Thuở xưa vào triều đại nhà Lương ở Trung Hoa có Thiền sư Chí Công là một bậc Đại đức cao tăng. Không sử sách nào ghi lại song thân của Thiền sư là ai. Người ta thường kể với nhau rằng: Một hôm nọ, có người phụ nữ nghe tiếng khóc của một hài nhi trên cành cây cao. Cô ta trèo lên, thấy một hài nhi nằm trong tổ chim ưng, bèn đem hài nhi về nuôi. Tuy thân thể hài nhi này hoàn toàn giống như người nhưng những móng tay, móng chân giống như móng chim ưng. Khi trưởng thành, xuất gia tu đạo, chứng được ngũ nhãn lục thông. Không biết cha mẹ Ngài là ai, chỉ biết Ngài sinh trong tổ chim ưng nên mọi người đều phỏng đoán Ngài được sinh ra từ trứng chim ưng vậy.
Thời ấy, vua Lương Vũ Đế cũng như mọi người đều rất kính trọng và tin phục các Thiền sư. Bất luận khi họ gặp những sự kịên gì trong đời sống, như sinh con, cha mẹ qua đời, cưới hỏi… họ đều cung thỉnh các Thiền sư đến để tụng kinh chú nguyện.
Một hôm, có một gia đình giàu có thỉnh Thiền sư đến tụng kinh chú nguyện nhân dịp đám cưới người con gái của họ, đồng thời thỉnh Thiền sư ban cho vài lời chúc mừng để mong rằng trong tương lai, việc hôn nhân đều được tốt lành như ý. Thiền sư Chí Công đến nhà ấy, khi nhìn thấy cô dâu chú rể, Ngài liền nói:
“Thật cổ quái, thật cổ quái! Cháu cưới bà nội.”
“Thật cổ quái” nghĩa là xưa nay chưa từng có một việc như vậy. Đây không phải là chuyện xưa nay thường xảy ra. Thật kỳ lạ khi nhìn một đứa cháu cưới bà nội mình làm vợ. Trên thế gian này, nếu không thông đạt những nhân duyên trong thời quá khứ thì không thể nào lý giải được những mối quan hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em, bè bạn… của nhau. Vì sao? Vì mọi người đều có thể là chồng hoặc vợ của nhau trong đời trước. Một người có thể là cha hoặc là con của nhau trong nhiều đời trước. Hoặc một người đều là mẹ và con gái của nhau trong đời trước. Ông nội của quí vị trong đời trước lại kết hôn với cháu gái của quí vị trong đời này. Hoặc là bà ngoại đời trước lại tái sinh làm con gái của quí vị. Tất cả mọi việc đều có thể xảy ra, và đều chịu sự biến hóa khôn lường.
Trong nhà này, chuyện “cháu cưới bà nội” là do trước kia, khi bà nội sắp mất, bà trăn trối lại với toàn gia quyến: “Con trai ta vừa mới cưới vợ và đã có con nối dòng. Con gái ta cũng đã có chồng, ta không còn bận tâm gì nữa”. Bà ta hoàn toàn thỏa mãn và đã gạt mọi sự bận tâm qua một bên, ngoại trừ một điều: còn đứa cháu nội, “tương lai rồi sẽ ra sao? Ai sẽ chăm sóc nó? Liệu người vợ của nó có đảm đang hay không? Ta không thể nào không lo cho nó được!”
Bà nắm tay đứa cháu nội và qua đời. Người ta bảo rằng nếu mọi việc đều toại nguyện, lúc lâm chung có được tâm trạng thơ thới thì người chết sẽ nhắm mắt. Còn nếu không, thì người chết không nhắm mắt được. Bà lão nói: “Bà rất lo lắng cho cháu, bà chết không nhắm mắt được”. Nói xong, bà ra đi mà mắt vẫn mở. Thần thức của bà vẫn còn lo âu. Khi đến gặp Diêm vương, bà ta than khóc, thưa rằng:
– Tôi còn đứa cháu nội, không ai chăm sóc nó.
Diêm vương đáp:
– Được rồi, bà hãy trở lại dương gian chăm sóc cho nó.
Nói xong, bà ta được đầu thai trở lại trong cõi trần. Khi đến tuổi thành hôn, bà ta lấy người cháu nội trước đây của bà ta. Vì vậy nên nói “cháu lấy bà nội”. Quí vị thấy có phải là cổ quái thật không?
Chỉ vì một niệm ái luyến không buông xả được mà tạo nên biết bao duyên nghiệp buộc ràng về sau. Bà ta chỉ vì bận tâm vì đứa cháu, mà về sau phải làm vợ cho nó. Quí vị thử nghĩ lại xem, đây chẳng phải là chuyện cổ quái hay sao?
Quí vị sẽ hỏi: “Làm sao mà Thiền sư Chí Công biết được điều ấy?” Thiền sư biết được là vì Ngài đã đạt được ngũ nhãn và lục thông. Nên chỉ cần nhìn qua, là Ngài liền biết được ngay kiếp trước của cô dâu vốn là bà nội của chú rể. Chỉ vì bà nội đã khởi một niệm ái luyến sai lầm nên nay phải đầu thai trở lại làm người, và làm vợ của đứa cháu nội mình. Một niệm lành còn như thế huống gì là niệm ác, hoặc khởi trùng trùng niệm ác thì luân hồi trong tam đồ lục đạo biết bao giờ dứt, biết bao giờ mới mong ra khỏi.
Thiền sư lại nhìn trong số khách đến dự đám cưới, có một bé gái đang ăn thịt, Ngài nói: “Con gái ăn thịt mẹ”.
Vì miếng thịt mà em bé đang ăn là thịt dê, con dê này vốn là mẹ của em bé đầu thai lại. Kiếp trước bà ta đã tạo nghiệp ác quá lớn nên đã phải đọa làm dê. Nay lại bị chính con mình ăn thịt. Vòng oán nghiệp khởi dậy do vô minh của chúng sinh không lời nào kể hết được. Chư Bồ Tát thương xót, phát tâm cứu độ chúng sinh là do điểm này.
Khi Thiền sư nhìn các nhạc công, thấy có vị đang đánh trống. Ngài nói: “Con trai đang đánh bố”.
Vì cái trống ấy bịt bằng da lừa. Con lừa này chính là cha của anh nhạc công đầu thai vào. Con lừa này bị giết thịt, lấy da làm mặt trống. Thật là đau thương cho kiếp luân hồi.
Ngài nhình quanh đám cưới, nói tiếp: “Heo dê ngồi ở trên”.
Ngài thấy có vô số loài heo, cừu, dê, gà được đầu thai trở lại làm người, nay họ đều là bà con thân quyến của nhau nên cũng đến dự đám cưới này.
Nhìn trong bếp, Ngài nói: “Lục thân bị nấu trong nồi”.
Chính là cha mẹ, anh em, bà con, bè bạn do kiếp trước đã sát sinh heo, gà quá nhiều để ăn, nay lại bị đọa làm heo, dê, gà trở lại; rồi bị giết thịt, bỏ vào nồi chiên nấu trở lại.
Ngài nói tiếp: “Mọi người đều vui vẻ chúc mừng nhau”.
Mọi người đến dự đám cưới đều rất vui vẻ mà chúc tụng nhau. Ngài tự than với mình rằng:
“Trông thấy cảnh ấy mà lòng đau xót, ta biết đó chính là những oán nghiệp xoay vần vay trả, tạo nên nỗi khổ chất chồng”.
Thiền sư Chí Công biết rõ nhân quả khi nhìn vào gia đình này. Làm sao chúng ta có thể hiểu được hết chuỗi nhân quả của từng gia đình với trùng trùng khác biệt nhau ra sao. Cho nên những người tu đạo phải rất cẩn trọng trong khi tu nhân, vì khi nhân duyên chín mùi sẽ gặt lấy quả tương ứng với nhân đã gieo. Tại sao người lại trở lại làm người? Là để trả nợ, trả những món nợ nhân quả ở thế gian. Nếu quí vị không tìm cách trả món nợ này thì nợ nần vẫn tiếp tục, như món nợ đã vay của ngân hàng vậy.
Tôi nhớ một câu chuyện này nữa. Có một gia đình nuôi một con lừa, dùng nó để kéo cối xay và chuyên chở. Người chủ thấy lừa quá chậm chạp nên thường dùng roi đánh nó để thúc giục. Con lừa làm việc miệt mài trong cực nhọc cho đến khi chết. Nó được đầu thai làm người. Khi người chủ hay đánh đập lừa chết, lại đầu thai làm một người phụ nữ. Khi cả hai người này đến tuổi thành hôn thì họ cưới nhau.
Quí vị có biết cặp vợ chồng này sống với nhau như thế nào không? Suốt ngày người chồng đánh đập người vợ. Ông đánh vợ bất kỳ lúc nào, bất luận đang cầm vật gì trên tay, cả lúc đang ăn cơm cũng đánh vợ bằng đũa. Ông ta vừa đánh vừa chửi, cho dù người vợ chẳng làm điều gì sai trái.
Một hôm Thiền sư Chí Công đi qua nhà họ. Người phụ nữ bèn thưa với Ngài:
– Chồng con ngày nào cũng đánh và chửi con qúa chừng mà con không biết tại sao. Bạch Ngài, xin Ngài hãy dùng ngũ nhãn, lục thông bảo cho con biết mối tương quan nhân quả của chúng con đời trước ra sao mà đời này chồng con đánh đập và chửi mắng con hoài vậy?
Thiền sư Chí Công đáp:
– Tôi sẽ nói rõ tương quan nhân quả của hai người cho mà nghe. Trong đời trước, bà là một người đàn ông. Ngày nào bà cũng đánh đập chửi mắng con lừa, thúc giục nó phải kéo cối xay bột.
Ông chủ ấy thường đánh con lừa bằng cái chổi tre. Nay ông chủ được đầu thai lại làm người phụ nữ, đó chính là bà. Còn con lừa thì được đầu thai làm người chồng. Nay ông ta thường hay đánh đập chửi mắng bà cũng như kiếp trước bà đã thường đánh chửi ông tức là con lừa vậy. Nay bà đã hiểu rõ nhân quả tương quan với nhau rồi, tôi sẽ bày cho một cách để chấm dứt vòng oán nghiệp này. Bà hãy cất giấu tất cả mọi dụng cụ trong nhà ngoại trừ cái chổi đuôi ngựa (chổi dây). Khi người chồng thấy chẳng còn vật gì dùng để đánh cô, anh ta sẽ cầm chổi dây này để đánh. Cứ để cho anh ta đánh vài trăm roi, thì nợ cũ của bà mới được trả. Lúc đó, bà mới báo cho anh ta biết nhân đời trước và quả đời sau báo ứng với nhau rất rõ ràng như tôi vừa giải thích cho bà. Anh ta sẽ không còn đánh bà nữa.
Người phụ nữ làm đúng như lời Thiền sư Chí Công chỉ dạy. Khi người chồng về đến nhà, ông ta liền kiếm vật gì đó để đánh vợ. Chỉ còn thấy chiếc chổi đuôi ngựa, ông ta cầm lấy và đánh. Thông thường như mọi khi, cô ta tìm cách chạy trốn. Nhưng lần này cô ta kiên nhẫn ngồi đó chịu đòn cho đến khi ông chồng ngừng tay.
Thấy lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ chạy. Cô ta kể lại việc được Thiền sư Chí Công giải thích cặn kẽ tương quan nhân quả của hai người. Ông chồng nghe xong ngẫm nghĩ: “Như thế thì từ nay ta không nên đánh chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh, thì kiếp sau cô ta sẽ đầu thai trở lại rồi tìm ta để đánh chửi”. Từ đó ông chồng không còn đánh mắng người vợ nữa.
Thế nên quí vị phải biết mọi người đều có sự quan hệ với nhau tương ứng với nhân đã tạo. Quí vị chẳng thể nào biết được trong đời trước, ai đã từng là mẹ, là anh, là cha hay là chị em của mình. Cái nhân đã tạo ở đời trước sẽ tạo thành quả đời này và nhất định có liên quan đến bà con quyến thuộc của mình. Nếu quí vị hiểu được đạo lý nhân quả, thì quí vị có thể chuyển hóa, biến cải được nhân bằng cách từ bỏ những việc ác.
Còn một chuyện nữa về Thiền sư Chí Công. Một ngày Ngài ăn hai con chim bồ câu. Ngài rất thích món ăn này. Người đầu bếp nghĩ rằng món thịt bồ câu chắc là rất ngon nên ngày nọ anh ta quyết định nếm thử. Anh ta làm việc này với hai ý nghĩ: một mặt là muốn thử xem thức ăn hôm nay mình làm có ngon hay không; một mặt khác anh ta nghĩ rằng Ngài Chí Công ngày nào cũng thích ăn bồ câu, nhất định đây là một món ăn rất ngon, nên muốn thưởng thức một chút rồi mới đem đến cho Thiền sư dùng.
Khi người đầu bếp mang thức ăn đến. Ngài nhìn đĩa thức ăn và hỏi:
– Hôm nay có ai nếm trộm thức ăn này? Có phải chính anh không?
Người đầu bếp liền chối. Thiền sư liền bảo:
– Anh còn chối. Tôi sẽ cho anh thấy tận mắt ai là người nếm trộm. Hãy nhìn đây!
Ngài liền ngồi ăn. Ăn hết hai con bồ câu rồi, Ngài liền há miệng rộng, trong đó, một con bồ câu liền vẫy cánh bay ra còn con kia thì bị mất một cánh, không thể bay lên được.
Thiền sư mới bảo:
– Anh thấy đó, nếu anh không nếm trộm thì tại sao con bồ câu này không thể bay được? Chính là vì ông đã ăn hết một cánh của nó.
Chuyện này làm cho anh đầu bếp biết Thiền sư Chí Công không phải là người thường. Ngài chính là hóa thân của Bồ tát. Thế nên Ngài có năng lực biến những con bồ câu bị nấu thành thức ăn rồi thành bồ câu sống. Không phải là Bồ tát, không làm chuyện này được.
Thiền sư Chí Công còn thường ăn một loại cá gọi là Tuệ Ngư. Cũng đem cá ra nấu nướng rồi Ngài ăn từ đuôi lên đầu. Nhưng sau đó Ngài lại há miệng ra làm cá sống lại. Vì vậy, những việc này là rất thường đối với cảnh giới của hàng Bồ – tát. Thiền sư Chí Công là một vị Bồ – tát, nhưng không bao giờ Ngài nói: “Các ngươi biết không, ta là một vị Bồ – tát, ta đang giáo hóa chúng sanh, ta có đại nguyện này, hạnh nguyện kia…” Các vị không bao giờ mong khởi ý niệm ấy. Cho nên chúng ta là hàng phàm phu, dù có thấy Chư Phật hay Bồ – tát cũng không thể nào nhận biết được. Việc làm của Bồ – tát cũng gần như hành xử của người thường, nhưng thực chất lại không giống nhau. Là vì phàm phu khi hành động chỉ nghĩ đến lợi ích của chính mình, không nghĩ đến sự giúp đỡ cho người khác. Còn Bồ – tát thì chỉ nghĩ đến lợi ích của người khác mà không nghĩ đến mình. Khác nhau là ở điểm này. Bồ – tát thì tự làm lợi ích cho mình còn lo làm lợi ích cho người khác. Tự giác ngộ mình xong rồi giúp cho người khác giác ngộ. Tự độ hoàn toàn, lợi tha hoàn toàn.
Trích từ bài pháp Giảng Giải Chú Đại Bi
Cố hòa thượng Tuyên Hóa
Kính chào quý Thầy. Con thấy cuộc sống này giả tạm, tiền bạc là giả tạm. Con đi làm để kiếm tiền nói chung cũng khá. Tuy nhiên đi làm con cảm thấy mệt mỏi vì phải đấu tranh, mọi người vì tiền vì chức mà nói xấu nhau, hạ thấp nhau. Con muốn buông bỏ tất cả, muốn nghỉ việc và dùng số tiền mà mình tích góp bấy lâu (cũng ít thôi) gửi ngân hàng lấy lãi làm phương tiện sống. Con chỉ thấy thật sự thanh thản khi được đến chùa cộng tu, khi được cùng các cô chú đi hộ niệm cho người. Đó là thời gian con tự tại nhất. Tuy nhiên con cũng còn trẻ, con may mắn được người vợ hộ pháp cho con nói rằng nếu con muốn vậy thì sẽ thuận theo con cho con tu và sẽ lo được cho con của con (còn nhỏ mới 5 tuổi). Con thầm cá ơn tâm chân thành của vợ con. Tuy nhiên con còn phân vân liệu mình làm vậy là do thật sự tâm mình muốn buông bỏ hay do mình chấp tâm mình yếu đối chọi với thử thách không nổi vì con nghe quý Thầy nói mình ở trong thế gian người ta động mà mình vẫn tịnh mới là thật tu… Và con cũng sợ mình để vợ một mình lo tiền bạc cho con như vậy là có vô trách nhiệm với vợ con mình không. Con vẫn chưa quyết định được xin các Thầy và quý thiện tri thức hoan hỉ chỉ bảo con. A DI ĐÀ PHẬT NGUYỆN CON CÙNG CÁC CHÚNG SANH ĐỒNG SANH NƯỚC CỰC LẠC.
Con xin được nói thêm rằng ý nguyện của con là buông bỏ công việc để ngày ngày đến chùa cộng tu niệm Phật và đi hộ niệm chứ không phải đi xuất gia vì con nghiệp nặng sâu dày chưa đủ công đức để được làm Thầy làm Tăng. A DI ĐÀ PHẬT.
Chào bạn, cách suy nghĩ buông bỏ công việc hiện tại, để tập trung niệm Phật và tham gia hộ niệm của bạn rất giống cách suy nghĩ hồi xưa của mình. Đúng là không có gì ý nghĩa và tốt đẹp hơn khi được đóng góp sức lực bản thân cho Phật Pháp để tự lợi và lợi tha! Nhưng hoàn cảnh của bạn giờ đây đã là người chồng, người cha thì việc buông bỏ này chưa chắc sẽ đem đến sự thanh tịnh trong tâm bạn về sau. Niệm Phật cốt để nhằm tâm mình thanh tịnh, bạn cứ nghĩ mọi thứ xung quanh, công việc…, đều là phương tiện, là sự khảo nghiệm để giúp ích mình trên con đường tu tập. Miễn là đừng để tâm mình chấp chặt vào công việc và cuộc sống hàng ngày! Bạn đang có 1 vị Bồ Tát – là người vợ, dám chấp nhận hy sinh để thành toàn cho bạn trên con đường tu tập. Hãy cùng vị Bồ Tát ấy xây dựng 1 cuộc sống bình an cho cả nhà bạn. Chỉ cần trong tâm nhớ Phật, đi đứng nằm ngồi niệm Phật không gián đoạn thì mọi thứ kể cả việc kiếm tiền, đối người tiếp vật bên ngoài đều đem đến bạn sự an lạc, hoan hỷ. Khi con bạn trưởng thành,bạn đã làm tròn trách nhiệm người chồng – người cha, việc hoằng dương Phật Pháp nếu đủ duyên lúc đó bạn vẫn làm được tốt đẹp.
Chúc bạn vững tâm trên con đường đời và đạo! A Di Đà Phật
Như vậy xem ra đã có duyên rồi đó bạn..người ta nói thứ 1 tu tại gia,thứ 2 tu chợ,thứ 3 tu chùa mà.tu thì bạn nên trau dồi kiến thức..đọc nhiều kinh sách..và nhất là thực hành..ko cần thiết quá phải tới chùa(tuy nhiên tới chùa thì có đủ PHẬT,PHÁP,TĂNG)nhưng ko nhất thiết bạn ạ.ở nơi trần tục bạn còn có thể làm việc thiện.tạo thêm thiện duyên nữa
Kính bạch thầy, con thấy những gì trong kinh Phật và thầy Tịnh Không dạy có điều con làm được có điều con không làm được. Nhìn vào những gì làm được con hoan hỷ hi vọng mình được vãng sanh, nhìn vào những điều ko làm được là con lại sợ ko được vãng sanh. Trước kia con hay gặp ác mộng con niệm Phật trong mơ được mỗi khi con thấy ác mộng, nay con ko gặp ác mộng con lại ko niệm được nữa trong mơ con chỉ ý thức được con đang tu thôi, cuộc sống của con nhiều phiền não lắm, vì mẹ con ko tu, con khuyên ko nổi, khi con khuyên mẹ con cáu và như muốn đánh con, mẹ con hay đi chùa lễ Phật con cứ tưởng khuyên mẹ sẽ tin ai ngờ mẹ con lại nghiệp nặng như vậy. Mẹ ko tin và rất nóng tính, ko khuyên được mẹ con thấy buồn, mẹ lại nóng tính con thấy khổ tâm phiền não. Mỗi lần mẹ mắng là con niệm Phật trong tâm cố gắng không cãi mẹ và hồi hướng hết công đức cho mẹ khi mẹ nóng giận. Con thấy buồn thương mẹ, sợ mẹ không giác ngộ, con sợ con không được vãng sanh. Con kể cho quý thầy qua về quá trình tu của con. Con tu vậy có vãng sanh được ko, con cứ hồi hướng công đưc cho mẹ con thật nhiều thì mẹ con có giác ngộ được ko.
Chào bạn, Diệu Ngọc có vài lời chia sẻ hy vọng giúp ích được cho bạn.
Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc đòi hỏi bạn phải có “tín-nguyện-hạnh”. Bạn hay nghe bài giảng của Lão Pháp Sư Tịnh Không thì chắc biết rõ 3 điều này. Quan trọng phải có tín tâm kiên cố, trong tín có tín tự và tín tha, phải thật sự tin vào chính bản thân mình: đời này nhất định vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Niềm tin này mình phải xây dựng lâu dài mới có được, đòi hỏi bạn nghe Pháp của thầy Tịnh Không nhiều lần, đọc các gương vãnh sanh của những người đi trước. Lâu dần niềm tin “bản thân mình làm được” sự tự tin sẽ xuất hiện! Kèm theo phát nguyện vãnh sanh tha thiết, câu Phật hiệu ở bên mình khi đi đứng nằm ngồi. “Nhớ Phật, niệm Phật hiện tiền, tương lai chắc chắn thấy Phật”
Bạn thật có tấm lòng hiếu thảo khi mong muốn mẹ bạn tin tưởng Phật Pháp, pháp môn niệm Phật. Nhưng mọi thứ còn tùy duyên, tùy vào thiện căn phước đức, nhân duyên của Mẹ bạn, đừng vì điều này mà vô tình lại làm mẹ bạn khó chịu. Bạn cứ chân thành tu tập, niệm Phật, làm các việc thiện lành hồi hướng cho mẹ bạn. Nhớ là Phật chỉ độ người hữu duyên.
Chúc bạn có niềm tin vững chắc trên con đường tu tập của chính mình. A Di Đà Phật
Xin gửi bạn đôi câu
Phật môn tuy rộng mở,khó độ người không duyên
Với người vô duyên,nói bao nhiêu cũng là thừa
Với người hữu duyên,chỉ cần bạn xuất hiện đã đủ đánh thức giác quan của họ rồi
Vạn sự tùy duyên.
a di đà phật
thời mạt này biết đến pháp môn tịnh độ mà lại còn tham gia ban hộ niệm, đó là đại nhân duyên trong vô lượng kiếp ta mới có cơ duyên này. bởi vì niệm phật thời nay hợp với mọi căn cơ nhưng lâm chung không có hộ niệm thì muôn phần khó vãng sanh, bởi vậy hòa thượng Tịnh không mới nói vạn người niệm phật mới có vài người vs, ấy thế mà người mới biết niệm phật đc hộ niệm vs ngon lành, ta hộ niệm cho người ắt lâm chung có người hộ niệm ta, mọi việc đức Phật sẽ an bài cho ta,vì đời này liệu hỏi có việc nào cao đẹp hơn giúp mọi người thành Phật, xin tán thán tâm nguyện của bạn Han, bạn đã đi đúng con đường tổ sư đã dạy chứ bạn mong xuất gia là trái với lời dạy của Tổ Ấn quang, lời dạy của hòa thượng Tịnh không rồi.
còn đối với việc khuyên người nhà niệm Phật, thì theo hòa thượng Tịnh không dạy là không quá 3 lần, nếu không thì thành oán mà lại mang tội cho người nhà minh, ở đời cha mẹ nghe con khuyên thì nghĩ là nó dạy khôn mình à, sao các bậc cha, mẹ nghe cho nổi. vì vậy Cư sĩ Diệu âm úc châu mới nói rằng ta cần nhờ những người hợp duyên với cha, mẹ mình đến khuyên, ngoài ra ta tu thật tốt làm tròn đạo hiếu với cha mẹ, sẽ đến lúc cha mẹ hồi tâm, như Đại sư Ấn quang dạy, con chí thành niệm Phật, tam bảo sẽ gia bị cho người nhà mình phát tâm đó chẳng phải việc ta có năng lực làm nổi.
Nam mô A di đà phật
Con cám ơn cô Diệu Ngọc. A DI ĐÀ PHẬT. Con ở tp.hcm Việt Nam nếu cô cho phép con có thể xin địa chỉ mail hay nhà cô được không để con được gặp cô học về kinh nghiệm tu hành. A DI ĐÀ PHẬT.
A Di Đà Phật, Diệu Ngọc chỉ là 1 người tu tập bình thường, hữu duyên nên Diệu Ngọc chia sẻ ý kiến, hy vọng giúp ích được quý liên hữu. Liên hữu Han nên học theo lời dạy của Phật, của các vị tổ như Liên Trì Đại Sư, Ấn Quang Đại Sư, Lão Hòa Thượng Tịnh Không và tham khảo kinh nghiệm hộ niệm của Cư sĩ Diệu Âm Minh Trị ở Úc Châu như Liên hữu Tịnh Minh đã nhắc đến! Chúc bạn an lạc. A Di Đà Phật
Con xin chân thành cảm ơn thiện tri thức tịnh minh. Con cũng tin rằng Phật sẽ an bài cho con tất cả để hết báo thân này con và tất cả chúng sanh đồng sanh Cực Lạc quốc. A DI ĐÀ PHẬT.
TM chỉ là kẻ phàm phu, tội chướng sâu nặng … khổ không nói hết.Tm không phải là thiện tri thức, đạo hữu xưng như vậy Tm chỉ biết kêu trời thôi, chẳng biết làm sao đc,Tm xin sám hối ,chí thành sám hối… Tm đời này mê muội chỉ biết nghe theo lời dạy của Ấn Quang Đại Sư, Hòa thượng Tịnh Không và Thiện hữu là Cư sỹ Diệu Âm Úc châu.
Con xin sám hối.
A Di Đà Phật
A DI ĐÀ PHẬT con cũng xin sám hối, A DI ĐÀ PHẬT.
A Di da Phat
Kính chào quí thầy
Con có chuyện này muốn tâm sự và sự chỉ bảo của quí thầy
con năm nay 47 tuổ, không biết con có được diễm phúc duyên lành đến với phật không. Những hiện tượng một năm nay trong tâm con khác lạ. Con đang làm việc trong một cơ quan nhà nước cấp huyện, chức trách cũng không nhỏ.Nhưng tự nhiên con không muốn đi làm nữa,không muốn tranh đua với ai, không tham tiền của, không sát sanh dù chỉ là con muỗi, con kiến,thích ăn chay trường( đã ăn được 9 tháng, trường,hãy đi chợ thấy thịt,cá họ làm thịt là con lại khóc ngay giữa chợ và nôn mữa, từ tháng 5AL đến nay con không đi chợ nữa, không nấu ăn đồ mặn, không thích rữa chén chỉ sợ đụng phải thịt cá, hiện tại con đã thỉnh Phật Quan Thế Âm Bồ tát về nhà thờ và cứ ngày 2 lần con ngồi niệm phạt,tụng kinh phổ môn,tọa thiền từ 1 tiếng đến 1 tiếng 30p thì lòng con rất tỉnh lặng,hiện nay con đã xin nghỉ không ăn lương để ở nhà tu luyện( chồng con và gia dình 2 bên rất lo lắng và hay la mắng con nhưng sao tâm con lúc này thấy rất thanh thản và cảm thất rất thương họ,thương tất cả chúng sanh: Mỗi sáng con dậy lúc 4h30 con tụng kinh niệm phật trong khi niệm phật con thấy mọi người tất bật chạy xe máy đi ngoài đường để mưu sinh con lại thấy thương vô cùng.Trong khi con ngồi tọa thiền trong tâm con thấy có mẹ chỉ bảo đủ mọi thứ như dạy cho mau thuộc kinh,con lại cứu gíp những hương linh đang lưu lạc về chùa và được thấy hào quang… ngày 25/11 AL con ngồi tọa thiền lại được nghe mẹ giao nhiệm vụ để cứu độ chúng sanh ( có lần mẹ đã cho con thấy con ngồi trên đỉnh núi cao và nhìn xuống thấy chúng sanh đau khổ nhiều lắm, thấy người ôm bụng, ôm chân kêu đau) và mẹ đã chuyền hết công lực cho con khi con mở mắt tỉnh lại thì thấy người con cứ trao đảo, ngày 26/11 AL con ngồi thiền lại thấy Phật tổ như lai, Phật A Di Đà, các chu vị Bồ Tát đã quy y cho con đạt pháp danh là Như Hoa và làm phép cho con, con nghe phật tổ dăn dò con là từ nay con đã là con của phật và phải cứu độ chúng sanh và bảo con phãi quì và hứa với tam bảo và con đã hứa trước phật tổ như lai, phật A Di Dà và các chư vị bồ tát và gia tiên.sau khi con tọa thiền song cũng như mọi ngày con ngồi xoa tay chân thì con lại tiếp tục tọa thiền và trong tâm lại được nghe mẹ dặn là từ nay con phải tự mình xử lý mọi tình huống, phải thương tất cả chúng sanh phải có lúc cứng như đá, mềm như ngọn cỏ, phải sáng như pha lê, phải trong như nước tinh khiết.gia dình con con không phải là phật tử ít đi chùa, tỉnh giấc lại thấy mẹ đang dạy kinh phổ môn.Con rất moang quí thầy chỉ dạy và cho con biết thêm để con tiếp tục trên con đường tu tập, con cũng đã có lòng quyết tâm là sẽ đi con đường mà con đã chọn: con đã nghỉ việc, không lo toan tiền bạc, ít đi ra ngoài và ít đến chỗ đông người, nhiều người bảo con bị ma nhập…nhưng con không buồn họ mà lại thương họ nhiều.Con rất mong được quí thầy dạy bả thêm
Nam mô A di Dà Phật, Nam mô Quan thế Âm Bồ Tát.
A Di Đà Phật, xin chào chị Ngoan. Trường hợp chị chuyển từ ăn mặn sang ăn chay, phát tâm hướng về Phật pháp để tu hành thì thật là tốt. Tuy nhiên nhà Phật thường dạy mọi thứ phải tuỳ duyên, chị đang có công việc ổn định sao lại muốn bỏ hết. Người tu tập thường mượn cái thân huyễn giả này để tu tâm dưỡng tánh, áp dụng những lời Phật dạy vào cuộc sống bình thường. Phật pháp không lìa thế gian pháp, tâm bình thường chính là đạo, không có gì huyền bí hay cao siêu mà rất chân thật.
Timlaiphattanh không biết chị đang tu theo pháp môn nào? Thiền hay Tịnh nhưng cho dù pháp môn nào đi chăng nữa những hình ảnh chị thấy được đều không thật, xin chị hãy lưu ý. Vì Đức Phật đã dạy: ‘Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng’.
Trong khi toạ thiền, tất cả các hiện tượng lạ xuất hiện (dù thấy rất thật) đều là vọng cảnh. Vì thế, khi các ảo cảnh xuất hiện, hành giả cần bình tĩnh (không sợ hãi và cũng không đắm trước) an trú tâm vào chánh niệm thì các vọng cảnh tự tiêu tan. Trường hợp “thấy” Phật và Bồ tát cũng vậy, cứ giữ tâm vào đề mục đang tu tập (hơi thở, danh hiệu Phật…), không nên rời bỏ chánh niệm. Giữ tâm thanh tịnh, tĩnh lặng và sáng suốt đồng thời an trú vào chánh niệm bất động là điều tối cần cho một hành giả trong lúc toạ thiền.
Khi tu tập đừng mong cầu thấy Phật, Bồ tát…..những cái mong cầu này sẽ không giúp ích cho mình đâu ạ. Chỉ chuyên tâm giữ gìn chánh niệm mà thôi. Mong cầu quá thì mình sẽ gặp rắc rối ngay, oan gia trái chủ nhiều đời nhiều kiếp sẽ tìm mình liền. Rất nguy hiểm chị ạ. Trường hợp này chị nên bình tâm trở lại, nên làm việc lại, nên thành tâm sám hối trước Tam Bảo, đừng nghĩ nhiều về những gì chị đã từng trong thấy mà nên niệm Phật, phóng sanh, làm những việc thiện hồi hướng công đức cho oan gia trái chủ. Nếu thật sự niệm Phật nhiều thì tốt nhất.
Chúc chị an lạc, vượt qua nghiệp chướng.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Timlaiphattanh
Chào cô Ngoan!
Đọc bài viết của cô, Ánh Trăng xin phép chia sẽ đôi điều với cô…
Theo như suy nghĩ của con thì có lẽ cô đang dính vào ma cảnh, có lẽ là đang bị ma phá, ma theo, ma dụ, đang lạc vào ma cảnh chứ chẳng có Phật, Bồ Tát nào độ cho cô theo kiểu như vậy hết…
Cô đang đi làm thì tự dưng lại bỏ làm, khiến cho người nhà hoang mang, lo lắng không biết cô bị làm sao…rồi cô xa lánh mọi người, cô lập, ít ra ngoài, ít tiếp xúc…
Nếu như là quả thật chư Phật, Bồ tát đang độ cho cô thì sẽ không khiến cho cô trở nên khác thường, bất bình thường, khó hiểu, không khiến cho mọi người xung quanh lo lắng, hoang mang vì cô, trách mắng cô đủ điều như thế…
Nếu Phật mà thực sự độ thì không có chuyện để ảnh hưởng gia đình, hiểu lầm đủ thứ làm xáo trộn cuộc sống của cô…
Rồi cô nói là không thích rửa chén vì sợ đụng vào thịt cá…điều này cũng cho thấy là cô không được bình thường, rửa chén thì không có gì mà cô phải ghê sợ khác thường như vậy, làm thịt làm cá mới đáng nói chứ…quả thật là có vấn đề và không được tốt…
Khi cô ngồi thiền thì thấy Phật Tổ, Phật Di Đà, chư Bồ Tát quy y và ban pháp danh, làm phép cho cô…
Nếu như cô đã quy y và có pháp danh rồi thì Phật, Bồ Tát không nhất thiết phải quy y lại, và ban pháp danh khác cho cô…
Còn nếu như cô chưa phải là phật tử, chưa có quy y thì chư Phật muốn độ cho cô thì sẽ khuyên cô đến chùa quy y , như vậy mới đúng theo Phật pháp chứ không có chuyện một đống Phật, Bồ tát xúm xít lại quy y, rồi còn làm phép nữa chứ…càng không có những chuyện như là truyền công lực, cũng không có chuyện tự dưng giao nhiệm vụ cứu độ chúng sanh gì ở đây…
Không có chuyện Phật nào khiến cho mình khác người, cho mình thấy mình cao siêu, vĩ đại hơn người khác, mình là người đi cứu độ chúng sanh…
Đây chỉ là cảnh ma, ma giả Phật mà thôi chứ không phải Thánh cảnh gì đâu cô…không có đức Phật Di Đà, không có Bồ Tát thiệt đâu cô, toàn là ma giả dạng chư Phật, chư Bồ Tát rồi chỉ dẫn cho cô những thứ không phải Phật pháp…
Cô nói là Phật tổ bắt cô quỳ, hứa với Tam bảo là phải cứu độ chúng sanh…
Không có vị Phật hay Bồ Tát nào làm vậy đâu cô…
Nếu như là Phật, là Bồ Tát thật sự thì sẽ khuyên cô vào chùa quy y, nghe thuyết pháp, thỉnh kinh Phật, sách Phật về học để hiểu biết Phật pháp, hiểu biết về luân hồi sanh tử, về nỗi đau khổ của chúng sanh rồi từ đó khuyến tấn chúng ta tu hành, phát khởi bồ đề tâm cứu độ chúng sanh…
Phải có sự hiểu biết và phát nguyện một cách chân thực, tự nguyện chứ không có chuyện Phật tổ bắt mình quỳ, bắt mình hứa…không có chuyện bắt bớ gì ở đây…nhất định là không phải Phật, chỉ có ma giả Phật rồi dạy những thứ không phải là Phật pháp…
Những cảnh mà cô thấy như mình đang cứu giúp hương linh lưu lạc, thấy chúng sanh đau khổ kêu la đều không phải là thật mà toàn là cảnh giả, cảnh ma hiện ra làm cho cô bị lầm lạc…
Theo con thấy thì cô không nên ngồi thiền nữa, ngồi thiền mà không đúng cách, không có minh sư, không am tường giáo lý rất dễ lạc đường, dễ thấy đủ thứ cảnh giới mà Thánh cảnh thì ít có, huyễn cảnh, ma cảnh thì lại có nhiều…Phật tổ, Bồ Tát thì ít mà ma giả dạng quấy phá, đánh lừa mình thì nhiều…
Con nghĩ là từ nay về sau mỗi ngày cô nên niệm A Di Đà Phật, hoặc là cô niệm Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát và cầu nguyện sự phù hộ độ trì của Ngài Quan Âm, đừng có chú ý đến các cảnh giới mà cô thấy…
Nên thỉnh kinh Phật, sách Phật về học hỏi thêm để không bị lầm đường, nên lên chùa gần gũi học hỏi và nhờ sự dẫn dắt của các thầy, nếu muốn nghe thuyết pháp, nghe giãng kinh, học kinh thì lên chùa mà nghe các thầy thuyết, đọc sách của Phật, của các Tổ sư để lại chứ đừng có nghe ma giả Phật dạy kinh rồi thuyết cho mấy cái thứ vớ vẩn, bậy bạ…
Như vậy thì sau một thời gian tinh tấn tu hành, các thứ ma quái, ma cảnh kia sẽ không còn nữa, những hiện tượng bất thường nơi cô cũng sẽ biến mất, cô sẽ trở lại bình thường như trước đây…
Chúc cô nhiều điều bình an, tốt đẹp, sớm ngày tỉnh thức!
Sự nghiệp cả đời là liễu thoát sanh tử
Pháp môn cả đời là trì danh niệm Phật
Mục tiêu cả đời là vãng sanh Tây phương
MỘT ĐỜI VÃNG SANH, CHẤM DỨT LUÂN HỒI
Chào chị Ngoan,
Đúng như 2 liên hữu Tìm Lại Phật Tánh & Ánh Trăng Trí Tuệ đã góp ý với chị ở trên. Phương pháp tu hành của chị đang dần dần lạc vào tà đạo chứ không còn là chánh đạo nữa. Chị hãy mau thức tỉnh để nhận ra đâu là con đường đúng để đi. Nếu còn tâm ưa thích những chuyện màu nhiệm, thần thông thì chị sẽ đi vào ma đạo và bị chúng dẫn dắt mà chính chị không biết. Lâu ngày chị sẽ bị chúng sai khiến, lúc ấy thì Phật hay bồ tát có đến cũng không giúp gì được cho chị. Dưới góc nhìn khoa học thì đấy là triệu chứng của người mang chứng tâm thần phân liệt. Đơn giản theo từ dễ hiểu của dân gian là bị ma nhập, hay tẩu hỏa nhập ma.
Xin chị hãy mau thức tỉnh!
A Di Đà Phật
Nam Mô A di dà phật.
Cám ơn quí thầy đã cho con biết được nhiều về phật pháp và đã khuyên con những điều bổ ích.Thưa quí thầy. Con hàng ngày 2 lần vẫn đang niệm phật, tụng kinh phổ môn.Từ nhỏ đến giờ con chưa bao giờ được nghe tụng kinh nhưng tử tháng 5/2013 con mới thỉnh mẹ vế và sáng tối con tụng kinh và đến nay con đã thuộc,con cũng không hiểu sao khi con đén chùa thì hay sưng hô với thầy là con, năm trước con hay đ chùa, con cũng đã đi rất nhiều chùa nhưng vì mỗi lần đi chùa lại xưng hô như vậy nên con thấy có lỗi quá nên con ở nhà con cũng sám hối và hay cúng dường, bố thí. Con muốn nói thêm là hiện nay gia đình con đã hòa thuận và thương con chồng con vẫn mua đồ chay về nấu cho con,hàng ngày sau khi tụng kinh con lại mở vi tính nghe thuyết pháp, trước khi đi ngủ con vẫn mở máy nghe thuyết pháp, máy niệm phật đến khi ngủ say mới thôi,con ở nhà thì tinh tấn không thích đi làm, suốt ngày con chỉ thích nghe những bài hát về mẹ quan thế âm Bồ tát và rất thích lên mạng tìm hiểu về phất, ước nguyện của con là muốn giải thoát tất cả chỉ được tu tại gia để tìm lại chính mình. Sao bây giờ con tháy ai con cũng thương cũng mến, không có khó chịu như trước.Con là người phàm nhiều tội lỗi từ nhiều đời nhiều kiếp nên con cũng cố gắng tu, sám hối, cúng dường, hồi hướng( Con nghỉ chỉ ở nhà mới có thời gian học hỏi thêm như trên mạng, tham khảo thêm kinh kệ)sau khi con cảm thấy tự tin chính bản thân con sẽ đi làm lại.Con không ham tiền bạc, cũng không ham danh lợi.Con nói thêm vì hiện tại con của con cũng đã đi làm việc nhà nước, nhà cửa cũng đã ổn định, kinh tế cũng tạm ổn nên con muốn được tu để sửa tính nết, không tham sân si nữa.Con mong quí thầy dạy bảo thêm và con cũng sẽ làm như quí thầy khuyên bảo.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Gửi cô Ngoan và mọi người…
Ánh Trăng chia sẻ thêm về vấn đề của cô nhé vì bây giờ những người bị như cô nhiều lắm đó…
Nhìn chung thì vấn đề của cô là cô đang gặp ma chướng…
Những người mà bị chướng nạn ma thường do những nguyên nhân sau:
– Nguyên nhân thứ nhất là: tu theo ngoại đạo, tà đạo, tà pháp…
Giờ có nhiều hình thức tu tập không phải phật giáo, không mang đến giải thoát và dễ gặp những chướng nạn, ma nạn như thiền xuất hồn, thiền mở luân xa và nhiều hình thức khác…
Hoặc nhiều hình thức tu tập tà vạy giả danh Phật giáo làm cho những phật tử và những người không phải phật tử cứ tưởng đó là Phật pháp chạy theo tu ào ào và dính nạn tà ma…
Giờ tà đạo tràn lan mọi nơi, người theo học tà đạo đông vô số kể và rất nhiều người mắc nạn ma giống giống như cô Ngoan mà họ cũng giống cổ, không biết gì lại còn tưởng mình đang được Phật, Bồ Tát độ…
Không chỉ có một loại tà pháp mà cả đống tà pháp, ở trên mạng cũng có đầy dẫy, phật tử hay không phật tử đều học một cách vô tư…
Nếu mọi người mà biết được thực tế về tà đạo và số lượng người bị dính vào nó chắc…mém xỉu!
Họ nói pháp tà, họ kể chuyện ma quỷ nhưng lại cho là Phật pháp giống y như cô Ngoan vậy…
Mỗi người đều có những hiện tượng và triệu chứng riêng, nhưng nhìn chung là cũng kiểu như cô Ngoan…
Họ cứ suốt ngày thấy Phật, Bồ Tát, thấy thần tiên đử thứ…Rồi thấy các vong linh, các hiện tượng này nọ…
Và họ cứ tưởng là được đang được Phật độ, Bồ Tát, Thần Thánh độ, Chư Vị độ…tá lả hết…tưởng được Phật dạy pháp, truyền pháp này nọ …
Đọc những mẩu chuyện họ viết, họ kể có nhiều điểm giống cô Ngoan, có nhiều chuyện đọc vô thiệt nổi da gà, toàn là chuyện hoang tưởng, khùng điên mà cứ cho là thiệt…
Những chuyện cô Ngoan kể cũng thường thôi, mấy người đó họ cũng như thế…và họ cũng giống cô cứ nghĩ là mình cùng Phật, Bồ Tát đi cứu vớt chúng sinh, y chang cô…hì hì…
Có người cho mình rất là cao siêu, đắc này đắc nọ…
Suốt ngày họ cứ đắm chìm trong những cảnh giới mà họ thấy, cho là những cảnh giới đặc biệt của những người như mình, người khác không hiểu được, không có được…
Và họ cũng có những triệu chứng tâm lý không bình thường như cô Ngoan…nhưng mỗi người mỗi kiễu, nặng nhẹ khác nhau…
Cô Ngoan thì bị khoảng gần năm nay, có nhiều người thì bị lâu năm rồi mà chưa tỉnh…có người còn khùng khùng mát mát rồi phát điên luôn…ghê lắm!
Có những người học pháp trên mạng, học thiền, học mật…toàn những pháp cao, pháp khó…đã vậy còn tự học, tự tập, tự tu, chẳng có thầy dạy…
Đã chơi pháp cao lại không có thầy, lại học trên mạng, bạ đâu học đấy…nhè mấy thứ thầy tà, pháp tà mà luyện…những pháp này không giống ai, không giống chùa, không giống trong kinh điển truyền thống, mới ra lò và do người nào đó chế ra cho mọi người luyện…
Hệ thống kinh văn, sách vở, pháp tu, chùa chiền mấy ngàn năm giá trị, lưu truyền đời đời, bao nhiêu người tu học, trải nghiệm, có thể chứng minh được giá trị đích thực của nó thì lại không hứng thú, tìm những thứ mới toanh, lạ hoắc lạ quơ do ai đó chế ra phổ biến trên mạng, rồi cấm đầu cấm cổ mà học…
Một số cũng có thầy truyền dạy đàng hoàng nhưng là thứ thầy tà, pháp tà giả danh Phật giáo…người bị lừa bịp vô lượng vô biên đến khó tin…
Theo học một thời gian rồi bị như cô Ngoan hoặc như đã nói ở bên trên…người bị vậy rất đông, không riêng gì cô Ngoan…
Một lần có chị phật tử kể từng được chú dạy cho cách niệm Phật, nghe xong chả hiểu gì hết, cách niệm Phật đó từ đâu ra, tu theo hông biết bị gì hông…
Rồi mấy phương pháp tu hành, niệm Phật này nọ trên mạng thấy có người hỏi, người học, người luyện mà cũng chả biết họ niệm Phật kiểu gì, tu gì…tu như thế cũng có ngày làm bạn với Ma…
Xin mọi người hãy cảnh giác với các pháp lạ, pháp mới, pháp tu trên mạng, không phải trang web nào cũng là Phật pháp, rất nhiều trang tà vạy, dạy tầm bậy tầm bạ không à, thế mà người này người kia học ào ào, học theo có ngày vào Biên Hòa sớm…
Lên mạng cũng gặp pháp tà, thầy tà…
Ngoài đời thì gặp tà pháp, tà sư…dính chấu như chơi…
Người không biết gì cũng theo, kẽ biết sơ giáo lý cũng theo, kẻ là phật tử biết Phật pháp cũng theo…đủ dạng người tu theo kiểu Tà…
Dính phải ma chướng là do học tà pháp và tu theo tà đạo…
– Nguyên nhân thứ hai khiến gặp ma chướng là do tuy tu Phật pháp nhưng tu sai, tu bậy, tu không đúng cách, không vững giáo lý, học sai hiểu sai…
Tu mà không am tường giáo lý rất dễ lầm lạc…
Tu mà mong cầu, ham thích thần thông, phép lạ, cảnh lạ, cảnh đẹp, nhiệm màu, tò mò, hiếu kì các cảnh giới, ham thấy Phật, Bồ tát, ham tu, ham chứng đắc v.v…
Người tu thiền, trì chú, tụng kinh, niệm Phật v.v… mà có tâm lý nầy, tâm mê, tâm ham hố, tham đắm nầy…rất dễ gặp ma chướng, nó biết cái tâm, cái mong cầu của mình nên nó hiện, nó lừa, nó phá, nó dụ…
Nhiều khi ham tu hay ham chứng quá, nhập thất một mình tu luyện tới bến… bờ bên kia, bến thì chưa có tới nhưng ma thì nó tới!…
Siêng tu thì rất là tốt, nhưng nhiều khi ham hố chuyện tu hành quá thì cũng không có hay, nhất là phải tự lượng sức mình nữa…
– Nguyên nhân thứ ba là Ma phá người tu:
Năm xưa khi Phật Thích Ca tu hành Ma Ba Tuần cũng đến quấy nhiễu Ngài…
Giờ chúng ta tu thì con ma, thần ma , dân ma, họ hàng quyến thuộc nhà ma của nó cũng đến phá đám đệ tử của Như Lai…
Rồi còn yêu tinh, yêu quái, yêu ma, quỷ ma…đủ thứ tà ma, tha hồ mà quậy phá người tu…
Nhiều khi mình niệm Phật, ngồi thiền, tu Phật, học Phật đàng hoàng mà bị mấy con ma nó quậy…
Ma nó hay phá người tu, cản trở mình tu hành, giải thoát…nó giả Thần, giả Phật rồi dạy mình những thứ không phải Phật pháp, tìm mọi cách dụ dỗ, mê hoặc mình, ban cho mình cái này cái nọ, đủ thứ hết…
Nếu không cảnh giác, không am tường giáo lý bị nó dụ, nó lừa, nghe theo nó có ngày tu Ma thành Ma giống nó…
_ Nguyên nhân thứ tư là nhân duyên nghiệp chướng:
Đôi khi có người nào đó có duyên nghiệp nào đó mà con ma nó khoái, nó theo, nó nhập v.v…nhiều khi là người quen hoặc kẻ xa lạ…
Hoặc do nghiệp chướng của mình xui khiến bị ma theo, ma nhập, ma phá…
Giờ đủ hạng tà ma, vong linh vất vưởng cô hồn…ai xui xui bị theo, bị nhập, bị phá…
Có nhiều người đâu biết tu hành gì mà cũng bị ma nhập, ma phá từa lưa…
_ Nguyên nhân thứ năm gặp nạn Ma là oan gia trái chủ nhiều đời của mình nó theo báo mình không thôi…
Kiếp trước hay kiếp này mình đã sát sanh hại mạng, hoặc gây ra những tổn hại đến nó nên nó bám mình…
Nó khiến cho mình bệnh, khiến mình bị đủ thứ chuyện, khiến cho mình sống không yên, tu chẳng được, trở ngại tùm lum, phá mình, hại mình để trả thù báo oán…
Giờ nhiều người mắc nạn ma, Ánh Trăng mong rằng có thể nhắc nhở và cảnh tỉnh mọi người nhiều hơn…tránh sai lầm nhất thời mà khổ lụy nhiều đời…
Thà ngàn năm không ngộ
Hơn một kiếp theo Ma…
Nam mô A Di Đà Phật
Thật vì sanh tử
Phát lòng Bồ đề
Dùng tín nguyện sâu
Trì danh hiệu Phật
Chào cô Ngoan và mọi người…
Nói tóm lại, chúng ta gặp nạn Ma dù là bất kì nguyên nhân nào đi chăng nữa thì chung quy cũng bởi cái Nghiệp… Vì chúng ta mắc Nghiệp nên chúng ta mới bị như thế…
Mắc Nghiệp thì phải giải Nghiệp…
Cách giải Nghiệp đơn giản và thù thắng nhất đó chính là niệm A Di Đà Phật…
A Di Đà Phật Giải Bệnh Giải Tật, Giải Chướng Giải Nạn, Giải Tà Giải Ma, Giải Oan Gia Oan Kết…Giải Hết Tất Cả…
A Di ĐÀ Phật giải trừ mọi khổ nạn của chúng sanh…
Không cần gì nhiều, chỉ cần siêng niệm: A Di Đà Phật…A Di Đà Phật… A Di Đà Phật…
Nam mô A Di Đà Phật
Chớ đợi về già mới niệm Phật
Mồ hoang lắm mộ tuổi còn xanh
A MI ĐÀ PHẬT
Con xin nhờ chư vị cư sĩ tìm giúp 1 phòng hộ niệm, đang ở VT. Có một người đang hấp hối trong bệnh viện không có nhà để đưa về. Khả năng của con chỉ giúp được chi phí đi lại đến nơi để được hộ niệm thôi. Người đó khoản trên ba mươi, còn có mẹ già và đang đi xin mọi người giúp đỡ.
Bạn thử liên hệ với các ban hộ niệm ngoài VT xem sau:
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-160_4-12896_5-50_6-1_17-6_14-1_15-1_18-2/
Nam Mô A Di Đà Phật.
A DI ĐÀ PHẬT.
Con đã tìm được chỗ Hộ Niệm. Nhưng bây giờ bệnh viện không trả về nữa. Phải trả hết tiền viện phí. Bây giờ chúng con chỉ biết niệm phật cứu giúp thôi. Không xoay được nữa.
A MI ĐÀ PHẬT.
A DI ĐÀ PHẬT
Con xin thông báo là mọi chuyện đã giải quyết ổn thỏa.
Chào tất cả mọi người!.
C.s đôi lúc làm tôi căng thẳng những khi đó tôi lại tìm đến thuyết giáo của Phật và Đạo để cho mình bình tâm hơn.
Xin nói luôn là tôi không theo 1 giáo nào,tôi bên Lương chỉ thờ Ông bà,Tổ tiên.
tôi hay đọc những gì liên quan đến phật giáo và đạo giáo và thấy có cái hợp lý và cũng có cái không được hợp lý cho lắm ở cả Đạo giáo và Phật giáo.(đừng nghĩ tôi ngu học không biết gì nên xàm ngôn,những người bên Lương chúng tôi muốn tìm 1 lẽ sống hay 1 lòng tin ở Phật hoặc Chúa lúc đầu đều có những suy nghĩ như vậy)
Ở bên Đạo,tôi đã hỏi và tôi cũng xin hỏi các quý Phật tử 1 vài câu.
1/Về thuyết Luân Hồi.
Như đã đọc câu chuyện ở trên nói về Luân Hồi,nói như thiền sư Chí Công thì khi ta chết tất cà nghiệp chướng và tội lỗi của kiếp này sẽ đem theo và ở kiếp sau ta sẽ bị báo ứng.
Nhưng nếu báo ứng theo cách như trên thì ở thế giới thực tại và hiện đại này thì câu chuyện k hợp lý chút nào vì sao?
vì như vậy chẳng khác nào oan oan tương báo..vì người sống kiếp này có biết được là kiếp trc mình như nào đâu?và người được đầu thai thì cũng giống như đã bị tẩy não,cứ như vậy thì nghiệp chướng cứ nặng thêm và không bao giờ gỡ bỏ được.
Câu chuyện dưới nói về con lừa,người chồng,và người vợ nếu không có Thiền Sư nói cho biết thì con lừa và người chủ cứ loanh quanh như vậy mãi.
Tại sao đức Phật không ngăn chặn ngay những hành vi khi chưa xuất phát mà để nó xảy ra rồi mới cứu.(vì người ta có biết đâu,mà không biết thì không thể có tội)
Ngày xưa thì tôi k biết nhưng Ở thế giới thực tại thì k đào được vị Chí Công thứ 2,điều này tôi thấy k hợp lý.
2/Nói về địa ngục.
Nhân chi sơ,tính bản thiện.
1 đứa bé mới sinh ra thì trong trắng và tâm k lấm bẩn,cho đến khi nó lớn dần lên thì nó bắt đầu mới có suy nghĩ và nhận biết mình là con người và tồn tại (sống)
những điều nó học được từ xã hội bắt đầu làm tâm nó k còn trong sáng,vấy bẩn và có thể làm những điều ác vd:hiếp dâm,bội tín,thông dâm v.v..
đó là những tội lỗi khi xuống địa ngục phải chịu những hình phạt rất ghê tởm (tôi đã từng xem qua Clib )
Vậy nếu đức Phật cao siêu và từ bi sao k ngăn chặn nó từ trc,khi nó đầu thai làm người sao không để lại cho nó 1 kí ức về c.s trc kia,hay định trc cho nó những điều nên tránh,mà để nó phạm rồi mới cứu vớt(cũng giống như phòng và chống vậy,nếu ngài rẽ sang 1 hướng khác thì nó đã k phạm tội ”Phòng”hay là nếu làm như vậy thì chẳng còn cái công mà ngài đã giúp nó ”chống’…quyền uy của ngài thừa sức làm đc và tạo ra 1 thế giới tốt đẹp.
Thuyết giáo và lời dạy của phật tôi đã đọc nhiều,có điều tôi cảm thấy hợp lý nhưng có những điều k phù hợp với thế giới hiện tại.
Xin thảo luận của mọi người.(Tôi rất thành tâm nhưng không phải là không có chính kiến nếu ai muốn thảo luận gì với tôi thì Lh:0989 554 858 hoặc [email protected])
Thân Ái:
NamMôBổnSưThíchCaMâuNiPhật!!………Trước khi đi thẳng vào câu hỏi tôi cũng xin trình bày vài điều về đạo Phật. Có thể những điều này bạn đã biết vì thế cũng mong bạn phiền lòng khi tôi nhắc lại. Cám ơn bạn!
Giải thích về đạo Phật : Rất đơn giản thôi cứ nhìn vào chữ ” Đạo Phật” là đã nói lên câu trả lời rồi. ” Đạo ” nghĩa là con đường, ” Phật ”có nhiều nghĩa như Tỉnh Thức, Giác …Tóm lại Đạo Phật là con đường, là phương pháp, là công cụ để đưa chúng sanh đến sự Tỉnh Thức, sự giác ngộ hiểu đúng được sự thực cuộc sống chứ không có gì xa lạ cả. Ví dụ như các bác học tìm ra được các định luật, nguyên lý hoạt động…các sự vật đang diền ra trên trái đất này vậy nhưng những định luật, nguyên lý hoạt động… chỉ là một phần rất nhỏ so với cái mà Đức Phật đã tìm ra nên nhớ những thứ mà Đúc Phật tìm ra không có gì mới mẻ cả mà nó luôn hiện diện xung quanh chúng ta có điều chúng ta không biết đến sự hiện diện của chúng mà thôi cũng giống như trước khi ông Newton nêu ra định luật vạn vạt hấp dẫn thì có ai biết tới lực hấp dẫn là gì đâu v.v..Qua đó ta thấy Đạo Phật không phải là tôn giáo tôn sùng một vị thần thánh, chúa trời nào cả mà có thể xem Đức Phật như là một nhà bác học vĩ đãi trong các nhà bác học vĩ thế thôi. Có lẻ tới đay bạn lại nghĩ vậy tại sao người phật tử lại lể lạy tôn sùng ngài, ở đây bạn nên nghĩ sự lễ lạy tôn sùng đó không xuất phát từ sự phục tùng, nô lệ mà là sự thể hiện sự biết ơn đối với một người chỉ dạy cho ta biết lẽ phải sự thật cuộc đời. Ông bà ta có câu ” ăn cây nhớ kẻ trồng cây hay câu nữa chữ cũng là thầy…” lẻ nào đối với một vị thầy dạy ta một chữ ta còn biết ơn tôn kính mà đối với một vị thầy dạy cho ta những sự thật vĩ đại khiến cho ta thoát khỏi khổ đau mãi mãi không đáng để ta lễ lạy, tôn kinh ư…Tới đây có thể bạn lại tự hỏi vạy Đức Phật đã khám phá ra điều gì và dạy ta điều gì mà lại xem ngài như là hà bác học vĩ đãi trong các nhà bác học vĩ. Bạn nên biết những điều Đức Phật biết và chỉ dạy cho ta chỉ như hạt cát trên sa mạc mà thôi. Vậy Đức Phật dạy gì? Ngài nói cái khổ, cái gì là cái khổ, vì sao lại khổ, làm sao diệt được cái khổ và hết khổ được vui…, ngài nói về nhân quả luân hồi, ngài nói về các loài chúng sanh, về niết bàn, về cái gì là thật cái gì là giả, ngài nói về sự hình thành các hiện tượng các thế giới sông ngòi đại địa v.v.. nhiều nhiều lắm bạn có thể tìm đọc kinh Lăng Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm,…. để tìm hiểu. Có thể bạn không hiểu hay bạn không tin đó là điều đương nhiên vì chúng ta đang sông trong thời đại này cái gì cũng phải được khoa học chứng minh nhưng để đợi đến ngày đó thì chắc không thể. Như bạn thấy đấy đa số các phát minh khi mới ra đời mọi người điều không tin hay nghi ngờ ví dụ ngày xưa ông gagile nói trái đất quay quanh mặt trời có ai tin đâu còn bị dọa sử tội do nói ngược lại với kinh thánh hay khi xưa Đức Phật thấy trong ly nước ngài uống có 84000 chúng sanh nhỏ bé và khuyên các đệ tử phải trì chú trước khi uống nếu không lại uống nhằm chúng sanh đó sao rồi phải đợi đến khi kính hiển vi ra đời người ta mới thấy có vi khuẩn đang sống đầy ở khắp mọi nơi. Chỉ có việc đó thôi mà phải mất mấy nghìn năm mới chứng minh được huống hồ là những việc cao vời vợi khác thì đợi đến khi nào đây. Không biết bạn đà từng nghe nhà bác học lừng danh Entenst đã nói : ” Đỉnh cao của khoa học chính là lúc đạo phật bắt đầu..” những lời muốn nói thì nhiều lắm chỉ nói những ý chính mong bạn tìm hiểu đọc thêm nhé! Thôi giờ trở lại câu hỏi của bạn:
Câu hỏi thứ nhất : Câu chuyện thiền sư Chí Công đã được ghi lại trong sổ sách ngài đã chứng được lục thông nên ngài mới thấy được như thế và còn nhiều vị như thế nữa vì bạn không biết đó thôi. Còn như bạn nói oan oan báo báo, sống kiếp này không nhớ kiếp sau giống như bị tảy não. Câu hỏi này thắc mắc này tôi cũng đã trãi qua suốt thời gian dài khi tôi bị khổ đau dày vò trong khi tôi vẫn sống tôt với mọi người nếu tôi có tội lỗi gì thì tại sao trời phật không cho tôi biết để tôi sửa mà lại để tôi khổ đau như thế này…..và sau này khi tìm hiểu tôi mới hết những thắc mắc như thế nữa. Và mọi thứ điều có nguyên do của nó hết và tôi nghĩ để giải thích điều này bạn cũng không hiểu chỉ mong bạn hãy giữ cái thắc mắc đó và đi tìm hiểu kinh Lăng Nghiêm, Kinh Hoa Nghiêm..có thể bạn có câu trả lời. và bạn lại hỏi : ” tại sao đức Phật không ngăn chặn ngay những hành vi khi chưa xuất phát mà để nó xảy ra rồi mới cứu” câu hỏi của bạn nói lên bạn chưa hiểu đúng về đạo phật, bạn nên biết Đức Phật cũng chỉ là người bình thường, cũng có hình thể như ta cũng sinh ra rồi chết đi, lúc con là thái tử ngài cũng thắc mắc, cũng trăn trở với một đóng câu hỏi về cuộc sống về tất cả và ngài cũng đi tìm câu trả lời, ngài cũng đi bái 2 vị thầy vẫn không làm ngài thõa mãn, tiếp tuc ngài tu khổ hạnh sáu năm trời mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè để duy trì sự sống rốt cuộc cũng không tìm ra câu trả lời, cho đến khi ngài rời bỏ lối tu khổ hạnh thực hành trung đạo ngồi thiền 49 ngày đêm ngài mới tìm được câu trả lời đó. Bạn thấy đó ngài cũng trãi qua bao gian khổ tu tập mới giác ngộ chứ đâu phải tự nhiên mà có được. Vì thế Đức Phật không thể ban phước giáng họa cho ai được cả. Bạn biết câu đâu tiên Đức Phật nói sau khi giác ngộ? đó là : ” Lạ thay tất cả chúng sanh điều có Phật Tánh mà sao phải mãi chịu khổ đau…” Qua đó cũng giải thích cho câu hỏi thứ hai của bạn rồi. Tóm lại đạo phật chỉ qui về một chữ ” TÂM ” bạn hãy tìm hiểu đi.. Thân chào bạn!
Nam mô a di Đà phật
Kính chào quý thầy, đầu năm mới con xin chúc thầy và các bạn đọc một năm mới an khang thịnh vượng , sức khỏe dồi dào , điều lành đem đến điều dữ tiêu tan
Đệ tử con có một việc xin hỏi quý thầy , khi con niệm kinh phật đầu óc con khong tập trung hay suy nghĩa linh tinh có khi nghĩ xấu về các đức phật khi trong đầu con có ý nghĩ xấu con thường niệm Nam mô a di Đà phật nhưng con lại khong thoát khỏi những ta nghĩ đấy con rất hoang mang và lo sợ , con xin thầy chỉ dẫn cho con cách niệm kinh phần cho đúng cách
Hàng ngày con hay niệm kinh phật khi con ngồi tren xe buýt , khi nào còn rảnh là con niệm phật nhu vậy có thất kính với Đức phật không , con xin cảm tạ thầy
Gửi đạo hữu Hợi:
Đạo hữu nói đúng, đời này là oan oan tương báo, vì chúng ta vô minh, nên không thể biết đc đời trước mình tạo nhân gì nhưng có một điều chắc chắn là gieo nhân gì gặt Quả đấy nên muốn biết nhân đời trước thế nào thì nhìn vào quả báo đời này ta sẽ rõ, như trồng dưa đc dưa trồng đậu đc đậu chẳng có chuyên nhân này mà lại thành quả khác. Đức Phật cũng nói rõ luc đạo luân hồi khổ không nói hết có khi con mình chính là kẻ đời trước mình hận thù nó nhất…vì vậy đệ tử như chúng tôi mới phải học Phật để thoát khỏi luân hồi, chúng tôi sợ luc đạo đến kinh hãi, mọi người cứ ko sợ vui vẻ hưởng thụ gì thì hưởng, chúng tôi chịu chút thiệt thòi ăn chay, niệm Phật đời này để thoát luc đạo luân hồi bạn hữu à, ko còn phải chứng kiến bao việc ác trược trong đời này.
Còn bạn bảo Đức Phật ngăn cản ác nghiệp thì chuyện đó Đức Phật ko làm đc vì Phật cũng là chúng sanh nhưng đã giác ngộ, tất cả chúng ta đều bị nghiệp lực chi phối có nghĩa thọ sanh chịu các quả thiện ác đời trước, ko ai có thể chi phối được luật nhân quả kể cả Phật. Phật chỉ là chỉ rõ con đườg cho ta giác ngộ thôi, Phật ko phải là thần linh để làm này nọ, kể cả thần linh cũng phải ở trong vòng nhân quả.
Thân người khó đc Phật pháp khó nghe.
Kính đạo hữu.
Nam mô A Di Đà Phật.
A di Đà phật
Con xin kính nhờ các cu sỹ hay giúp con một chuyện, con hiện đang sống học tập và làm việc tại anh , con có đi học nghề nail mỗi khi con nhìn mọi người làm con nhìn rất kỹ và nhớ từng bước làm nhưng khi đến lượt con làm khong hiểu làm sao đầu óc con lai mơ hồ không nhơ gì cả , con cảm thấy rất sợ con xin nhờ các vị cư sỹ giúp con , con tạ ơn các vị
Xin chào Diệu Hoa
Không tập trung, suy nghĩ linh tinh, lung tung thì nhà Phật gọi là tán loạn, tạp niệm, vọng niệm…người mới tu thì tạp niệm sẽ cuồn cuộn rất nhiều, khi tu lâu rồi thì chúng sẽ thưa dần. Có câu: “Không sợ vọng niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”, cho nên mình chỉ cần chú tâm vào việc niệm Phật, lắng nghe tiếng niệm Phật từ nơi tâm mình, mỗi câu, mỗi chữ đều rỏ ràng, minh bạch còn các vọng niệm vọng tưởng gì đó cứ mặc kệ cho chúng tự sanh tự diệt, đừng quan tâm đến.
Có suy nghĩ xấu về Đức Phật có lẻ là do trong đời quá khứ bạn đã từng phỉ báng Phật Pháp nên cái ác niệm đó nó còn lưu giử lại trong tàng thức, hôm nay mình niệm Phật với tấm lòng chân thành thì chủng tử đó hiện ra. Mình phải dùng tâm chân thành mà sám hối thì từ từ sẽ chuyển được cái ác niệm đó thôi. Cách tốt nhất là mỗi khi có suy nghĩ như thế thì nên đối trước bàn Phật mà chí tâm lể Phật sám hối và cũng nên làm thêm các việc thiện lành để hồi hướng cho chư vị oan gia trái chủ của mình.
Không riêng gì nghề nail mà bất cứ nghề nào khác thậm chí việc tu học cũng vậy, lý thuyết thì học dể nhưng khi qua đến thực hành thì mới khó. Nhưng phải có thực hành thì mới đặng lợi ích. Thấy người ta làm thì dể nhưng đến phiên mình làm thì cảm thấy sợ. Khi tâm mình có sự lo sợ thì tay sẽ run mà nếu tay run thì càng dể làm người ta bị chảy máu, bị đau, bị hư…Chính vì thế cho nên phải giử sự bình tỉnh, không lo sợ, không hấp tấp vội vả, cứ từ từ mà tập. Lúc đầu nên tập trên tay giả trước rồi sau đó đến tay mình, kế đến nữa là mượn tay của anh chị em, bà con bạn bè mà thực tập cho quen, khi nào vững thì hãy bắt đầu làm trên tay khách. Có câu: “vạn sự khởi đầu nan”, chớ nên nản chí, việc gì rồi từ từ cũng sẽ quen thôi. Chúc bạn thành công tốt đẹp nhé.
Nam Mô A Di Đà Phật
Con cảm tạ thầy Viên Trí
A Di Đà Phật.
Kính chào quý thầy!
Đệ tử mê muội chưa hiểu rõ, kính mong quý thầy hướng dẫn giúp con được khai mở, thoát khỏi bến mê.
Do tiền duyên, oán nghiệp nên con phải lãnh quả khổ hiện tại. Con may mắn được ăn học đầy đủ, được tự do làm những điều mình thích, từ nhỏ đến lớn không phải lo chuyện gánh vác gia đình hay bôn ba kiếm sống. Tuy nhiên con lại vướng vào ái tình với người họ hàng (không nằm trong huyết thống 3 đời). Mọi sự khổ đến từ đây. Con và người đó lén lút qua lại trong 8 năm mà không dám thổ lộ cùng gia đình khiến con sống dằn vặt trong từng ấy năm. cuối cùng, chúng con cũng lấy hết can đảm để thưa chuyện với gia đình. Nhưng với sức ép, sự phản đối của người thân, người ấy đã cắt đứt với con mà không nới rõ với con, không một lời từ biệt. Vô cùng đau khổ, vô cùng hụt hẫn vì ái luyến của con quá nặng. Ba mẹ của con vì con mà chịu nhiều điêu tiếng vì gia đình người đó đổ hết lỗi vào con, nói là tại con dụ dỗ người đó, họ nói xấu con đủ điều… Con chẳng thiết sống chỉ muốn tìm đến cái chết.
Cũng may nhờ Phật pháp nhiệm mầu độ dẫn cho con hiểu được chết chưa phải là sự giải thoát, cuộc sống này là bể khổ. Gốc khổ là do 3 độc tham, sân, si. Cái khổ của mình là do từ nhiều đời huân tập mà ra. Con đang cố gắng tu tập để đoạn diệt 3 độc. Cứ mỗi lần bóng ảnh người đó, ký ức, suy nghĩ hiện lên là con quán tất cả chỉ là hư vọng. Nhưng con vẫn chưa thể thoát khỏi, lòng con vẫn chưa thanh thản, ái niệm vẫn còn. Con bắt đầu chuyển qua nghỉ đến những đau khổ mà con phải chịu, những điều xấu mà người đó gây ra để con không nhớ tới người đó. nhưng như vậy có phải con đang rơi vào lửa sân? và nếu đúng như vậy con sợ là minh sẽ không thoát được ngọn lửa này.
Kính mong chư vị chỉ dẫn cho con.
Nam Mô A Di Đà Phật
Liên hữu Diệu Ly thân mến,
Bạn thật may mắn khi biết đến Phật pháp vừa kịp, chứ không thôi trở thành oan hồn do tự tử thì biết đến bao giờ mới siêu thoát. Bạn cũng đã nhận ra được oán nghiệp ái tình bạn đang mang cũng là do tiền kiếp chứng tỏ rằng bạn hiểu nhân quả, nghiệp báo mà nhà Phật dạy. Vậy sao bạn không nhân cơ hội này để nhận ra bản chất của thế gian này là Khổ, từ đó tự nhiên có ý chí mạnh mẽ tu hành nhiều hơn.
Diệu Ly không cần phải buộc tâm mình nghĩ xấu về người đó, cứ xem như kiếp trước mình lừa tình họ nên kiếp này phải trả cho xong cái món nợ này. Hoan hỷ mà trả thì xong, còn cay đắng đau khổ thì trở thành oán rồi kiếp sau gặp lại tiếp tục đòi, lại gieo nữa thì cứ oán chất chồng mãi. Vậy cho nên Đức Phật mới nói chúng sanh mê muội, do mình không tường tận nhân quả ba đời đó thôi. Trường hợp này bạn hít thở sâu rồi tự nhủ rằng: “thôi nhé, nợ kiếp trước nay đã trả xong. Từ nay vui vẻ, không ai nợ ai nữa nhé.” Bạn làm thử đi sẽ thấy thanh thản hơn nhiều, chỉ là Đổi Tâm mà thôi.
Ái niệm còn, không lo đâu. Hàng ngày bạn gắng niệm nhiều câu Phật hiệu. Bạn niệm to tiếng hay niệm thầm đều được, công đức như nhau nhưng tuỳ hoàn cảnh mà niệm to hay nhỏ. Cứ kiên trì một thời gian ngắn thôi công đức Phật danh sẽ giúp bạn vượt qua mọi chuyện. Không để đầu óc mình rảnh rỗi để nghĩ đến ‘oan gia’, hễ nghĩ đến liền niệm ngay “Nam mô A Di Đà Phật” nhiều câu thì ý nghĩ kia nó biến ngay, một thời gian nữa sẽ không còn nghĩ đến, rồi thời gian nữa nhìn lại sẽ thấy thời gian qua mình thật tức cười. Đó là do công đức niệm Phật giúp bạn sinh ra trí huệ đó.
Tóm lại, mọi sự việc trên thế gian đều khổ, không, vô thường. Nếu lỡ các bạn gặp bất kỳ chuyện gì khổ quá, khó quá, đau quá……..nếu như biết được công đức niệm Phật to lớn dường nào thì tự nhiên biết cách niệm Phật, lạy Phật sẽ hoá giải nghiệp chướng của mình, lợi ích lớn lao nhất còn được vãng sanh Cực Lạc thế giới sau khi bỏ báo thân này huống chi là những chuyện ở thế gian, do tâm chí thành tận lực niệm hay không mà thôi.
Timlaiphattanh chia sẻ chí thành. Mong Diệu Ly sớm vượt qua chướng ngại, vững tin trên đường tu tập, niệm Phật nhiều hơn và an lạc, cát tường.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật
Con rất cám ơn Quý Thầy đã chỉ dẫn cho con. Con áp dụng theo lời khuyên của thầy chuyên tâm niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà thường xuyên mỗi ngày, quả thật nay con đã cảm thấy tâm an tĩnh hơn.
Cầu mong tất cả chúng sanh đồng tâm niệm Phật.
Con kính chúc Quý Thầy công đức viên mãn.
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính chào sư thầy
con bị bệnh về mắt đi chùa khắp nơi không được,kể cả viền mắt TW,sau đó con có chữa 1 người thầy thuốc ở nhà,người này bảo con rằng bản mệnh của con đã bị dính vào lưới sàng lọc của thiên địa nên không thể khỏi được,cho con hỏi có cách nào để giải không??
Bạn Dương thân mến,
Về câu hỏi này của bạn, timlaiphattanh sẽ trích nguyên văn lời dạy của một bậc cao tăng cận đại – đó là Hoà Thượng Quảng Khâm. Ngài dạy như sau:
“Túi da thối này (thân thể) là để ta mượn mà tạm ở. Thế nhưng, cũng vì nó mà ta tạo vô lượng vô biên nghiệp.
Chúng ta, ai cũng do mang nghiệp mà sinh ra, do đó đầy dẫy bệnh khổ. Bớt sát sanh, niệm Phật nhiều, thì mới có thể tiêu nghiệp được.
Khi thân thể có bệnh mà uống thuốc gì cũng chẳng lành, hãy niệm Phật thì bệnh sẽ lành, bởi Ðức Phật A-Di-Ðà là vị “Vô Thượng Y Vương” (vị vua thầy thuốc cao tuyệt nhất).
Con người phải chăng có thể trốn được kiếp số và bệnh khổ?
Thí dụ có kẻ bị đau tim; nếu y chuyên tâm niệm Phật thì bệnh tim chắc chắn sẽ lành. Nếu y tuy niệm Phật mà vẫn còn muốn đi bác sĩ kiểm tra bệnh tình, thì niệm Phật trả về niệm Phật, bệnh không thể lành nổi (thiếu thành tâm). Nếu y có thể chuyên tâm trì niệm Phật hiệu thì bệnh sẽ lành, mà chính y cũng không hay biết nữa!
……”
Hi vọng với những lời dạy tỉ mỉ này bạn sẽ tự biết cách chữa trị cho mình. Niệm Phật chuyên tâm lâu ngày còn có khả năng tiêu nghiệp, siêu xuất Tam Giới huống chi là những bệnh lý thông thường. Quan trọng bạn cần có niềm tin và y theo lời dạy chân thật mà làm theo. Chắc chắn có được lợi ích lớn. Chúc bạn an lạc, vượt qua nghiệp chướng.
Nam mô A Di Đà Phật.
Timlaiphattanh
Kính bạch Thầy!
Con thấy đi chùa lễ Phật là một chuyện tốt. Nhưng con nghĩ tôn thờ những vị Phật sống tại gia thì đó là nhất thiết hơn, nhiều người đi chùa lễ Phật nhưng về nhà lại không tôn thờ vị Phật sống của mình thì hơi đáng tiếc đúng không thầy.
Con nghĩ, tu tại gia cũng tốt, vậy mình phối hợp hai cách tu này như thế nào thưa thầy.
Con cũng có thắc mắc, trứơc khi muốn tu thì tu khẩu trước hết có đúng không thầy?
A DI ĐÀ PHẬT!
Nam mô Bổn sư thích ca mâu Ni Phật.con bạch quý thầy.con đọc mẩu truyện trên con cũng có phần giác ngộ.một đoạn người vợ về làm theo ngài Thiền sư chỉ bảo thì người chồng tự giác ngô ngay về nhân quả.nhưng hiện nay con đang làm dâu của mẹ chồng con.con cũng bị bà coi thường nói xấu trù eỏ khinh bỉ con thấy và hàng xóm đánh giá mẹ chồng con là một kẻ bạc ać.nhưng nay con hiểu một chút về nhân quả thì con và mọi người thậm chí cả sư nói nhân quả cho bà nghe va khuyên bà phải tu.thì bà quay ra phỉ báng phật pháp con thấy rất tội.con cũng nhận ra được rằng mình từ kiếp trước đã bạc ać bà tội cũng sâu dầy nên kiếp này dù có làm hay hy sinh cho bà bao nhiêu cũng bị bà phụ bạc hất hủi khinh dẻ.con cố ko phiền não nhưng hàng ngày như thế này con ko thể ko phiền não.con phải làm sao đây ạ thưa thầy.Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Bạn có nghe câu cái nhìn của mình ra xung quanh thế nào chính là tấm gương phản chiếu tâm hồn mình. Khi bạn nghĩ người xung quanh xấu ác thì đó cũng chính là bản thân mình vậy. Người đời nghe vậy thường thấy không thỏa đáng nhưng nếu là người tu tập, càng tu tập càng thấy điều đó đúng đắn. Để hóa giải điều này đơn giản chỉ là bạn luôn luôn coi mẹ chồng như bồ tát, là Phật sống mình phải có trách nhiệm cung kính thờ phục cho tròn chữ hiếu. Mẹ chồng cũng là mẹ mình, mẹ mắng mình là đang giúp mình tiêu nghiệp và phải thấy hối lỗi khi làm mẹ nóng giận,yêu quý chăm sóc mẹ còn hơn chăm sóc bản thân mình. Tội lỗi là ở tất cả nơi mình, mẹ không bao giờ có lỗi. Nhưng nói thì dễ làm mới khó đúng không bạn, khó lắm; đây chính là một trong bát khổ mà đức Phật đã nêu.
Cho nên Phúc Bình xin đề xuất một phương pháp rất hay để bạn hóa giải, tin rằng nếu bạn thực hành chuyên cần thì chỉ một thời gian nữa thôi bạn và mẹ chồng yêu quý nhau thắm thiết. Đó là ngoài việc quán xét thực hành cho trọn đạo hiếu thảo của người con, bạn hãy thường xuyên chí thành, chí kính niệm Nam Mô A Di Đà Phật, vui cũng niệm, buồn cũng niệm, bị mắng chửi cũng niệm … cuối ngày trước ban thờ Phật, hoặc nếu không có ban thờ Phật bạn quay về hướng Tây quỳ mà chắp tay xin nguyện đem công đức niệm Phật hồi hướng cho mẹ chồng, cho oan gia trái chủ … nguyện được đức Phật từ bi gia hộ hóa giải oan trái này. Đấy là bước đầu của lợi ích niệm Phật mà PB gửi bạn, chỉ 3 tháng thôi bạn sẽ thấy đổi khác.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Chào bạn,
Nếu bạn khuyên mẹ chồng không được, chứng tỏ bạn có chướng duyên với mẹ chồng cách hóa giải Thầy Thích Giác Nhàn có giảng trong video phần hỏi đáp nói về sự hướng dẫn của HT. Tịnh Không có người cha và con là oan gia với nhau nên cha khuyên gì đứa con cũng không nghe, phải tốn mất 3 năm thành tâm lạy sám hối giùm đứa con mới chuyển được con của mình.
A DI ĐÀ PHẬT
https://www.youtube.com/watch?v=1p4t6JCkj-w
Con xin chào các vị thiện tri thức trên website này. Con có chuyện thắc mắc từ lâu rồi chưa giải đáp được, xin nêu ra đây để xin được chỉ dạy. Chuyện cũng về luân hồi nhân quả. Trong câu chuyện trên, có câu chuyện 1 ông kia đánh con lừa đến chết, sau đó con lừa đầu thai làm người chồng, còn ông chủ đầu thai làm người vợ và chồng đánh vợ để trả cái nhân kiếp trước bị đánh. Vậy, hành động xảy ra khi ông đánh vợ chỉ là “trả quả” chứ không phải “tạo nhân”, sao ông ta lạ nói như thế này :
“Thấy lạ, ông ta hỏi tại sao bà không bỏ chạy. Cô ta kể lại việc được Thiền sư Chí Công giải thích cặn kẽ tương quan nhân quả của hai người. Ông chồng nghe xong ngẫm nghĩ: “Như thế thì từ nay ta không nên đánh chửi cô ta nữa. Nếu còn đánh, thì kiếp sau cô ta sẽ đầu thai trở lại rồi tìm ta để đánh chửi”. Từ đó ông chồng không còn đánh mắng người vợ nữa.”
(Trích dẫn bên trên)
Thắc mắc là, ở kiếp này, khi hành động xảy ra, ví dụ như khi ta đánh 1 người, hành động đó là “tạo nhân” hay “trả quả”???? Nếu đó là “trả quả” thì hành động đó đâu có tội lỗi gì, dúng không ạh.
Xin chỉ giáo, thành thật cám ơn nhiều.
Phúc Bình có nghe một vị Thầy giảng đại khái PB ví dụ thành truyện vui thế này: ví như bạn đang một mình đi đường bị một gã trời ơi nào lao đến tát cho một cái tối tăm mặt mũi. Nhưng thấy gã đó to con quá nên bạn chỉ ấm ức chịu đau mà chạy đi cho mau. Mấy bữa sau bạn gặp lại gã đó mà có thể đáp trả gã đó không sợ bị đánh lại (bạn đi cùng đông chiến hữu chẳng hạn) bạn nghĩ thế nào, bạn có xáng lại gã đấy một tát hay phải mấy tát mới bõ tức. Như vậy là bạn đã trả quả một tát nhưng tạo nhân mấy tát về sau đúng không ạ. Lại đến ngày kia gã to con lại bất ngờ gặp bạn một mình trên đường 🙂
Truyện đến đây hết ạ, hy vọng có đạo hữu nào đó sẽ giải thích với bạn rõ hơn về lý.
Nam Mô A Di Đà Phật!
PB chờ đợi một ngày mà chưa có ai commnet thêm về câu hỏi của bạn, e mình commnent nữa thì hơi tham lam, nhưng thôi thì tham thêm tý nữa vậy :). Vấn đề nhân quả luân hồi luôn là thắc mắc đối với những ai muốn tìm hiểu Phật pháp, PB bình gửi bạn bài viết Nghiệp và luân hồi của Ni sư Ayya Khema – Diệu Đạo dịch Việt, bạn đọc chậm sẽ thấy được câu trả lời cụ thể hơn:
“Nghiệp
“Tôi làm chủ nghiệp của mình. Tôi kế thừa nghiệp. Sinh ra, tôi đã mang nghiệp. Tôi và nghiệp tương quan lẫn nhau. Tôi sống theo sự dẫn dắt của nghiệp. Tôi tạo ra nghiệp gì, xấu hay tốt, tôi sẽ là người thọ lãnh sau này”. Đức Phật dạy rằng ta phải tự mình nhắc nhở mình như thế mỗi ngày. Những điều này quan trọng thế nào mà ta phải tâm niệm mỗi ngày như thế?
Karma có nghĩa là hành động. Vào thời Đức Phật, nó đã được dùng với nghĩa như thế. “Karma Yoga” có nghĩa là Yoga của hành động. Nhưng Đức Phật nói: “Karma, hỡi các vị tỳ kheo, ta nói là, sự chủ tâm (tác ý)”. Karma không chỉ bất cứ hành động nào, nhưng chỉ vào sự chủ tâm ở sau mỗi hành động. Không chỉ sự chủ tâm khi hành động mà cả trong lúc nghĩ suy, nói năng. Một cách lý thuyết, nếu ta dùng từ Karma để chỉ hành động, và kết quả của hành động, là không đúng, nhưng vì đã được sử dụng quá lâu theo nghĩa đó, người ta khó có thể hiểu Karma một cách khác hơn.
Hành động ta làm với sự chủ tâm thì rất khác với hành động vô tâm. Nếu ta vô ý dẫm chết một con kiến, thì đó không phải là nghiệp sát sanh, dầu ta có thiếu chánh niệm. Vì không có sự cố ý, chủ tâm sau hành động đó. Nhưng nếu có một ổ kiến trong vườn, và ta muốn dẹp sạch nó bằng cách xịt thuốc lên ổ kiến, cố ý giết chúng càng nhiều càng tốt, thì đó là ta đã tạo nghiệp sát sanh vì đã có sự chủ tâm đằng sau hành động đó.
Bất cứ điều gì ta làm với chủ tâm đều mang lại hậu quả, do ta đã có sự suy nghĩ về chúng trước khi hành động. Vì thế ta nên cảnh giác với mọi tư tưởng của mình. Đó là điều ta có thể luyện tập khi tham thiền. Phải biết rõ quá trình tư duy của mình, mới mong tạo ra nghiệp thiện, nếu không ta chỉ hành động mà không có sự chủ tâm, cố ý. Khi ta biết tâm, tư tưởng của chính mình, ta có thể sửa đổi chúng cho tốt hơn, theo một hướng đúng hơn, theo hướng để tạo ra nghiệp thiện.
Người ta thường nói: “Tôi tạo ra nghiệp thiện để khi tái sinh tôi được đẹp đẽ hơn”. Đó là một sự trao đổi có tính cách thương mại. Làm cái gì đó để đổi lấy một cái khác. Dầu có tốt hơn so với hành động theo bản năng, thiếu chủ tâm, nhưng cũng khó đem lại cho ta kết quả tốt đẹp hơn vì phương cách đó đầy ngã chấp.
Hành động thiện cần được làm trong sự sánh suốt, biết rằng nếu không làm thế, ta chỉ đem lại đau khổ cho chính mình. Tâm thiện là điều tiên quyết giúp ta sống an bình, hòa nhịp với chính ta, với tha nhân. Nghĩ đến kết quả là sự chờ đợi, mong mỏi, bám víu. Tất cả những mong mỏi chỉ mang đến sự thất vọng. Không có sự mong mỏi nào trở thành hiện thực như ta đã mong muốn. Sự mong mỏi dẫn ta đến tương lai hơn là trụ ở giờ phút hiện tại. Kiếp sau, hay kiếp sau hơn nữa, hay sau sau nữa, kiếp nào? Năm phút tới thì sao? Hành động thiện đúng ra phải được làm với tất cả tâm hồn đến nỗi không còn có thể nghĩ đến gì khác nữa. Nhưng nếu như có điều gì khác nữa chen vào, lúc đó trí tuệ sẽ bảo cho ta cách chọn lựa đúng.
Khi hai người cùng làm một hành động, họ sẽ không có cùng một nghiệp quả. Đức Phật so sánh việc tạo nghiệp ác của hai người với bỏ một muỗng muối vào ly nước hay bỏ xuống sông Hằng. Ly nước muối sẽ không uống được, nhưng nước sông Hằng có gì thay đổi đâu. Cũng thế, với người có cả một dòng ‘sông thiện’ thì một hành động sai quấy cũng không ảnh hưởng gì mấy. Nhưng nếu ta chỉ có một ‘ly nước phúc’ thì chỉ một hành động sai quấy thì cũng đủ làm cay đắng cả cuộc đời. Vì ta không biết mình đã tạo tác ra những gì ở các kiếp trước, tốt hơn hết là giả thuyết rằng phúc của ta chỉ đầy một ly nước. Đôi khi ta thường tự hỏi tại sao có những người làm bao điều ác mà vẫn sống hạnh phúc. Gia đình, tiền bạc, sức khoẻ đều tốt lành. Tại sao họ không bị trừng phạt? Họ chưa bị trừng phát đó thôi. Họ sẽ lãnh những hậu quả của việc họ làm. Họ không có gì gọi là tai nạn hay may rủi. Không có gì xảy ra ngẫu nhiên trong vũ trụ này. Trăng, sao, mặt trời – mọi việc đều theo một định luật, trái đất ta đang sống cũng thế. Nghiệp của ta cũng thế.
Nghiệp không phân biệt, ta nên nhớ điều đó. Nó không biết thiên vị ai. Nó là nhân quả. Nó không để ý đến người hành động. Những gì đã được giữ trong dòng sông nhân, sẽ ở đó và sẽ tựu quả khi ‘chín mùi’.
Ta mang theo một số ‘thói quen’ từ trong những kiếp sống trước, nhưng phần lớn những gì xảy ra cho chúng ta đều là quả của các hành động trong đời sống hiện tại. Ta không cần phải nghĩ: “Ồ, có lẽ đó là kết quả những việc tôi đã làm hai, ba kiếp về trước”, hay “Nếu tôi làm như thế, kiếp sau tôi sẽ được an toàn”. Suy nghĩ như thế là trốn tránh trách nhiệm. Nếu ta có trách nhiệm với chính mình thì chắc là ta sẽ nhớ lại ta đã làm gì đó hay đã bỏ qua không làm gì đó; ngay trong chính cuộc đời này để đưa đến những kết quả như ngày hôm nay, như ngay hiện tại này.
Ta có thể dễ dàng nhận ra sự tương quan. Bất cứ hành động khéo léo, tốt đẹp nào ta đã làm trong đời sống hiện tại, cũng cho ta kết quả. Chúng tiềm ẩn trong khả năng, sức mạnh, sức khoẻ, cá tính của ta. Chúng ta là người tạo ra số phận của mình. Không ai có thể thực sự làm gì cho ta được. Nếu ta còn tin rằng ai đó có thể hành động thay ta, thì ta đã không hiểu ý nghĩa của câu: “Tôi làm chủ nghiệp của tôi”. Nghiệp là thứ duy nhất ta có thể sở hữu. Mọi thứ khác đều là vay mượn. Ta không mang theo được gì trừ nghiệp. Mọi thứ khác kẻ hậu sinh ta sẽ thừa hưởng. Chỉ có nghiệp là của ta.
Khi tái sinh, ta mang theo các nghiệp duyên, và chính nghiệp duyên tạo ra các hoàn cảnh, cơ hội cho ta. Ta có sự lựa chọn, nhưng không phải là tuyệt đối. Tất cả chúng ta đều có sự lựa chọn là có nên đến thiền viện không. Khi bạn đã chọn có mặt ở nơi đó, bạn đã tạo một nghiệp lành. Khi nghe Pháp, bạn có sự lựa chọn hoặc là nghe mơ mơ màng màng hay nghe với cả tâm hồn. Khi đã dốc tâm nghe, bạn có lựa chọn là quên liền sau đó hay cố gắng lưu giữ lại. Và nếu có giữ, bạn sẽ giữ bằng cách luôn thực hành chúng hay chỉ nhớ vì chúng lý thú. Khi đã chọn sống theo Pháp, bạn lại có thể hoặc chọn luôn sống như thế này hay chỉ khi có dịp, có hoàn cảnh thuận tiện.
Có được sự lựa chọn không ngừng nghỉ, từng giây phút là quyền của chúng ta. Mỗi giây phút, trừ lúc ngủ, là mỗi phút giây tạo nghiệp. Đó là lý do tại sao chúng ta cần hoàn chỉnh nghệ thuật sống của mình từng giây phút một. Nếu ta không canh chừng từng giây phút tạo nghiệp của mình, thì nó khó tạo ra nhiều điều có lợi cho chúng ta. Có bao nhiêu giây phút tội lỗi có thể xảy ra. Vì thế tâm cần phải được canh giữ từng giây từng phút vì đó là những giây phút có sự lựa chọn, những giây phút của nghiệp. Ta càng có những sự lựa chọn khôn ngoan khéo léo, ta càng tạo ra nhiều cơ hội tốt cho chính mình. Giống như sống trong nhà có nhiều cửa chính, cửa sổ, ta sẽ có bấy nhiêu cánh cửa để chọn lựa khi cần ra khỏi nhà. Nếu ta cứ tiếp tục có những chọn lựa sai lầm, thì cơ hội của ta sẽ giảm dần cho đến khi tỉnh dậy trong lao tù, nơi cơ hội đã ở đằng sau cánh cửa của sự lựa chọn. Lúc ấy, ta sẽ chẳng có sự lựa chọn nào cho đến khi được giải thoát. Đôi khi ta tự hỏi sao người khác hình như có nhiều chọn lựa để làm bao công việc thú vị, trong khi ta chẳng có chọn lựa nào cả, thì đó là vì các nghiệp ta đã tạo ra.
Đức Phật nói có những người sanh ra trong ánh sáng và đi về phía ánh sáng. Có người sanh ra trong ánh sáng, để đi vào bóng tối. Có người sanh ra trong bóng tối, nhưng đi về phía ánh sáng. Và cuối cùng là có những người sanh ra trong bóng tối, để tiếp tục đi trong bóng tối. Điều đó có nghĩa là, dầu ta được sanh trong bất cứ hoàn cảnh nào, ta vẫn có nhiều cơ hội để lựa chọn.
Có một phụ nữ tên là Helen Keller khi sinh ra bị điếc, câm và mù. Vậy mà bà vẫn học hành, viết sách và chỉ dạy những người khuyết tật khác sống tốt hơn. Rõ ràng bà đã sanh ra trong bóng tối, nhưng đi về phía ánh sáng.
Tất cả chúng ta trong mỗi giây phút đều có một cơ hội đến với mình. Nếu ta để mất cơ hội đó, có thể ta sẽ chẳng bao giờ có một cơ hội thứ hai như thế nữa. Vì khi ta đánh mất cơ hội, cũng giống như ta đã khóa bớt một cánh cửa của căn nhà cuộc đời ta lại. Do đó hoàn toàn chú tâm cho từng giây phút là một việc cần thiết.
Đức Phật cũng ví nghiệp giống như một ổ nhện giăng, một ổ nhện đã được bện quá khéo léo đến nổi ta không còn biết đâu là sợi nhện đầu tiên đâu là sợi cuối. Chúng ta không thể biết nếu mình bị bệnh hôm nay là do đã làm việc gì đó không tốt mười lăm năm về trước hay vì ta đã không để ý đến vấn đề ăn uống hôm qua. Nhân quả của ta cũng là những sợi dây nhện đan chéo nhau đến nỗi ta không biết rõ ràng tại sao sự việc xảy ra thế này, thế nọ. Tuy nhiên, ta có thể hiểu lý do của những việc quan trọng xảy ra trong đời ta. Ta có thể dễ dàng nhớ lại những lựa chọn sai lầm vì dễ dãi với chính mình, và hậu quả của chúng gây ra.
Nghiệp đến từ quá khứ hay sẽ xảy ra trong tương lai không quan trọng, vì quá khứ giống như một giấc mộng còn tương lai thì chưa đến. Việc ta nên quan tâm là ngay giờ phút hiện tại, còn tất cả chỉ là một giấc mộng, trong đó ta không biết mình tỉnh hay mê, không biết việc gì đang xảy ra. Không có gì vui thích trong cuộc sống như thế khi thực tại như phủ một lớp sương mù. Tất cả chúng ta khi chưa giác ngộ thì còn sống trong lớp sương mù đó, nhưng ta có thể thức tỉnh mình ra khỏi giấc mơ đó. Thực ra có giây phút nào khác hơn là giây phút hiện tại. Ta không thể sống lại trong quá khứ hay kinh nghiệm trước tương lai. Chỉ có một việc duy nhất ta có thể làm là: sống cho giây phút này. Để làm được thế, ta phải hoàn toàn tỉnh thức, nhận biết. Tỉnh thức và nhận biết về chủ tâm, tác ý của ta.
Tâm là chủ. Không có gì có thể hiện hữu nếu không do tâm tạo ra. Tâm là động lực tiềm ẩn của bao nghiệp ta tạo ra. Ta có ba cửa ngõ: tư duy, ngữ và hành (thân, ngữ, ý). Đây là ba cửa đưa ta đến sự tạo ra nghiệp, và ta tiếp xúc với thế giới bên ngoài qua ba cửa này.
Dầu rằng tư duy là động lực tiềm ẩn, nó tạo ra nghiệp nhẹ nhất nếu không thể hiện ra bằng lời nói hay hành động. Thí dụ như ta thù ghét ai, và một tư tưởng loé qua đầu: “Nếu hắn đến gần ta nữa, ta sẽ giết hắn”, nhưng ta không nói gì hay làm gì. Dầu đó là một tư tưởng xấu, tạo ra nghiệp ác, nhưng vì không có hành động cụ thể, nên nghiệp báo cũng nhẹ. Nhưng ta cứ tiếp tục suy nghĩ như thế nó sẽ tạo dần thói quen dẫn thốt ra lời nói. Nếu kẻ ta ghét đến gần, ta thực sự nói: “Nếu anh đến gần tôi, tôi sẽ giết anh”, thì nghiệp sẽ nặng hơn. Trước mắt là ta sẽ tạo ra kẻ thù, và ta đã củng cố tư tưởng xấu bằng lời nói. Và nếu cứ tiếp tục nói lời ác đó, nó sẽ dẫn ta đến hành động. Lúc đó nghiệp báo thật nặng nề và mang lại bao hậu quả thảm khốc. Ý nghĩ, tư tưởng cần phải được canh giữ và sửa đổi nếu cần. Nếu một tư tưởng xấu dấy lên, tốt nhất giữ đừng cho nó biến thành lời nói hay hành động.”
A Di Đà Phật
Gửi bạn Alex Đoàn,
Câu hỏi của bạn có ý nghĩa rất lớn và có thể giúp cho nhiều người cùng được giác ngộ. Nhân-Quả trong con mắt thế gian nhiều khi chỉ là những chuyện tầm phào, bởi với không ít người: chết là hết! Dẫu cho kẻ đó, người đó có làm gì chăng nữa, thì khi chết đi mọi chuyện cũng sẽ chấm dứt, hay nói khác đi là đều mang theo xuống mồ. Chính vì những luận bác Nhân-Quả sai lầm này nên con người và xã hội thời nay đã ngày càng bị tha hoá trầm trọng về nhân cách, đạo đức, tư duy, những cái ác, bất thiện được tán thán không ngưng nghỉ. Làm thế nào để cải biến xã hội ấy? TN nghĩ chỉ còn con đường mọi người phải thực tu đạo. Mà bài học tu đạo đầu tiên mọi người ai cũng phải hiểu, nhìn nhận và lý giải được: Nhân-Quả là gì? Trước khi lý giải câu hỏi của bạn, TN xin ghi lại một tích chuyện trong nhà Thiền để bạn cùng các đạo hữu khác cùng suy ngẫm:
„Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải thoáng nhìn đã biết đây là người khác lạ ông già này mấy lúc gần đây thường theo chúng Tăng nghe sư thuyết pháp. Hôm nay chúng Tăng đã ra khỏi pháp đường mà ông vẫn nán lại và chậm chậm đi về phía sư.
Bá Trượng hỏi:
– Ông là người gì?
Ông già thưa:
– Bạch Hòa Thượng, con không phải là người, con là con chồn ở sau núi. Nguyên đời Đức Phật Ca Diếp con là vị Tăng. Vì có người hỏi con:
“Bậc đại tu hành có rơi vào Nhân Quả chăng?”
Con đáp:
“Không rơi vào Nhân Quả!”
Thế là con đọa làm thân chồn đã năm trăm kiếp. Nay dám xin Hòa Thượng nói lại một lời để con thoát thân chồn.
Bá Trượng bảo:
– Ông hỏi lại ta.
– Bạch Hòa Thượng, bậc đại tu hành có rơi vào Nhân Quả chăng?
Bá Trượng bảo:
– Không mê mờ nhân quả!
Ông già chợt đại ngộ, thưa:
– Thế là từ nay con thoát thân chồn, dám xin Hòa Thượng lấy lễ Tăng chết tống táng cho con.
Nói rồi biến mất.
Bá Trượng sai bạch kiền chùy với chúng:
– Trưa mai ăn cơm xong đưa đám một vị Tăng.
Chúng Tăng ngạc nhiên vì nhà bệnh không có ai nằm, không có ai chết.
Hôm sau Bá Trượng dẫn chúng Tăng đi vòng sau núi đến cái hang lấy gậy bươi ra xác một con chồn rồi đem về làm lễ trà tỳ trịnh trọng”.
Qua câu chuyện này chúng ta nhận thấy điều gì? Không Mê Mờ Nhân Quả! Một lời nói sai về nhân-quả thôi mà vị Tăng thủa xưa bị đoạ 500 kiếp làm chồn. May mà vị Tăng đó còn có trí tuệ nên nhớ được tiền kiếp của mình và nhờ Thiện Tri Thức khai thị nên đã kịp sám hối nghiệp chướng, cũng nhờ thế mà thoát thân chồn.
Trở câu hỏi của bạn: „ở kiếp này, khi hành động xảy ra, ví dụ như khi ta đánh 1 người, hành động đó là “tạo nhân” hay “trả quả”???? Nếu đó là “trả quả” thì hành động đó đâu có tội lỗi gì, dúng không ạ?“
Lý của người phàm tục là thế. Với người tu đạo và giác đạo đó là hành động tạo Nhân trả Quả.
Trả Quả: Người kia kiếp trước đánh ta, nay duyên tụ, duyên khởi, gặp lại ta, ta sẽ đánh lại, người đó sẽ phải chấp nhận Nhân ác do mình đã gây ra= chịu Quả.
Tạo Nhân: Nhưng khi ta đánh người (hiểu theo Lý=trả Quả) thì cũng đồng nghĩa ta lại tạo Nhân ác cho chính mình. Và Nhân ác này khi nhân duyên hội đủ – ta sẽ là người lại phải gánh Quả ác đó. Đây chính là hệ quả của oan oan tương báo không bao giờ dứt.
Người Trung Quốc xưa có một câu bất hủ: Quân tử trả thù 10 năm không vội. Oán thù đời cha, mẹ không trả được, con, cháu, chắt… sẽ phải tiếp tục gánh. Đây chính là sự mê mờ nhân quả chứ chẳng phải hành vi kiêu dũng hay báo hiếu như nhiều người lầm tưởng.
Người hiểu đạo Phật, giác đạo Phật quyết sẽ chẳng chọn lối Nhân-Quả đó. Vì thế khi ai đó bỗng (hiểu là „vô duyên, vô cớ“) tát, bợp chúng ta một bạt tai; hay chửi, mắng nhiếc, nhục mạ, cướp đoạt của cải… của chúng ta, mặc dù người, kẻ đó ta chưa một lần gặp mặt. Nếu tỉnh giác, chúng ta phải quán chiếu ngay rằng: chẳng phải họ vô duyên, vô cớ mà làm những chuyện đó, mà cái Nhân sân hận, bất thiện này trong một kiếp nào đó chúng ta đã từng gây cho họ. Hiểu rồi thì sám hối rồi buông xả ngay, đó là chúng ta đã hiểu Nhân từ đâu tới và hoan hỉ trả Quả. Cũng từ đó chẳng tạo thêm Nhân ác để sau này lại phải gánh Quả ác. Còn nếu ngay lúc ấy, chúng ta cũng nổi sân, đánh, chửi, cướp lại… lúc này đồng nghĩa: chúng ta là kẻ mang nợ, chủ nợ đến đòi, ta còn nổi sân, chửi mắng, đánh đập, xua đuổi họ=Nợ-Nợ chất chồng.Lý thì là vậy, nhưng đi vào Sự thì quả là khó lắm. Khó bởi cái Ta (cống cao, ngã mạn) trong mỗi chúng ta còn cao quá. Vì thế hễ có “sự” là chúng ta phải tính chuyện thiệt hơn, thua đủ. Trong đạo Phật vốn chẳng có thua-thắng; chẳng có thiệt-hơn… mà nó chỉ là một niệm chấp, một niệm phân biệt khởi lên thì mọi chuyện đều là có. Niệm chấp, niệm phân biệt là niệm của sanh-diệt. Gom chấp những niệm đó trong tâm=Mê mờ Nhân-Quả.
Vì thế nên nói: trong Nhân có Quả, trong Quả có Nhân.
Vô cùng cám ơn PHÚC BÌNH và THIỆN NHÂN đã giải thích. Tôi đã hiểu thêm được rằng : Cách hiểu “tạo nhân, trả quả” như tôi đã từng hiểu kia, quả đúng là đơn giản và chỉ là cách hiểu của người phàm tục. Và vì tôi cũng luôn nghĩ tôi là người phàm tục, tôi không hiểu nhiều, đầu óc còn u tối cho nên tôi vẫn giữ vững lòng tin, hành thiện trong từng giây phút hiện tại và quả là cũng có người giúp khai ngộ được tâm u tối. Một lần nữa, xin thành thật cám ơn PHÚC BÌNH và THIỆN NHÂN với 2 trả lời vừa thật đơn giản, vừa thật cao siêu, thâm thúy, giúp tôi hiểu ra được nhiều điều lắm. Xin cám ơn.
Kính gởi anh Thiện Nhân !
Có một vấn đề con đây còn ngu muội chưa hiểu .
Trong câu chuyện đau lòng người con 8 tuổi bị người cha đánh cho đến chết .Nếu theo lý nhân quả là do tiền kiếp người con này không tạo phước lành nên bây giờ phải lãnh quả như vậy đúng không ạ .Nhưng con giả sử người cha của đứa bé đó thông hiểu phật pháp ,hiểu được quả báo khi giết người(giết con mình )cho nên người cha sẽ không đánh chết người con ,và người con vẫn còn sống .(Nếu vậy thì không đúng với luật nhân quả ).Nhưng trên thực tế người cha đã đánh chết người con .Vậy theo như nhân quả 3 đời thì hành động của người cha như vậy là do quả chi phối chứ ông ta không hề muốn .Vậy là nợ hai người đã trả xong hay chính cái nhân ông ta giết người trong hiện tại lại gây quả đâu khổ ở kiếp sau.
Nếu như trong đời sông hiện tại ai ai cũng hiểu được nhân quả ,ai cũng biết đến phật pháp thì làm gì có người phải trả quả đời trước .Ví như con nợ cũng biết đến phật pháp không bao giờ hại người và cướp của và chủ nợ cũng không bao giờ hại người .Vậy thì nhân trong quá khứ không bao giờ tạo được quả ,và luật nhân quả trong trong hợp này là như thế nào ?
Mong nhận được hồi âm .
A Di Đà Phật
Gửi bạn Sương,
Câu hỏi của bạn rất có ý nghĩa. Trước hết TN cùng bạn lý giải: Nhân-Quả là gì? Nhân-Quả hiểu đơn giản: Bạn trồng ớt tất sẽ lên cây, rồi sanh trái ớt; Bạn trồng cam, quít, trồng bầu, bí… tất sẽ chỉ cho bạn những cây trái tương tự. Nguyên nhân? Bởi cái Nhân bạn gieo là vậy nên Quả chẳng thể đổi khác. Tuy nhiên sự hình thành, ra hoa, kết trái có thể sẽ không theo đúng thời gian như nó vốn có, nghĩa là: quá trình ra hoa, kết trái có thể nhanh hơn, sớm hơn, muộn hơn, nhiều hoặc ít hơn. Nguyên nhân? Nhân duyên: Đất trồng, thời tiết, sự chăm sóc của chủ nhân.
Giờ TN xin lấy một ví dụ trên con người:
Một đối tượng A phạm tội giết người B. Để cấu thành hành vi giết người B, trong tâm đối tượng A đã phải hun đúc hành vi giết người từ nhiều ngày, nhiều tháng… và đối tượng A sẽ chờ thời cơ (đạo Phật gọi là nhân duyên thù thắng) thích hợp, anh ta sẽ tiến hành hành vi như nêu trên. Quá trình hình thành hành vi giết người chính là giai đoạn tích tụ Nhân và chờ ngày khai Quả.
Sau khi giết người xong, hoặc đối tượng A có bị pháp luật bắt ngay tại chỗ, bị xét xử, và hình án; hoặc đối tượng A tìm cách lẩn trốn pháp luật, và sống ngoài pháp luật.
1. Trường hợp bị pháp luật bắt, phạt án: nhẹ anh ta bị xử tới trung thân; Nặng anh ta bị xử tử hình. Như vậy là cái Nhân sát sanh mà đối tượng A gây tạo anh ta có thể phải trả Quả ngay tức thời, nghĩa là trong khoảng thời gian ngắn sau khi anh ta hành án. Trường hợp bị xử trung thân hay tử hình là anh ta bị phạt theo pháp luật. Trên thực tế sau khi đối tượng A mãn hạn trung thân, ra tù cái nghiệp giết người vẫn còn nguyên; Trường hợp bị xử tử hình, theo lý của người đời thì anh ta đã phải trả Quả, nghĩa là giết người phải đền mạng. Nhưng thực tế luật Nhân-Quả đã định rằng: Nghiệp giết người của anh ta chính anh ta sẽ phải trả, người bắt anh ta trả là người B bị anh ta giết, chứ không phải là người của cơ quan pháp luật thi hành án tử hình. Do vậy dẫu đối tượng A mãn tù trung thân hay có bị tử hình ngay thì Nghiệp – tức là cái Nhân sát sanh của anh ta vẫn còn nguyên đó chứ anh ta chưa hề trả được Nghiệp. Cái chết của anh ta chỉ là cái thân hư giả, thân này nếu anh ta không bị xử bắn rồi nó cũng đến ngày tự phải hư hoại.
Đối tượng A hình thành hành vi giết người B dụ cho sự hình thành cây ớt, cây cam, quít, bầu, bí… Khi đối tượng A giết người B=anh ta đã tạo Nhân ác; Bị pháp luật bắt, xử án=trả Quả. Điều này dụ cho sự kết trái nhanh hơn, sớm hơn, nhưng như TN đã nói: Sự trả mạng đó là trên hình thức=thân mạng hư giả của mình, còn trên thực tế: Quả=Nghiệp sát vẫn còn nguyên.
2. Trường hợp đối tượng A bỏ trốn, và sống ngoài vòng pháp luật. Nghĩa là sự trả Quả muộn hơn, lâu hơn… và rất có thể anh ta trốn tránh pháp luật cho tới khi xả bỏ báo thân (đến khi chết) vẫn chưa bị bắt và bị truy tố.
Theo lý đời thì anh ta đã không phải trả Quả giết người. Theo lý Nhân-Quả thì ai gieo Nhân nào, ắt phải trả Quả đó. Anh ta chết đi là chết cái thân mạng hư giả, còn Nghiệp thức (Nhân giết người) vẫn còn nguyên trạng. Cũng vì thế, khi anh ta được tái sinh làm người (TN ví dụ như vậy cho dễ hiểu), thì cái Nghiệp đó anh ta vẫn mang trên thân, và khi nhân duyên trong kiếp sống mới hội đủ, nghĩa là anh ta sẽ gặp lại người bị mình giết từ kiếp trước, người đó vì sanh lòng oán hận, nên khởi tâm phải phục thù để đòi mạng bằng được mới thôi. Chuyện cậu bé và người bố đẻ có thể là một điển hình cho câu chuyện nhân-quả mà chúng ta đã đề cập.
Nhưng con giả sử người cha của đứa bé đó thông hiểu phật pháp, hiểu được quả báo khi giết người (giết con mình ) cho nên người cha sẽ không đánh chết người con,và người con vẫn còn sống.(Nếu vậy thì không đúng với luật nhân quả).
Trở lại ví dụ đối tượng A, anh ta giết người B xong, bị bắt, bị phạt tù trung thân, bị phán tử hình. Trong quá trình thụ án và chờ ngày hành án, anh ta được Thiện Tri Thức khai thị về Nhân-Quả báo ứng; khai thị về sự sống, cái chết; khai thị về sanh tử luân hồi – nói giản đơn là khai thị về Phật pháp và anh ta đã giác ngộ. Anh ta vô cùng ân hận, và một lòng sám hối tội giết người của mình, nguyện tu hành thật tinh tấn để làm người lương thiện, để hồi hướng tất cả công đức cho người mình đã giết. Trường hợp này đối tượng A có thể chuyển được Nghiệp sát (Nhân giết người) từ Cực Trọng Nghiệp: anh ta sẽ bị người mình giết trả báo tương tự, sang một cái Nghiệp nhẹ hơn, anh ta sẽ không bị giết, mà chỉ gặp tai nạn, hay những bệnh tật trên thân, hoặc có thể trả sạch nghiệp – với điều kiện: khi người bị giết cũng được khai thị, được giác ngộ, và cũng hiểu được lý Nhân-Quả, và nạn nhân khởi tâm từ, nguyện không báo thù kẻ đã giết mình nữa. Lúc này đối tượng A (có thể) đã trả được Nghiệp. Đối tượng A dụ cho người bố biết tu đạo; kẻ bị giết dụ cho người con.
Nhưng ngược lại, nếu nạn nhân cang cường, một lòng phục thù bằng được kẻ giết mình – giết mạng – đền mạng, thì lúc này đối tượng A cho dù tu hành tinh tấn tới đâu chăng nữa cũng vẫn phải mang theo Nghiệp sát tới đó. Và sự trả Nghiệp (trả Quả) lúc này sẽ chỉ là sớm hay muộn mà thôi. Và điều chắc chắn nếu đối tượng A chỉ lơ là chuyện tu hành trong giây phút, ngay lập tức anh ta sẽ phải trả Nghiệp.
Thực tế trong đời, những trường hợp chém, giết, cướp của, hại thân, đoạt mạng… lẫn nhau xảy ra thường ngày trong mọi gia đình và xã hội xung quanh chúng ta, đều khởi từ duyên oán thù từ tiền kiếp mà ra. Người đời thì cho đó là do nhất thời tham lam, nhất thời hồ đồ, nhất thời hành động thiếu suy nghĩ… Nhưng lý Nhân-Quả thì đó chính là: trồng cây nào, gặt hái trái đó. Quyết không sai dịch. Cũng vì thế trong kinh Phật đã dạy: Vợ chồng, con cái đều do duyên nợ và ân oán mà tụ lại. Ngoài những duyên đó quyết không có một nghiệp duyên nào khác.
Nhưng trên thực tế người cha đã đánh chết người con. Vậy theo như nhân quả 3 đời thì hành động của người cha như vậy là do quả chi phối chứ ông ta không hề muốn.
Đây chính là sự mê mờ Nhân-Quả. Nghĩa là người cha (dụ cho kẻ bị đối tượng A giết kiếp trước) đã hoàn toàn sống thiếu đạo, vì thế, ý chí phục thù từ tiền kiếp vẫn chất chứa trong tâm, và anh ta đã nguyện phải phục thù bằng được mới thoả hận. Khi kẻ bị giết kiếp trước nuôi tâm phục thù=nuôi Nhân giết người và cái Nhân đó sẽ lớn dần lên cho tới đỉnh điểm, khi anh ta gặp lại kẻ tử thù của mình, ngay lập tức Nhân đó thôi thúc anh ta phải trả thù=Kết trái=Quả. Quả lúc này chẳng phải là anh ta trả Quả lành, cũng chẳng phải là „do quả chi phối“ mà do anh ta mê mờ Nhân Quả Báo Ứng nên anh ta đã hành động theo tâm oán thù kết chặt từ kiếp trước. Hậu quả: anh ta lại là người phải gánh Quả do mình gây ra.
Vậy là nợ hai người đã trả xong hay chính cái nhân ông ta giết người trong hiện tại lại gây quả đâu khổ ở kiếp sau.
Hoàn toàn không phải vậy. Quả lúc này anh ta hái từ Nhân ác – vì anh ta lại giết người và cái Nhân này sẽ lại đeo đuổi anh ta cho đến mãn kiếp nếu anh ta không biết sám hối, không tu hành; và người bị giết lúc này (dụ cho đối tượng A nói trên) sẽ lại nuôi Nhân phục thù… rồi khi oán đối gặp lại, lại có kẻ giết, kẻ nuôi hận=oan oan tương báo không bao giờ giải được là thế.
Nếu như trong đời sống hiện tại ai ai cũng hiểu được nhân quả, ai cũng biết đến phật pháp thì làm gì có người phải trả quả đời trước. Ví như con nợ cũng biết đến phật pháp không bao giờ hại người và cướp của và chủ nợ cũng không bao giờ hại người. Vậy thì nhân trong quá khứ không bao giờ tạo được quả, và luật nhân quả trong trong hợp này là như thế nào?
Thực tế điều này không bao giờ xảy ra vì như thế nơi đây đã chính là Tịnh Độ rồi. Chính vì thế Đức Phật mới gọi cõi này là cõi Ta Bà=Cõi Kham Nhẫn, nghĩa là cõi mà con người từ lúc sanh ra, lớn lên, già, bệnh, chết luôn phải sống, chịu đựng mọi sự nhục nhằn, đau khổ. „Con nợ“ và „Chủ nợ“ có thể dụ cho đối tượng A và kẻ bị giết B và cũng có thể dụ cho trường hợp hai bố con nói trên. Nguyên nhân từ đâu? Chúng ta mê mờ Nhân-Quả. Vì mê mờ nên không ai chịu tin làm thiện gặp thiện, hành ác ắt gặp ác. Trong Kinh Phật nói: Bồ tát sợ Nhân; Chúng sanh sợ Quả. Nhân này là Nhân gì? Là tất cả những Nhân ác, bất thiện nghiệp các Bồ tát đều đoạn sạch, vì đoạn sạch Nhân ác và bất thiện nên tâm Bồ tát luôn thanh lặng. Quả đây là Quả gì? Đây là Quả ác mà chúng sanh (tức chúng ta) luôn gieo trồng. Từ sáng tới khuya, ngay cả khi ngồi tụng kinh, niệm Phật, thậm chí đến chùa, hay đạo tràng… nhiều khi vẫn cứ gieo Nhân ác và Nhân bất thiện. Cũng chính vì thế mà nhân ác nọ nối, chồng chất lên nhân ác kia=Quả ác nọ chồng chất lên Quả ác kia. Nhưng khi Quả ác hình thành, nghĩa là Nghiệp báo xảy ra trên thân chúng sanh (tức chúng ta), may ra ít người trong chúng ta mới chịu hồi đầu. Hồi đầu là gì? Là biết quay lại, biết nhìn lại những gì mình đã gây tạo, rồi thành tâm sửa đổi, thành tâm sám hối=quả ác được tiêu giảm=Sợ Quả là vì thế. Ngược lại, nhiều lắm, trong đó có chúng ta, kể cả khi phải trả Quả ác (từ Nhân ác mình gây ra) nhưng vẫn chẳng chịu hồi đầu. Vì lẽ đó „con nợ“ và „chủ nợ“ vẫn đeo đuổi nhau mãi mãi không ngưng nghỉ.
Chúng ta phải làm gì để thoát ra khỏi cái vòng „con nợ“ và „chủ nợ“ đó? Chẳng còn con đường nào khác: Chúng ta phải tự mình giác ngộ. Giác ngộ điều gì? Đời là hư giả, là vô thường. Phật nói: Một hơi thở ra không có hít vào=kết thúc một sự sống. Giác ngộ đời là gắn liền với 8 nổi khổ: sanh, lão, bệnh, tử khổ; ái biệt ly khổ; cầu bất đắc khổ; oán tắng hội khổ; và ngũ ấm xí thạnh khổ (nỗi khổ bao hàm 7 nỗi khổ nói trên). Khi giác ngộ được điều đó rồi chúng ta phải tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo.
Bạn có duyên phước vô cùng lớn là đã đến được với Đạo tràng Tịnh Độ ĐVCT – Một Đạo tràng chủ trương lấy pháp môn niệm Phật làm tông chỉ tu hành: Tin sâu-Nguyện Thiết-Thực Tâm hành. Tại sao chúng ta phải làm và nên làm? Bởi thời gian không chờ đợi chúng ta. Nếu chúng ta không nhanh chân, không lẹ bước để thâm nhập vào căn nhà của Như Lai – Như Lai dụ cho sự giác ngộ và giải thoát – Thiện Nhân nghĩ chính chúng ta sẽ lại tự đưa mình trở lại đóng vai „con nợ“ và „chủ nợ“.
TN thành tâm mong muốn những dòng chia sẻ này có thể giúp bạn cùng các Đạo hữu tăng trưởng niềm tin nơi Nhân-Quả, tăng trưởng niềm tin nơi Phật pháp, cũng từ đó dũng mãnh xả bỏ những tính tham, sân, si, ngã mạn, phân biệt, chấp trước rồi bước vào tu hành để tự mình: phá mê-khai ngộ; lìa khổ-được vui; chuyển phàm-thành Thánh.
Thánh hay Phàm là do chính nơi mỗi chúng ta.
Nguyện đem tất thảy công đức nhỏ bé này hồi hướng cho cháu bé 8 tuổi xấu số đã được các Đạo hữu chia sẻ trong những ngày qua. TN rất hy vọng cháu bé sẽ được thức ngộ mà rũ bỏ những oán thù, để tu hành mà sanh về cõi an lạc. TN cũng nguyện cầu cho người cha và mẹ kế của cháu bé cũng như những người thân của cháu sớm biết hồi đầu để đến với Phật pháp.
Cầu chúc bạn thường an lạc và tỉnh giác.
TN
Kính gửi các vị đạo hữu, các vị thiện trí thức.
Thật sự tôi đã có mấy bài gửi câu hỏi lên trang nhà và đã được giải đáp cặn kẽ. Tôi thấy mình có may mắn, có cơ duyên được biết đến trang Đường về cõi tịnh.
Tôi đọc bài này trong lúc vẫn đang niệm Phật A Di Đà. Tôi đọc đến trường hợp cô Ngoan rồi các vị thiện trí thức trả lời tôi cũng không để ý ngày tháng nữa. Nhưng đúng là tôi vẫn thấy mình may mắn vì tôi đã được các liên hữu chỉ bảo về hiện tượng ma cảnh này.
Năm nay tôi 21 tuổi, chỉ có thể đáng là con cháu của các liên hữu trong trang nhà, nên rất mong hàng ngày đọc được các bài viết hay,những lời chia sẻ đúng đắn hơn nữa.
Khi niệm Phật đa số thời gian tôi thấy rất bình thường và chỉ chú tâm và hồng danh mà thôi. Chưa bao giờ thấy hiện tượng kỳ quái hiện thân nào, cho dù bị đau bệnh cũng không có mong Phật Bồ tát hiện thân gì cho cho khỏi nữa. Thỉnh thoảng chú tâm vào hồng danh cũng thấy có hiện tượng lạ lạ, nhưng tự nhủ cảnh gì hiện ra nơi đây đều là giả, gặp phải ma quỷ thì rất nguy nan, nên lại tự cố gắng tập trung vào việc trì danh. Trên trang cá nhân của tôi hàng ngày đều theo dõi các bài pháp của Tịnh Không pháp sư và những lời nhắn nhủ tinh tấn khác để luôn quan sát tâm mình không đi lạc đường. Nam mô A DI ĐÀ Phật! Xin cảm ơn các vị thiện trí thức đã hàng ngày khai thị cho tôi cùng muôn vàn chúng sanh.
Nếu như tạo nhân đời này và trả nghiệp đời sau là hết thì sẽ ko có nhân quả luân hồi, Vậy nhân ác sinh đời này và đời sau là triệt tiêu ư? Những người thông hiểu vòng nhân quả 3 đời mới hiểu được ta đang trả nghiệp, người mê muội ko biết mình đang trả nghiệp thì nghĩ đó là nhân cần phải nuôi nhân đó để chờ cơ hội trả quả. Làm lành sinh quả lành hành áo gieo quả ác.
Kính thưa các vị thiện tri thức.con bị trầm cảm khoảng thời gian khá dài,tâm trí lúc nào cũng phiền não,dù gia đình yêu thương,được học hành tử tế,nhưng con luôn mặc cảm,tự ti,thường so sánh với người khác,không tin vào bản thân mình,con cảm thấy mình là một người vô dụng,ngại giao tiếp với người thân và mọi người,con cảm thấy có lỗi với gia đình,con rất lo lắng về tương lai vì đang học đại học năm 3 rồi mà cứ như thế mãi con sợ mình không đi làm được sẽ lãng phí tiền bạc của gia đình cho mình đi học,nhà con làm ruộng nên cũng không dư giả gì,bao nhiêu tiền đều đầu tư vào việc học cho con mà con lại như vậy,càng nghĩ con càng thấy có lỗi,con tin tưởng Phật pháp và hay đi chùa,qua tìm hiểu thì con được biết do đời trước mình kiêu căng,tự mãn nên đời này mới bị như thế,các vị từ bi khai ngộ cho con hiểu nhân quả trong trường hợp này và làm sao hoá giải được.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
A Di Đà Phật.
Bạn hãy tập trung vào (FOCUS) việc bạn đang làm –> học hành cho tử tế đi. Gia đình đã lo lắng hết về tiền bạc cho việc học hành (quá may mắn) mà bạn không thể thành đạt, thì làm sao bạn có thể thành đạt được việc gì?
Bạn hãy nhìn xem những đứa trẻ em ao ước muốn đi học hành mà không có cơ hội. Nhiều người phải đi học, vẫn phải đi làm để trả tiền học phí, tại bạn không biết đến thôi. Phải biết trân quý những gì bạn đang có. Gia đình đã đặt hết niềm tin vào bạn, đừng để gia đình thất vọng.
Cố gắng lên.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật.
Câu chuyện cảm động khiến cả thế giới nghẹn ngào.
Cái nghèo cái đói thường trực trong ngôi nhà nhỏ này, nhưng dường như, nỗi cơ cực bần hàn ấy không buông tha họ. Cậu con trai bắt đầu cắp sách đến trường cũng là lúc nỗi mất mát lớn bỗng nhiên đổ ập xuống đầu họ. Cha qua đời vì cơn bạo bệnh. Hai mẹ con tự tay mình mai táng cho người chồng, người cha vắn số.
Người mẹ góa bụa ở vậy, chị quyết không đi bước nữa. Chị biết, bây giờ chị là chỗ dựa duy nhất cho con trai mình. Chị cặm cụi, chăm chỉ gieo trồng trên thửa ruộng chật hẹp, tài sản quý giá nhất của hai mẹ con chị. Ngày qua ngày, năm nối năm, những tấm giấy khen của cậu con trai hiếu học dán kín cả bức tường vôi nham nhở. Nhìn con trai ngày một lớn lên, ngoan ngoãn, học hành giỏi giang, nước mắt bỗng lăn trên gò má chị.
Học hết cấp hai, cậu thi đậu vào trường cấp ba trọng điểm của thành phố. Gánh nặng lại oằn lên vai người mẹ. Thế nhưng không may thay, khi giấy báo trúng tuyển về đến tay cậu cũng là lúc mẹ cậu ngã bệnh. Căn bệnh quái ác làm chị liệt nửa chi dưới. Vốn là lao động chính của gia đình, giờ chị chẳng thể đi lại bình thường như xưa nữa nói chi đến chuyện làm nông. Cậu bé vốn hiểu chuyện, thương mẹ vất vả, cậu xin nghỉ học:
– Mẹ này, con nghỉ học thôi, ở nhà làm ruộng thay mẹ. Đi học, tiền đâu mà đóng học phí, tiền sinh hoạt phí, lại còn một tháng nộp 15 cân gạo nữa, nhà mình biết lấy đâu ra.
– Có thế nào con cũng không được bỏ học. Con là niềm tự hào của mẹ. Chỉ cần con chăm chỉ học hành, còn những việc khác, con không phải bận tâm……
http://www.phapvan.ca/pv/default.asp?15659=5&596=4&759=4619&59615=4
Nam Mô A Di Đà Phật.
cư sĩ phước huệ cho hỏi, mình xây khách sạn cho thuê theo giờ hay ngày thì theo phật giáo có phạm tội gì không và mình đưa tiền cho người ta làm các việc thiện như bố thí, phóng sanh thì phước báu mình hưởng 100% không, mong cư sĩ giải đáp dùm, xin cám ơn
dạ cư sĩ cho hỏi thêm, nếu mình làm gì mà người ta tự cho tiền mình không có đòi hỏi (tham nhũng), thì như vậy có phạm tội theo phật giáo không, cám ơn cư sĩ
Kính chào bạn An Hòa,
“Tội” là theo cách nói dân gian, còn trong Phật pháp đó là quả báo xấu. Những câu bạn hỏi thuộc về phần gieo nhân, PH xin được chia sẻ như sau.
– Mục đích sử dụng chính của dạng khách sạn cho thuê theo giờ hoặc ngày (đặc biệt là theo giờ) là để các cặp tình nhân vào đó quan hệ tà dâm. Như vậy Nhân gieo ở đây là tiếp tay, tạo Duyên cho việc tà dâm được thực hiện. Người Phật tử ngoài việc tự mình giữ giới, thì trong khả năng của mình, phải nên tránh tạo duyên cho chúng sanh phạm giới. Cho nên bạn đừng nên kinh doanh theo dạng này để tránh làm tổn Phước của mình. Bạn có thể xây dựng các khu nhà trọ cho những người cần chỗ trú ngụ vào ở, nếu bạn có từ tâm muốn làm việc thiện, thì bạn có thể lấy giá thấp hơn bình thường một chút (vẫn có lời, chỉ là ít hơn bình thường một chút). Như vậy bạn vừa kinh doanh để sống, lại vừa âm thầm tạo phước cho mình.
– Phước báo của bạn vẫn hưởng bình thường chứ không phải chia sẻ cho những người thay mặt bạn thực hiện. Tuy nhiên, bạn cần biết thêm những điều liên quan như sau để có tâm bố thí, tâm làm việc thiện tốt hơn.
@ Người bố thí nên xuất phát từ việc vì thấy chúng sanh khổ sở, khởi lòng từ bi, thật sự thương xót mà muốn giúp đỡ chứ không phải mong cầu Phước báo cho chính mình. Bố thí với Tâm như vậy thì quả sẽ lớn gấp nhiều lần so với Tâm mong cầu mình được nhận phước báo.
@ Người thay mặt bạn thực hiện việc bố thí, nếu họ khởi Tâm tùy hỷ với việc bạn làm thì họ cũng sẽ nhận được phước báo tương ưng, nếu họ ngu si khởi Tâm chê bai hoặc ganh tị thì ngược lại sẽ nhận được quả báo xấu tương ưng. Quả báo mà họ nhận được không liên quan gì đến quả báo mà bạn nhận được, vì nó xuất phát từ hai Tâm khác nhau của hai chúng sinh khác nhau.
@ Khi bạn muốn bố thí, nhưng băn khoăn về chuyện người khác thay mặt mình làm sẽ chia sẻ Phước báo với mình, đây chính là tâm bỏn xẻn, bạn cần nhận biết để từ bỏ tâm này. Thay vào đó, bạn hãy khởi Tâm tùy hỷ, mong người thay mặt mình thực hiện cũng nhận được Phước báo.
– Ngoại trừ tiền lương, những loại tiền khác, nói rộng ra là quà cáp, các ưu đãi,.. mà mình nhận được do mình có chức vụ, công việc đặc biệt,… đều là những thứ không trong sạch, người Phật tử chắc chắn không được nhận những đồng tiền như vậy vì ngay cả luật pháp thế gian cũng đã ngăn cấm huống gì trong Phật pháp. Nhân, quả theo nhau như bóng với hình, bao nhiêu vị quan tham đã phải vào tù hoặc bị xử chết vì tham nhũng. Tham nhũng dù to, dù nhỏ đều chắc chắn sẽ nhận những quả báo tương ưng, chỉ là chúng ta không đủ sáng suốt để nhìn thấy thôi. Người Phật tử, đặc biệt là người có chức vụ, cần phải gắng giữ tâm liêm chính, trong sạch, như vậy mới giữ cho phước đức không bị tổn thất, đêm có thể ngủ yên giấc vì tâm tự biết mình trong sạch. Trong tình trạng cuộc sống hiện giờ, PH biết đây là việc khó làm, mong bạn sáng suốt biết rõ nhân quả, cố gắng giữ mình nhé.
Kính chúc bạn an vui.
Nam Mô A Di Đà Phật.
bản thân an hòa chỉ là nhân viên, nhưng người ta tự mình cho chứ an hòa không đòi hỏi, ít thôi chứ không nhiều, đó là tự nguyện chứ an hòa không có ép buộc, người ta nói gọi là cám ơn, những việc làm trước liên quan đến việc đó là đúng với pháp luật, như vậy là vẫn có tội sao cư sĩ phước huệ, mong giải đáp dùm, xin cám ơn
Kính chào bạn An Hòa,
Bạn chớ thấy số tiền ít mà cho là không đáng gì, những việc bạn làm là công việc của bạn cần phải làm, (nói thẳng ra là bạn được thuê để làm công việc đó và bạn chỉ đang làm công việc của mình chứ không đặc biệt giúp gì cho ai hết), và công ty, nhà nước đã trả lương cho bạn rồi. Về mặt luật pháp, bạn hãy xem lại trong nội quy của công ty, cơ quan mình đang làm việc có cho phép nhân viên được nhận những khoản tiền cảm ơn như vậy không? Về mặt nhân quả, bạn nghĩ mà xem, chỉ một số tiền nhỏ nhoi mà mình đã không ngại làm sai, đến một lúc gặp tình huống có số tiền lớn hơn, mà mình đang lại cần tiền thì sao bạn có thể từ chối được? Đừng thấy việc xấu, ác nhỏ mà không ngại, đừng thấy việc lành nhỏ mà bỏ qua. Nhân, quả theo nhau như bóng với hình, một giọt nước tuy nhỏ nhưng đến một ngày sẽ làm tràn một lu nước to.
Mong bạn sáng suốt nhìn thấu vấn đề vì nó không nằm ở điểm số tiền ít hay nhiều, mình đòi hay tự người ta cho. Vấn đề là một khi bạn nhận, là bạn đang tham nhũng.
Nam Mô A Di Đà Phật.
mình nhận cám ơn nhưng mình không có làm sai, làm đúng theo pháp luật, nhất quyết không làm sai, thì như vậy vẫn sai phải không cư sĩ, xin cám ơn
Kính chào bạn An Hòa,
Đúng vậy, vẫn là tham nhũng. Nếu bạn đã lỡ nhận, hãy tìm cách trả lại cho họ. Nếu vẫn không thể nào trả lại được cho họ, thì bạn hãy dùng toàn bộ số tiền đó làm từ thiện dưới tên của họ (không dùng tên của bạn, nghĩa là bạn thay mặt họ làm việc thiện đó). Và sau này bạn nhớ đừng bao giờ nhận những ưu đãi, tiền cảm ơn,.. như vậy nữa.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Cho an hòa hỏi thăm thêm, mình thờ phật , vì nhà có nhiều bụi nên an hòa có lấy bịch mũ bỏ kinh và và để lên bàn thờ phật, làm như vậy có được không, và mình tính là một cái gì đó che tượng phật lại cho đỡ bụi khi cúng phật mình dỡ ra, như vậy có được không cư sĩ, xin cám ơn
Kính chào bạn An Hòa,
Bạn làm vậy rất tốt. Về kinh sách, bạn nhớ dùng bịch sạch nhé hoặc dùng vải sạch phủ lên kinh cũng được. Về tượng Phật, bạn có thể lấy vải sạch, hoặc mành trúc,..làm màn che lại. Bạn để ý làm cho đẹp, trang nghiêm một chút, nói chung là tránh cẩu thả, luộm thuộm,..là được.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Cư sĩ cho hỏi, như mình có thông tin bồi thường, mình mua giá rẻ, chờ đền giá như mình thông tin thì có hại gì ko
Kính chào bạn An Hòa,
PH đoán là bạn đang nói về bất động sản, và thông tin mà bạn biết được là nhờ bạn đang làm việc trong một cơ quan đặc biệt nào đó. Và đây là dạng thông tin mật, không công khai cho tất cả mọi người. PH đọc báo thấy đã có nhiều vị quan chức và người thân của họ bị pháp luật xử tội vì đã làm việc giống như bạn đang hỏi. Chắc bạn đã biết câu trả lời rồi phải không.
Nam Mô A Di Đà Phật.
cư sĩ cho hỏi thăm thêm, như cha mẹ nói vấn đề nào đó không đúng mình có ý kiến phản bác, mà dân gian gọi là cãi lại, thì như vậy là có phạm tộ bất hiếu không, còn ngoài ra tất cả việc khác đề cố gắng mà lo, mong cư sĩ giải đáp dùm, xin cám ơn.
mình còn sân hận và còn có tâm niệm dâm, làm cách nào để dứt trừ ý niệm này, mình niệm phật có dứt trừ hai tà niệm này không, cám ơn
Lại nữa, đi đứng nằm ngồi mình niệm phật thì khi mình niệm lúc mình đang ăn mặn, hay khi mình không bận đồ khi tắm, hay khi nằm ngủ mình bận áo thun quần cụt, hay khi quan hệ vợ chồng mình niệm trong tâm, như vậy có bất kính với phật hay không cư sĩ, vì bất kính đọa đại ngục, xin cám ơn
tu tịnh độ mà không ăn trường chay, mà chỉ 1 tháng 10 ngày thì có được không vì còn ăn mặn; cơm thiêu mà mình đem bỏ đi thì có phạm tội hủy báng thức ăn không; đem đường bố thí cho kiến ăn, đôi lúc đem thức ăn cho gà, chim, lợn ăn thì có phạm không; ở nhà mẹ và an hòa có niệm phật tu tịnh độ (thập niệm hồi hướng) còn ba, vợ và con không có thì phải làm sao cho họ quay đầu niệm phật và tu tịnh độ; mình làm nhà nước mà mình đi trễ thì có phạm tội ăn cắp thời gian và bị quả như thế nào; theo an hòa biết thì người nào niệm phật thì được phật và bồ tát long thần gia hộ, vậy người ăn mặn niệm phật thì có được gia hộ không; mình để sách dạy cách tu tịnh độ và mấy điệu sen thanh trên kệ sách nhưng đặt trong phòng ngủ thì có tội gì không; niệm phật trong phòng ngủ nhưng ngồi dưới nền (không ngồi trên niệm) thì có phạm bất kính không, mình ngồi trên niệm mình niệm phật thầm thì có được không cư sỹ, xin cám ơn
mình niệm thầm hay niệm ra tiếng thì dễ đi đến bất niệm tự niệm vậy cư sĩ
đôi khi trong tâm niệm của mình muốn giết người, hay lúc mình sân hận cũng có cảm giác vậy, đôi lúc thôi chứ không liên tục, như vậy là như thế nào cư sỹ, và cách khắc phục ra sao; qua nhiều lần trao đổi thì cư sỹ thấy an hòa có căn tu không, nếu có sao có biểu hiện như vậy, xin cám ơn, theo an hòa nghĩ người có căn tu là người hiền lành và không có biểu hiện vậy, mong cư sĩ giải đáp dùm
Mình lây cơm thiêu đi bỏ, minh bố thí thức ăn cho động vật ăn nhu kiến gà chim thì co tội hủy thức ăn không, đôi lúc mình co cảm giác muốn giết người, lúc sân hận cũnng có cảm giác vậy là lý do tại sao và cách dứt trừ, để hướng dẫn tu trên tủ trong phòng ngủ thì sao cư sĩ, cha va vợ con không tu thì làm sao hướng dẫ họ tu cư sĩ; niệm phật trong phòng ngủ có sao không, khi nằm niệm thầm vó được không, trên niệm mình niệm thầm hay ra tiếng cư sĩ
Chào bạn An Hòa,
PH xin được chia sẻ như sau.
– Bạn được phép nêu ý kiến trái ngược với ý cha mẹ, bởi vì cha mẹ cũng là phàm phu nên ý kiến sẽ có đúng, sai. Tuy nhiên cách bạn nói lại phải như thế nào mới đúng, vì không khéo sẽ phạm tội bất hiếu. Nếu dùng tâm sân mà cãi lại thì là đang gieo nhân bất hiếu. Nên bạn cần nhớ giữ tâm bình tĩnh, thân ái, dùng lời hòa nhã mà đưa ra ý kiến của mình.
– Nếu bạn chú tâm Niệm Phật cho thuần thục thì sẽ giảm được các tâm tham sân si. Chính yếu là ở điểm phải tập trung tâm ý vào Phật hiệu.
– Những lúc không trang nghiêm mà bạn vẫn nhớ niệm Phật là rất tốt, những lúc ấy bạn nhiếp tâm niệm thầm là đúng pháp, bạn đừng lo.
– Tu Tịnh Độ mà chưa trường chay vẫn ổn, nhưng bạn cần nhớ đừng sát sanh, chỉ nên mua vật đã chết để ăn để tránh tạo nghiệp sát.
– Đồ ăn không dùng được nữa thì phải bỏ đi, không thể gọi là phung phí. Bạn hãy thu xếp nấu ít lại một chút để không bị dư nữa. Bạn bố thí thức ăn cho các chúng sanh là gieo nhân tốt.
– Để độ cho người thân, bạn cần tu niệm cho chân thật rồi dùng công đức đó hồi hướng đến cho họ. Bạn không nên bắt ép họ phải tu giống mình. Những việc đó hãy để tùy duyên. PH có một người chị, khi khuyên chị niệm Phật, chị bảo không có thời gian vì chị rất bận. Đến lúc chị bệnh, gặp được một ông thầy trị bệnh cho chị, lại khuyên chị tu tập, tự nhiên chị phát tâm và tự nguyện tu niệm, trì chú. Cho nên, về chuyện tu niệm của người thân của bạn hãy để tùy duyên.
– Đi làm trễ là đang gieo nhân ăn cắp thời gian. PH không biết chính xác quả báo sẽ như thế nào, nhưng biết chắc sẽ có quả báo.
– Ăn mặn có quả báo của ăn mặn, niệm Phật có phước báo của niệm Phật. Nên người niệm Phật, dù ăn mặn, vẫn được chư Phật gia hộ.
– Sách Phật pháp tốt nhất là không để trong phòng ngủ, bạn có thể để trên bàn thờ, nằm dưới các sách kinh là ổn.
– Niệm Phật thầm trong phòng ngủ, ngồi, nằm ở đâu cũng được, nhớ giữ tâm cung kính, niệm thầm là ổn.
– Phàm phu đều có tâm sân. Những lúc như vậy, bạn không cần để ý đến tâm sân đó mà cần nhiếp tâm niệm Phật ngay lập tức. Dần dần nó sẽ giảm. Biểu hiện của bạn như vậy là rất bình thường, bạn không cần lo sợ, chỉ nhớ phải cảnh giác nhiếp tâm niệm Phật ngay lập tức.
– PH là phàm phu y như bạn, nên làm sao biết bạn có căn tu hay không. PH chỉ biết bạn là người có duyên sâu với Đức Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc, đó là vì Tịnh Độ là pháp khó tin mà bạn tin được thì biết là bạn có duyên sâu. Bạn không cần để ý đến chuyện bạn có căn tu hay không có căn tu, chỉ cần chuyên chú nhiếp Tâm Niệm phật cho nhiều. Ngày xưa ngài Vô Não đã từng làm hại rất nhiều người, đến khi tu theo Phật thì ngài chứng quả A-la-hán. Cho nên, bạn đừng ngại những tâm xấu ác đang xuất hiện, chỉ cần luôn sáng suốt nhận diện nó và luôn nhớ nhiếp tâm niệm Phật khi nó xuất hiện.
– Bạn hãy search trên mạng website của Niệm Phật Đường An Dưỡng sẽ thấy nhiều thông tin bổ ích liên quan đến bất niệm tự niệm. Theo PH thấy, niệm thầm hay niệm ra tiếng đều không phải là mấu chốt để đạt bất niệm tự niệm. Mấu chốt là phải nhiếp tâm niệm Phật tương tục càng lâu càng tốt. Mỗi người tùy theo sức khỏe, tình trạng cuộc sống mà có hình thức hành trì khác nhau. Tuy nhiên, để có thể niệm Phật trong mọi lúc thì thường mình sẽ phải niệm thầm.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Bản thân an hòa đang công tác nhà nước, các cuộc nhậu không thể từ chối được vì liên quan đến công việc, liên quan đến lương và cuộc sống thì như vậy có cách nào để từ chối và PH cho biết quả báo của việc uống rượu và bán rượu nhe, xin cám ơn
Kính chào bạn An Hòa,
Từ chối có rất nhiều cách, và cần có chút bản lĩnh thì sẽ làm được. Tai nạn chết người do bia rượu, giết người do bia rượu, ung thư, xơ gan, đau bao tử do bia rượu,…bấy nhiêu đó đã quá đủ để bạn lấy làm lý do từ chối việc uống bia rượu. Người ta thường nhắm mắt cho qua vì nghĩ những tai nạn, bệnh tật đó sẽ không xảy đến với mình. Nếu biết rõ nó sẽ đến, chỉ là sớm muộn khác nhau, thì sẽ biết cách thoát khỏi nó cho bằng được.
Uống rượu là đang gieo nhân ngu si, mê muội. Người uống rượu sẽ dần hết sáng suốt, tâm trí u tối, trong khi bạn đang tu tập, nghĩa là mình đang cố gắng cho tâm trí sáng suốt, khai mở trí tuệ, như vậy uống rượu là bạn đang làm ngược lại với việc tu tập. Khi công phu niệm Phật, hoặc thiền,..sẽ dễ bị hôn trầm ngủ gục, đọc kinh sách thì không thâm nhập được ý nghĩa. Về sau, nếu tái sinh làm người thì sẽ làm người ngu độn, nghe kinh cũng không hiểu được. Còn người bán rượu là bán chất độc hại cho người, làm người ngu muội đi, quả báo cũng theo đó tương ưng. Có một bà già tu trong đạo tràng, bình thường bà rất tỉnh táo, nhưng đến lúc tu niệm, nghe giảng pháp thì bà lại ngủ gục ngay tại chỗ ngồi. Sư nói, bà này chắc kiếp trước làm nghề bán rượu. Ngẫm kỹ, PH thấy sư nói có lý.
Quả báo rất đáng sợ, cho nên mình phải cố gắng gieo nhân cho tốt.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A DI ĐÀ PHẬT
Bạn An Hoà ráng đọc kỹ Kinh Phật Thuyết Cho Người Tại Gia để biết rõ đâu là tội, đâu là phước nhé.
TN
…………………………………………
Đời Lưu Tống, ngài Cầu Na Bạt Ma dịch Phạn Hán
Đời Minh, ngài Trí Húc chú thích
Thích Pháp Chánh dịch Hán Việt
Kinh Năm Giới Tướng của Ưu Bà Tắc
Chú thích sơ lược những điểm thiết yếu
Tường Quang Tùng Thư Phật lịch 2560, TL 2016
Chú thích sơ lược Kinh Năm Giới Tướng của Ưu Bà Tắc
Đời Lưu Tống, ngài Cầu Na Bạt Ma dịch Phạn Hán
Đời Minh, ngài Trí Húc chú thích
Thích Pháp Chánh dịch Hán Việt
Tôi nghe như vầy. Một thời Phật tại nước Ca Tỳ La Vệ. Bấy giờ vua Tịnh Phạn đến nơi Phật ngự, đầu mặt lễ chân Phật xong, chắp tay cung kính bạch Phật rằng: “Nay tôi có lời thỉnh cầu để được tự cứu vớt, cúi xin Thế tôn thương xót chỉ dạy.”
Phật dạy: “Được. Như lai sẽ thuận theo lời yêu cầu của phụ vương.”
Vua bạch Phật rằng: “Thế tôn, ngài đã vì Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni chế ra những điều khinh trọng của giới luật, cúi mong Như lai, cũng nên vì hàng Ưu bà tắc, phân biệt nói về năm giới, tội nào có thể sám hối, tội nào không thể sám hối, để cho họ biết giới tướng rõ ràng không còn nghi hoặc.”
Chú thích: Nước Ca Tỳ La Vệ là nơi đức Phật sinh trưởng. Vua Tịnh Phạn là cha của đức Phật. Dùng phụ vương làm đương cơ để thỉnh cầu pháp tướng của năm giới, điều này chứng tỏ năm giới này là cha của chư Phật ba đời. Y vào giới này xuất sanh tất cả chư Phật ở mười phương ba đời. Lẽ nào chúng ta lại có thể xem thường!
Phật dạy: “Lành thay, lành thay, Cù Đàm. Như lai đã có ý niệm này, từ lâu đã có ý định phân biệt nói về năm giới của hàng Ưu bà tắc. Nếu có người thiện nam nào thọ trì không phạm, do nhân duyên ấy sẽ được thành Phật đạo. Còn như người phạm mà không sám hối thì thường ở trong ba đường ác.”
Chú thích: Trên khế hợp với ý của Phật, dưới khế hợp với căn cơ chúng sanh, cho nên đức Phật khen “lành thay” hai lần. Cù Đàm là họ của vua. Các nước ở Tây vực gọi họ để biểu lộ sự cung kính. Nếu thọ trì không phạm ắt sẽ thành tựu quả Phật, còn nếu vi phạm mà không chịu sám hối ắt sẽ đọa lạc ba đường ác. Chúng sanh trong mười pháp giới không thể vượt qua giới hạn của năm giới này. Hỏi: “Thọ trì không phạm ắt thành tựu Phật đạo, vi phạm mà không sám hối ắt đọa ba đường ác, thế thì những người vi phạm mà biết sám hối có bị đọa ba đường ác không?” Đáp: “Người thọ trì mà vi phạm cũng sẽ thành tựu Phật đạo. Chỉ có những kẻ không thọ trì mới sẽ vĩnh viễn không có nhân duyên để thành Phật. Nếu vi phạm mà biết sám hối cũng không bị đọa ba đường ác. Thế nhưng vi phạm được phân làm ba loại khác nhau, sám hối cũng có ba loại khác biệt là tác pháp, thủ tướng và vô sanh. Đúng lý, nên tùy vào điều giới đã phạm mà giải thích chứ không thể nói một cách tổng quát.
Bấy giờ Đức Phật nói pháp cho vua Tịnh Phạn nghe. Nhà vua nghe xong, bèn đến trước đức Phật đảnh lễ, sau đó đi nhiễu quanh Phật rồi ra về. Phật đem nhân duyên này, bảo các tỳ kheo: “Ta nay sẽ vì hàng Ưu bà tắc nói về sự khinh trọng của việc phạm giới có thể sám hối, không thể sám hối.” Các tỳ kheo đều bạch: “Xin vâng, chúng con xin muốn nghe.”
Chú thích: Hỏi: “Luật nghi của tỳ kheo là pháp của Đại tăng, đương nhiên không thể cho phép người thế tục nghe biết. Hiện nay, năm giới tướng là học xứ của hàng ưu bà tắc, tại sao đức Phật không nói cho nhà vua nghe, mà lại đợi sau khi nhà vua đi khỏi, rồi mới thông báo nhân duyên này cho các tỳ kheo biết?” Đáp: “Giới pháp của bảy chúng, đức Như Lai đều kết trước chúng tỳ kheo, do vì tỳ kheo là bậc tôn thượng trong bảy chúng, Phật pháp nương vào tăng bảo mà được an lập, cho nên nói: “Sau khi đức Phật diệt độ, chư ni phải nên từ tỳ kheo tăng mà học tập giới pháp.” Chư ni cũng thuộc hàng tỳ kheo mà còn phải tùy thuộc vào tỳ kheo tăng để học giới, huống chi năm giới của hàng tại gia mà lại không tùy thuộc tỳ kheo để học tập hay sao? Cho nên hiện nay đức Phật ở trước các vị tỳ kheo mà chế định năm giới pháp, ý chánh là muốn các ưu bà tắc phải nương vào chư tỳ kheo mà học giới.
1. GIỚI SÁT SANH.
Phật bảo các tỳ kheo: “Phạm giới sát có ba trường hợp: một là tự mình giết, hai là bảo người giết, ba là sai khiển người khác đi giết. Tự mình giết là tự thân mình giết chết đối phương. Bảo người giết là nói với người đó rằng: “Bắt kẻ ấy lại, và giết chết.” Sai khiển người khác đi giết là bảo người đó rằng: “Ông biết kẻ đó không? Ông hãy đi bắt và giết chết hắn.” Khi người được sai khiển tuân lời đi giết được đối phương thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối.
Chú thích: Giới sát dùng năm duyên trở thành “không thể sám hối.” (1) Đối phương là người (nghĩa là không phải là súc sanh, v.v…). (2) Biết đó là người (nghĩa là kẻ phạm tội cố ý giết người). (3) Có tâm sát hại (nghĩa là không phải ngộ sát). (4) Thiết lập phương tiện để sát hại. (5) Đối phương (người) bị chết. Hiện nay nói tự làm, dạy người, sai khiến, nghĩa là dùng tâm sát hại thiết lập phương tiện, cho nên lúc đối tượng bị giết chết, vị ưu bà tắc đó phạm tội không thể sám hối. Không thể sám hối có nghĩa là lúc bắt đầu thọ giới ưu bà tắc, sau khi thọ Tam quy y xong, đắc được giới thể vô tác, hiện nay phạm tội giết người, ắt sẽ bị mất giới thể vô tác, không còn là ưu bà tắc, không thể tác pháp sám hối. Vì không thể sám hối cho nên vĩnh viễn bị ném ra khỏi biển Phật pháp, gọi là biên tội, không còn có thể thọ lại Năm giới, không thể thọ giới Bát quan trai một ngày một đêm, cũng không thể thọ giới Sa di, giới Tỳ kheo, và giới Bồ tát. Người phạm chỉ có thể nương vào pháp Đại thừa, tu tập pháp Thủ tướng sám đến khi thành tựu, sau khi thấy được hảo tướng, thì mới cho người phạm thọ giới pháp Bồ tát, lại cũng cho phép họ thọ lại giới tỳ kheo, mười giới, tám giới, và năm giới, v.v… Lúc ấy, tội phá giới, tuy do tu tập Thủ tướng sám khiến tiêu diệt, không còn bị đọa vào ba đường ác, thế nhưng, tánh tội của thế gian vẫn còn tồn tại, đến lúc nhân duyên đầy đủ, người phạm tội vẫn phải đền trả món nợ quá khứ, trừ phi họ nhập Niết bàn, hoặc vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, thì mới có thể thoát khỏi, không còn phải nhận chịu quả báo đã tạo. Hành giả lẽ nào không chịu thọ trì giới luật.
Lại có ba trường hợp giết người: một là dùng nội sắc, hai là dùng phi nội sắc, ba là dùng nội phi nội sắc. (1) Dùng nội sắc: nếu ưu bà tắc dùng tay đánh, dùng chân và các bộ phận trên thân, nghĩ như sau: “Khiến cho người đó chết”, nếu đối phương nhân đó mà chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối; nếu đối phương chưa bị chết liền, nhưng về sau nhân đó mà bị chết, thì ưu bà tắc cũng bị phạm tội không thể sám hối; nếu đối phương không bị chết liền, về sau cũng không nhân đó mà bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối. (2) Dùng phi nội sắc: nếu ưu bà tắc dùng gỗ, gạch, đá, dao, giáo, cung, tên, cục sáp, cục chì, từ xa ném tới, nghĩ rằng “người đó sẽ nhân đây mà chết.” Nếu đối phương nhân đó mà bị chết, thì ưu bà tắc phạm tội không thể sám hối. Nếu đối phương không bị chết liền, nhưng về sau nhân đó mà bị chết, thì ưu bà tắc cũng bị phạm tội không thể sám hối. Nếu đối phương không bị chết liền, về sau cũng không nhân đó mà bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối. (3) Dùng nội phi nội sắc: nếu ưu bà tắc, tay cầm gỗ, gạch, đá, dao, giáo, cung, tên, cục sáp, cục chì, gậy gộc để đánh đối phương, nghĩ rằng “người đó sẽ nhân đây mà chết.” Nếu đối phương nhân đó mà bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối. Nếu đối phương không bị chết liền, nhưng về sau nhân đó mà chết, thì ưu bà tắc cũng phạm tội không thể sám hối. Nếu đối phương không bị chết liền, về sau cũng không nhân đó mà chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối.
Chú thích: Ba loại này đều là pháp giết người, nghĩa là thiết lập phương tiện. Tay, chân, v.v…, là những bộ phận của thân thể, cho nên gọi là nội sắc. Gỗ, ngói, đá, v.v…, không phải là những bộ phận của thân thể, cho nên gọi là phi nội sắc, cũng gọi là ngoại sắc. Dùng nội sắc cầm nắm phi nội sắc để giết hại, cho nên gọi là nội phi nội sắc. Nếu nhân phương tiện này mà đối phương, bất luận là chết liền, hoặc chết sau, đều là để thỏa mãn tâm sát hại, cho nên lúc đối phương bị chết thì kết thành tội không thể sám hối. Nếu như sau đó đối phương không bị chết thì chỉ phạm tội thiết lập phương tiện giết hại, bởi vì kẻ phạm tội chưa thành toại tâm sát hại, cho nên chưa bị mất giới thể, vì vậy vẫn còn có thể siêng năng sám hối để diệt trừ, đây gọi là phạm tội bậc trung có thể sám hối.
Lại có ưu bà tắc, không dùng nội sắc, không dùng phi nội sắc, cũng không dùng nội phi nội sắc, mà vì muốn giết người, nên phối hợp các thứ độc dược, rồi rịt vào mắt, vào tai, vào mũi, hoặc rắc vào vết thương của đối phương, hoặc rắc vào thức ăn, hoặc rắc vào mền nệm, hoặc rắc vào trong xe, trong kiệu, nghĩ rằng: “Khiến cho người đó nhân đây mà chết.” Nếu đối phương bị chết, ưu bà tắc phạm tội không thể sám hối. Nếu đối phương không bị chết liền, nhưng về sau nhân đó mà bị chết, thì ưu bà tắc cũng bị phạm tội không thể sám hối. Nếu đối phương không bị chết liền, về sau cũng không nhân đó mà bị chết, thì ưu bà tắc phạm tội bậc trung, có thể sám hối.
Chú thích: Dùng thuốc độc làm phương tiện sát hại. Vì không dùng tay, chân, v.v…, lại cũng không dùng gỗ, đá, dao, gậy, v.v…, cho nên gọi là không dùng nội phi nội sắc. Thế nhưng, trong hai trường hợp, đối tượng đều bị giết chết, cho nên phạm tội không thể sám hối cũng giống như trên.
Lại có ưu bà tắc giết người bằng cách làm hầm lửa không khói (dưới hầm đốt lửa, nhưng không có khói – chẳng hạn 12
như đốt than cũi, than đá, v.v…), hoặc giết bằng đạn, giết bằng cách đào giếng, giết bằng cách gài bẫy, giết bằng nõ, hoặc giết bằng Tỳ đà la, hoặc làm cho trụy thai, hư thai, hoặc xô xuống nước, xô vào lửa, xô xuống hầm, hoặc sai đi đường xa để bị chết giữa đường, nhẫn đến thiết lập phương tiện giết bào thai vừa mới tượng hình – mới vừa phát triển hai căn là thân căn và mạng căn.
Chú thích: Ở đây nêu rộng các phương tiện sát hại. Tỳ đà la, tức là dùng chú thuật khiến thây chết đứng dậy, v.v…, như sẽ nói ở dưới.
Giết bằng hầm lửa không khói: Nếu ưu bà tắc biết đối phương sẽ đi qua con đường này, bèn ở giữa đường đi, làm hầm lửa không khói, trải đất cát lên trên, nhủ thầm: “Vì người đó đi qua đường này nên ta mới làm hầm.” Nếu đối phương nhân đây mà chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối. Nếu đối phương không bị chết liền, nhưng về sau nhân đây mà bị chết, thì ưu bà tắc cũng bị phạm tội không thể sám hối. Nếu đối phương không bị chết liền, về sau cũng không nhân đây mà chết, thì ưu bà tắc phạm tội bậc trung, có thể sám hối.
Nếu ưu bà tắc vì muốn giết người mà làm hầm lửa không khói; nếu loài người bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối; nếu loài phi nhơn bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối (Đây là từ phía người mà phán tội phương tiện, chứ không phải từ phía phi nhơn mà phán tội sát hại. Bởi vì ưu bà tắc đó không có ý giết hại phi nhơn); nếu loài súc sanh bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc hạ, có thể sám hối (Chữ “bậc hạ” e là bị viết lầm. Chuẩn theo tất cả các bộ luật, đều cho là phạm tội bậc trung. Đây cũng là từ phía người mà phán tội phương tiện, chứ không phải từ phía súc sanh mà phán tội sát hại. Bởi vì ưu bà tắc đó không có ý sát hại súc sanh). Nếu ưu bà tắc vì muốn giết phi nhơn mà làm hầm lửa không khói; nếu loài phi nhơn bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối (Phi nhơn là chỉ chung cho trời, a tu la, quỷ thần. Vì căn cơ học đạo của họ yếu kém, cho nên nếu sát hại họ, giới thể của ưu bà tắc chưa bị mất, có thể sám hối trừ diệt); nếu loài người bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc hạ có thể sám hối; nếu loài súc sanh bị chết, thì ưu bà tắc cũng bị phạm tội bậc hạ, có thể sám hối (Đây cũng từ phía phi nhơn định tội phương tiện, mà không từ phía người và súc sanh mà định tội sát sanh, bởi vì ưu bà tắc không có tâm sát hại người và súc sanh).
Nếu ưu bà tắc vì muốn giết súc sanh mà làm hầm lửa không khói; nếu loài súc sanh bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc hạ, có thể sám hối (Súc sanh so với trời, quỷ thần, v.v…, càng kém cỏi, cho nên người sát hại bị tội nhẹ hơn, so với sát hại trời, quỷ thần, v.v…); nếu loài người bị chết, hoặc loài phi nhơn bị chết, thì ưu bà tắc đều bị phạm tội bậc hạ có thể sám hối (Ở đây cũng từ phía súc sanh mà định tội phương tiện).
Nếu ưu bà tắc làm hầm lửa không khói với ý niệm “bất cứ loài nào rơi xuống đều bị giết chết.” Nếu loài người bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối; nếu loài phi nhơn bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung có thể sám hối; nếu loài súc sanh bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc hạ, có thể sám hối. Nếu không ai bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm ba tội phương tiện, có thể sám hối. Đây gọi là giết bằng hầm lửa không khói.
Chú thích: Ở đây nói rộng về việc giết hại bằng hầm lửa không khói, để nêu rõ những việc giết hại bằng những phương tiện khác, như gài bẫy, v.v…, cũng tương tự như vậy.
Hỏi: Tất cả những loài có sanh mạng đều không được giết hại, kẻ phạm tội sát hại không phải là đệ tử Phật. Tại sao ở đây giết hại loài trời, rồng, quỷ thần, v.v…, chỉ kết tội bậc trung, giết hại súc sanh chỉ kết tội bậc hạ, nhưng lại không bị mất giới thể, như vậy kẻ sát hại không bị đọa lạc hay sao?
Đáp: Nếu luận về sự mất giới thể, cần phải phạm bốn tội nặng căn bản, nghĩa là (1) giết người, (2) ăn trộm năm tiền trở lên, (3) tà dâm, và (4) đại vọng ngữ. Tùy phạm vào một trong bốn tội trên thì chắc chắn không thể tác pháp sám hối. Đến như việc giết hại phi nhơn, súc sanh, v.v…, tánh tội tuy nặng, nhưng việc vi phạm tội vô tác vẫn còn nhẹ. Hiện nay nói phạm tội bậc trung có thể sám hối, phạm tội bậc hạ có thể sám hối là nói về việc sám hối tội vô tác, để khỏi bị đọa lạc ba đường ác, chứ không nói đến việc trừ diệt tánh tội. Giết hại một sanh mạng thì phải đền một mạng, cho nên người cố sát ắt sẽ phải thường mạng, mà ngay cả người ngộ sát cũng phải thường mạng (nghĩa là cũng sẽ bị ngộ sát). Ngay cả những người không thọ giới cũng sẽ phải chịu tội. Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh nói: “Nếu trong khoảng trung gian, giết hại thân mạng hoặc ăn thịt chúng sanh, như vậy trải qua số kiếp như vi trần, ăn nhau, giết nhau, giống như bánh xe, quay qua quay lại, không lúc nào ngừng.” Đức Phật chế định giới sát, lý do là vì nếu thọ trì không vi phạm, thì có thể vĩnh viễn đoạn trừ sanh tử luân hồi. Giả như lỡ phạm, nếu chí tâm sám hối, vĩnh viễn không tái phạm, thì cũng có thể tránh được sự đọa lạc ba đường ác. Có nên gọi là tội bậc trung có thể sám hối, tội bậc hạ có thể sám hối. Nếu như không biết niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, thì làm sao có thể thoát khỏi khổ sở của sự trả vay sanh mạng?
Giết bằng Tỳ đà la: Nếu ưu bà tắc, trong hai mươi chín ngày, tìm một tử thi còn nguyên vẹn, triệu tập quỷ thần, niệm chú khiến cho tử thi đứng dậy, kế đến, lấy nước tẩy rửa, mặc quần áo vào, khiến cho cầm dao. Ưu bà tắc tâm nghĩ miệng nói như sau: “ta vì người tên …., mà làm Tỳ đà la này.” Nếu như đối phương nhân đây mà bị hại chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối. Nếu như đối phương đã nhập tam muội (quỷ không thấy được), hoặc được các thiên thần bảo hộ, hoặc được đại chú sư giải cứu, cho nên không bị hại chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối. Đây gọi là giết bằng tỳ đà la.
Giết bằng Bán tỳ đà la: Nếu ưu bà tắc, trong hai mươi chín ngày, làm xe sắt, làm xe xong, bèn làm người sắt. Kế đến, triệu tập quỷ thần, niệm chú khiến cho người sắt cử động, sau đó, lấy nước tẩy rửa, mặc quần áo vào, khiến cho cầm dao. Ưu bà tắc tâm nghĩ miệng nói như sau: “Ta vì người tên … mà tụng chú này.” Nếu đối phương nhân đây mà bị hại chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối. Nếu như đối phương đã nhập tam muội (quỷ không hại được), hoặc được các thiên thần bảo hộ, hoặc được chú sư giải cứu, cho nên không bị hại chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối. Đây gọi là giết bằng Bán tỳ đà la.
Giết bằng cách đoạn mệnh: Nếu ưu bà tắc, trong hai mươi chín ngày, dùng phân bò phết trên mặt đất, đem rượu thịt để lên trên, sau đó châm lửa, rồi nhúng mồi lửa vào trong nước, tâm niệm miệng nói, đọc chú thuật như sau: “Nếu lửa ở trong nước bị dập tắt, thì kẻ kia cũng sẽ bị mất mạng.” Lại nữa, ưu bà tắc, trong hai mươi chín ngày, dùng phân bó phết lên mặt đất, đem rượu thịt để lên trên, họa vẽ hình tượng của người mình muốn giết, sau khi vẽ xong, thì liền xóa đi, tâm nghĩ miệng nói, đọc chú thuật như sau: “Như bức họa này bị xóa mất, kẻ kia cũng sẽ bị mất mạng.” Như vậy, bức họa vừa bị xóa mất, thì kẻ kia cũng bị mất mạng. Lại nữa, ưu bà tắc, trong hai mươi chín ngày, dùng phân bò phết lên mặt đất, đem rượu thịt để lên trên, rồi dùng kim đâm vào chéo áo, sau đó rút kim ra. Tâm nghĩ miệng nói, đọc chú thuật như sau: “Như mũi kim dược rút ra, kẻ đó cũng sẽ bị mất mạng.” Đây gọi là đoạn mệnh. Nếu ưu bà tắc dùng các loại chú thuật, và đối phương nhân đó mà bị chết, ưu bà tắc phạm tội không thể sám hối. Nếu đối phương không bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối. Chú thích: Ba loại chú thuật đoạn mạng đều gọi là giết bằng trù ếm, đều thuộc về chú Tỳ đà la.
Giết bằng cách làm trụy thai: Ưu bà tắc cho người nữ đang mang thai uống thuốc xổ,1 v.v…, hoặc dùng kim đâm vào mạch máu, nhẫn đến cho uống thuốc làm chảy nước mắt, v.v…, nghĩ rằng: “Do nhân duyên này, người nữ này sẽ bị chết.” Nếu người nữ bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối. Nếu người nữ đó không bị chết liền, nhưng về sau nhân đây mà chết, thì ưu bà tắc cũng bị tội không thể sám hối. Nếu người nữ đó không bị chết liền, và về sau cũng không nhân đó mà chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối.
1 Ở đây có thêm câu “cập quán nhất thiết xứ dược (Hán: 及灌一切處藥).” Bản dịch của Thích Thiện Phước dịch là “và rưới nước trên tất cả các nơi có thuốc độc, hoặc rãi thuốc độc khắp nơi khiến cho người nữ đạp lên.” Ưu bà tắc muốn giết người người nữ đang mang thai bằng cách làm cho họ trụy thai. Nếu người nữ bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối. Nếu như thai nhi bị chết, nhưng người nữ không bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối (Đây là từ phía người mẹ mà phán tội phương tiện, chứ không phải từ phía thai nhi mà phán tội, bởi vì ưu bà tắc không có ý giết thai nhi). Nếu cả hai mẹ con cùng chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối. Đây gọi là giết bằng cách làm cho trụy thai.
Giết bằng cách đè bụng: Nếu ưu bà tắc cưỡng bức người nữ đang mang thai làm những việc nặng nhọc, hoặc khiêng vác vật nặng, hoặc bắt buộc phải đường xa, hoặc đi phía trước xe, hoặc leo lên dốc cao, nghĩ như sau: “Làm cho người nữ này bị chết.” Nếu như người nữ đó bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối. Nếu người nữ không bị chết liền, nhưng về sau nhân đó mà chết, thì ưu bà tắc cũng bị tội không thể sám hối. Nếu như người nữ không bị chết liền, về sau cũng không nhân đó mà bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối. Trường hợp muốn giết thai nhi cũng tương tự như trên. Đây gọi là giết bằng cách đè bụng.
Giết bằng cách khiến cho bị chết ở giữa đường: Ưu bà tắc biết con đường đó có nhiều thú dữ đang bị đói khát, bèn sai người mình muốn giết đi vào con đường đó, nghĩ như sau: “Khiến cho kẻ đó bị chết trên con đường này.” Nếu người đó bị chết, thì ưu bà tắc bị tội không thể sám hối. Các trường hợp khác cũng tương tự như vậy. Đây gọi là giết bằng cách khiến cho bị chết giữa đường.
Nhẫn đến hài nhi trong thai mẹ, đang ở trong giai đoạn ca la la, vừa mới phát triển hai căn, thân căn và mạng căn, nếu dùng tâm sát hại mà thiết lập phương tiện để giết, nếu như thai nhi bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối. Các trường hợp khác cũng tương tự như vậy.
Chú thích: Gia la la, hoặc ca la la, hoặc yết la lam, dịch là ngưng hoạt, hoặc dịch là tạp uế, hình trạng giống như hạt sữa đặc, tức là hình dạng của thai nhi vào ngày thứ bảy.
Giết bằng cách khen ngợi: Có ba trường hợp, đối với người thọ trì ác giới, đối với người thọ trì thiện giới, và đối với người già bệnh.
(1) Đối với người thọ trì ác giới: Thọ trì ác giới là những người làm nghề giết trâu, giết dê, nuôi gà, nuôi heo, thả chim ưng (cho những người đi săn bắn), lưới cá, săn bắn, bẫy thỏ, v.v…, hoặc trộm cắp, làm hàng thịt, làm cai ngục, v.v… Nếu ưu bà tắc đến chỗ người đó nói: “Ông là người thọ trì ác giới, tại sao lại làm nghề đó lâu như vậy, chẳng bằng chết sớm [để khỏi tạo nghiệp].” Nếu người đó nhân đây mà [tự tử] chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối. Nếu như không nhân đây mà bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối. Nếu như người đó nói: “Tôi không nghe lời ông nói”, và không nhân vì lời nói của ưu bà tắc mà [tự tử] chết, thì ưu bà tắc cũng bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối. Nếu như ưu bà tắc, sau khi nói lời khuyến dụ để mong đối phương chết, nhưng sau đó lại sinh tâm hối hận, nghĩ rằng: “Tại sao lại khuyên người khác chết”, bèn quay lại nói với đối phương rằng: “Ông tuy là người ác, nhưng có thể có nhân duyên gặp thiện tri thức, gần gũi người lành, được nghe thiện pháp, có thể suy tư chánh đáng, xa lìa tội ác. Ông chớ nên tự sát.” Nếu đối phương nghe lời khuyên bảo bèn không tự sát, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối. (2) Đối với người thọ trì thiện giới: Những người thọ trì thiện giới tức là bốn chúng đệ tử của đức Như Lai. Nếu ưu bà tắc đến chỗ người ấy, nói như sau: “Ông là người trì giới, có phước đức, nếu ông chết sớm có thể hưởng thọ phước trời. Tại sao không tự vận?” Người ấy nghe xong bèn tự sát. Nếu người ấy bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối; nếu như họ không bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối. Nếu người ấy không tự sát, thì ưu bà tắc cũng bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối. Còn nếu người trì giới đó nghĩ như sau: “Việc gì ta lại phải nghe lời hắn mà tự sát.” Nếu người trì giới không bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối. Còn nếu ưu bà tắc, sau khi khuyên người trì giới tự sát, bèn sinh tâm hối hận, nghĩ như sau: “Mình không đúng. Tại sao lại khuyên người trì giới tự sát?” Sau đó trở lại nói với người trì giới, nói như sau: “Ông là người trì thiện giới, hãy sống mãn tuổi trời, phước đức càng nhiều thì thọ phước báo càng nhiều. Chớ nên tự sát.” Nếu người trì giới nhân đó mà không tự sát, thì ưu bà tắc bị tội bậc trung, có thể sám hối.
(3) Đối với người già bệnh: Những người già bị bệnh hoạn là do bốn đại tăng giảm không điều hòa, chịu nhiều khổ sở. Nếu ưu bà tắc đến chỗ người ấy nói như sau: “Ông cớ gì mà phải nhẫn chịu sự khổ sở dài lâu như thế? Tại sao không chịu tự sát?” Giả như người ấy nghe lời khuyên bèn tự sát, nếu họ bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối. Nếu như không nhân đó mà bị chết, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối. Nếu người bệnh nghĩ như sau: “Việc gì mình lại phải nghe lời người đó mà tự sát”, hoặc giả, sau đó ưu bà tắc sinh tâm hối hận: “Mình không đúng. Tại sao lại khuyên người khác tự vận”, bèn quay trở lại nói với người bệnh: “Ông tuy bị bệnh, nhưng có thể tìm được thuốc hay, hoặc người trông nom tốt, ăn uống điều độ, thì bệnh có thể thuyên giảm. Ông chớ nên tự sát.” Nếu người bệnh nghe lời khuyên mà không tự sát, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối.
Chú thích: Ba loại khen ngợi giết này, trong phần giảng rộng đều không có. Thế nhưng, nếu theo dõi kinh văn thì có thể hiểu rõ.
Bảy trường hợp sát hại còn lại, sự phạm tội và không phạm tội, giống như trường hợp hầm lửa không khói.
Chú thích: Bảy trường hợp, như trong phần giảng rộng đã nói, tức là giết bằng đạn, giết bằng nõ, giết bằng xô xuống giếng, xô xuống hầm nước, xô xuống hầm lửa, xô xuống hố và giết bằng tỳ đà la.
Nếu đối phương là người, ưu bà tắc cũng tưởng họ là người mà giết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối. Nếu đối phương là người, nhưng ưu bà tắc lại tưởng là phi nhơn mà giết, hoặc đối phương là người, ưu bà tắc cũng nghi là người mà giết, thì đều bị phạm tội không thể sám hối. Nếu đối phương là phi nhơn, nhưng ưu bà tắc lại tưởng là người mà giết, hoặc đối phương là phi nhơn, nhưng ưu bà tắc cũng nghi là phi nhơn mà giết, thì đều bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối.
Chú thích: Theo các bộ luật khác, chỉ cần một câu “tưởng là người” thì định tội nặng, hoặc hai câu “tưởng là người”, “nghi là người” liên kết nhau, thì kết tội nặng. Hiện nay hai câu “tưởng là người”, “nghi là người” đều kết tội nặng. Dùng lý để châm chước, chỉ có hai câu này là kết tội nặng, nghĩa là “đối phương là người, tưởng là người mà giết, thì phạm tội không thể sám hối”, và “đối phương là người, nghi là người mà giết, thì phạm tội không thể sám hối”; ngoài ra, bốn câu khác đều kết tội trung, có thể sám hối, như: “đối phương là người, tưởng là phi nhơn mà giết, phạm tội trung có thể sám hối”, “đối phương là phi nhơn, tưởng là người mà giết, phạm tội trung có thể sám hối”, “đối phương là phi nhơn, nghi là phi nhơn mà giết, phạm tội trung có thể sám hối”, và “đối phương là phi nhơn, tưởng là phi nhơn mà giết, phạm tội trung có thể sám hối.”
Có một người bị chặt đứt tay chân và bị vứt trong hào thành. Một nhóm phụ nữ đi vào thành nghe tiếng rên khóc bèn tìm đến xem, và cùng nói với nhau: “Nếu như có thuốc độc cho người đó uống chết, thì hắn sẽ không phải chịu đau khổ lâu như thế.” Trong nhóm có một phụ nữ ngu độn, nghe thế bèn đem thuốc độc đưa cho người đó uống chết. Các phụ nữ trong nhóm thấy thế bèn nói: “Bà bị phạm tội không thể sám hối.” Liền cùng nhau đi hỏi đức Phật. Ngài nói: “Người đưa thuốc độc cho kẻ kia uống chết bị phạm tội không thể sám hối.”
Chú thích: Ở đây, những nhà kết tập đã dẫn các sự tích để phán định tội pháp rõ ràng nhưng văn quá sơ lược. Chuẩn theo các bộ luật khác, lúc đang nghị luận việc này, tất cả đều phạm tội nhẹ, có thể sám hối; nếu tất cả đều đồng tâm sai người đi tìm thuốc, thì đều phạm tội nặng, không thể sám hối. Nếu có người thấy biết mà không ngăn trở, thì bị phạm tội trung, có thể sám hối.
Nếu có ưu bà tắc dùng phương tiện muốn giết mẹ mình nhưng lại giết nhằm người khác, thị bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối (Đây là từ phía người mẹ mà định tội phương tiện, không phải từ phía người khác mà định tội, bởi vì đây là sự ngộ sát, vốn không có ý giết người đó). Nếu ưu bà tắc muốn giết người khác, nhưng lại giết lầm mẹ mình, thì bị phạm tội bậc trung có thể sám hối, chẳng phải tội nghịch (Đây cũng là từ phía người khác mà phán tội phương tiện, chứ không phải từ phía người mẹ mà phán tội sát hại).
Nếu ưu bà tắc lập phương tiện muốn giết người, nhưng lại giết lầm phi nhơn, thì bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối (Từ phía người mà phán tội phương tiện).
Nếu ưu bà tắc lập phương tiện, muốn giết phi nhơn, nhưng lại giết nhằm người, thì bị phạm tội bậc hạ, có thể sám hối (Từ phía phi nhơn mà phán tội phương tiện).
Có người mang thai súc sanh, nếu ưu bà tắc làm trụy thai, thì bị phạm tội bậc hạ, có thể sám hối. Có súc sanh mang thai người, nếu ưu bà tắc làm trụy thai, thì bị phạm tội không thể sám hối.
Nếu ưu bà tắc lập kế giết người, nhưng lại bị chết trước, thì phạm tội bậc trung có thể sám hối (Lúc ưu bà tắc còn sống, chỉ phạm tội phương tiện – đối phương vẫn chưa chết, sau khi ưu bà tắc chết, giới thể cũng bị mất, cho nên khi đối phương bị chết, ưu bà tắc không bị phạm tội phá giới nặng).
Nếu ưu bà tắc muốn giết cha mẹ mình, nhưng sanh tâm nghi, không biết đối phương có phải là cha mẹ mình hay không; nếu như biết chắc là cha mẹ mình mà vẫn cứ giết, thì ưu bà tắc đó bị phạm tội nghịch, không thể sám hối. Chú thích: Ở đây phải phân biệt sáu trường hợp: (1) Đối phương là cha mẹ mình, ưu bà tắc tưởng là cha mẹ mình, hoặc (2) nghi là cha mẹ mình mà giết, thì bị phạm tội nghịch. (3) Đối phương là cha mẹ mình, nhưng ưu bà tắc lại tưởng không phải là cha mẹ mình, hoặc (4) nghi không phải là cha mẹ mình. (5) Đối phương không phải là cha mẹ mình, nhưng ưu bà tắc lại tưởng là cha mẹ mình, hoặc (6) nghi là cha mẹ mình mà giết, thì phạm tội không thể sám hối, nhưng không phải phạm tội nghịch.
Nếu ưu bà tắc sanh nghi, không biết đối tượng là người hay là phi nhơn. Nếu biết chắc là người mà giết chết, thì bị phạm tội không thể sám hối (Cũng có sáu trường hợp, hai trường hợp phạm tội không thể sám hối, bốn trường hợp phạm tội có thể sám hối, giống như phần trên đã nói rõ).
Có người bắt được kẻ cướp, định đem đi giết, nhưng kẻ cướp tẩu thoát được. Người ấy bèn nhờ thế lực của quân quan, hoặc thế lực của làng xóm, truy lùng kẻ cướp. Có ưu bà tắc ngược đường đi tới, các người đang truy lùng hỏi ưu bà tắc: “Ông có thấy kẻ cướp đó không?” Ưu bà tắc trước đó có tâm thù ghét kẻ cướp đó, bèn nói: “Tôi thấy hắn đang ở chỗ đó.” Nếu nhân lời chỉ dẫn đó mà kẻ cướp bị bắt giết, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối.
Có người bắt được nhiều kẻ cướp, định đem đi giết, thế nhưng, bọn cướp tẩu thoát được. Người đó bèn nhờ thế lực của quan, hoặc của hàng xóm truy lùng bọn cướp. Có ưu bà tắc ngược đường đi đến, những người truy lùng bèn hỏi: “Ông có thấy bọn cướp không?” Ưu bà tắc đó trước kia có tâm thù ghét một người trong bọn cướp, bèn nói: “Tôi thấy bọn họ đang ở chỗ kia.” Nếu những người trong bọn cướp bị giết không phải là người mà ưu bà tắc thù ghét, thì ưu bà tắc bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối (Đây vẫn là căn cứ vào đối tượng bị sân mà phán tội). Các phần còn lại cũng giống như trên đã nói (Nếu đối tượng mà ưu bà tắc thù ghét bị bắt giết, ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối).
Nếu ưu bà tắc cố ý muốn giết mẹ mình, tưởng đối phương là mẹ mình, nhưng lại giết lầm người khác, thì ưu bà tắc bị phạm tội không thể sám hối, nhưng không bị phạm tội nghịch (Sáu trường hợp, hai trường hợp phạm tội nghịch, bốn trường hợp không phạm tội nghịch, như phần trên đã nói. Nay chỉ lặp lại). Nếu ưu bà tắc đánh giởn, nhưng lại đánh chết người, thì bị phạm tội thể sám hối (Vốn không có tâm giết hại, hiện nay chỉ phạm tội đùa nghịch đánh người khác). Nếu như bị điên cuồng, không tự nhớ nghĩ đến việc giết hại thì không bị tội (Nếu thấy phẩn dãi mà bóc lấy như bắt gặp chiên đàn, thấy lửa mà chụp lấy như bắt gặp vàng ròng, thì đây gọi là điên cuồng. Lại còn có hai trường hợp tương tự là tâm ý rối loạn, và bị sự đau khổ dày vò).
Nếu ưu bà tắc dùng nước có trùng, hoặc giết hại côn trùng trong cây cỏ, thì đều bị phạm tội. Nếu trong các vật dụng có trùng, mà tưởng là không trùng, khi sử dụng thì cũng bị phạm tội; vật dụng không có trùng, nếu tưởng có trùng, mà vẫn sử dụng thì cũng bị phạm tội.
Chú thích: Ở đây cũng chia làm sáu trường hợp: (1) có trùng, tưởng là có trùng; (2) có trùng, nghi là có trùng, hai trường hợp này kết tội căn bổn nhẹ, có thể sám hối; (3) không trùng, tưởng là có trùng; (4) không trùng, nghi là không có trùng, hai trường hợp này kết tội phương tiện nhẹ, có thể sám hối; (5) có trùng, tưởng là không có trùng; (6) không trùng, tưởng là không có trùng, hai trường hợp này không phạm. Hiện nay nói có trùng, tưởng là không có trùng cũng phạm là muốn cho người học giới quán sát kỹ lưỡng, không nên cẩu thả trong việc sử dụng nước và thảo mộc.
Có ưu bà tắc xây nhà mới, đang đứng trên nóc, lỡ làm rớt cây đòn dong xuống đầu một người thợ khiến cho người này bị chết. Ưu bà tắc sinh nghi, không biết là tội giết người ấy có thể sám hối được hay không, bèn đến hỏi Phật. Ngài nói: “Không có tội.” (Ưu bà tắc vốn không có tâm sát hại). Lại có ưu bà tắc đưa cây kèo lên mái nhà, nhưng vì sức yếu, không kham nổi, cây kèo rớt xuống ngay đầu một người thợ mộc khiến cho người này bị chết ngay lập tức. Ưu bà tắc sinh nghi bèn đến hỏi Phật, ngài nói: “Không có tội. Nhưng từ nay trở đi, làm việc phải nên cẩn thận. Đừng làm cho người khác bị chết.”
Lại có ưu bà tắc đang làm việc trên nóc nhà, thấy trong bùn có bò cạp, bèn hoảng kinh nhảy xuống, rớt ngay trên đầu một người thợ mộc, khiến cho người này bị chết ngay lập tức. Ưu bà tắc sinh nghi, bèn đến hỏi Phật. Ngài nói: “Không có tội. Nhưng từ nay nên cẩn thận, chớ để chết người.”
Lại có một ưu bà tắc, trời tối đi vào đường nguy hiểm, gặp phải bọn cướp. Bị bọn cướp định bắt lấy, ưu bà tắc bèn chạy trốn, bất chợt bị trợt xuống triền núi, rớt ngay trên đầu một người thợ dệt, khiến người này chết ngay lập tức. Ưu bà tắc sinh nghi bèn hỏi Phật. Ngài nói: “Không có tội.”
Lại có một ưu bà tắc lăn đá trên triền núi. Đá lăn xuống làm chết người. Ưu bà tắc sinh nghi bèn hỏi Phật. Ngài nói: “Không có tội. Nhưng đang lúc muốn lăn đá phải hô lớn: ‘Đá lăn xuống’, để mọi người biết mà tránh.”
Có một người bị ung nhọt chưa muồi. Ưu bà tắc giúp người đó phá mụt nhọt, nhưng lại khiến cho họ bị chết. Ưu bà tắc sinh nghi bèn hỏi Phật, ngài nói: “Ung nhọt chưa muồi, nếu phá mà khiến người bệnh bị chết, thì bị phạm tội bậc trung, có thể sám hối; (Tuy không có tâm sát hại, nhưng có lý do để đưa đến sự chết, cho nên bị phạm tội); nếu như mụt nhọt đã muồi, nhưng phá mụt nhọt lại khiến cho người bệnh bị chết, thì không có tội (Nhọt đã muồi, đáng lý thì phải nên phá).”
Có một đứa bé đang nô đùa, ưu bà tắc bắt lại chọc lét cho nó cười to lên, nhưng đứa bé lại nhân đó mà bị chết. Ưu bà tắc sinh nghi bèn hỏi Phật. Ngài nói: “Vì đùa giởn nên không bị phạm tội giết người, nhưng từ nay không nên chọt lét cho người khác cười (Không nên, nghĩa là bị phạm tội nhẹ, có thể sám hối).”
Có một người ngồi, lấy áo trùm kín đầu. Ưu bà tắc bảo đứng lên. Người ấy nói: “Đừng gọi tôi. Nếu tôi đứng lên sẽ bị chết.” Ưu bà tắc lại bảo người đó đứng lên. Người đó đứng lên bèn bị chết. Ưu bà tắc sinh nghi bèn hỏi Phật. Ngài nói: “Phạm tội bậc trung, có thể sám hối (Gọi lần thứ nhất, không tội; gọi lần thứ hai, phạm tội bậc trung).”
2. GIỚI TRỘM.
Phật bảo các tỳ kheo: “Ưu bà tắc dùng ba cách lấy trộm vật quý của người khác, bị phạm tội không thể sám hối: một là dùng tâm, hai là dùng thân, ba là đồ vật bị dời khỏi bổn xứ. Dùng tâm, nghĩa là khởi tâm đắn đo, muốn làm việc trộm cắp. Dùng thân, nghĩa là dùng các chi phần của thân thể để trộm lấy đồ vật của người khác. Bị dời khỏi bổn xứ, nghĩa là đồ vật bị di chuyển ra khỏi vị trí ban đầu của nó.
Chú thích: Giới trộm có sáu duyên trở thành tội không thể sám hối: (1) vật của kẻ khác, (2) biết là vật của kẻ khác, (3) có tâm trộm cắp, (4) khởi phương tiện để trộm cắp, (5) vật trị giá năm tiền (Ở Tây Vực, một đại tiền trị giá mười sáu tiểu tiền ở Trung quốc. Năm tiền trị giá tám mươi tiểu tiền. Luật Nhiếp nói: Năm ma sái, mỗi ma sái trị giá tám mươi bối xỉ, như vậy năm ma sái trị giá bốn trăm bối xỉ. Ở Vân Nam, năm bối xỉ bằng một chỉ bạc, như vậy năm ma sái (năm tiền) trị giá tám lượng bạc). (6) Vật lìa bổn xứ. Hiện nay nói trộm vật quý của kẻ khác, tức là ba duyên: đó là vật của kẻ khác, mình biết rõ đó là vật của kẻ khác, trị giá năm tiền. Dùng tâm, tức là tâm trộm cắp. Dùng thân tức là khởi phương tiện để lấy trộm. Lìa bổn xứ tức là duyên thứ sáu. Nếu sáu duyên đầy đủ thì mất giới thể vô tác. “Lại có ba cách lấy trộm vật quý của người khác, bị phạm tội không thể sám hối: một là tự mình lấy, hai là bảo người khác lấy, ba là sai khiến người khác đi lấy. (1) Tự mình lấy, nghĩa là tự mình dùng tay nhấc vật quý ra khỏi bổn xứ. (2) Bảo người khác lấy, nghĩa là nói với người khác: ‘Trộm lấy vật đó.” Người đó nghe xong bèn trộm lấy vật đó, dời khỏi bổn xứ. (3) Sai khiến người khác đi lấy, nghĩa là nói với người khác: ‘Ông có biết chỗ của vật quý đó không?’ Người đó trả lời: ‘Biết chỗ.’ Bèn sai họ đến chỗ đó trộm lấy vật quý, và dời vật đó ra khỏi bổn xứ.
Chú thích: Ba loại trộm cắp này chỉ là dùng phương tiện khác biệt. Đều phải đầy đủ sáu duyên thì trở thành tội nặng.
Lại có năm cách lấy trộm vật quý, bị phạm tội không thể sám hối: một là tha thiết muốn lấy, hai là lấy với thái độ khinh mạn, ba là lấy bằng cách mạo danh người khác, bốn là lấy bằng cách cưỡng đoạt, năm là chiếm đoạt đồ của người khác gửi cho mình.
Chú thích: Sáu loại trộm cắp này lại cũng chỉ là phương tiện khác biệt. Đều phải đầy đủ sáu duyên thì trở thành tội nặng.
Vật quý tức là vật trị giá năm tiền trở lên, nếu lấy trộm thì bị phạm tội không thể sám hối.
Chú thích: Ở đây chính tức giải thích món đồ trị giá năm tiền trở lên thì gọi là vật quý. Bất luận là vật gì, hễ trị giá tám lượng bạc trở lên, lìa khỏi bổn xứ thì phạm tội không thể sám hối.
Nếu ưu bà tắc biết người khác có năm thứ báu, hoặc tương tự như năm thứ báu, rồi dùng tâm trộm cắp soạn riêng ra, nhưng nếu chưa dời khỏi bổn xứ, thì bị phạm tội có thể sám hối (Chưa đủ sáu duyên, chỉ phạm tội phương tiện). Nếu soạn riêng ra xong, di chuyển vật ra khỏi bổn xứ, nếu số lượng vật trị giá năm tiền, thì bị phạm tội không thể sám hối (Đã đầy đủ sáu duyên liền mất giới thể, bất luận đã tiêu dùng, hoặc chưa tiêu dùng).
Chú thích: Năm thứ báu là vàng, bạc, đồng, sắt và thiếc. Tương tự, nghĩa là giống. Dùng vàng bạc làm thành các món vật khác, gọi là giống vật báu. Nếu chưa thành khí cụ, thì vàng bạc, v.v…, gọi là sinh báu. Cho nên nói “sinh tượng kim ngân bảo vật”, nghĩa là (1) các loại kim ngân, v.v…, chưa được làm thành vật dụng, và (2) các loại kim ngân, v.v…, đã được làm thành vật dụng. Hoặc nói bảy báu, v.v…., có thể chuẩn theo đây mà biết.
Lìa khỏi bổn xứ, như khi dệt vải, hứa với người loại chỉ này, nhưng lại dệt loại chỉ khác, gọi là lìa bổn xứ; hoặc da, hoặc áo, dùng đúng màu gọi là bổn xứ, hễ dùng màu khác thì gọi là lìa bổn xứ; hoặc mền lông, một lớp lông gọi là bổn xứ, một màu gọi là bổn xứ, [khác lông], khác màu gọi là lìa bổn xứ. Đây gọi là các xứ.
Chú thích: Chẳng hạn, như mền lông, vật của mình dệt một lớp lông, vật của người khác dệt hai lớp lông, hoặc vật của mình thì màu này, vật của người khác thì màu khác. Hiện nay, đem vật của người khác đổi hai lớp lông thành một lớp, đem màu của vật người khác đổi thành màu của vật mình, khiến cho họ tưởng là đồ vật đã mất, cho nên gọi là lìa bổn xứ. Nếu như đủ sáu duyên sẽ phạm tội không thể sám hối.
Nếu cư sĩ gánh vật mướn cho người, rồi dùng tâm trộm đổi từ vai trái để qua vai phải, tay phải để qua tay trái, những thân phần như thế, gọi là lìa bổn xứ. Xe thì bánh, trục, đòn ngang xe. Thuyền thì hai bánh lái trước, sau. Nhà thì kèo cột rui mè, đòn tay bốn góc và xung quanh, đều gọi là bổn xứ. Nếu dùng tâm trộm dời vật để ở chỗ khác, thì đều phạm tội không thể sám hối.
Chú thích: Đổi từ vai trái sang vai phải, cũng giống như phần trên. Thế nhưng, nếu không có tâm trộm cắp, thì dù chuyển đồ vật từ vai này sang vai kia, lẽ nào lại có tội?
Trộm vật trong nước tức là người ta chặt cây rồi thả trôi theo dòng, cư sĩ lấy bằng tâm trộm thì phạm tội không thể sám hối. Nếu có tâm trộm nắm cây khiến cho ngừng lại, sau đó thả trôi đến phía trước (gọi là lìa bổn xứ), hoặc đem tâm trộm nhận chìm xuống đáy sông (cũng gọi là lìa bổn xứ), hoặc lúc dời cây ra khỏi nước (cũng gọi là lìa bổn xứ), đều phạm tội không thể sám hối.
Lại như có chủ nuôi chim trong ao, cư sĩ dùng tâm trộm nhận chìm xuống nước, thì phạm tội có thể sám hối (vì chưa lìa bổn xứ). Nếu như đem ra khỏi ao (lìa bổn xứ), thì phạm tội không thể sám hối. Hoặc nhà người khác nuôi chim bay vào trong ao không chủ, cư sĩ dùng tâm trộm bắt đem ra khỏi ao (lìa bổn xứ), nhẫn đến nhận chìm xuống đáy (lìa bổn xứ), đều phạm tội không thể sám hối.
Lại như, nhà của cư sĩ, trên lầu có để các món trang sức, các loài chim có chủ, đến ngậm các món trang sức bay đi, cư sĩ dùng tâm trộm đoạt lấy chim này, thì phạm tội không thể sám hối (đầy đủ sáu duyên).
Nếu thấy chim ngậm báu vật bay đi, dùng tâm trộm từ xa trông đợi, thì phạm tội bậc trung có thể sám hối (phạm tội phương tiện). Nếu dùng chú lực khiến cho chim kia tùy ý đi đến chỗ theo ý mình mong muốn, thì phạm tội không thể sám hối (đầy đủ sáu duyên). Nếu đến các chỗ khác thì phạm tội có thể sám hối (phạm tội phương tiện).
Nếu có chim hoang dã ngậm vật báu bay đi, cư sĩ đem tâm trộm đoạt lấy báu vật của chim ấy, phạm tội trung có thể sám hối (tuy không phải là vật có chủ, nhưng từ tâm trộm cắp mà kết tội), còn như chờ chim hoang dã bay đến thì phạm tội nhẹ có thể sám hối.
Lại nữa, có chim hoang dã, ngậm báu vật bay ngang, một con chim có chủ đoạt lấy vật của con chim hoang dã, cư sĩ lại đem tâm trộm đoạt lấy báu vật của chim có chủ, phạm tội không thể sám hối (đầy đủ sáu duyên; đây là từ phía chủ con chim mà kết tội). Còn như chờ chim bay đến thì phạm tội bậc trung có thể sám hối (phạm tội phương tiện). Ngoài ra như đã nói ở trên. Lại nữa, như các loài chim có chủ ngậm báu vật bay đi bị chim hoang đoạt (vật trở thành vô chủ), cư sĩ đem tâm trộm đoạt lấy vật của chim hoang, phạm tội bậc trung có thể sám hối (từ tâm trộm cắp kết tội). Lúc chờ đợi cũng phạm tội trung có thể sám hối (chuẩn phần trên, e chữ ‘trung’ là sai, nếu không phần trên cũng phải là tội trung có thể sám hối). Ngoài ra cũng giống như trên.
Nếu có cư sĩ chơi bài, dùng tâm trộm cắp chuyển đổi quân bài để thắng, khi thắng được năm tiền thì phạm tội không thể sám hối.
Chú thích: Căn cứ Ưu Bà Tắc Giới Kinh (Tại Gia Bồ Tát Giới) và Phạm Võng Bồ Tát Giới Kinh, nếu ưu bà tắc bài bạc, v.v…, đều phạm vào tội khinh cấu. Nay chỉ mới thọ năm giới, cho nên cho không kết tội (bài bạc), thế nhưng, chuyển đổi quân bài để thắng người khác, toàn là do tâm trộm cắp phát khởi, cho nên phạm giới trọng.
Nếu hàng cư sĩ dùng tâm trộm lấy Xá Lợi phạm tội bậc trung có thể sám hối (không thể tính giá trị), nếu dùng tâm cung kính mà nghĩ rằng Phật cũng là thầy ta, đem tâm thanh tịnh mà đoạt lấy thì không phạm.
Nếu hàng cư sĩ đem tâm trộm lấy kinh, phạm tội không thể sám hối, nhưng phải tính ra giá trị của kinh mà phân định tội nặng nhẹ (Nếu trị giá của kinh trên năm tiền, phạm tội không thể sám hối; nếu giá trị dưới năm tiền, phạm tội có thể sám hối).
Nói đến trộm ruộng thì có hai nhân duyên đoạt ruộng người khác, một là dùng lời nói (cáo trạng kiện tụng ở quan phủ), hai là dùng hành động (lập hàng rào hạn định ranh giới). Nếu có cư sĩ vì muốn chiếm đất, cho nên kiện tụng, hoặc dời đổi ranh giới để lấn đoạt, nếu lấn đất trị giá năm tiền [trở lên], phạm tội không thể sám hối.
Có các cư sĩ đáng lý phải nộp thuế nhưng trốn không nộp, nếu quá năm tiền phạm tội không thể sám hối. Lại có cư sĩ mang vật đi ngang trạm quan thuế, nói với các cư sĩ khác: “Các vị mang dùm tôi vật này qua hải quan, tôi sẽ cho các vị nửa tiền thuế.” Nếu các cư sĩ nhận lời cầm qua, tiền thuế của vật đó giá năm tiền, phạm tội không thể sám hối.
Nếu cư sĩ chỉ cho người khác đi con đường khác để trốn thuế, tiền thuế của vật mang qua trị giá năm tiền, phạm tội bậc trung có thể sám hối. Nếu chỗ quan thuế có nạn giặc, ác thú hoặc nạn đói khát, mà chỉ bày con đường khác, nhằm để tránh khỏi nạn nguy hại này thì không phạm.
Lại có cư sĩ âm mưu với thổ tặc cướp phá các thôn xóm, được tài sản rồi cùng nhau phân chia, cư sĩ được chia phần trị giá năm tiền, phạm tội không thể sám hối.
Trộm chúng sanh không chân, chẳng hạn, cư sĩ thấy người hớt lăng quăng đổ vào bình của họ, sau đó lén trút qua bình mình, thì phạm tội không thể sám hối. Sự phân loại [các loài không chân khác] cũng giống như trên.
Trộm chúng sanh hai chân, ba chân, chẳng hạn như [trộm] người và các loài chim thiên nga, nhạn, anh vũ, v.v… Các loài chim bị nhốt ở trong lồng, nếu đem tâm trộm mà lấy thì phạm tội không thể sám hối. Ngoài ra như trên đã giải thích. Trộm người có hai cách, một là vác đi, hai là cùng hẹn. Nếu cư sĩ đem tâm trộm vác người ở trên vai, hai chân người ấy hỏng đất, phạm tội không thể sám hối. Nếu như cùng hẹn, hễ [người đó] đi quá hai bước, phạm tội không thể sám hối. Ngoài ra đều giống như đã nói ở trên.
Trộm loài vật bốn chân, như voi, ngựa, bò, dê, v.v…, thuộc sở hữu của người khác. Người chủ đã lấy dây buộc vào một chỗ cố định, cư sĩ dùng tâm trộm dẫn đi, hễ mỗi chân con vật vừa bước hai bước, phạm tội không thể sám hối. Nếu con vật nằm ở một nơi, đem tâm trộm xua con vật đi, vật đứng dậy, mỗi chân vừa bước hai bước, phạm tội không thể sám hối. Loài nhiều chân cũng giống như vậy.
Con vật ở phía trong hàng rào, hoặc bên trong bờ tường, nếu đem tâm trộm mà xua con vật ra ngoài, nếu con vật rời khỏi đàn, mỗi chân bước hai bước, phạm tội không thể sám hối. Những trường hợp khác như đã nói ở trên.
Nếu con vật đang được thả ở ngoài đồng, cư sĩ đem tâm trộm nghĩ rằng: “Khi người chăn đi vào trong rừng ta sẽ trộm lấy.” Vừa khởi ý niệm như thế, phạm tội bậc trung có thể sám hối.
Nếu giết con vật, phạm tội sát sanh. Giết rồi lấy thịt [bán hoặc ăn], trị giá khoảng năm tiền, phạm tội không thể sám hối.
Có bảy trường hợp: (1) Biết không phải vật của mình, (2) người chủ không đồng ý cho, (3) không phải mượn dùng tạm, (4) biết đó là vật có chủ, (5) tâm không cuồng, (6) tâm không loạn, (7) tâm không mê mờ. Trong bảy trường hợp này, trộm lấy trọng vật (năm tiền trở lên), phạm tội không thể sám hối. Nếu trộm khinh vật (bốn tiền trở xuống), phạm tội có thể sám hối.
Lại có bảy trường hợp: (1) tưởng đồ vật là của mình, (2) người chủ đồng ý [cho], (3) mượn dùng tạm, (4) vật không có chủ, (5) tâm cuồng, (6) tâm loạn, (7) tâm mê mờ. Trong bảy trường hợp này, lấy đồ vật không phạm.
Có một cư sĩ trồng củ cải. Có một người đến nói với cư sĩ: “Cho tôi củ cải.” Cư sĩ hỏi: “Ông có tiền không, hay chỉ đến xin?” Đáp: “Tôi không có tiền.” Cư sĩ nói: “Nếu cần củ cải thì cầm tiền đến. Nếu đem cho không thì tôi lấy gì mà ăn.” Người đó hỏi: “Ông nhất định không cho tôi sao?” Chủ bảo: “Tôi làm sao cho ông được?” Người đó bèn dùng chú thuật khiến cho củ cải chết khô. Sau khi trở về, người đó sanh nghi, không biết phạm tội có thể sám hối không, bèn đi đến bạch Phật. Phật dạy: “Tính giá trị xem có thể hay không thể sám hối.” [Trị giá của] nhánh, lá, hoa, quả cũng giống như rễ.
Có một người đang cày ruộng ở gần rừng Kỳ Hoàn, cởi áo để trên bờ ruộng. Bấy giờ, có cư sĩ đi ngang qua thấy áo, nhìn xung quanh không có ai hết, bèn lấy áo mang đi. Khi ấy, người cày ruộng từ xa thấy, nói với cư sĩ rằng: “Đừng lấy áo tôi.” Cư sĩ không nghe, cho rằng áo đó vô chủ nên vẫn mang đi. Người cày ruộng liền đuổi theo chụp vai cư sĩ, nói rằng: “Phép của ông là lấy của không cho ư?” Cư sĩ đáp: “Tôi nghĩ rằng áo nầy không chủ nên mới lấy thôi, đâu phải phép của tôi như thế.” Người cày ruộng nói: “Đây là áo của tôi.” Cư sĩ bảo: “Nếu là áo của ông, thì nên lấy lại.” Cư sĩ sanh nghi: “Không biết có phạm tội có thể sám hối, hay không thể sám hối?” Liền đến chỗ Phật để thưa hỏi việc ấy. Phật biết nhưng vẫn hỏi: “Ông đem tâm nào để lấy?” Cư sĩ bạch Phật: “Con cho là không có chủ.” Phật dạy: “Không phạm, nhưng từ nay về sau lấy vật phải khéo suy xét: có khi vật tuy không có người giữ nhưng thật đã có chủ?” Nếu khởi tâm muốn trộm, chưa lấy thì phạm tội bậc hạ có thể sám hối, trộm vật giá dưới năm tiền thì phạm tội bậc trung có thể sám hối, trộm vật giá năm tiền thì phạm tội không thể sám hối.
Chú thích: Muốn trộm nhưng chưa lấy phạm tội bậc hạ có thể sám hối, đây là tội phương tiện xa. Lấy nhưng chia lìa bổn xứ phạm tội bậc trung có thể sám hối, đây là tội phương tiện gần. Giới văn giảm bớt, không đề cập đến. Trộm vật trị giá chưa đến năm tiền phạm tội bậc trung có thể sám hối, chưa mất giới thể. Vật trị giá năm tiền phạm tội không thể sám hối, đã mất giới thể. Nếu mất giới thể, cần phải tu pháp thủ tướng sám hối, giống như trong phần giới sát có đề cập đến. Tất cả tánh tội thế gian, khi trả quả báo đã đủ thì nghiệp tự tiêu mất, so ra, chỉ hơi nhẹ hơn tội sát sanh.
3. GIỚI DÂM.
Phật bảo các tỳ kheo: “Ưu bà tắc không nên sanh dục tưởng, dục giác. Còn không nên khởi tâm, huống chi khởi tâm tham dục, sân hận, si mê, ràng buộc căn bổn nghiệp ác bất tịnh.”
Chú thích: Đối với cảnh giới ái dục, an lập danh ngôn, gọi là dục tưởng; đối với cảnh giới ái dục, bổng nhiên khởi tâm tìm tòi, gọi là dục giác. Vì không toại lòng tham dục nên khởi tâm sân. Tham dục và sân khuể đều nương vào tâm si mê. Ba độc đã đầy đủ, ắt sẽ trở thành cội gốc cho tất cả sự trói buộc. Đi ngược với đạo hạnh thanh tịnh, có thể chiêu cảm khổ báo đời này đời sau, cho nên gọi là ác nghiệp bất tịnh.
Trong đây, đối tượng phạm tội tà dâm có bốn: nam, nữ, huỳnh môn, hai căn.
Nữ tức là người nữ, phi nhơn nữ, súc sanh cái. Nam là người nam, phi nhơn nam, súc sanh đực. Huỳnh môn, hai căn cũng giống như trên.
Nếu ưu bà tắc cùng với người nữ, phi nhơn nữ, súc sanh cái, hành dâm ở ba chỗ, phạm tội không thể sám hối. Nếu [ưu bà tắc] cùng người nam, phi nhơn nam, súc sanh đực, huỳnh môn, hai căn, hành dâm ở hai chỗ, phạm tội không thể sám hối. Nếu khởi tâm muốn hành dâm, nhưng chưa giao hợp, phạm tội bậc hạ có thể sám hối (tội phương tiện xa). Nếu hai thân đã giao tiếp, nhưng ngừng lại không giao hợp, phạm tội bậc trung có thể sám hối (tội phương tiện gần).
Chú thích: Giới dâm có ba duyên thành phạm tội không thể sám hối: (1) có tâm dâm, nghĩa là giống như người đói được thức ăn, như người khát được nước uống, không phải giống như có cảm tưởng bị sắt nóng đút vào thân, bị quàng xác chết sình thối vào cổ, v.v…; (2) là đường chính, tức là phần dưới nói rõ ba chỗ (nữ căn, miệng và hậu môn); (3) sự việc thành tựu, nghĩa là đưa vào độ sâu chỉ khoảng hạt mè, thì liền mất giới thể.
Nếu ưu bà tắc hành dâm với tớ
cho an hòa hỏi thăm thêm, khi mình tụng kinh vì nhà không có ghế để kinh nên mình để trên một cái cặp sách và nằm trên đất (tức là kinh nằm trên cặp sách, cặp sách nằm trên đất thì như vậy có đúng không và phải làm như thế nào mới đúng; an hòa niệm phật trong phòng ngủ phát ra tiếng thì có được không, phòng ngủ một bên là niệm còn khoảng trống khoảng 2m, an hòa ngồi chỗ trống này mà niệm phật ra tiếng, như vậy có được không cư sĩ
Kính chào bạn An Hòa,
Bạn đến những cửa hàng bán kinh, đĩa cd,.. Phật pháp tìm loại kệ nhỏ, có thể xếp lại được, được sử dụng cho việc đặt kinh lên đó khi đọc tụng trong chùa. Hoặc tìm mua loại bàn thấp nhỏ, có thể gấp lại được cho sinh viên. Như vậy sẽ trang nghiêm.
Trong phòng ngủ không nên niệm Phật ra tiếng ngoại trừ trường hợp đặc biệt như: mình đang hấp hối, hoặc gặp nguy hiểm, hoặc niệm cho người hấp hối, người bệnh nghe. Nếu sợ bị hôn trầm, bạn có thể dùng cách niệm nhép môi nhưng không ra tiếng nhé.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Như mình bán thuốc hút thì có phạm gì không, như mình còn bán thuốc bị cấm như zét và herô thì có phạm tội không, xin cám ơn
Đang ăn mặn mà niêm phật thầm có được không
Kính chào bạn An Hòa,
PH xin chia sẻ vài điểm cơ bản mà dựa trên đó bạn có thể tự mình đánh giá một vấn đề.
– Chúng ta gieo nhân ở trên ba nghiệp: thân, khẩu, ý.
– Thiện/bất thiện: một việc thiện là việc làm có lợi cho chúng sanh, có lợi cho mình; bất thiện là một việc làm có hại cho chúng sanh, có hại cho mình. Nếu một việc làm có hại cho chúng sanh mà có lợi cho mình thì cũng là bất thiện. Nếu một việc làm có lợi cho chúng sanh mà có hại cho mình thì cũng tính là thiện.
– Khi xét đến lợi, hại cũng cần phải nhìn nhận cho thấu đáo, sâu xa chứ không chỉ ở trên bề mặt của sự kiện.
Như vậy, chắc bạn đã có thể tự đánh giá được sự lợi/hại, thiện/bất thiện của việc bán thuốc lá, và bán thuốc lá lậu.
Đang ăn mặn mà niệm Phật thầm vẫn được. Các việc ăn chay, mặn thì chúng ta tùy duyên, từ từ thu xếp, nhưng việc niệm Phật thì phải làm ngay và niệm càng nhiều càng tốt bạn nhé.
Nam Mô A Di Đà Phật.
như mình có rượu trong người mà mình tụng kinh niệm phật vậy có được không và làm như vậy có xem là không cung kính với phật không, mình sỉn mình tụng kinh niệm phật thầm được không, xin cám ơn
Kính chào bạn An Hòa,
Trong người có rượu thì không nên đọc kinh vì thiếu cung kính. Ngoài ra, khi ấy tâm đang loạn động, cũng không thể tập trung nghe, và hiểu nghĩa kinh, nên việc đọc kinh lúc đó chỉ mang tính hình thức, chưa kể có thể còn khởi tâm phỉ báng.
PH không khuyến khích nhậu xỉn rồi niệm Phật thầm, tuy nhiên niệm Phật thầm dù sao vẫn tốt hơn là “niệm” các thứ khác như nhà cửa, tiền bạc,..
Sở dĩ người tu theo Phật có thể dần dần được an vui là vì có giữ giới, sống đúng theo pháp Phật dạy. Nếu tu chỉ có đọc kinh, niệm Phật mà không sửa đổi những tập khí xấu thì lúc đó các việc đọc kinh, niệm Phật chỉ mang tính gieo duyên; và sự an vui, giải thoát do học Phật sẽ rất xa vời vì đã không thực hành đúng pháp.
Chúc bạn tỉnh giác.
Nam Mô A Di Đà Phật.
như mình niệm phật xong mình thu âm tiếng niệm phật của mình, sau đó đến thời khóa công phu mình bắt lên mình nghe 50%, và mình niệm bằng khẩu 50%, thì có được tính là mình niệm phật không cư sĩ (phần mình nghe 50% đó), xin cám ơn
Kính chào bạn An Hòa,
Ví dụ mình bật máy niệm Phật cả ngày rồi nói là mình đã niệm Phật cả ngày sao? Cho nên không thể tính là mình niệm được.
Tuy nhiên, nghe niệm Phật rất có lợi ích, đặc biệt là khi mình lắng lòng ngồi nghe. Đó là mình đang huân tập tiếng niệm Phật vào tạng thức, mà điều này thì rất tốt và cần thiết cho người tu niệm Phật.
Ngoài thời khoá niệm Phật, bạn hãy mở máy nghe niệm Phật những lúc không cần tập trung tâm trí nhiều như: ngủ, chạy xe, làm việc nhà,…càng nhiều càng tốt, cách này tuy không hiệu quả bằng khi lắng lòng ngồi nghe nhưng lâu ngày sẽ huân tập một lượng không nhỏ câu Phật hiệu vào tạng thức.
Nam Mô A Di Đà Phật.
minh nghe nói, một ngày tiêu chuẩn 1000 câu phật, niệm phải tai nghe rõ ràng, niệm từ từ, có phải không cư sĩ, làm sao để phát nguyện được tha thiết, nếu mình thu lại tiếng niệm phật của mình, sau đó thì phát lại cho mình nghe, mỗi lúc mọi nơi thì có đi đến nhất tâm không; sao trong lòng vẫn còn tính dâm và tính sân, mong cư sĩ chỉ cho cách khắc phục; với lại khi mình bố thí hay phóng sanh thì mình ít có tiếc, như đồ vật của mình mà người ta xin, mình cho thì mình thấy tiếc, như vậy là sao cư sĩ, xin cám ơn
Kính chào bạn An Hòa,
– Tiêu chuẩn ngày 1000 câu: tùy vào thời gian biểu của mỗi người, nếu bạn có thời gian rảnh nhiều thì nên niệm càng nhiều càng tốt.
– Đúng, khi niệm tai/tâm phải nghe rõ ràng (lắng lòng, tập trung nghe).
– Niệm từ từ: không nhất thiết, phải tùy theo tình huống. Ví dụ, người niệm nhanh quá không nghe rõ thì cần niệm từ từ; người niệm từ từ chậm quá có khi dễ bị hôn trầm thì cần phải niệm nhanh hơn một chút. Quan trọng là lúc niệm tinh thần phải hứng khởi nhưng cũng không nên quá kỳ vọng, cầu đạt được được nhất tâm hay gì khác, cũng không nên quá phấn chấn. Niệm thong thả, mà sáng suốt (tâm theo rõ biết từng âm) là tốt.
– Muốn nguyện tha thiết thì cần thật sự biết và hiểu rằng cái chết sẽ đến với mình bất kỳ lúc nào.
– Nhất tâm: tùy thuộc vào sự tinh tấn và thiện căn của mỗi chúng sanh. Có người làm như vậy trong một khoảng thời gian thì được, có người làm cả đời vẫn không được. Đó là tùy vào sự huân tập câu niệm Phật của mỗi chúng sanh có sâu cạn, nhiều ít khác nhau. Tốt nhất bạn hãy đặt mục tiêu phấn đấu là niệm Phật và nghe câu niệm Phật xuyên suốt mỗi ngày, từ đây cho đến lúc lìa đời.
– Dâm là tham ái dục. Với đa phần phàm phu chúng ta, chỉ có thể làm bớt tham, sân, si chứ chưa thể diệt được hoàn toàn. Nếu bạn có thể tập trung hoàn toàn niệm Phật, ví dụ 1000 câu liên tục, hoàn toàn không có vọng niệm, mỗi ngày như vậy thì chắc chắn tham, sân, si giảm đi thấy rõ. Bạn cần theo dõi tâm mình càng sát sao càng tốt, khi niệm dâm, niệm sân nổi lên thì niệm Phật ngay lúc đó cho nhiều. Bạn hãy thường quán (ngẫm nghĩ sâu sắc) “thân này bất tịnh” thì sẽ bớt ái dục.
– Đồ vật đang xài, nghĩa là đồ đó bạn còn cần, bạn chưa sẵn sàng cho đi. Còn bố thí, phóng sanh thì bạn đã sẵn sàng cho đi số tiền đó cho nên không thấy tiếc. Tâm lý như vậy là bình thường. Bạn có thể cho đi đồ mà bạn vẫn còn đang xài là rất tốt. Khi bạn cho đi, dù vẫn còn tiếc, nhưng như vậy là bạn đang tập cho mình bớt đi tính bỏn xẻn, làm giảm tập khí Tham. Tuy nhiên, với đồ vật có giá trị lớn, bạn cần có sự đồng tình của người thân khi cho để tránh dẫn đến sự không hoà hợp trong gia đình vì không phải ai cũng sẳn sàng cho đi.
Nam Mô A Di Đà Phật.
cho an hòa hỏi thăm, sao mình niệm phật mà tối vẫn nằm mơ thấy những tình huống đời thường, mà chưa thấy những hình ảnh tốt (như phật a di đà và thấy cảnh đẹp, như vậy là mình niệm phật chưa hiệu quả, tình huống như vậy là như thế nào cư sĩ; nghe nói nếu mình trì niệm bằng ý mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 60 phút, làm như vậy trong 1 tuần thì đạt bất niệm tự niệm phải không, trì niệm bằng ý niệm khác niệm thầm ở chỗ nào vậy cư sĩ, xin cám ơn
Kính chào bạn An Hòa,
Dù mong muốn được thấy hình ảnh tốt trong mơ là tâm lý bình thường nhưng nhưng lại là điều không nên đối với người tu học Phật. Thông thường, mơ là sự hiện hành của những chủng từ từ tạng thức. Mỗi ngày bạn chỉ niệm một số ít câu Phật hiệu (mà chỉ rất ít trong số đó là có chất lượng) còn lại phần lớn thời gian là huân tập hiệu quả các chủng tử tham, sân, si,…thì làm sao tàng thức có đủ chủng tử Phật hiệu để mà có thể thấy hình ảnh tốt này nọ trong mơ?
PH nghĩ bạn không mơ thấy hình ảnh tốt là điều may mắn cho sự tu tập của bạn, bởi vì vì tâm bạn còn quá vọng động, chưa có chút thanh tịnh nào, nếu thấy được hình ảnh tốt, lại mê đắm vào đó, cho là thật, cho là mình có chút công phu, như vậy chẳng sớm thì muộn sẽ lạc vào ma đạo. Bạn nên tập cho mình có tâm khiêm cung và bình tĩnh. “Khiêm cung” để biết rằng tâm mình còn quá nhiều ô uế, ba nghiệp thân, khẩu, ý đầy dẫy tập khí xấu, nên sẽ tập trung cố gắng tu tập chứ không quá trông mong vào “thành quả”. Tuy nhiên, khi bạn thật sự tu tập tinh tấn thì thành quả sẽ đến dù không trông mong. “Bình tĩnh” là để trong trường hợp có gặp những hình ảnh tốt đẹp trong mơ , hoặc có những cảm ứng tốt lành thì tâm không bị dao động, không tham đắm vào đó mà hiểu rõ rằng chỉ vì có một thời điểm tâm được chút thanh tịnh cho nên được chút tương ưng, và đó chẳng là gì cả, chẳng phải là chứng đắc quả vị gì hết, tâm bình tĩnh được như vậy mới mong không lạc vào ma đạo.
Về câu hỏi “nếu một người thực hành ý trì mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 60 phút trong một tuần thì đạt bất niệm tự niệm”, PH nghĩ tốt nhất bạn hãy tự mình thực hành và tự rút ra kết quả cho mình. Một tuần là thời gian rất ngắn, nhưng để có thể thực hành được ý trì trong vòng 60 phút, không có xen tạp, là một điều vô cùng khó khăn, đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại, nỗ lực rất lớn. Về sự khác nhau giữa ý trì và niệm thầm, bạn hãy tìm đọc quyển Tịnh Độ Thực Hành Vấn Đáp của thầy Thích Minh Tuệ, ở câu 40, thầy có nhắc đến vấn đề này. Nếu vẫn chưa rõ, bạn hãy xem phần thầy chỉ cách ý trì (câu 37), rồi bạn tự mình theo đó mà thực tập, lúc đó bạn sẽ nhận ra sự khác nhau.
Nam Mô A Di Đà Phật.
bản thân có đọc nhưng chưa hiểu lắm giữa ý trì và niệm thầm rất giống nhau, mong cư sĩ giải thích theo sự hiểu của cư sĩ, xin cám ơn
Chào bạn An Hòa,
Ví dụ, PH viết “tôi muốn vãng sanh”. Khi bạn đọc câu đó không ra tiếng, như vậy là bạn đang nói thầm trong lòng, đang lặp lại một câu nói mà PH đã viết. Còn khi bạn khởi nghĩ “tôi muốn vãng sanh”, ” tôi muốn ăn cơm, tôi đói bụng”,…thì dù cũng có nghe tiếng trong tâm như nói thầm, nhưng không phải là nói thầm, mà là bạn đang nghĩ như vậy, đây là Ý nghĩ của bạn, chứ không phải lặp lại một câu nói. Niệm thầm và ý trì Phật hiệu cũng tương tự. Ý trì là thực sự bạn đang nghĩ “A Di Đà Phật”. PH nhận thấy “ý trì” chính là đặt hết tâm ý vào câu Phật hiệu. Và khi dùng ý để niệm thì tâm sẽ rõ biết và không bị hôn trầm hay tán loạn, nếu bị hôn trầm hay tán loạn thì lúc đó mình đã vô tình chuyển qua “niệm thầm” (khẩu trì), không còn dùng ý nữa. Sự khác nhau rất vi tế, bạn hãy thực hành một thời gian thì sẽ phân biệt được. Trong khi niệm thầm, vẫn sẽ có những câu niệm bằng ý, bạn hãy để ý tâm mình thì sẽ phân biệt được.
Nam Mô A Di Đà Phật.
vậy là ý trì là dùng đầu để niệm, còn niệm thầm là dùng miệng để niệm phải không
Chào bạn An Hòa,
Ý trì là dùng ý để niệm, nhưng không trụ ở đầu vì sẽ dễ bị nhức đầu. PH nghĩ bạn hãy thực tập bình thường là niệm Phật (thầm hoặc có tiếng) cho rõ ràng, tâm chú ý nghe rõ, biết rõ, vậy là ổn. Nếu bạn muốn tập “ý trì” theo cách của thầy Thích Minh Tuệ thì bạn hãy thực hành giống như thầy dạy (có hai cách). Khi chưa thực hành, hoặc thực hành quá ít, chắc chắn sẽ có nhiều điểm không hiểu, cho nên bạn hãy thực tập vài tuần xem sao.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật. Kính thưa chư liên hữu đồng tu, vừa qua cô Thu Hương – Trưởng BHN Đà Nẵng có gởi email hỏi Cư sĩ Diệu Âm Minh Trị (Úc Châu) về Vấn đề Niệm Phật đạt Bất niệm tự niệm. Nay Hạnh Phú (Đại Đức Thích Hạnh Phú) kính gởi đến Chư liên hữu đồng tu chúng ta cùng xem, cùng nghiên cứu, và cùng tu tập theo.
(Đây là lá mail mới nhất cư sĩ Diệu Âm trả lời tháng 9/2014. RẤT HAY, RẤT Ý NGHĨA. ĐẠI CHÚNG NÊN ĐỌC).
HỎI:
Kính Anh Diệu Âm.
Tình hình niệm Phật “bất niệm tự niệm đảm bảo vãng sanh” đã gây ảnh hưởng rất lớn… Thật sự quá sức tưởng tượng. Có những người đã tham gia đi hộ niệm thành tựu được bao nhiêu trăm ca… nay cũng bị lôi cuốn.
Họ nói pháp môn mới này rất tốt, chỉ trong vài tuần đạt được tâm an lạc, người khoẻ ra, câu phật liên tục vang bên tai suốt ngày đêm, đạt được bất niệm tự niệm rồi, không cần hộ niệm, không đi hộ niệm nữa. Họ nói rằng Pháp sư Tịnh Không cũng đề xướng pháp môn này. Họ không niệm thành tiếng, không nhép môi. Họ ghi âm tiếng niệm Phật của mình vào thẻ nhớ, gắn vào tai, nghe lại tiếng niêm Phật của mình. Một vài tuần, một vài tháng mà hàng ngàn người được thành tựu…
Kính thưa Anh! Thật sự đây là một thử thách lớn của Tịnh độ… Họ đi từng nhà, gặp từng người để giới thiệu… Không những cư sĩ mà giờ đây có những vị xuất gia cũng tham gia nhiều…
…….
Kính thư.
TRẢ LỜI:
Kính chị Thu Hương,
Những gì cần thiết về pháp hộ niệm hình như Diệu-Âm đã giải bày tường tận. Đó là chánh pháp của Tổ Sư để lại, đúng kinh đúng pháp, chứ không phải Diệu-Âm tự nghĩ ra. Trong thời gian gần đây, phong trào Bất Niệm Tự Niệm làm cho nhiều người lo lắng xôn xao, đã đặt ra khá nhiều câu hỏi. Trong nhiều tọa đàm Diệu-Âm cũng cố gắng y theo lời chư Tổ trong Tịnh-Độ để khuyên nhắc người niệm Phật chớ nên quá hiếu kỳ mà dễ gặp điều sơ suất. Nay trước sự lo âu của chị, Diệu-Âm xin chia sẻ thêm vài điều.
Trong kinh Phật dạy, thời này là mạt pháp có sự đấu tranh kiên cố. Chúng ta là hàng phàm phu tội chướng sâu nặng, muốn đời này được vãng sanh Tịnh-Độ thì phải cố gắng xa rời sự đấu tranh này. Nếu cứ bàn về chuyện đúng sai của thế gian thì chúng ta dễ bị lôi cuốn vào đó mà chịu nạn. Vậy thì, tự mình phải lo gìn giữ tâm thanh tịnh niệm Phật mà cứu lấy mình, không thể thấy người khác dao động mình cũng dao động theo, đừng thấy thiên hạ làm sai mình cứ chen vào sửa sai họ. Tất cả đều do duyên nghiệp của chúng sanh mà thành hình cả. Ta đã gặp được chánh pháp để tu hành thì phải giữ tâm vững vàng, đừng chao đảo. Hãy nhớ lấy nguyên tắc: “Ngoại bất trước tướng, nội bất động tâm” thì mới tu hành yên ổn trong thời này. Chuyện thử thách đến vấn đề hưng suy của pháp môn Tịnh-Độ thì chúng ta hãy cầu Phật Bồ-Tát gia trì, còn phận sự của mình chính là phải biết y giáo theo pháp Phật, y giáo theo lời Tổ tu hành là được.
Sóng triều dâng lên càng cao thì chìm xuống càng sâu. Người biết huân tu thì phải giữ tâm bình lặng, gặp cảnh xấu không buồn, gặp cảnh tốt không mừng thì không bị cảnh chuyển. Không bị cảnh chuyển nghĩa là đường tu không bị lạc. Còn thời mạt pháp này mà người nào cứ háo hức tham đắm vào những cảnh hão huyền, thì ngài Ấn-Quang nói: “Rất dễ bị vướng vào lưới ma”. Vướng vào lưới ma nghĩa là lạc vào tà đạo. Cho nên, nếu tâm ta đã có chủ định rồi, thì bên ngoài chúng sanh làm gì đó mặc họ, mình không nên lo tới, bên trong tâm phải “Tự nhiên nhi nhiên, như như bất động” trước những hiện tượng lạ thì mới tránh khỏi phiền não, tu hành mới thành tựu được.
Nên nhớ, tất cả đều phải tùy duyên, Diệu-Âm luôn luôn giữ nguyên tắc này. Nếu có chút duyên thì đi khuyên người niệm Phật, bày vẽ pháp hộ niệm. Ai có duyên thì nghe, ai không duyên thì cứ để họ theo hướng riêng của họ, còn Diệu-Âm này đã thấy rõ ràng pháp hộ niệm là Đại-Cứu-Tinh cứu độ chúng sanh trong thời mạt pháp này, thì tự mình phải bám chắc cơ hội này mà vãng sanh. Trong khoảng mười năm qua, từ khi người Việt-Nam chúng ta bắt đầu biết áp dụng pháp hộ niệm đã thực sự cứu đến hàng ngàn người ra đi có tướng tốt không thể nghĩ bàn rồi. Chính ban hộ niệm của chị đã trợ duyên thành công cả trên 100 người rồi phải không? Nếu tính chung trong cả nước, đến nay năm 2014, có lẽ hiện tượng vi diệu này xảy ra riêng tại Việt-Nam của chúng ta thôi, cũng không còn cách nào đếm được nữa rồi. Nhất định trong những người ra đi được hộ niệm đã để lại thoại tướng này, một số lớn họ đã thực sự được vãng sanh Tịnh-Độ, phần còn lại, giả như không được vãng sanh, thì ít ra họ cũng được sanh Thiên, đây đâu phải là điều dễ tìm. Năng lực câu Phật hiệu vi diệu không thể nghĩ bàn. Sự lợi ích của pháp hộ niệm cũng không thể nghĩ bàn. Thật quá quý hóa!… Thật quá vi diệu!…
Trong khi trước đó, chính Diệu-Âm này đã bỏ phí đến gần 50 năm trường để lặn lội khắp nơi tìm cơ giải thoát, nhưng tìm mãi vẫn không thấy được một tia lóe hy vọng nào. Nghe đến những triết lý cao kỳ thì quá nhiều, nghe đến những lý luận huyền diệu về cảnh chứng đắc thì quá nhiều, nghe đến những sự cứu rỗi như pháp thần cũng quá nhiều, v.v… và v.v… nhưng sau cùng kiểm lại mới ngỡ ngàng ra một sự thực, đó là con số “0” to tướng!… Tệ hơn, nhiều khi lại là con số âm nữa là khác!… Nói chung, lý luận thì hay quá, còn thành quả thực sự thì mờ mờ mịt mịt!…
Pháp hộ niệm đúng chánh pháp, hợp lý đạo, hợp căn cơ, hợp thời kỳ, hợp hoàn cảnh, đã được ứng dụng có thành quả cụ thể thì ta phải tin tưởng mà y giáo phụng hành để được giải thoát. Người thật sự thận trọng thì không bao giờ vội vã chạy theo những hiện tượng sôi nổi của thế gian, không bao giờ dám nhẹ nhàng gởi huệ mạng của mình cho một lời hứa chưa được kiểm chứng. Thế gian xưa nay thường hứa hẹn đến những sự nghiệp vĩ đại lắm, nhưng rồi thất hứa cũng nhiều lắm. Hy vọng thì tràn trề, nhưng thất vọng cũng não nề, đây là chuyện rất thường xảy ra.
Áp dụng pháp Hộ Niệm do chư Tổ để lại, xác thực đã cứu người vãng sanh quá rõ ràng. Hàng tuần khắp đó đây đều có tin tức vãng sanh. Hộ niệm vãng sanh thực sự đã có chứng minh cụ thể, chứ không còn là lời hứa hẹn suông, không phải là chuyện mơ mộng viễn vông hay niềm hy vọng bấp bênh cho tương lai nữa. Vậy thì, còn gì để chúng ta phải phân vân chao đảo nữa đây?
Đối với liên hữu đồng tu, nếu có sự quan tâm thì hãy khuyên họ rằng, một khi chọn lựa một pháp tu nào để gởi gắm huệ mạng phải cân nhắc hết sức cẩn thận. Gặp một chuyện gì lạ nên bình tĩnh suy xét, tốt nhất nên tìm đến các bậc đạo sư tu hành chân chính cầu chỉ điểm trước khi quyết định thì an tâm hơn. Nếu không có duyên gặp bậc đạo sư, thì hãy thành khẩn đọc kỹ những lời khai thị của chư Tổ trong Tịnh-Độ Tông thì cũng có chỗ nương dựa tốt. Chư Tổ Sư toàn là Phật Bồ-Tát thị hiện, chúng ta phải vững tâm tin tưởng.
Hôm nay vì thấy quá nhiều người lo ngại về chuyện bất niệm tự niệm và đã gạn hỏi quá nhiều, bất đắc dĩ Diệu-Âm phải trả lời, nhưng chỉ xin lấy đại lượt những lời dạy của chư Tổ trong Tịnh-Độ Tông để nhắc nhở nhau thôi, chứ không muốn tự mình phê phán một pháp nào.
Trước hết, chúng ta nên chú ý rằng, lịch đại chư vị Tổ Sư Tịnh-độ từ trước tới nay luôn luôn khuyến cáo người tu hành trong thời mạt pháp này cần chú ý những điểm sau đây:
– Chớ nên hiếu kỳ trước những điều lạ thường.
– Chớ nên tham đắm những sự thần kỳ, đặc dị.
– Chớ nên đam mê những cảnh giới nhiệm mầu.
– Chớ nên mong cầu chứng đắc.
– Chớ nên khoe trương công hạnh của mình.
– Chỉ nên khiêm cung, chí thành niệm Phật cầu vãng sanh là tốt nhất.
Nhất định đây phải là vấn đề vô cùng hệ trọng, nên chư Tổ trăm lời một ý đều cảnh cáo Phật tử đồng tu như vậy. Thời mạt pháp này vàng thau lẫn lộn, nhất thời khó bề phân biệt. Nếu chưa nắm vững được đâu là thực đâu là giả, thì chúng ta nhất định phải kềm chế tánh hiếu kỳ, đừng tham đắm những mối lợi trước mắt mà vội vã gởi huệ mạng vào đó, coi chừng một khi chướng nạn trùng trùng ập đến thì đã quá muộn màng, không còn cách nào giải cứu nữa, oan uổng cho một đời tu hành mà sau cùng lại rước họa vào thân!…
Trước đây có một vị Sư quen biết gởi tặng Diệu-Âm cuốn sách tựa đề “Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm, bảo đảm vãng sanh”. Có lẽ đây là quyển sách chính hướng dẫn về pháp “Bất Niệm Tự Niệm”. Đọc quyển sách đó, Diệu-Âm thấy tác giả có công sưu tập tốt, trích dẫn khá nhiều lời của Phật trong nhiều kinh, cũng như lời của chư Tổ Sư Tịnh-Độ. Điều này rất tốt và rất cần thiết. Nhưng khi đọc đến chỗ người thực hành đạt được cảnh giới bất niệm tự niệm nhanh chóng quá, dễ dàng quá, có người chỉ tu tập vài ngày thì đạt được cảnh giới này đã làm cho Diệu-Âm phải giựt mình!…
Trong đời Diệu-Âm có gặp nhiều người đã khoe ra những cảnh chứng đắc vi diệu lắm, ví dụ như: Họ nghe được tiếng Phật hiệu vang mãi bên tai, thấy được Phật hiện thân hàng ngày, thấy “Phật Bà” Quán-Âm đến khải thị chỉ điểm đường tu hành. Có người thấy được ánh sáng, ngửi được hương thơm. Có người tu chứng được thiên nhĩ thông, có thể nghe được cách xa hàng 100 cây số. Có người được pháp nhĩ căn thanh tịnh có thể nghe và nói chuyện được với chó mèo, đến nỗi nghe được tiếng cây cỏ tâm sự. Có người sau khi được truyền “Tâm-Ấn” thì luôn luôn nghe được Thiên-Nhạc vang vọng cả bầu trời, và họ nói rằng sở dĩ được như vậy là nhờ được truyền thọ một đại pháp có thể tức khắc khai ngộ thành đạo Vô-Thượng. Họ đã gặp Diệu-Âm và kể lại những chuyện thật huyền diệu và họ rất tin tưởng rằng nhất định sẽ được đắc đạo. Nhưng một thời gian sau thì hầu hết hình như đều bị ách nạn, nặng như có người đã treo cổ tự tử chết, té xuống giếng chết, con cái tự tử trong nhà, v.v… Nhẹ thì có người bị trở ngại thần kinh phải vào bệnh viện tâm thần, và nhẹ nhất là mất nhiều trí nhớ, sống hơi lơ lơ láo láo!… Đây là những sự thật chính Diệu-Âm vừa thấy tận mắt, vừa nghe tận tai… Hẳn nhiên, những người bị ách nạn này chưa chắc họ có thực hiện pháp bất niệm tự niệm, nhưng hầu hết đều liên quan đến tâm hiếu kỳ ham mê chứng đắc.
Có lẽ Diệu-Âm không có duyên với cách tu cầu chứng đắc, nên bị dị ứng với cảnh chứng đắc chăng? Nếu quả vậy, thì chắc chắn Diệu-Âm này thuộc hàng hạ căn, trí độn, nghiệp chướng sâu dày rồi. Nhưng khi gặp bạn đồng tu, thì cũng có rất nhiều người nêu ra sự lo âu tương tự. Như vậy quả thật hàng hạ căn trong thời này quá nhiều. Người hạ căn nhiều, thì sẽ có nhiều người không đủ khả năng thực hành các pháp tu nhanh chóng đắc độ… Cũng thật là oan uổng, khả năng thì không đủ, nhưng hiếu kỳ có thừa, vọng tưởng lại dư, ham mê chứng đắc lại mạnh… thành ra ách nạn đang chờ phía trước!…
Trong kinh Phật nói, thời mạt pháp này hàng hạ căn trí độn chiếm phần đa số, còn hàng căn tánh cao thượng thì rất hy hữu. Người thượng căn thượng trí quá hiếm hoi, còn người hạ căn thì nhiều vô lượng. Như vậy làm sao lại có hiện tượng tu chứng quá dễ dàng, quá nhanh chóng và hình như người nào thực hành cũng thoải mái đạt được?… Thật sự lạ lùng!… Với suy nghĩ sơ siển này nên Diệu-Âm lặng thinh, không dám hiếu kỳ, chỉ vì sợ rằng nếu tham đắm vào đó thì mình sẽ bị trở ngại!…
Viết sách, nói pháp thì ai cũng phải trích dẫn lời Phật, lời Tổ, lời chư Cổ-Đức. Nhưng nên nhớ bất cứ một pháp nào cũng có điểm ưu, điểm khuyết, nghĩa là có giới hạn của nó. Một người phát minh ra một pháp tu tập, nếu nhận thức rõ ràng rằng căn tánh chúng sanh rất sai biệt, thì chắc chắn phải thận trọng trong việc phổ biến ra đại chúng. Ấn-Quang đại sư là Đại-Thế-Chí Bồ-Tát tái lai, chẳng lẽ những pháp môn vi diệu, tối thắng, đốn ngộ Ngài không biết sao. Thế nhưng suốt cả đời Ngài chỉ nói những phương cách tu hành căn bản, cụ thể. Ngài chú trọng về tâm chí thành chí kính, chứ không hề nhắc tới các pháp nhanh chóng dễ dàng chứng đắc như một phép mầu. Tại sao vậy? Tại vì Ngài sợ chúng sanh vướng nạn. Ngài nói: “Người khác dạy người chú trọng vào chỗ huyền diệu, còn Quang tôi thì dạy người những gì họ có thể cố gắng làm được mà thôi…”. Dạy những gì họ có thể làm được chính pháp khế cơ. Hàng hạ căn thực hành pháp của Ngài không trở ngại, mà còn có thể thành tựu được, thì người thượng căn thượng trí lại càng dễ dàng thành đạo hơn nữa. Thực đúng là pháp của người đại giác ngộ.
Tổ thứ sáu trong Thiền-Tông, ngài Huệ-Năng là người nhất thời nghe kinh đốn ngộ, lời giảng của Ngài đúng chánh pháp và cao siêu như Phật thuyết và được tôn xưng như Kinh. Nhưng khi thuyết giảng, Ngài vẫn giữ đúng phạm vi của sự truyền pháp, chứ không hề truyền bá chung chung. Trong kinh Pháp-Bảo-Đàn, Ngài xác định rõ rệt về pháp của Ngài: “Thử pháp thị tối thượng, Ngã vị thượng căn thuyết, thượng trí thuyết”. Nghĩa là, pháp này vị diệu tối thượng, nhưng ta chỉ vì người thượng căn thượng trí mà thuyết ra. Ngài nói: “Nếu hàng trung-hạ căn mà theo tu tập pháp của Ta, thì nhiều lắm là kết chút duyên, chứ không thể thành tựu”. Nói cao vì duyên của Ngài độ hàng thượng trí. Khuyến cáo kẻ dưới để tránh cho hàng phàm phu vọng tưởng hiếu kỳ mà gặp điều trở ngại. Đây mới thực là sự truyền trao chánh pháp một cách toàn vẹn.
Hòa Thượng Tịnh-Không thường tán thán lời nói của ngài Huệ-Năng khi gặp tổ Hoằng-Nhẫn: “Trong tâm của con thường sanh trí huệ”, nhưng cũng có lần Ngài đã thẳng thắng mời một vị tu sĩ trong vòng hai tiếng đồng hồ phải ra khỏi Tịnh-Tông Học-Viện, chỉ vì vị này tự khoe sự chứng đắc của mình. Sự chứng đắc của vị này kể ra thì trên đời không dễ có mấy ai làm được, ví dụ như có thể nghe được tiếng nói một người ở xa hàng trăm cây số, thường nghe tiếng Phật hiệu tự nhiên phát ra, thấy được Phật hiện thân thọ ký, v.v… Ấy thế khi bị mời ra khỏi đạo tràng thì tính tình thay đổi đến không ai chịu nổi. Có sự chứng đắc nào lạ lùng vậy?!!!… Ngài Tịnh-Không rất tán thán người tu hành chứng đắc, tán thán người niệm Phật tự tại vãng sanh, nhưng chính Ngài cũng từng cảnh cáo rằng, “Khi tu hành có được điều gì tốt mà khoe ra, thì định lực của chư vị đã bị phá hỏng hết rồi”.
Cũng có lần Ngài nói, “Tu hành mà bạn thấy mình chứng đắc một cái gì, thì khi đó bạn đã bị tẩu hỏa nhập ma rồi”. Vì thế, khi trích văn dẫn giải cần phải trọn lời, trọn ý, nếu không thì oan cho chư Tổ lắm vậy.
Chính vì vậy, khi thấy những lời trích dẫn trong tập sách đã nghiêng hẳn về “Lý-Đạo” cao siêu, nhắc đến lý tưởng chứng ngộ thành đạo của chư Tổ, chư đại Bồ-Tát thì quá đậm, còn những lời khuyên dạy về “Sự-Tu” căn bản, thiết thực, cần thiết cho đại chúng, nhất là trong thời mạt pháp này thực hành để được lợi lạc, tránh bị trở ngại thì hình như hoàn toàn không có nhắc tới. Quên lãng điều này quả là một sự sơ suất!… Chứ nếu như tác giả khoanh vùng rõ rệt, có khuyến tấn, có cảnh giác, giúp cho đại chúng biết lượng sức mình một cách đúng mức để tu tập hợp căn cơ, tránh bớt vọng tưởng, thì nội dung của tập sách chắc chắn có giá trị cao hơn. Và những người giả tu, có tâm không chơn chánh cũng khó lợi dụng được.
Ấn Tổ dạy: “Sở dĩ những người tu hành gần đây, nhiều kẻ bị ma dựa là do tâm ý vọng động, cứ gấp rút muốn được cảnh giới chứng đắc thù thắng. Nếu người nào cứ hoan hỷ, tham trước điều này, dù cho có cảnh giới chơn thực hiện ra cũng sẽ bị tổn hại chứ chẳng ích lợi gì, huống hồ những cảnh giới đó chưa chắc gì là xác thực”.
Tại sao vậy? Phật dạy “Vạn pháp duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Duy tâm sở hiện là chỉ cho cảnh giới ứng hiện tự nhiên. Duy thức sở biến là do tình thức tham trước mà cảnh giới bị biến chuyển mù mịt. Vạn sự vạn vật không có tự tánh, chỉ theo duyên mà chuyển biến thành ra thiên hình vạn trạng. Một đám mây không có tự tánh xuất hiện vô tư. Người có tâm trạng bất an thấy trong đám mây hiện ra khuôn mặt ác quỷ, người mong cầu cảm ứng nhìn đám mây thấy có ứng hiện hào quang, người vô tư lự trông đám mây vẫn chỉ là đám mây bình thường bay lững lờ như bao nhiêu đám mây khác. Đám mây lững lờ là “Duy Tâm sở hiện”, đám mây biến tướng là “Duy Thức sở biến”. Do tham trước của tình thức mà một đám mây vô tư đã mang nhiều hình tướng khác nhau. Duy thức sở biến chính là hư huyễn, chứ không phải là chân thật vậy.
Một hành giả niệm Phật đạt đến cảnh bất niệm tự niệm, niệm Phật thành khối, nhất tâm bất loạn… thì quá tuyệt vời, không thể nói là sai trái được. Tuy nhiên khi đưa ra một phương pháp để đại chúng thực hành đạt được sự thành tựu thì cần phải kết hợp thõa đáng hai điều: một là “Khế-Lý”, hai là “Khế-Cơ”. Khế lý là hợp về lý đạo, tu hành phải đúng theo kinh giáo của Phật. Khế-cơ là hợp về sự đạo, thực hành một pháp môn nhất định phải phù hợp với căn tánh của chúng sanh ở từng thời đại, từng nơi chốn. Nói rõ hơn, một phương pháp dù là chánh pháp đi nữa, muốn được diệu dụng phải thõa đáng hai điểm Lý và Sự. Nếu chỉ chạy theo lý đạo, không chú ý về sự tu, thì đối với hàng căn tánh thượng thừa có thể không có vấn đề gì xảy ra. Nhưng còn hàng phàm phu mà đam mê lý cao đạo diệu, quá mong cầu chứng đắc thì coi chừng bị vọng tưởng mà gặp chướng nạn. Một khi lỡ bị chướng nạn rồi thì huệ mạng khó có cơ hội được cứu vãn!…
Ngài Ấn-Quang dạy: “Thuyết kinh giảng đạo cần phải chú ý đến căn tánh của đại chúng. Nếu nói điều không hợp căn cơ thì không những không có lợi gì cho Phật tử đồng tu, mà còn xui khiến họ vọng tưởng”. Vọng tưởng là sản phẩm từ vọng tâm. Tâm chơn ứng cảnh chơn, tâm vọng ứng cảnh vọng. Cảnh hão huyền ứng hiện ra, nhưng vì tâm đã vọng nên không thể phân biệt được chơn giả. Thật quá nguy hiểm!…
Khế cơ nếu mở rộng ra còn kèm theo “Khế Thời”, “Khế Xứ”. Khế thời là hợp với thời gian, khế xứ là hợp với không gian. Về thời gian thì thời này là mạt pháp, Phật dạy: “Ức triệu người tu hành khó tìm ra một người chứng đắc”, thì đưa ra đề tài chứng đắc trong thời này thật sự không phải đơn giản như sự lý luận trên giấy bút đâu. Khế xứ là nói đến hoàn cảnh, môi trường, phong tục, tập quán, văn hóa, v.v… Văn minh, khoa học, kỷ thuật càng cao thì căn tánh con người càng thấp, sự giác ngộ đường giải thoát càng yếu. Người có chút thông minh thế gian thì xa lìa Phật pháp, buông lời phỉ báng. Người muốn tu hành thì không vững đường tu, tâm ý mông lung, thường bị vọng tưởng. Người yếu dạ hiếu kỳ thì dễ lầm mê vướng phải lưới ma.
Chính vì thế, đường tu tự chứng đắc thành tựu đạo giải thoát trong thời khó khăn lắm chứ không dễ dàng đâu. Vậy thì một pháp tu tập nào đó mà giúp cho đại chúng đạt được sự chứng đắc quá nhanh chóng, quá dễ dàng, nhất định cần phải nghiêm chỉnh xét lại rằng đó có phải thực sự là chứng đắc hay không, hay chỉ là những cảnh giới hư huyễn? Người Phật tử nên tự hỏi, chẳng lẽ lời Phật dạy không chính xác hay sao?
Người truyền bá pháp Phật cần nói đúng lý đạo để xiển dương Chánh Pháp, nhưng cũng cần nói lời hợp với căn cơ để người nghe khỏi bị lầm lẫn, ngăn ngừa sự vọng tưởng mới thực sự lợi lạc chúng sanh. Người thế gian thường vì danh văn lợi dưỡng nên sẵn sàng dùng đến phương thức tuyên truyền một chiều để đạt mục đích của mình. Ví dụ như đem chuyện tranh cử của thế giàn ra làm điển hình. Vì quyết lòng thắng cử thành ra người tranh cử sẵn sàng dùng đến phương thức, mà trong tiếng Anh gọi là “Misleading” (hướng dẫn lệch lạc), chứ người tu hành có tranh thắng với ai đâu mà triển khai một chiều. Như vậy muốn an toàn cho chúng sanh, một pháp phổ biến rộng rãi phải nói cả ưu điểm và khuyết điểm, phải nói cả thuận duyên và nghịch duyên thì mới toàn vẹn, nếu sơ ý lỡ gây điều bất lợi cho đại chúng thì nhân quả này thật là không nhỏ.
Để kết thúc đề mục này, Diệu Âm xin kể ra một chuyện có thực xảy ra cho chư vị cùng suy nghiệm. Vào năm 1999, có một vị Sư đến đến đạo tràng Tùng-Lâm Linh-Sơn của ngài Hòa Thượng Tăng Thống Thích Huyền-Vi, Hóa Chủ Giáo Hội Linh-Sơn Thế-Giới để dự khóa an cư kiết hạ. Vị này trước kia tu về thiền định, khi gặp pháp niệm Phật, ngài mới ứng dụng cách tự tu chứng của thiền định để niệm Phật cầu Nhất-tâm-bất-loạn. Công phu một thời gian thì vị đó tuyên bố đã chứng được Niệm-Phật Tam-Muội rồi, tai Ngài thường nghe tiếng Phật Hiệu tự phát ra, đã thấy được Phật hiện thân hướng dẫn.
Một buổi trưa nọ vị này không ra thọ trai. Đại chúng biết vị này thường ngày thích đóng của tự công phu một mình nên cũng không ai để ý tới. Đến khi thọ trai xong thì người ta mới phát hiện là vị đó đã âm thầm ra sau vườn treo cổ lên cây tự tử. Trước khi chết Ngài đã viết lại hai lá thư, đại ý nói rằng: Tôi niệm Phật đã được chứng đắc rồi, hôm nay đã tới ngày phải đi vãng sanh đây!…
Sự cố xảy ra quá bất ngờ làm rối loạn cả đạo tràng. Đến lúc đó mọi người mới giựt mình hiểu ra một sự thực rằng, những gì vị Thầy này cho là chứng đắc, những cảnh giới gì Thầy thấy được, nghe được đều là hư huyễn, không phải chơn thật. Thật quá dễ sợ!…
Tâm chơn ứng cảnh chơn, tâm vọng ứng cảnh vọng. Vọng cảnh ứng hiện đã gạt nhĩ căn, nhãn căn của mình một cách thê thảm mà chính Thầy không hề hay biết!… Bị gạt mà không hay nên Thầy đã quyết định sai lầm, làm điều không đúng chánh pháp, tự rước họa vào thân. Ấn Tổ nói: “Người muốn định thời hạn vãng sanh, nếu công phu đã thành thục thì không có chướng ngại gì. Bằng không, với cái tâm mong cầu ấy sẽ trở thành ma căn. Nếu như vọng niệm ấy kết thành một khối không gỡ bỏ được thì nguy hiểm vô cùng”.
Sự cố xảy ra đã chứng minh lời dạy của Ấn Tổ thật sự vô cùng chính xác.
Xin chư vị nhớ cho, Tín-Nguyện-Hạnh vãng sanh. Chớ nên lộ liễu mong cầu chứng đắc mà thành tựu được.
Diệu-Âm Minh Trị (Úc Châu)
khi nệm phật, cũng biết câu niệm phật, mà cảm giác buồn ngủ, mơ mơ, màng màng, như vậy là hôn trầm rồi phải không và cách đối trị như thế nào; tối nằm mơ thấy trong hoàn cảnh là có anh đó chọn người tử hình, kêu mình đưa bàn tay ra, kết quả là số 19 và chọn mình bị tử hình; nhưng mình thỏa thuận lo tiền thì không chọn nữa, rồi còn kêu mình đưa tiền mua số đề 300 bao lô hay gì đó, tổng cộng 14 triệu để không chọn mình là người tử hình, mơ như vậy là sao cư sĩ, xin cám ơn, mà thường ngày mình cũng không có chơi hay suy nghĩ gì về tử hình và số đề gì hết. ho hỏi thăm thêm, như bà xã trước đây có cho vay, lấy 10% và trừ dần, nhưng người này lại cho người khác vay, khi biết người đó bị người kia dựt nợ, bà xã biết không lấy tiền lãi nữa, chỉ lấy lại phần trước khi bị người kia dựt thôi, như vậy có quả báo không, mình có khuyên bà xã là lấy lại tiền vốn trước đây và lấy phần lãi theo ngân hàng số tiền bỏ ra thôi mà bà xã chưa đồng ý, và sau đó bà xã lấy toàn bộ số tiền này làm những việc phước thiện, làm như vậy có cấn trừ được việc cho vay không, xin giải đáp dùm, xin cám ơn, mong cư sĩ giải đáp từng mục đừng bỏ qua mục nào nhe, để cho bản thân hiểu rõ thêm, xin cám ơn
tối bản thân khi nằm xuống ngủ, bản thân có suy nghĩ là sẽ chết nên tập quán tưởng, buôn bỏ vợ con, tài sản, địa vị, danh vọng, vì nghĩ những thứ đó là giả không thật, bao nhiêu kiếp mình có rồi mà giờ nay còn đâu, và tập quán tưởng thế giới cực lạc, niệm thẩm kinh a di đà (tập suy gẫm các cảnh trong kinh) vì chưa có thuộc hết; trước đây mình niệm thập niệm hồi hướng, giờ tăng lên sáng trước khi đi làm niệm 200 câu, trưa đi làm về 400 câu, chiều đi làm về 1000 câu (khi mệt thì từ 400 trở lên), nhưng khi niệm có lúc nghe rõ, khi thì vẫn biết câu phật hiệu nhưng mơ mơ, màng màng; vì nhà khi mình niệm phật khi niệm mười hơi đầu là niệm ra tiếng, mười hơi sau mình tập niệm bằng ý, cứ như vậy là ấn định câu cố định đề ra, nhưng nhà có bé bắt ti vi mỉnh đeo tay phone cho đỡ ồn, như vậy được không; vì nhà nhỏ thờ 1 bên là bàn thờ phật, cuối là gian bếp hay nấu đồ mặn xông lên bàn phật thì có tội gì không và mình hành trì vậy có được ko cư sĩ, mình tính niệm tàn một cây hương nhưng làm còn chưa được, mong được giải đáp, xin cám ơn
cho hỏi thăm thêm, như bà xã trước đây có cho vay, lấy 10% và trừ dần, nhưng người này lại cho người khác vay, khi biết người đó bị người kia dựt nợ, bà xã biết không lấy tiền lãi nữa, chỉ lấy lại phần trước khi bị người kia dựt thôi, như vậy có quả báo không, mình có khuyên bà xã là lấy lại tiền vốn trước đây và lấy phần lãi theo ngân hàng số tiền bỏ ra thôi mà bà xã chưa đồng ý, và sau đó bà xã lấy toàn bộ số tiền này làm những việc phước thiện, làm như vậy có cấn trừ được việc cho vay không, xin giải đáp dùm, xin cám ơn, mong cư sĩ giải đáp từng mục đừng bỏ qua mục nào nhe, để cho bản thân hiểu rõ thêm, xin cám ơn
Chào bạn An Hòa,
– Đúng là bị hôn trầm. Khi cơ thể quá mỏi mệt thì khi niệm Phật cũng dễ bị hôn trầm, bạn cần loại trừ khả năng đó. Nếu do cơ thể mỏi mệt quá mức thì bạn nên nghỉ một lúc để cơ thể khỏe lại, tinh thần tỉnh táo rồi niệm Phật. Khi hôn trầm nên thay đổi cách niệm Phật như niệm ra tiếng hoặc đi kinh hành. Hoặc dùng tất cả tinh thần tập trung vào câu Phật hiệu từng tiếng một thì cũng sẽ hết hôn trầm. Khi tu tập công phu thì việc giữ giới rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tu tập. Nếu một người giữ giới nghiêm túc, trọn vẹn thì khi ngồi xuống tu tập họ sẽ dễ đạt được kết quả nhất định. Cho nên, bạn cần nghiêm túc dứt trừ việc uống rượu, nếu không, e rằng tình trạng hôn trầm sẽ vẫn tiếp diễn bởi vì khi uống rượu là bạn đang gieo nhân cho sự hôn trầm.
– Mơ: như PH đã chia sẻ, đây là những chủng tử trong Tàng thức hiện hành. Trong thời gian đầu tu tập những giấc mơ lạ kỳ, ly kỳ, những người, thú, không quen biết,… sẽ xuất hiện rất nhiều. Bởi vì trong Tàng thức của chúng ta từ vô số kiếp trước đã huân tập rất nhiều thứ mà chúng ta chưa thể biết hết, bây giờ trong giấc mơ nó hiện hành ra vậy thôi. Đa phần đều không có ý nghĩa gì cả (nó chỉ phản ảnh một số chủng tử trong Tàng thức vậy thôi) cho nên tốt nhất là bạn đừng để ý đến những giấc mơ. Một thời gian sau, nếu trong giấc mơ bình thường có thể niệm Phật được hoặc khi gặp nguy hiểm mà tâm trong mơ vẫn bình tĩnh thì chứng tỏ công phu tu tập niệm Phật của người đó có chút tiến bộ.
– Nhân A sẽ ra quả A, nhân B sẽ ra quả B. Cho vay lấy lãi, nghĩa là khi người ta gặp khó khăn, mình cho vay kiếm tiền dựa trên sự khó khăn của người khác, vậy là đang gieo nhân không tốt. Làm từ thiện là gieo nhân tốt, nhưng tiền làm từ thiện không thanh tịnh (tiền lãi từ việc cho vay) thì quả tốt cũng theo đó mà giảm/không trọn vẹn.
– Trì tụng kinh A Di Đà: bạn nên cố gắng học thuộc kinh rồi trì tụng. Nếu muốn quán tưởng bạn nên tập quán tưởng giống như 16 phép quán trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, chứ không nên tưởng tượng lung tung theo ý mình.
– Đeo headphone cho đỡ ồn: rất tốt, bạn biết cách uyển chuyển để tu tập, không làm phiền đến người khác.
– Bàn thờ Phật: nên tránh hướng bếp. Nếu có thể bạn hãy xoay bàn thờ vào hướng khác (dùng kệ treo trên tường cho tiện). Trong trường hợp không thể thay đổi bạn nên mua dạng tủ thờ nhỏ (kiểu Nhật), thờ Phật trong tủ, mỗi khi không lễ Phật thì mình đóng tủ lại. Hoặc dùng một bức mành che tượng Phật lại.
– Hành trì: thời gian đầu bạn hãy hành trì cho đúng sức mình, qua một thời gian, khi đã quen thì nên tăng số thời gian niệm Phật lên nhiều hơn.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A DI ĐÀ PHẬT. Kinh Vô Lượng Thọ do Tịnh Không Pháp sư giảng lần thứ 11, là Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa có tận 600 tập thì sắp xếp thời gian nghe kinh thế nào cho phù hợp ạ
A Di Đà Phật
Gửi bạn Quê nhà Cực Lạc,
*HT Tuyên Hoá từng nói: “Quý vị đừng đứng trước biển rồi nói biển nhiều nước thế này, uống bao giờ cho hết!”. Ý Ngài nói: Học Phật pháp phải đi từng bước, mỗi ngày một chút và luôn tăng tiến, quyết không thoái lui. 600 tập Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa bạn nên mỗi ngày nghe 1 tập thôi. Nghe tới đâu, tư duy, đúc kết, nhớ tới đó. Đoạn kinh văn nào quan trọng, nên dùng giấy bút ghi chép lại vì sau này tu học, sẽ có lúc quên, bạn giở ra tra khảo rất hữu nghiệm.
*Học Phật pháp không nên vội vã, điều này cũng giống như bạn xây nhà vậy, phải bắt đầu từ nền móng vững chắc kế đó mới lên tường, cất tầng, làm mái… Vì vậy Phật dạy: học pháp cần trải qua 3 giai đoạn: Văn-Tư-Tu. Văn tức là đọc, nghe. Tư tức tư duy, quán chiếu. Tu tức hành trì trong đó lấy giới-định-huệ làm nền tảng. Nếu bạn bỏ 1 trong 3 giai đoạn này sự tu của bạn chỉ là kết duyên chứ không thể thành tựu.
Chúc bạn tỉnh giác tu đạo.
trước đây mình niệm hơi chậm thì cảm giác hôn trầm ập đến, giờ mình niệm nhanh một chút thì cảm giác hôn trầm được cải thiện, tuy nhiên câu niệm phật khi nghe rõ khi không nghe rõ, vậy mình niệm cách nào được tốt; mình đọc trong này thì có người khuyên là niệm từ 3000 đến 10.000 câu trong ngày mới được, vậy là sao cư sĩ, xin cám ơn; mỗi khi mình gặp ác mộng là mình niệm phật, hoặc mình niệm chú được; còn gặp các cảnh khác là mình không niệm phật như vậy là công phu chưa đắc lực phải không cư sĩ; thường ngày khi không định khóa, mình đi đứng nằm ngồi là khi niệm phật, khi quên, tập cách nào cho lúc nào mình cũng niệm vậy cư sĩ, xin cám ơn
Chào bạn An Hòa,
– Cách nào cũng có ưu, nhược điểm của nó. Nên bạn cần cần có sự khéo léo điều chỉnh trong từng lúc tùy hợp với bản thân mình. Câu niệm Phật lúc nghe rõ, lúc không rõ, là do tâm có tán loạn. Biện pháp là cần phải cố gắng chú tâm nhiều hơn nữa. Niệm nhanh khi thấy đã bớt hôn trầm thì niệm thong thả trở lại, nhưng không quá chậm. Một cách khác để bớt hôn trầm là xốc lại tinh thần, nhớ lại mục đích tu tập, làm cho tinh thần phấn chấn trở lại, cao tiếng niệm Phật.
– Số câu niệm Phật trong một ngày: niệm nhiều câu Phật hiệu trong một ngày là cần thiết, tuy nhiên với người mới bắt đầu tu niệm hoặc với người không có nhiều thời gian rảnh rỗi thì không nên cố gắng niệm quá nhiều như vậy bởi vì 2 nguyên nhân sau. Thứ 1, người mới tu, tâm thường tán loạn, nên ở bước này cần tập làm sao cho cho tâm chú ý hết mức vào câu Phật hiệu. Sau khi tập niệm Phật có được sự chú ý rồi, tâm ít tán loạn thì mới tăng số câu Phật hiệu lên. Thứ 2, vì muốn niệm cho đủ số câu Phật hiệu trong một ngày, cho nên sẽ niệm nhanh cho đủ mà không chú ý đến sự chú tâm, như vậy câu Phật hiệu chỉ hời hợt ở miệng cho có, còn tâm thì nghĩ lung tung, lan man đủ thứ mà tưởng lầm là mình đang tu niệm, lâu ngày thành tập khí, cho nên rất có hại.
– Mơ gặp chuyện nguy hiểm mà niệm Phật, niệm chú được là rất tốt. Dĩ nhiên, lúc bình thường không nguy hiểm mà vẫn nhớ tới Phật thì mới là tiến bộ.
– Chuyện gì cũng vậy, muốn thành thói quen thì phải làm nhiều. Thói quen không thể hình thành trong một ngày. Cho nên muốn được lúc nào cũng nhớ tới Phật thì thì phải tập mỗi ngày, mỗi ngày, e rằng không có bí quyết gì đặc biệt cả. Tuy nhiên, với người có quyết tâm cao, ý chí mạnh thì sẽ mau thành công hơn người khác. Hoặc tư duy làm sao cho tâm đủ thiết tha với Phật thì sẽ tự nhiên thường nhớ Phật.
Chúc bạn tu tập tinh tấn.
Nam Mô A Di Đà Phật.
khi bản thân niệm phật, cũng nghe từng chữ rõ rảng, khi nghe được khi không nghe được, cảm giác chưa có hứng thú lắm, niệm hết 20 hơi, khoảng 800 câu, cảm giác mình cố gắng niệm cho xong, khi hứng thú khi không, làm cách nào đây, xin cám ơn
A Di Đà Phật
Bạn An Hoà,
Niệm Phật quan trọng ở thanh tịnh, không trọng ở số lượng. 20 hơi bạn có thể niệm tới 800 hồng danh Phật tức 1 hơi/40 hồng danh, giống như bạn réo đọc tên Phật cho Phật nghe chứ không phải bạn niệm Phật. Phật không cần những thứ đó. Vì Phật là tịch tịnh, đã tịch tịnh thì đâu cần ai xưng tán mình? Do vậy Niệm Phật mà Phật dạy là mỗi chúng sanh phải dùng tự tánh thanh tịnh của chính mình để niệm, tức nhắc nhở mình luôn sống trong tỉnh giác, quyết không sống, không cho tạp niệm dấy khởi. Nhưng khi có tạp niệm, chỉ cần nhận biết và không đeo bám chúng, ắt tạp niệm tự lặng.
Việc niệm khi hứng, khi không xuất phát do bạn không lý giải đích thực ý nghĩa của niệm Phật.
Chào bạn trung đạo mình bị nhầm mỗi hơi nhu vậy là 4 câu, minh niệm 200 hơi mới 800 câu, như vậy được không va niệm như thế nào mới được an lạc va vãng sinh, mong giải đáp dùm, cám ơn
A Di Đà Phật
Bạn An Hoà,
1/ Bạn hãy niệm chậm rãi, từng câu, từng chữ, tai lắng nghe, tâm nhớ rõ, không để niệm khác len vào Phật hiệu.
2/ Chuyện vãng sanh hàng ngày chân phát nguyện nhưng đừng vọng khởi, vì mạ chưa lên mà mong gặt lúa là chẳng thể.
Như nhà mình cha mẹ bán rượu, bia mình khuyên nghỉ mà cha mẹ chưa làm, mình không tham gia vào có được xem là cộng nghiệp không và làm cách nào mình khiyên cha mẹ đây, cám
ơn cư sĩ