Miệng niệm Phật, tâm chuyên nhất tưởng nghĩ đến Phật gọi là định tâm niệm Phật. Miệng niệm Phật, tâm không tưởng nghĩ đến Phật mà lại suy nghĩ vẩn vơ gọi là tán tâm niệm Phật. Tán tâm niệm Phật so với định tâm niệm Phật, công hiệu hai bên vốn cách nhau rất xa. Vì thế, xưa nay các bậc đại đức đều khuyên hành giả định tâm niệm Phật, chứ không bao giờ khuyên tán tâm niệm Phật.
Nhưng sự thật thì nhứt cử nhứt động gì bên ngoài đều ảnh hưởng đến nội tâm nên dù là tán tâm niệm Phật, sự niệm Phật ấy không phải hoàn toàn vô công hiệu. Vả lại, trong khi miệng ta niệm lục tự Di Đà, đó há không phải là phát xuất tự trong tâm ta mà ra hay sao? Cho nên, trong khi miệng ta niệm, bắt đầu là sáu chữ ấy phải bắt nguồn từ ý muốn do trong tâm ta phát ra; thứ lại, khi sáu chữ đã phát thành tiếng, âm thanh phát ra nhứt định phải trở lui huân tập tâm ta. Như thế không thể nói rằng nó hoàn toàn không có hiệu lực, chẳng qua công hiệu của nó so với công hiệu của định tâm niệm Phật có kém thua mà thôi. Chỉ vì công hiệu kém thua nên cổ đức không đề xướng, kỳ thực sức hàm ẩn và công hiệu của nó không thể tuyệt đối vô công. Người xưa có bài kệ rằng:
“Di Đà nhất cú pháp trung vương
Tạp niệm phân vân giả bất thường
Vạn lý phù vân già xích nhật
Nhơn gian xử xứ hữu dư quang”
Tạm dịch là:
“Di Đà sáu chữ lớn lao thay
Tạp niệm lăng xăng chẳng ngại bày
Muôn dặm mây trời che mặt nhựt
Nhơn gian ánh sáng vẫn còn đây”
Bài kệ nói rất xác đáng. Tịnh chủng (chủng tử thanh tịnh) ở trong đệ bát thức, một khi đã thuần thục, tất nhiên trở ra huân tập đệ lục ý thức lại dắt dẫn 5 thức trước (từ nhãn thức đến thân thức) sanh khởi hiện hạnh. Nhưng khi đi ngang qua ý thức, có lúc bị trần cấu ô nhiễm quá dày, sóng lòng bị kích động quá mạnh đến nỗi lấn át cả tịnh niệm. Ý thức tuy tán loạn nhưng tịnh niệm vẫn liên tục phát khởi và vẫn xuyên qua được, khác nào ánh sáng mặt trời xuyên qua đám mây dày đặc. Tuy mây che phủ cùng khắp, nhưng ở giữa nhơn gian vẫn còn có chỗ lập lòe ánh sáng, chứ không tối hẳn như ban đêm. Mây mù chưa ta, song ánh sáng lập lòe kia của mặt trời vẫn có công dụng.
Riêng kinh nghiệm bản thân, bình nhựt lắm lúc tôi cũng gặp phải tán niệm quấy rối. Gặp phải trường hợp như thế, tôi vẫn cứ niệm, không cần kể tính chất tạp niệm, không cần kể tính chất tạp niệm ấy là như thế nào, miễn giữ cho niệm niệm đừng xen hở; niệm một lúc lâu rồi tự nhiên lần hồi tĩnh định trở lại, không cần phải dụng tâm điều nhiếp, lâu ngày định niệm trở nên thuần thục. Vì thế, cận lai, bất cứ ngày đêm, lúc nào tôi cũng niệm Phật, không cần nghĩ đến tán tâm hay định tâm. Người xưa, trong 4 oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi không lúc nào là không niệm.
Nếu bảo rằng phải định tâm mới nên niệm Phật thì trong lúc đi đường vấp ngã hoặc khi mặc áo, viết chữ v.v… làm sao thành tựu được sự niệm Phật? Vì thế cho nên, biết rằng tán tâm niệm Phật cũng vẫn có lợi. Chủ trương như trên đây, không có nghĩa rằng tôi nhất thiết cổ xúy cho sự tán tâm niệm Phật. Cố nhiên có định tâm niệm Phật được thì rất quý, nhưng rủi có bị tán tâm cũng đừng lo ngại.
Lý do thứ nhứt là: Dù định tâm hay tán tâm, đã có niệm Phật tức nhiên có chủng tử sanh hiện hạnh và ngược lại hiện hạnh ấy sẽ huân tập trở lại đệ bát thức tạo thành chủng tử; đằng nào cũng vẫn có sanh khởi và huân tập của tán tâm thì không mạnh bằng sức huân tập của định tâm mà thôi.
Lý do thứ hai là: Dù bị tán tâm, cũng cứ nên niệm và phải niệm cho chuyên thì tự nhiên tán tâm sẽ được chuyển thành định tâm, chứ không phải tự thỉ chí chung luôn luôn tán tâm. Vì hai lý do ấy nên ở đây vẫn tùy hỷ sự tán tâm niệm Phật vậy.
Trích toàn tập Tâm Như Trí Thủ
Quả đúng như vậy. Mà cũng chẳng cần 2 chữ nam mô cũng được. MUỐN VỀ NHÀ THÌ KHỎI CẦN KHÁCH SÁO. Như kêu cha gọi mẹ, cha mẹ nghe được liền tới cứu, đâu có nghĩ con mình định tâm hay tán tâm. Như Lai thần thông vô thượng, đâu đâu cũng nghe biết. Nên thường niệm Phật quyết chắc vãng sanh. Niệm ít cũng được vãng sanh, nhưng phải biết buông xả vạn duyên để khi thấy Phật mà chẳng chịu đi, lại như lúc nhàn hạ nên phát nguyện hồi hướng công đức tu trồng cho các oan gia trái chủ, những người có ơn nghĩa với ta và tất cả chúng sinh đều được vãng sanh. Phải biết nếu giúp được một chúng sinh vãng sanh phước ấy rất lớn, nên mình cũng quyết chắc được vãng sanh. Niệm nhiều là bậc tinh tấn, lợi mình lợi người,làm gương cho đời, dùng thân thuyết pháp, hay hóa giải oan gia trái chủ cùng các tai ương nơi đời, xứng danh bồ tát. Lại nói những chúng sinh nghe được danh hiệu Phật, hạt giống gieo vào rồi, sau này gặp duyên ắt sẽ phát tâm niệm Phật.
A Di Đà Phật