Chúng ta muốn vãng sanh Cực Lạc thế giới thì phải “thật thà niệm Phật” (lão thật niệm Phật), không thể không thật thà niệm. Thật thà niệm là chuyên nhất tâm mình mà niệm, không màng sẽ thành Phật hay không thành Phật, cũng không màng sẽ được vãng sanh hay không vãng sanh. Phải dụng công ngay ở điểm nầy, mà khi niệm Phật đã thành thục chuyên nhất, được nhất tâm bất loạn rồi, thì khi sắp lâm chung đức A Di Ðà nhất định tiếp rước quý vị đưa đến thành Phật…
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu,
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu.
Con nay nghe thấy được thọ trì.
Nguyện hiểu chơn thiệt nghĩa của Như Lai.
“Trong thời đại Mạt pháp, trăm triệu người tu hành hiếm lắm mới có một người đắc đạo, duy chỉ nhờ ở niệm Phật mà được độ”.
Trong thời đại Mạt pháp, dù có trong trăm triệu người tu hành cũng không nhất định có được một người đắc đạo, cũng may là có Pháp môn Niệm Phật mà có thể thoát khỏi vòng sanh tử, ly khổ đắc lạc, vãng sanh thế giới Tây Phương. Chúng ta không may sanh vào thời ma cường pháp nhược, mạt pháp cách xa Phật quá lâu, nhưng trong cảnh bất hạnh lại gặp may mắn là có “Pháp môn Niệm Phật”. Pháp môn Niệm Phật vừa tiết kiệm tiền, lại không tổn phí tinh thần, vừa dễ dàng, lại còn thuận tiện, và niệm Phật sẽ thành Phật. Vì sao niệm Phật sẽ thành Phật? Bởi vô lượng kiếp trước đức Phật A Di Ðà phát 48 đại nguyện. Trong 48 nguyện nầy, có nguyện nói: “Nếu có chúng sanh nào niệm danh hiệu ta, nếu không sanh vào cõi Cực Lạc, ta thề không thành chánh giác”. Tất cả nguyện lực của đức A Di Ðà Phật phát ra, nguyện nguyện đều là tiếp thọ chúng sanh về cõi Tịnh Ðộ. Ðiều kiện là chúng sanh phải có lòng tin, tin có đức Phật A Di Ðà đang ở tại Tây phương thế giới Cực Lạc, mà nguyện vãng sanh làm đệ tử của Ngài, và thực tâm xưng niệm danh hiệu của Ngài. Phải đủ tín, nguyện và hạnh tất sẽ sanh về Tây Phương.
Thế giới Cực Lạc không sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, không có ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Tuy có bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, chim cộng mạn, nhưng những giống chim đó đều do của đức A Di Ðà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa ra. Ðây là cảnh giới biến hóa hiện ra, chớ không phải là thật có súc sanh. Cực Lạc thế giới không có trăm nghìn sự khổ như cõi Ta-bà, cùng muôn điều ác và phiền não. Cực Lạc thế giới thì ngày đêm sáu thời đều diễn thuyết Diệu Pháp, niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng. Nhưng, chúng ta muốn vãng sanh Cực Lạc thế giới thì phải “thật thà niệm Phật” (lão thật niệm Phật), không thể không thật thà niệm. Thật thà niệm là chuyên nhất tâm mình mà niệm, không màng sẽ thành Phật hay không thành Phật, cũng không màng sẽ được vãng sanh hay không vãng sanh. Phải dụng công ngay ở điểm nầy, mà khi niệm Phật đã thành thục chuyên nhất, được nhất tâm bất loạn rồi, thì khi sắp lâm chung đức A Di Ðà nhất định tiếp rước quý vị đưa đến thành Phật.
Vì sao chúng ta chỉ là người lao động bình thường mà đức Phật Di Ðà đến tiếp đón chúng ta? Ðiều nầy thật khó tin. Ðúng vậy! Ðây chính là pháp khó tin, là nan tín chi pháp. Cho nên không ai hỏi mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại tự nói Kinh A Di Ðà. Bởi vì không ai biết, dù có kẻ biết cũng không tin pháp nầy, nên Ðức Thích Ca Mâu Ni từ bi khẩn thiết nói cho chúng sanh chúng ta trong thời Mạt pháp biết con đường tắt Mạt pháp tu hành này.
“Thật thà niệm Phật” tức miệng niệm tâm cũng niệm, đi đứng nằm ngồi đều niệm Phật A Di Ðà. Khẩu niệm danh hiệu Ðức Phật A Di Ðà, thân hành trì theo hạnh của Ðức Phật A Di Ðà. Hành hạnh gì? Giống như chúng ta hiện tại đang đả Phật Thất, bất luận bận thế nào cũng buông bỏ để tham gia Thất, phải niệm cho được nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn tức là mỗi niệm đều niệm, niệm niệm tương tục, không phải niệm một lúc thấy mệt mỏi, bèn muốn bỏ đi nghĩ, giải đãi lười biếng, như thế không thể nào đắc được Niệm Phật Tam-muội. Ðó chính là không thật thà niệm Phật.
Thật thà niệm Phật tức nhất tâm nhất ý lại niệm Phật. Lúc niệm Phật quên cả chuyện ăn uống, mặc áo, đi ngủ. Nguyên lai ăn uống, may mặc, ngủ nghỉ là chuyện thường tình người đời khó ai bỏ đặng, mỗi cá nhân ngày ngày không thể thiếu những điều đó. Nhưng khi niệm Phật mà quên cả ba chuyện đó, không biết là có ăn uống hay chưa, có mặc áo, đói lạnh, ngủ thức hay không? Ðó chính là thật thà niệm Phật. Nếu, còn biết lúc nào phải đi ăn cơm, đây không phải là thật thà niệm Phật. Hoặc nghĩ tưởng mặc thêm áo khi trời lạnh, đây không phải là thật thà niệm Phật. Hoặc muốn đi nghỉ khi thiếu ngủ, đây cũng không phải là thật thà niệm Phật. Thực thà niệm Phật là bất luận đi đứng nằm ngồi chỉ biết có sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Ðà Phật”. Quý vị niệm thành một chuỗi liên tục không dứt, cho đến tiếng nước chảy đến cũng là “Nam Mô A Di Ðà Phật”, tiếng gió thổi cũng là “Nam Mô A Di Ðà Phật”, tiếng chim kêu cũng là “Nam Mô A Di Ðà Phật”. Phải niệm cho đến tiếng “Nam Mô A Di Ðà Phật” và bản thân mình tách không rời. Niệm cho đến ngoài”Nam Mô A Di Ðà Phật” không còn cái tôi nữa, ngoài cái tôi lại cũng không còn “Nam Mô A Di Ðà Phật” nữa. Cái tiếng niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật” của tôi và tôi hợp thành một. Bấy giờ, gió có thổi cũng không xuyên qua, mưa rơi cũng không lọt vào, như thế là đạt đến Niệm Phật Tam Muội. Gió thổi, nước chảy đều là diễn nói Diệu Pháp, đều niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật”, đây chính là “Thật Thà Niệm Phật”.
Giả như nước chảy biết có nước chảy, gió động biết tiếng gió động, hoặc ngó ngang nhìn dọc xem động tĩnh chung quanh, thế tức là không thật thà niệm Phật. Nếu vừa niệm Phật vừa nhìn trước ngó sau như muốn trộm đồ, đó chính là không thật thà niệm Phật. Thật thà niệm Phật là niệm niệm đều niệm (niệm tư tại tư), vọng tưởng gì cũng không có, cũng không nghĩ đến ăn món gì, hay uống trà, quên hết tất cả, đó chính là thật thà niệm Phật. Không có bí quyết gì cả, chỉ cần giữ tâm trụ ở chỗ niệm Phật, không nghĩ vớ vẫn thì đó là thật thà niệm Phật. Quý vị không khống chế được tâm, để nó quấy động thời đó chưa phải thật thà niệm Phật. Quý vị đề khởi chánh niệm, đó là thật thà niệm Phật. Quý vị cố nghĩ đông nghĩ tây không ngớt, khởi tà niệm, nghĩ đến điều xằng bậy, là không thật thà niệm Phật. Cho nên niệm Phật một cách thực thà thì vi diệu không thể nói, khi quý vị thật thà niệm Phật thời đạt Tự Tại, vô nhân, vô ngã, vô chúng sanh, vô thọ giả, chỉ có tiếng Nam Mô A Di Ðà Phật.
Nói là Pháp, mà hành mới là Ðạo. Chỉ nói mà không hành là như đếm tiền của người, không được chút nào lợi ích. Hôm nay tôi giảng đạo lý nầy để quý vị hiểu rõ, rồi thì phải thật thà niệm Phật, thật thà dự Thất, đây là thời gian quý báu nhất trong cuộc đời chúng ta, đừng để nó trôi qua luống uổng. Hy vọng quý vị nổ lực niệm Phật, đem tất cả ba tâm: kiên, thành, hằng để niệm Phật, đả Phật Thất.
Hòa thượng Tuyên Hóa giảng ngày 16 tháng 12 năm 1985
Quý bạn đồng tu cho Hạnh hỏi rằng:
Cách niệm Phật của Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông là “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”
Vậy khi trì danh niệm Phật đã là ý căn và thân đã động rồi. Ý nghĩa chữ “ Niệm” khác với chữ “đọc niệm”. Vậy có phải Niệm Phật chỉ là 1 phương tiện thiện xảo giúp người sơ cơ được định tâm, lâu ngày khi gần thành thục, câu Niệm Phật cũng phải buông, đến Phật Pháp cũng buông. Lúc đó mới là niệm Phật vô tướng mà Đại Thế Chí dạy trong Kinh?
Để trả lời câu hỏi cao diệu của đạo hữu, Phúc Bình xin trích dẫn một đoạn trong sách Niệm Phật Bách Vẫn của Ngài sa môn Ngộ Khai, gửi đạo hữu thưởng lãm:
“Hỏi: Tô Đông Pha hằng ngày thường mang tượng Đức Phật A-di-đà đi khắp nơi, có thể nói tâm niệm Phật rất tha thiết, vì sao không vãng sanh?
Đáp: Ngày xưa, Tô Đông Pha vẽ một tượng Phật A-di-đà, ai hỏi đều trả lời rằng: “Đây là công cứ Tây Phương của Thức”. Như thế cũng có thể thấy được tâm thiết tha cầu sanh Cực Lạc. Nhưng lúc lâm chung, có người hỏi về việc vãng sanh Tây phương. Tô Đông Pha liền đáp: “Tây phương chẳng phải không có, nhưng bây giờ dụng công không được”. Do đó mà không nghe nói ông vãng sanh.
Ôi! Chỉ ngay lúc cần phải dụng công, trái lại nói là dụng công không được. Cư sĩ lầm lẫn ư? Nếu xét theo tình thì Tô Đông Pha là một đại tài tử, đọc rất nhiều kinh sách Phật. Ông cho rằng nhất định mình sẽ được một pháp diệu viên mới được tôn là cao thủ. Nếu chân thật niệm Phật thì đâu khác gì với hạng nam nữ tầm thường, hình như ông ta chẳng cam lòng. Ngặt vì thường ngày không chịu thấu triệt pháp diệu viên kia, nên đến lúc này gượng gạo sắp xếp, chỉ biết: “Bây giờ không thể dụng công được”. Người niệm Phật, lúc lâm chung vẫn bình thản chân thật, nhất tâm niệm Phật là tốt nhất. Nếu thích kỳ diệu, thích thù thắng, thì đó gọi là muốn khéo hóa vụng. Tô Đông Pha có thể làm tấm gương để chúng ta soi xét.”
Nam Mô A Di Đà Phật!
Kính thưa Đạo Hữu Hạnh:
Lẽ ra DATT chưa đăng bài “Cách Làm Lành Bậc Nhất Là Nhiếp Trọn Sáu Căn, Tịnh Niệm Tiếp Nối, Tự Được Tâm Khai”, chờ các bài khác đăng ra rồi mới đăng bài của mình xen kẻ, cho người đọc đở chán khi đọc bài của 1 tác giả. Nhưng vì câu hỏi của đạo hữu nên DATT mới đăng sớm hơn để đạo hữu tham khảo về ý nghĩa của câu “thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”.
Nói cho dễ hiểu, thu nhiếp sáu căn là sáu căn không bị dình mắc khi tiếp xúc với sáu trần, chớ không phải là sáu căn không nhận biết sáu trần, hay nói một cách bóng bẩy theo nhà Phật là: thấy mà không thấy, không thấy mà thấy tất cả.
Vì sao? Vì chúng sanh khởi tâm động niệm là đều vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nên khi sáu căn bị che lấp. Nếu sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không bị dính mắc thì sáu căn liền được thông. Sáu căn được thông thì sẽ thấy sáu trần một cách không có ngằn mé, không có ngăn ngại; tức là “khi sáu căn thông, vạn pháp đều thông”.
Thấy ở đây là nói riêng về “nhãn căn”, và cũng dùng để làm tiêu biểu cho các căn khác như “nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý”.
Như tâm kinh nói: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ ẩu giai không độ nhất thiết khỏ ách. Xá Lợi Tử! sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệt phục như thị” là nói lên hết thảy ý nghĩa của câu “thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” hay “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”, lìa khỏi mọi ý tưởng đối đãi “Có, Không, Chẳng Có, Chẳng Không” của phàm phu, tức là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước (chấp tướng).
Để hiểu rõ hơn về câu “Nhiếp Trọn Sáu Căn, Tịnh Niệm Tiếp Nối, Tự Được Tâm Khai”, xin liên hữu đọc bài viết ngắn mà DATT mới đăng: “Cách Làm Lành Bậc Nhất Là Nhiếp Trọn Sáu Căn, Tịnh Niệm Tiếp Nối, Tự Được Tâm Khai” – http://www.duongvecoitinh.com/index.php/2014/08/cach-lam-lanh-bac-nhat-la-nhiep-tron-sau-can-tinh-niem-tiep-noi-tu-duoc-tam-khai/
Diệu Âm Trí Thành
“, … thu nhiếp sáu căn là sáu căn không bị dình mắc khi tiếp xúc với sáu trần, chớ không phải là sáu căn không nhận biết sáu trần, hay nói một cách bóng bẩy theo nhà Phật là: thấy mà không thấy, không thấy mà thấy tất cả.”, …
Không thấy mình chứng đắc mới thật chứng đắc viên mãn, còn thấy mình có chứng đắc là chưa chứng đắc rốt ráo.
Diệu Âm Trí Thành, Ngài thật là đa văn, con tin rằng ngài đã thông xuốt về sự nên mới thấu xuốt về lý như vậy, thật là thiện tai, thiện tai.
Trích từ bài giảng – Lăng Nghiêm Ảnh Hiện – Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng.
…Trong pháp hội Lăng già, Phật thường chỉ nhắc đi nhắc lại điểm đó, và cũng nhắc đi nhắc lại về cái diễn trình của Tâm chuyển thành Thức. Và trong pháp hội Lăng nghiêm, thì về sau cùng, Phật đã giảng lại kỹ càng cho ngài A nan nghe về sự biến hiện của cái Thức đó: biến hiện thành vọng-tưởng KIÊN CỐ tức là Sắc ấm thô kệch, thành vọng tưởng HƯ MINH tức là Thọ ấm lung chừng nửa tâm nửa vật và đi sát với Sắc ấm, thành vọng tưởng DUNG THÔNG tức là Tưởng ấm có khả năng thẩm thấu cả bên trong lẫn bên ngoài, thành vọng tưởng U ẨN tức là Hành ấm nó chính là cái Sức hiện hành của chủng tử nghiệp lực khiến cho các ấm đều trôi-lăn-lưu-chuyển tương-tợ-tương-tục, thành vọng tưởng HƯ VÔ VI TẾ tức là Thức ấm của Đệ bát thức sơ-năng-biến tức là cỗi nguồn của pháp giới huyễn hiện hư vọng…Cho nên, có thể nói rằng Phật pháp thâu gồm các pháp thế gian cùng xuất thế gian, siêu vượt mọi chân lý, siêu vượt nền vật lý học cực vi cùng khoa phân tâm học hiện đại đương muốn thăm dò Tiềm thức cùng Vô thức.
Chân lý Duy tâm sở hiện thường được cô đọng trong câu: Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.
Từ cái Biển Diệu tâm Biến hiện ấy, lưu xuất ra những giòng giáo lý để triển khai ý nghĩa vi mật…Lưu xuất ra giáo lý diệu nghiêm vĩ đại của Hoa Nghiêm, nói về pháp giới Hoa tạng trùng-trùng-huyễn-khởi, trùng-trùng-thẩm-thấu viên dung vô ngại, trùng-trùng-biến-ảo, vì đều là những ánh biến hiện của quang minh, của Tỳ-lô-tánh-hải. Và những bài kệ nhiều như sao sa của Hoa nghiêm thường chỉ là tán thán Lý Duy tâm sở hiện cùng tán thán diệu dụng của quang minh…Lưu xuất ra hệ thống Bát nhã với giáo lý Tánh Không cùng lối nhìn Như-huyễn và nguồn Thiền quán chiếu Như-huyễn. và Kinh Lăng Nghiêm cũng chỉ là nhằm giảng dạy về pháp môn quán chiếu Như-huyễn…. Lưu xuất ra hệ thống Duy thức giảng dạy về lịch trình biến hiện của Thức thành các thứ pháp tướng… Lưu xuất ra từ nguồn Tịnh cùng pháp môn Vãng sanh Tịnh độ, dùng câu niệm Phật và nương vào thần lực của Đức A Di Đà để huân tập cùng thanh tịnh hóa những quang minh của đệ bát thức, để đưa tâm thức chúng sanh từ nơi bình diện ý thức lọt được vào Đệ bát thức tứa A lại da thức. Vào được đến đó rồi, thì sẽ thấy rằng Đức A Di Đà tánh cùng Đức A Di Đà Tây phương cũng chỉ là một, và sự vãng sanh của hành giả cũng chỉ là một tuồng biến hiện của những quang minh của A lại da thức của chính hành giả…
====================================
Ngài Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát khai thị niệm Phật nói kệ:
Ít nói một câu chuyện, (xa lìa thức phân biệt)
Nhiều niệm một câu Phật, (luôn luôn nhớ Phật Tánh)
Ðánh chết được vọng niệm, (diệt trừ cái bản ngã)
Pháp thân ngươi hiển lộ. (Phật Di Ðà thọ ký)
====================================
Nam Mô A Di Ðà Phật!