từng người để dắt dìu. Thật là ơn lớn đức dày, trên đời không ơn gì sánh kịp.
Lại vì tất cả pháp môn đều nương tự lực, dầu là hạng người thiện căn sâu dày triệt ngộ tự tâm, nhưng nếu kiến hoặc và tư hoặc([14]) còn có đôi chút chưa sạch thời vẫn y nhiên là chúng sanh trong vòng luân hồi sanh tử; huống lại khi đã thọ thai có thân ngũ ấm tất sẽ xúc cảnh móng tình; người từ tỏ ngộ đến tỏ ngộ thời ít, mà kẻ từ mê đi sâu vào mê lại nhiều. Bậc thượng căn còn nguy nan như thế, kể chi đến hạng trung và hạ.
Phải biết tự lực đoạn kiến hoặc khó như đoạn dòng sông rộng bốn mươi dặm, đoạn tư hoặc lại muôn vạn lần khó hơn. Giải thoát sanh tử đâu phải là vấn đề dễ dàng.
Vì thế nên những pháp môn chuyên thuộc tự lực, chưa thỏa mãn ý muốn độ sanh của Đức Phật, vì chưa có thể lợi ích khắp cả cho hết thảy ba hạng chúng sanh.
Duy có một môn NIỆM PHẬT CẦU SANH TỊNH ĐỘ nương nguyện lực rộng lớn của Đức Phật A Di Đà, tất cả lục đạo chúng sanh không luận căn lành thành thục hay chưa thành thục, không luận ác nghiệp nặng hay nhẹ nếu ai bằng lòng TIN CHẮC PHÁT NGUYỆN TRÌ NIỆM HỒNG DANH A DI ĐÀ PHẬT, thời quyết định được Đức Phật tiếp dẫn VÃNG SANH CỰC LẠC TỊNH ĐỘ : là hạng thiện căn thành thục tất chóng viên mãn Phật quả, nhẫn đến kẻ ác nghiệp nặng cũng đặng dự hàng Thánh.
Nên biết pháp môn niệm Phật là yếu đạo độ sanh của chư Phật, và là diệu pháp mà trên thì Thánh nhơn đại Bồ Tát, dưới đến phàm phu đều đồng tu. Vì thế nên trong các Kinh liễu nghĩa Đại thừa luôn nhắc đến, mà lịch đại Tổ Sư không ai chẳng tuân hành.
Ông tự phụ là thông Thiền tông giỏi giáo lý, mà lại nói quấy rằng người hoằng truyền môn Tịnh độ là báng chánh pháp đoạn diệt Phật chủng. Rõ ràng ông đã mắc phải ma quỷ dựa, loạn tâm điên cuồng mà tự gây lấy tội địa ngục. Sao ông lại nhận mê lầm làm giác ngộ chỉ chánh nhơn cho là tà vạy như thế ?
Xét về Đức Thích Ca Mâu Ni và Phật A Di Đà, từ nơi kiếp xưa từng phát đại nguyện độ thoát chúng sanh([15]). Đức Thích Ca thị hiện ở uế độ dùng uế dùng khổ để chiết phục và thúc đẩy chúng sanh tiến tu. Còn Đức A Di Đà thời an tọa nơi Tịnh Độ dùng tịnh dùng vui để nhiếp thọ và đào luyện cho mọi người nên Thánh quả.
Ông thấy dân quê người hèn cũng niệm Phật được rồi vội miệt thị Tịnh độ, sao không xem kỹ lại Kinh Hoa Nghiêm về phẩm Nhập Pháp Giới, đức Thiện Tài sau khi chỗ ngộ chỗ chứng đã sánh kề với chư Phật, Phổ Hiền Bồ Tát bèn dạy cho pháp mười điều đại nguyện để hồi hướng vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới hầu chóng viên mãn Phật quả, và cũng khuyên khắp cả hải chúng trong Hoa Tạng ([16]). Xét về hải chúng trong Hoa Tạng không có một ai là phàm phu hay nhị thừa cả, chỉ ròng là 41 bậc Pháp thân Bồ Tát, đồng phá vô minh đồng chứng pháp tánh, tất cả đều có thể hiện thân làm Phật độ sanh nơi thế giới không Phật. Trong Hoa Tạng Hải có vô số Tịnh Độ, mà chí chuyên quyết hồi hướng cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, đủ thấy rằng VÃNG SANH CỰC LẠC LÀ HUYỀN MÔN THOÁT KHỔ, LÀ ĐƯỜNG TẮT THÀNH PHẬT.
Vì lẽ ấy nên từ xưa tới nay bao nhiêu tự viện, tòng lâm thuộc Thiền, thuộc Giáo, hay Luật, tất cả nơi nơi đều sớm tối niệm Phật phát nguyện cầu sanh Cực Lạc.
Ông là người ở trong Thiền môn đi tham phỏng các tòng lâm, hàng ngày tất cũng có niệm Phật phát nguyện sao trở lại hủy báng Tịnh độ ?
Kinh Hoa Nghiêm là vua trong các Kinh mà cũng là vua cả Tam tạng, không tin Hoa Nghiêm thời là hàng nhứt xiển đề([17]), thọ tận ắt khó khỏi khổ quả nơi địa ngục.
Tôi muốn thoát khổ mà cầu sanh Tịnh Độ, còn ông muốn chác khổ mà hủy báng Hoa Nghiêm. Thôi ông cứ gìn lấy chí của ông, tôi thời giữ lấy đạo của tôi. Xin ông đi đi, tôi không muốn cùng ông biện luận thêm nữa!
III. ĐEM THIỀN GẠN TỊNH
Thượng tọa nói : “Chánh pháp quý nơi hoằng thông, có nghi cần phải hỏi để giải quyết, sao Sư nỡ xua đuổi như thế.
Tôi từng nghe : Tỳ Lô Giá Na([18]) khắp tất cả, chỗ Phật ngự gọi là Thường Tịch Quang. Thế thời chỉ cần chứng pháp thân, đương xứ tức là Tịch Quang Tịnh Độ. Hà tất dùng tâm sanh diệt bỏ Đông (Ta Bà) cầu Tây (Cực Lạc) ư ?”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “Sao ông nói dễ dàng thế; Tịch Quang Tịnh Độ dầu rằng đương xứ tức là đó. Nhưng nếu chưa phải là bậc trí đức đoạn đức cứu cánh([19]), chưa viên chứng Tỳ Lô Pháp thân, thời chưa có thể triệt để thọ dụng. Trong Viên giáo, bậc Thập địa, Đẳng giác còn là phần chứng. Nếu ngài đã viên chứng Tỳ Lô Pháp thân, thời tha hồ mà nói đương xứ là Tịch Quang. Còn nếu chưa phải viên chứng mà nói, thời rõ là nói ăn cùng đếm của([20]), tất khó khỏi chết đói chết rét”.
Thượng tọa nói : “Câu Duy tâm Tịnh độ tự tánh Di Đà là lời thường nói của nhà Thiền lẽ đâu lại sai lầm ?”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “Lời của nhà Thiền nói đó chính là chuyên luận về lý tánh, chớ không phải bàn đến sự tu. Như thế là vì muốn cho người trước ngộ lý tánh rồi sau y theo tánh khởi hạnh tu tập để đạt đến sự siêu phàm nhập Thánh, tức chúng sanh mà thành Phật đạo. Sao chỗ tri kiến của ông lại điên đảo, nhận sự với lý lộn lạo như thế!
Vừa rồi ông cho rằng bỏ Đông cầu Tây là sanh diệt, mà ông không ngờ rằng chấp lấy Đông bác bỏ Tây lại sa vào lỗi đoạn diệt. Lúc chưa chứng Phật quả có ai ở ngoài phạm vi thủ xả (lấy bỏ) ? Đức Phật ta từ lúc phát Bồ-đề tâm trải ba vô số kiếp tu Bồ Tát hạnh, trên cầu thành Phật dưới cứu độ chúng sanh, dứt nghiệp hoặc chứng chơn thừa, có điều nào không phải là sự thủ xả ?
Phải biết Đức Như Lai muốn cho chúng sanh sớm chứng Tịch Quang và Pháp thân, nên đặc biệt hết lời khuyên mọi người niệm hồng danh cầu sanh Cực Lạc.
Thượng tọa gạn : “Ngài Tào Bá phán pháp Pháp môn Tịnh độ là quyền giáo chớ không phải thật giáo. Cớ sao Hoa Tạng hải chúng lại đồng nguyện vãng sanh ? Ngài Tào Bá hiện đời chứng Thánh thần thông trí huệ chẳng thể nghĩ lường. Tất là Bồ Tát thị hiện. Không lẽ ngài phán sai ?
Mộ Liên Pháp sư đáp : “Trong Kinh Hoa Nghiêm về phẩm Nhập Pháp giới, quyển thứ 80, sau khi ngài Thiện Tài chứng bậc Đẳng giác, đức Phổ Hiền liền nói kệ tán thán công đức thắng diệu của Như Lai. Rồi tiếp đến quyển thứ 81, tức là phẩm Hạnh Nguyện, đức Phổ Hiền thuyết mười điều nguyện vương, khuyên Thiện Tài cùng chư đại Bồ Tát đều phát nguyện hồi hướng cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Lúc Phổ Hiền dứt lời, Đức Phật hai lần khen ngợi. Toàn thể đại chúng trong pháp hội đều phụng hành.
Cố đức từng bảo : Pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, duy Phật cùng Phật mới thấu đáo, bậc đại Bồ Tát vẫn chưa hiểu trọn hết. Ngài Tào Bá dầu có là Bồ Tát thị hiện, song vì thời kỳ ngài, bộ Kinh Hoa Nghiêm dịch chưa xong nên ngài không thể đoán trước được. Sau khi ngài tịch hơn 50 năm, toàn bộ Hoa Nghiêm 81 quyển mới được phiên dịch hoàn mãn([21]).
Xét theo Kinh Hoa Nghiêm thời bậc thượng căn đại trí đều nhiếp cả về Tịnh Độ.
Kinh Đại Tập nói : “Thời mạt pháp ức ức người tu hành khó có một người được giải thoát. Chỉ nương pháp môn niệm Phật mà được thoát khỏi luân hồi”. Xem đây thời Tịnh Độ gồm trùm cả lục đạo chúng sanh.
Ông tin ngài Tào Bá mà không tin Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Đại Tập, như thế khác nào người tin theo chỉ thị của quan huyện mà không tuân sắc dụ của Tổng thống.
Thượng tọa hỏi : “Ngài Tào Bá đã là Bồ Tát thị hiện, thời cần gì đợi đến xem Kinh rồi mới biết ?”.
Mộ Liên Pháp sư đáp : “Vấn đề hoằng dương Phật pháp không phải là sự dễ. Nói đâu phải có văn Kinh làm chứng đến đó, mới thủ tín được. Kinh Hoa Nghiêm lại vượt hẳn các Kinh khác nên không do đâu để suy luận, trong khi Kinh Hoa Nghiêm chưa lưu hành”.
Thượng tọa lại gạn : “Khi Kinh Niết Bàn chưa truyền sang, sao ngài Đạo Sanh tuyên bố trước rằng hạng nhứt xiển đề đều có Phật tánh. Có lẽ nào ngài Tào Bá lại sút ngài Đạo Sanh ?”
Mộ Liên Pháp sư đáp : “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhứt xiển đề là chúng sanh tất cũng có Phật tánh. Phàm người trí thức đều có thể suy hiểu mà đoán trước. Còn về vấn đề vãng sanh Cực Lạc để chóng viên mãn Phật quả, ngoài Hoa Nghiêm, các Kinh khác tuyệt chưa nói đến. Ai dám tự phụ kiến thức của riêng mình để lập nghĩa!
Vả lại chỗ tu chứng của hai ngài, chúng ta làm sao rõ được. Đâu nên đem hai ngài so sánh để bàn suông.
Phải biết chư Bồ Tát hoằng pháp có nhiều cách : hoặc thuận hoặc nghịch, hoặc ẩn hoặc hiển, kiến thức phàm phu không thể hiểu thấu. Biết chừng đâu ngài Tào Bá thị hiện không rõ thấu để thúc đẩy thêm sự tín hướng của người sau!”.
Thượng tọa hỏi : “Các Sư trong Thiền tông thường có lời bác Tịnh độ đó là lẽ gì ?”.
Mộ Liên Pháp sư : “Các Sư trong Thiền tông chỉ truyền Phật tâm. Lời của các Sư nói ra đều thẳng đến lý tánh. Ông đã nhiều năm tham thiền mà còn chưa hiểu ý đó, thời đủ thấy rằng chỗ kiến giải của ông tất là những ác kiến phá hoại Thiền tông thôi”.
Thượng tọa nói : “Tôi đâu dám tự mình bịa ra, chỉ vì lời của chư vị Tổ Sư quyết có thể y cứ. Nay xin thuật vài điều :
Lục Tổ bảo : Người phương Đông tạo tội cầu sanh Tây phương. Còn người Tây phương tạo tội cầu sanh cõi nào ?
Triệu Châu nói : Một chữ Phật ta không thích nghe. Và lại nói : Lão Tăng mà niệm Phật một tiếng thời súc miệng ba ngày.
Các Sư trong Thiền tông thường nói ra những lời như thế là lẽ gì ?”.
Mộ Liên Pháp sư đáp : Lục Tổ trực chỉ lý tánh để người đối diện nhận lấy tự tâm. Ông lại đem phân tích chữ nghĩa biện luận về phần tu trì, thế là nhận lấy yên lừa làm càm của kỵ nhơn. Sao ông quá sai lầm đến thế ?
Ông nên biết người ở Cực Lạc đều sạch kiến tư phiền não, tiến phá trần sa hoặc cùng vô minh để chứng pháp thân, chỉ có tiến tu tuyệt không có sự tạo tội. Nhưng nay cứ luận coi họ sẽ sanh về cõi nào ?
Người ở Ta Bà đây niệm Phật nếu chưa đoạn kiến tư phiền não, nhờ nguyện lực của Phật mà được vãng sanh thời sanh về cõi Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ. Một khi đã sanh Cực Lạc thời kiến tư phiền não sẽ triệt để tiêu diệt, khác nào chút tuyết ném vào lò lửa đỏ lập tức liền tan. Kiến tư sạch hết thời sanh về cõi Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ. Bậc phần phá vô minh thời sanh về cõi Thật Báo Vô Ngại Trang Nghiêm Tịnh Độ. Vô minh sạch hết, phước và huệ đã viên mãn thời sanh về cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ.
Sao ông lại quá lo cho họ không chỗ sanh để rồi chướng mình ngăn người không chịu cầu sanh ? Khác nào kẻ quá khờ khạo nghe nói ăn cơm mắc nghẹn, rồi sợ quá mà không dám ăn để cam đói chết!
Ông thuật rằng ngài Triệu Châu nói : Một chữ Phật ta không thích nghe. Sao ông không thuật luôn câu dưới : Có người hỏi Hòa thượng có độ người không ? Triệu Châu đáp : Phật! Phật!
Ông lại chỉ muốn nắm lấy câu : Hễ ta niệm Phật một tiếng thời súc miệng ba ngày. Mà ông quên sót đoạn : Có người hỏi Hòa thượng thọ sự cúng dường của nhà vua như thế sẽ dùng gì để báo đáp ? Triệu Châu bảo : Ta niệm Phật! Ông lại quên cả đoạn có người hỏi : Thập phương chư Phật có thầy hay không ? Triệu Châu đáp : Có. Hỏi : Thế nào là thầy của chư Phật ? Triệu Châu đáp : A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!
Ông lại hỏi tại sao chư Sư trong Thiền tông thường nói ra những lời như thế ? Ông nên biết rằng chư Sư khi đối cơ người mà có thốt lời ra, gọi là Cơ phong, là Chuyển ngữ. Hỏi ở nơi đáp, đáp ở nơi hỏi. Nếu người học đạo không biết hồi quang phản chiếu tự tâm, mà lại một bề suy xét chữ nghĩa, thời là ăn lấy bã hèm, đuổi theo đất cục, bao giờ thấy tánh được!
Tôi trong vòng xuất gia đã hơn ba mươi năm, luôn nghe miệng chư Tăng truyền câu : Một chữ Phật ta không thích nghe…, mà những câu DÙNG NIỆM PHẬT ĐỂ ĐỘ NGƯỜI, DÙNG NIỆM PHẬT ĐỂ BÁO ƠN VUA, A DI ĐÀ PHẬT LÀ THẦY CỦA CHƯ PHẬT thời ít nghe chư Tăng nói đến.
Và tất cả những câu trên đều từ miệng ngài Triệu Châu thốt ra, nếu tin thời phải tin cả, sao lại tự mâu thuẫn lựa câu tổn mà bỏ câu ích.
Xét về lời của Triệu Châu đều quy nơi phần của tự mình. Câu không thích nghe chữ Phật cùng câu niệm Phật để báo ơn v.v… đều là chuyển ngữ cả, nếu người nghe trực hạ thấy được tự tâm, mới biết rằng đạo pháp của Triệu Châu vượt hẳn thường tình, lời của Hòa thượng là xuất cách, tất sẽ siêng lo niệm Phật suốt ngày không ngớt tiếng.
Bằng không được thấy nghe như trên, thời chỉ nên nương theo câu niệm Phật mà dè dặt nơi câu bác Phật. Theo niệm Phật thời hiện đời thoát khỏi luân hồi. Còn theo bác Phật tất sẽ sa địa ngục.
Những người theo câu tổn mà bỏ câu ích, phải chăng do vì nghiệp trọng phước khinh, chướng sâu huệ cạn nó khiến như thế ư! (Cứ nơi người nghe không tỏ ngộ hiểu lầm mà gọi là tổn với ích, chớ không phải lời của Tổ Sư có tổn có ích).
Ông lại nói lời của chư vị Tổ Sư quyết có thể y cứ, sao ông không y cứ nơi Tổ Bách Trượng dạy : TU HÀNH NƯƠNG NIỆM PHẬT LÀ ỔN ĐÁNG. Quy tắc của Tổ phàm kỳ đảo bệnh Tăng cùng tống táng vong Tăng đều hồi hướng cầu sanh Cực Lạc.
Tổ thứ 14, đức Long Thọ Bồ Tát chứng Sơ địa vãng sanh Cực Lạc. Trong các bộ luận của Tổ soạn ra nhiều chỗ tán dương Tịnh Độ. Như Tỳ Bà Sa Luận khen pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh là con đường dễ đi mà chóng đến([22]).
Đức Mã Minh Đại sĩ, Tổ thứ 12, cuối Luận Khởi Tín dạy phương tiện tối thắng, bảo người niệm Phật cầu sanh Tây phương, thường hầu Phật A Di Đà để được trụ bậc bất thoái chuyển(2).
Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp, Nhị Tổ A Nan Đà kiết tập các Kinh về Tịnh độ. Nếu các Kinh về Tịnh độ không lợi ích mà có hại cho người đời sau, lẽ đâu các ngài mù quáng để cho lưu thông!
Trong những Kinh về Đại thừa luận thuật và tán dương Tịnh độ. Còn tạng Tiểu thừa thời tuyệt không nói đến. Ông toan muốn tin Tiểu thừa mà bác bỏ Đại thừa giáo ư!
Lúc Đức Thích Ca thuyết Kinh A Di Đà, lục phương hằng sa chư Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài khuyên chúng sanh nên tín thọ. Ông lại toan cho rằng chư Phật muốn làm hại chúng sanh ư!
Nếu cho rằng với Lục Tổ, Triệu Châu v.v… không thể không tin, thế thời với các ngài Ca Diếp, A Nan, Mã Minh, Long Thọ, Thích Ca Mâu Ni, A Di Đà, lục phương chư Phật lại càng không thể không tin. Thấy gần không rõ xa, biết nhỏ không hiểu lớn, khác nào dân quê chỉ mộ thế lực của quan huyện, quan quận, mà không biết đến oai đức của Tổng thống, Hoàng đế. Như trẻ nhỏ ham tấm gương đồng mà không đoái hoài đến viên bảo châu như ý.
IV. THIỀN KHÔNG BẢO ĐẢM GIẢI THOÁT BẰNG TỊNH:
TỨ LIỆU GIẢN
Ngừng một giây, Mộ Liên Pháp sư nói tiếp : “Ông có biết ngài Vĩnh Minh Diên Thọ Trí Giác Thiền sư khai thị bốn bài kệ liệu giản, trong ấy chỉ rõ sự lợi hại đắc thất của Thiền, của Tịnh. Vĩnh Minh là bậc Tổ Sư tông tượng của Thiền Tông và Liên Tông, có lý nào nỡ di hại cho người ư ?”
Thượng tọa nói : “Liệu giản của Vĩnh Minh không đủ cho người noi theo. Vì trong ấy nói ai có thiền có tịnh thời như cọp thêm sừng, hiện đời làm nhơn sư đời sau làm Phật Tổ. Xem như hiện nay người tu thiền tham cứu câu : Niệm Phật đó là Ai ? Có người mãn năm trụ niệm Phật đường để niệm Phật, những vị ấy có được hiện đời làm nhơn sư đời sau làm Phật Tổ chăng ?”.
Trong liệu giản lại nói : “Không thiền mà có tịnh thời mười người tu mười vãng sanh, nếu được gặp Phật A Di Đà lo gì không khai ngộ. Xem như hiện nay vô số người niệm Phật, chưa thấy được mấy người lúc lâm chung hiện các thoại tướng nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh Tịnh Độ. Thế nên biết rõ ràng liệu giản của Tổ Vĩnh Minh không có chứng nghiệm cụ thể”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “Sao ông lại trệu trạo nuốt trộng trái táo mà không chịu nhai nếm vị ngọt của trái như thế”.
Nghiên cứu kỹ lời liệu giản của Tổ Vĩnh Minh chính là cương tông của Đại tạng, là quy giám của sự tu trì, trước nên nhận chơn thế nào là Thiền là Tịnh, thế nào là Có là Không, rồi sau mới gẫm xét toàn văn, sẽ thấy rằng trong liệu giản ấy, mỗi chữ vững như trời tạo đất lập. Không chữ nào không hiệp đúng, không một chữ có thể thay đổi. Ông vội phê bình liệu giản một cách mù mờ, vu vơ. Từ mấy mươi năm nay, tôi thấy các Thiền sư, Giảng sư phần đông cũng đồng kiến thức như ông, trách nào Thiền lẫn Tịnh mỗi ngày mỗi suy tàn!
Thượng tọa yêu cầu : “Xin Sư hoan hỷ giải rành thế nào là THIỀN là TỊNH và thế nào là CÓ là KHÔNG”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “THIỀN chính là chơn như Phật tánh sẵn có của chúng ta. Thiền tông gọi là bổn lai diện mục trước khi cha mẹ sanh, mà không nói rõ ra, cố muốn cho người tự tham cứu tự ngộ lấy. Kỳ thật chính là : TÂM THỂ THUẦN CHƠN, LINH TRI LY NIỆM KHÔNG NĂNG KHÔNG SỞ TỨC TỊCH TỨC CHIẾU vậy.
TỊNH chính là TIN SÂU NGUYỆN THIẾT CHUYÊN TÂM TRÌ DANH CẦU SANH CỰC LẠC. Chẳng phải thiên chỉ duy tâm Tịnh độ, tự tánh Di Đà.
Người hành thiền khi sức tham cứu đã tột vọng niệm dừng, vọng tình dứt, suốt thấy bổn lai diện mục, minh tâm kiến tánh đó gọi là CÓ THIỀN.
Còn người tu Tịnh độ chơn thật phát Bồ-đề tâm, tin sâu nguyện thiết chuyên trì hồng danh cầu sanh Tây phương Cực Lạc, thế gọi là CÓ TỊNH.
THIỀN và TỊNH là ước về giáo lý. Còn CÓ THIỀN cùng CÓ TỊNH là cứ nơi người tu. Về giáo lý thời hằng nhiên không đổi, Phật không thể thêm, phàm không thể giảm. Còn người tu thời cần phải y cứ nơi giáo mà lập hạnh, công hạnh cao tột chứng lý. Làm sao nơi mình thiệt được thiệt có. Hai điều ấy (THIỀN TỊNH cùng với CÓ THIỀN CÓ TỊNH), văn dầu tương tợ mà ý rất không đồng nhau, phải suy xét kỹ, chớ nên mù mờ lộn lạo.
Hoặc như người tham thiền mà chưa ngộ, hay ngộ mà chưa thấu triệt đều không được gọi là CÓ THIỀN.
Còn như người niệm Phật mà thiên chấp duy tâm, không có tín nguyện, hay có tín nguyện mà tín không sâu, nguyện không thiết, làm lấy lệ lấy có, hoặc dầu tinh tấn mà tâm tham luyến cảnh dục trần, hoặc cầu đời sau sanh giàu hay sanh lên cõi trời, hoặc cầu đời sau làm Tăng để hoằng dương Phật pháp phổ lợi quần sanh, tất cả đều không được gọi là TỊNH”.
Thượng tọa ngắt lời gạn : “Xuất gia làm Tăng hoằng pháp lợi sanh có lỗi gì mà cũng bị khai trừ ?”.
Mộ Liên Pháp sư đáp : “Nếu là bậc đã dứt sạch nghiệp chướng cùng phiền não, đã thoát sanh tử, rồi nương sức đại nguyện thị hiện có thân nơi cõi trược ác để cứu độ chúng sanh thời được.
Trái lại, nếu là hạng chưa chứng quả giải thoát mà sanh vào đời trược, khó bảo đảm không mê. Dầu có thể hoằng pháp mà tự mình chưa chứng quả Vô sanh tất bị hoàn cảnh chi phối, trần duyên sai sử. Người mê mà may mắn được ngộ rất hiếm. Kẻ mê rồi đi sâu vào cõi mê muôn kiếp trầm luân thời phần nhiều.
Đức Bổn Sư Thích Ca ta vì cớ này nên hết lời khuyên đại chúng hiện thời cũng như mạt pháp chúng sanh, phải cầu sanh Cực Lạc để được thấy Phật nghe pháp mau chứng Vô sanh nhẫn, rồi sau sẽ tùy nguyện vào Ta Bà để cứu độ chúng sanh. Như thế thời có tiến mà không thoái, có lợi mà không tổn.
Vấn đề chưa chứng quả Vô sanh giải thoát mà ở mãi nơi Ta Bà, các tông khác có chỗ cho, còn tông niệm Phật thời cấm hẳn. Nhiều người cho rằng tham thiền là có Thiền, niệm Phật là có Tịnh. Đó là chẳng những không rõ Thiền với Tịnh, mà đến văn nghĩa cũng không biết nốt. Thế là cô phụ tâm đại từ bi của Tổ Vĩnh Minh, làm trở ngại con đường tắt thoát khổ của người tu hành. Chính là nhận lầm hướng địa bàn, sai một ly lạc ngàn dặm!”.
V. CHÁNH GIẢI TỨ LIỆU GIẢN
Thượng tọa nói : “Đã nhờ Sư lược giải về THIỀN TỊNH cùng CÓ KHÔNG, xin Sư từ bi giảng rõ toàn văn cho”.
Mộ Liên Pháp sư nói : “Bài kệ liệu giản thứ nhứt, Tổ nói :
Có Thiền lại có Tịnh Độ
Cũng như cọp mọc thêm sừng
Hiện đời làm thầy của người
Đời sau sẽ làm Phật, Tổ.([23])
Nhà hành đạo này triệt ngộ Thiền tông minh tâm kiến tánh, đó là CÓ THIỀN. Lại suốt thấu Kinh tạng hiểu rành cả các pháp môn quyền thật, rồi chọn lấy môn Tín Nguyện Niệm Phật để mình thực hành cùng khuyến hóa người, đó là CÓ TỊNH.
Trong Thập Lục Quán Kinh nói bậc Thượng phẩm Thượng sanh đọc tụng Đại thừa hiểu đệ nhứt nghĩa khuyến tấn hành giả chính là người này đấy. Vị này có đại trí huệ đại biện tài. Tà ma ngoại đạo nghe danh vỡ mật. Như hổ mọc sừng còn thú nào dám đối địch!
Có ai đến cầu pháp liền theo cơ giáo hóa. Kẻ đáng học môn Thiền Tịnh song tu thời dạy cho môn Thiền gồm tu Tịnh, người đáng học môn chuyên tu Tịnh độ thời dạy cho môn chuyên tu Tịnh độ. Không luận là hạng thượng căn hay là hạ trí, một khi đến cầu đạo liền đặng lợi ích lớn. Thế chẳng phải là hiện đời làm đạo sư của người ư! Đến khi lâm chung được Phật tiếp dẫn vãng sanh thượng phẩm, hoa nở thấy Phật chứng Vô sanh, bậc cao thời siêu Thập địa Đẳng giác Bồ Tát, thấp nhứt
cũng ở bậc Viên sơ trụ Bồ Tát. Bậc Viên sơ trụ Bồ Tát còn có thể hiện làm Phật độ sanh trong một trăm thế giới không Phật, huống là 40 bậc Bồ Tát trên. Thế chẳng phải là đời sau làm Phật Tổ ư!
Bài kệ liệu giản thứ hai, Tổ bảo :
Không Thiền chỉ có Tịnh Độ
Muôn người tu, muôn vãng sanh
Khi gặp Phật A Di Đà
Lo gì không được khai ngộ.([24])
Người chưa minh tâm kiến tánh, nhưng lại quyết chí cầu sanh Tây phương Cực Lạc, hạng tinh tấn tu định huệ chắc được vãng sanh đã đành, nhẫn đến kẻ cả đời tạo ác, lúc sắp chết mà có tâm rất ăn năn hổ thẹn, chí thành khẩn thiết, xưng Nam mô A Di Đà Phật, dầu chỉ được trong mười tiếng liền tắt hơi, đều nhờ nguyện lực của Phật nhiếp thọ vãng sanh Tịnh Độ. Như chương Cửu Phẩm Vãng Sanh trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đã nói rõ. Thế chẳng phải là muôn người tu muôn người vãng sanh là gì! Nhưng nơi đây nên nhận thêm rằng : Phật A Di Đà phát đại thệ nguyện nhiếp thọ chúng sanh niệm Phật thiết tha chí thành như con nhớ mẹ, thời cùng Phật cảm cách. Không luận niệm Phật lâu mau nhiều ít đều được tiếp độ cả. Chẳng nên đem sự niệm Phật một cách lơ là lây lất mà so sánh. Sau khi vãng sanh Cực Lạc thế giới, dầu rằng sự thấy Phật nghe pháp có sớm muộn khác nhau, song đều đồng dự Thánh lưu, chóng hay chầy đồng chứng Thánh quả. Đã chứng Thánh quả thời cần gì bàn đến vấn đề khai ngộ. Đó là khi gặp Phật A Di Đà lo gì không được khai ngộ!
Bài kệ liệu giản thứ ba, Tổ nói :
Có Thiền mà không Tịnh Độ
Mười người hết chín chần chờ
Đến lúc ấm cảnh hiện tiền
Chớp mắt theo nó mà đi.([25])
Hạng này dầu triệt ngộ Thiền tông minh tâm kiến tánh nhưng kiến tư phiền não chưa dễ đoạn trừ, phải trải qua nhiều công phu tu trì gột rửa cho sạch cả mới ra khỏi luân hồi sanh tử. Nếu còn một phần phiền não thời lục đạo luân hồi vẫn y như cũ, nói chi đến người chưa đoạn được phần nào!
Biển sanh tử rộng sâu, đường Bồ-đề xa vời, chưa kịp quy gia mà tử thần đã đến, mười người đại ngộ hết chín người như thế. Đó là trong mười người hết chín người chần chờ.
Chữ TA trong nguyên văn là TA ĐÀ tục gọi chần chờ. Còn ẤM CẢNH là TRUNG ẤM THÂN CẢNH, chính là lúc lâm chung, những cảnh thiện hay ác đã gây tạo trong đời này hay đời trước đều tuần tự hiện ra, trong chớp mắt liền theo cảnh nào mạnh nhứt mà đi thọ sanh không thể tự chủ được. Quy Sơn bảo : như người mắc nợ chủ mạnh kéo trước, đầu tâm nhiều mối chỗ nặng riêng sa. Gương của Giới Tổ và Thảo Đường nên phải biết.([26])
Có người phải chữ TA là LẦM, còn ẤM CẢNH là NGŨ ẤM MA CẢNH. Đó là vì chẳng hiểu nghĩa chữ THIỀN cùng chữ CÓ nên mới cắt nghĩa sái quấy đến thế. Bao giờ có bậc đại triệt đại ngộ lại trong mười người hết chín người lạc đường đi theo ngũ ấm ma mà bị ma dựa, là toàn những hạng tăng thượng mạn, không thông giáo lý không ngộ tự tâm, tu mù luyện đui mà bị hại thôi. Sao lại đem gá cho bậc đại triệt đại ngộ. Vấn đề này quan hệ rất lớn, không nên không biện rõ.
Bài kệ thứ tư, Tổ nói :
Không Thiền cũng không có Tịnh
Giường sắt nóng cùng cột đồng
Trải muôn kiếp đến ngàn đời
Không nương cậy vào ai được.([27])
Có người nhận lầm rằng : không Thiền không Tịnh là những kẻ vùi đầu tạo nghiệp ác không tu hạnh lành, hiểu như thế là sai lắm!
Nên biết pháp môn của Phật dạy nhiều vô lượng, chỉ có Thiền cùng Tịnh độ là đúng cơ
hơn hết. Người tu hành mà chưa đại triệt đại ngộ là không Thiền, lại cũng không có tín nguyện niệm Phật là không Tịnh. Đã không định huệ huân tu đoạn hoặc chứng chơn, lại không do đâu nhờ nguyện lực của Phật nhiếp thọ để đới nghiệp vãng sanh. Hiện đời tu hành có phước đức, cảm được phước báu nhơn thiên ở đời kế, chưa chứng Thánh trí tất bị phước nghiệp xoay chuyển sẽ mê say nơi cảnh trần dục lạc mà tạo nhiều tội. Đã tạo tội ắt khó trốn khỏi ác quả nơi địa ngục ở đời sau, cả kiếp chịu khổ trên giường sắt nóng, bên cột đồng đỏ để đền tội tham dâm hại vật. Chư Phật, chư Bồ Tát dầu luôn thương xót, nhưng vì ác nghiệp của họ tự chướng lấy nên không được độ, nên bài kệ nói muôn kiếp ngàn đời không nương cậy vào ai được.
Người xưa có nói : Phàm người tu hành mà không có chánh tín cầu sanh Cực Lạc, đi tu các thiện pháp khác, thời gọi là oan gia đời thứ ba, chính là một ý với bài kệ này. Bởi vì đời này tu hành đời kế hưởng phước, rồi ỷ phước lực mà tạo nghiệp ác, tất đời sau sẽ bị đọa lạc. Được hưởng phước giả tạm nơi đời kế mà nhiều kiếp thọ khổ ở tương lai. Dầu cho mãn tội địa ngục, nhưng còn phải trải qua quỷ súc. Biết đâu rồi sẽ không tạo nghiệp ác thêm mà đọa xuống nữa([28]). Mong thoát tam đồ được thân người lại là điều rất khó trong các điều khó([29]).
Đức Phật ta từng lấy ngón tay chấm đất rồi đưa ra hỏi Tôn giả A Nan đất dính trên tay là nhiều hay đất của quả địa cầu nhiều ? A Nan bạch đất của địa cầu nhiều. Đức Phật liền phán dạy : Được thân làm người như đất dính trên tay, còn mất thân người như đất của toàn quả địa cầu.
Cứ theo chỗ so sánh tỷ lệ của Đức Phật, thời lời Tổ nói muôn kiếp ngàn đời vẫn còn là lời luận gần, vì cuộc nơi văn kệ.
Xét về các pháp môn khác chuyên nương tự lực, còn pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh, thời chuyên nương Phật lực. Các môn khác khi sạch hết phiền não mới thoát ly sanh tử, còn môn Tịnh độ thời đới nghiệp vãng sanh liền dự hàng Thánh([30]).
Tổ Vĩnh Minh sợ người đời không nhận được chỗ lợi ích rất rộng lớn của pháp môn niệm Phật vãng sanh nên đặc biệt làm kệ liệu giản để chỉ dạy. Đáng gọi kệ liệu giản là chiếc thuyền báu nơi bến mê, là vị Đạo sư nơi đường hiểm. Rất tiếc rằng người đời chỉ đọc phớt qua chẳng chịu nghiên cứu cho kỹ. Phải chăng chúng sanh đồng phận ác nghiệp nó khiến thế ư!
VI. THƯỢNG TỌA PHÁT NGUYỆN
Thượng tọa nghe Mộ Liên Pháp sư giảng đến đây, đứng dậy chắp tay thưa, với một giọng run run đầy cảm động : “Tôi đời trước tạo tội gì mà đến nỗi mê muội chơn thuyên. Hôm nay may mắn được nghe Sư giảng dạy chắc cũng do nơi túc phước. Tôi thành thật xin dự vào hàng Tăng chúng ở đây, để được hầu hạ Sư sớm tối”.
Mộ Liên Pháp sư khiêm tốn nói : “Bần tăng đây có tài đức gì mà dám lãnh lời của Thượng tọa. Những lời tôi vừa giảng giải ở trên, chỉ là thể theo ý của Phật Tổ. Nếu Thượng tọa có thể ngưỡng tin nơi Phật Tổ mà hoằng dương môn Tịnh độ, thời tất báo được ơn, tiêu được tội. Xưa kia, ngài Thiên Thân hoằng dương Đại thừa để chuộc tội trót lỡ hủy báng([31]). Thượng tọa nếu có thể noi theo gương Thiên Thân Bồ Tát, thời bần tăng này xin xả thân cúng dường.
Thượng tọa liền lễ Phật niệm hương phát nguyện rằng : “Con là M. M. Bắt đầu hôm nay chuyên tu tịnh nghiệp. Trông mong lúc lâm chung được vãng sanh thượng phẩm, thấy Phật nghe pháp liền chứng vô sanh, sau rồi dùng sức thần thông tự tại, không rời Cực Lạc, phân thân ở khắp thập phương thế giới, hoặc thuận hoặc nghịch, hoặc ẩn hoặc hiển, dùng đủ phương tiện hoằng thông môn Tịnh độ để cứu khổ chúng sanh, mãi đến cùng tận thuở vị lai không ngừng không nghỉ. Hư không dầu có tận, chí nguyện của con vẫn vô cùng. Cúi mong Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Từ Phụ A Di Đà thập phương Tam Bảo đồng bủa đức từ nhiếp thọ chứng minh cho con”.
Mộ Liên Pháp sư khuyên : “Về sự Tịnh độ là đại nhân duyên. Về Lý Tịnh độ là tạng bí mật. Nếu Thượng tọa có thể tín thọ phụng hành, đó là đem công đức trang nghiêm của Phật mà trang nghiêm cho chính mình đấy”.
Thượng tọa liền vâng dạ vái chào mà lui ra.
cho con hỏi… ở hà nộj đông anh có nơi nào thành lập chỗ niệm phật ko az con mún đến đó niệm phật và học hỏi kinh nghiệm trên con đường học phật… nam mô a di đà phật
Gửi khuong.
Bạn mến, tôi được biết Chùa Tản Viên Ba Vì Hà Tây và chùa Khai Nguyên có Tịnh tông học hội. Bạn có thể đến gặp trụ trì tham vấn. Có cả trang web đó.
Tịnh sơn à, thuờng nghe đưòng về cực lạc tôi thích nhất đoạn này.phần nhiều các bậc đại trí trong tịnh độ đều lý sự viên dung mà bậc nào tâm kỳ vọng không lớn không thể dung nạp nổi. Tôi thưòng ví Di đà như cha của mình vậy.thì tất cả chẳng có mối nghi nào.tôi có bài kệ chia sẻ đồng tu:
Bưóc qua cửa Tín
Pháp môn Tịnh độ
Đầy đủ nguyện -hành
Như lai trưóc mặt.
Tôi muốn về cõi trời Đao Lợi thì tu như thế nào?
Đường Về Cõi Tịnh: Xin đạo hữu hoan hỉ tập gõ tiếng Việt có dấu để đọc giả tiện theo dõi. A Di Đà Phật.
nhà con chưa có bàn thờ phật con muốn hàng ngày tụng kinh thì tụng tại bàn thờ gia tiên có phải không ạ
A DI Đà Phật
Bạn Thanh Hương có thể vào http://phatgiao.org.vn/hoi-dap/201304/Chua-co-ban-tho-Phat-tung-kinh-co-duoc-khong-10510/ để tham khảo.
Chúc bạn an lạc, tinh tấn tu hành!
Nam mô A Di Đà Phật
HẠNG NGƯỜI CÓ THIỆN CĂN PHƯỚC ĐỨC SÂU DÀY
Con nay 13 tuổi đang hành trì pháp môn Tịnh Độ vậy con muốn hỏi nếu Niệm Phật tâm còn tán loạn mà cầu sanh Tây Phương Cực Lạc vậy có được vãng sanh không ? Xin chư vị liên hữu chỉ dạy con. Nam Mô A Di Đà Phật.
Vậy lúc lâm chung người nào tín ngưỡng Phật A Di Đà một lòng tin sâu nguyện thiết vậy nếu Bồ Tát Quán Thế Âm hay các bồ tát khác vậy có được đi theo không ?. Nam Mô A Di Đà Phật.
Con xin lỗi con viết nhầm ý con hỏi nếu tin Phật A Di Đà người lúc lâm chung Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ra hay Đại Thế chí Bồ Tát hiện ra vậy có được đi theo không?
A DI Đà Phật. Chào Từ Minh Hào, đây là lần thứ 2 chị phản hồi lại câu hỏi của em. Niệm Phật tuy tâm còn loạn nhưng tín sâu, nguyện thiết vẫn được vãng sanh nhé. Lúc lâm chung, do ngày thường mình niệm Phật A Di Đà thì dù cho có bao nhiêu vị khác cũng chớ nên đi theo em nhé . VÌ Phật A Di Đà là bổn tôn. Vấn đề em hỏi bồ tát Quan Thế Âm hay Đại Thế Chí, chị nghĩa là 2 vị Bồ Tát luôn bên cạnh Phật A Di Đà, cho nên khi thấy thì chỉ có trường hợp là 3 vị ( Phật A Di Đà, Bồ Tát Quan Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí) tiếp dẫn, 1 mình Phật A Di Đà tiếp dẫn, hoặc Phật A Di Đà cùng Thánh Chúng mới được đi theo thôi em nhé, còn lại thì không nên. Chúc em tinh tấn và thường an lạc. A Di Đà Phật
A Di Đà Phật.
Gửi bạn Từ Minh Hào.
“ Quang-minh biến-chiếu,
Niệm-Phật chúng-sanh
Nhiếp-thu bất-xả”.
(Tạm dịch: Ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới. Thu nhiếp chẳng rời chúng sanh Niệm Phật).
Nếu có tâm lo-lắng về chuyện vãng-sanh, đó cũng là một loại tâm-niệm khác.
(Niệm Phật Tông Yếu – Pháp Nhiên Thượng Nhân)
———————————
TMH: “Vậy lúc lâm chung người nào tín ngưỡng Phật A Di Đà một lòng tin sâu nguyện thiết vậy nếu Bồ Tát Quán Thế Âm hay các bồ tát khác vậy có được đi theo không ?”
Nếu bạn mà thật một lòng tin sâu nguyện thiết niệm Phật thì sẽ không bao giờ có những tâm niệm thắc mắc Nguyện Lực của Phật A Di Đà như thế.
Cha mẹ đã hứa đón bạn ở trường khi tan học về, thì bạn sẽ yên tâm chờ đợi đúng không? Bạn còn có thể tin tưởng cha mẹ như vậy huống chi là Nguyện Lực của Phật A Di Đà và Bồ Tát Quán Âm Đại Thế Chí?
Đừng nghi.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Em xin cám ơn Nam Mô A Di Đà Phật
Kính thưa trên đại đức . Tăng ni. Và tất cả các bạn đồng tu. Nếu đệ tử không biết tụng kinh. Thì đệ tử mở youtube lấy video của thượng tọa thích trí thoát mà đọc theo có được không ạ.
Mong tất cả chư vị đồng tu chỉ bảo cho kẻ ngu khờ này.
A di đà phật.