Ấn Quang đại sư suốt một đời chỉ để dạy người, đã để lại lời giáo huấn rằng: “Đôn luân tận phận, nhàn tà tồn thành, lão thật niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ” (Giữ trọn luân thường, tận hết trách nhiệm, ngăn lòng tà vạy, giữ lòng thành kính, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ).
Hòa Thượng Tịnh Không khẳng định lời dạy này đã được lưu xuất từ tánh đức, người bình thường trong chín pháp giới chẳng thể nói ra nổi! Và Hòa Thượng cũng cho rằng, 16 chữ “Đôn luân tận phận, nhàn tà tồn thành, lão thật niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ” này, chính là đại sư Ấn Quang đã “truyền tâm pháp ấn” tự hành, hóa tha của Ngài cho chúng ta. Đây là nguyên tắc giáo dục tối cao, là tổng cương lãnh. Và ngay trong chín ngàn năm của thời Mạt Pháp, nguyên tắc này cũng sẽ không bao giờ biến đổi. Nếu chúng ta nhất định nhiếp thủ nguyên tắc giáo dục này, chắc chắn trong một đời sẽ được vãng sanh về Tịnh Độ.
Vì sao gọi đó là nguyên tắc giáo dục tối cao? Suy xét tận cùng thấu đáo lời dạy của đại sư Ấn Quang, nếu muốn đạt được tâm thanh tịnh bình đẳng và đạo đức toàn thiện (không tà vạy) không phải một chuyện dễ làm. Nó đòi hỏi chúng ta phải sống đời sống phạm hạnh để chế ngự vượt qua những phiền não ràng buộc, phải có đủ nghị lực để kích hoạt chống lại sự hấp dẫn, lôi cuốn nơi đời ác ngũ trược này. Vì những quan niệm sai lầm, huyễn hoặc, dối trá… sẽ như ngọn gió thổi trên mặt hồ nước làm dậy sóng lăn tăn, khiến ta không thể soi tỏ ‘tự tánh’ của mình ở dưới đó. Chỉ khi vô minh đoạn được, tâm mới như lý tác ý, thì minh tánh mới sanh khởi được.
Muốn được vậy chúng ta phải có Văn-Tư-Tu và Tín-Giải-Hành-Chứng. Vì sao? Vì đôn luân tận phận (trì Giới), nhàn tà tồn thành (Định & Huệ), 2 câu này xem như được kiến lập trên nền tảng đạo đức của thế gian pháp.
Nếu không thể Tín-Giải-Hành-Chứng, tức chứng thực và thành tựu việc làm đạo đức trong thế gian, thì không thể thiết lập được niềm tin kiên cố đối với Phật pháp, làm sao có thể vãng sanh thế giới Cực Lạc cho được? Nếu Văn-Tư-Tu chưa làm được thì không thể giúp đỡ chính mình đoạn các phiền não ràng buộc; vì không có đủ năng lực tư duy cũng không có thể khuyến tấn, thuyết phục và giác ngộ quảng đại chúng sanh thì cũng chẳng thể hành việc ‘tự lợi, lợi tha’!
Nên Phật cũng dạy “bất tu chư hạnh, bất đoạn phiền não, bất tập thiền tụng, bất cầu đa văn, phi xuất gia giả” (chẳng tu các hạnh, chẳng đoạn phiền não, chẳng tập thiền tụng, chẳng cầu đa văn thì chẳng phải là người xuất gia). Vì đấy là xuất gia chỉ có hình thức, chứ thật sự chư Phật Như Lai chẳng thừa nhận kẻ ấy là đệ tử xuất gia.
Do đó, Phật pháp chính ngay tại thế gian pháp, giác rồi thì pháp nào cũng là Phật pháp. Không giác thì việc gì cũng là ma pháp, vậy làm sao có thể đem cái tâm mê mờ tà vạy mà dụng công niệm Phật cho được! Do vậy mà đạo tràng Tịnh Tông Học Hội đòi hỏi phải thành tựu cho được 2 câu đầu, lấy Giới-Định-Huệ làm căn bản, sau đó đến tín nguyện trì danh niệm Phật thì mới mong được vãng sanh.
Ngày nay chúng ta sống trong thời mạt pháp, hoàn cảnh tâm lý xã hội đầy tà tri tà kiến, tranh đấu quyết liệt. Nếu có chút ít thành tựu liền bị người khác ganh tỵ, đố kỵ, phê bình, chỉ trích v.v… Ngược lại, hành vi tạo tác của chúng ta cũng bất thiện, ô nhiễm chẳng khá hơn gì họ.
Ngay trong đạo tràng tu hành cũng không ngoại lệ. Bách Trượng đại sư đã từng nói: “Phật môn do vô sự mà hưng vượng”. Đạo tràng thế nào là hưng vượng? Vô sự mới được gọi là hưng vượng. Hòa Thượng Tịnh Không nói: “sự việc đa đoan nhiều quá, nhang đèn tưng bừng, tín chúng đông đảo, đấy là tướng suy sụp của Phật môn chứ chẳng phải là tướng hưng thịnh.” Vì sao vậy? Vì chẳng thể có nổi một người thành tựu, không có một người nào khai ngộ, không có một ai chứng quả, thậm chí không có một ai có thể vãng sanh, thì nói thịnh vượng ở chỗ nào?
Vì thế để thành lập kỷ cương cho một đạo tràng niệm Phật được thanh tịnh, thì nên kết hợp những người có cùng chung quan điểm, ước vọng và sở thích, để có thể cùng nhau cộng tu và kết thành đạo lực. Chúng ta nên hiểu, chúng ta tu hãy vì thuận theo chỗ cầu và sở thích của mình, không tự khen pháp hành của mình mà chê bai pháp của người khác. Phật dạy rằng:
“Vì ai nhiễm pháp mình,
Chê bai pháp người khác
Tuy là người trì giới,
Không khỏi khổ địa ngục”.
Nên tuyệt đối không chê bai phá hoại cách tu của người khác, dầu bằng ý nghĩ, lời nói, hay hành động, được như vậy mới đúng như ý “đôn luân tận phận, nhàn tà tồn thành”.
Thời xưa, đại sư Ấn Quang chủ trương đạo tràng niệm Phật không nên quá 20 người, không đi hóa duyên, không làm pháp hội, không giảng kinh, nói pháp, chỉ lão thật niệm Phật là đủ. Thế nhưng Hòa Thượng Tịnh Không lại nói, mục đích lý tưởng của đại sư Ấn Quang rất thích hợp cho người của thời đại ấy, còn người thời nay chẳng thể làm được. Vì sao? Vì muốn niệm Phật cho có công phu đắc lực thì chúng ta phải thông hiểu và nhận biết rõ ràng giáo lý của Phật dạy. Mà người thời nay tâm chẳng thanh tịnh hiền lương, hiểu kinh pháp không nhiều, thấu rõ lời Phật dạy thì quá ít. Chính vậy mà Hòa Thượng Tịnh Không chủ trương cần phải học kinh, tụng kinh và liên tục giảng kinh, để liễu giải những tinh hoa của pháp môn Tịnh Độ.
Trong những khóa cộng tu của Tịnh Tông Học Hội, trước thời khóa niệm Phật đều nghe giảng pháp và tụng kinh, sau đó mới niệm Phật; vì sau khi tụng kinh hoặc nghe pháp có thể đối trị được những mối nghi, những phiền não; tín tâm tràn trề thì lực niệm Phật cũng theo đó vượt tăng cao.
Đặc biệt là đối với pháp hội Tam Thời Hệ Niệm. Nếu ý nghĩa và mục đích của Tam Thời Hệ Niệm được giảng giải và được nhận biết rành mạch thấu đáo, thì hiệu quả của pháp sự mới có thể đạt đến mức cứu cánh viên mãn.
Bởi lẽ Tam Thời Hệ Niệm Pháp sự đòi hỏi Phật tử đến tham dự phải có sự nhận biết thấu triệt, có vậy trong lúc làm pháp sự mới có thể tùy văn nhập quán, mới có thể khế nhập vào cảnh giới, mới có thể đạt được mục tiêu ‘âm dương lưỡng lợi’. Lợi ích này đích thực là “minh dương đại lợi,” mới thật là một pháp hội thù thắng khó nghĩ bàn.
Trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện nói, trong 7 phần lợi ích của công đức hồi hướng, 6/7 chính mình hưởng, vong linh chỉ hưởng được 1/7.
Nếu pháp sự Tam Thời Hệ Niệm được vài ba trăm người, nhẫn đến ngàn người cùng nhau hệ niệm thì lợi ích thời sẽ thù thắng vô cùng. Và người đến dự pháp hội tâm ý cũng phải tương ứng, những nghi lễ như việc: tán tụng, sám hối, hồi hướng cũng vậy; đặc biệt nhất là phần khai thị của Trung Phong Đại Sư – một Pháp Thân Đại Sĩ tái lai, một thiền sư đã minh tâm kiến tánh. Vì sao? Vì tâm nguyện, tư tưởng, hành trì của chúng ta nếu tương ứng với kinh giáo, tức là tương ứng với Phật. Có tương ứng với Phật thì mới có thể giúp cho vong linh tâm khai ý giải, lìa khổ được vui, hốt nhiên tỉnh ngộ. Có tương ứng với Phật, thì pháp hội mới được sự minh chứng và hộ niệm của hết thảy 10 phương chư Phật Bồ-tát, mới được chư thiên gia hộ và thiện thần bảo vệ.
Cổ đức nói: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Nhưng chỉ có người hoàn toàn chân chánh thật thà, mới có thể thành tựu đến mức “nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật,” mà không cần học Phật. Cũng có nghĩa nếu không thông rõ giáo lý, thì công phu niệm Phật chỉ đạt được đến mức giới hạn nào thôi, vì niệm niệm không có tương ứng. Vì sao? Vì người hoàn toàn chân chánh thật thà, họ không có hoài nghi, không có xen tạp, không có vọng tưởng phân biệt chấp trước như đa số chúng ta đây!
Chân thật mà tự xét, chúng ta có phải là những người hoàn toàn chân chánh thật thà như vậy hay không? Nếu phải thì hẵn theo cách dạy bảo của đại sư Ấn Quang, còn nếu không thì nên y theo sự giáo huấn của Hòa Thượng Tịnh Không, mới hy vọng niệm Phật được “Nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”.
Hòa Thượng Tịnh Không lại dạy: “Giáo lý có thông đạt, thì việc niệm Phật mới tương ứng”. Vì sao? Nhờ thông đạt giáo lý thì chúng ta có thể phá mê khai ngộ, biến những lời đạo lý Phật dạy trong kinh giáo thành tư tưởng của chính mình làm đoạn mất những thành kiến, tà kiến; và ngôn ngữ, hành động của chính mình cũng tùy thuận lời giáo huấn của Phật, tùy thuận nơi kinh giáo mà như lý tác ý.
Học Phật như vậy tự nhiên bạn sẽ có một đời sống an lạc, bớt khổ đau, và hoan hỷ trong câu niệm Phật; đấy chính là nhờ ở nơi từ lực của Phật gia trì. Bạn đổi mê thành ngộ, sám hối, làm lành… chẳng phải là được Phật gia trì đó ư? Vậy từ lực nào của Phật gia trì bạn? Ngay chính những lời trong kinh giáo của Phật, chẳng có ở đâu xa! Nên kinh nói: “Nương từ lực Phật, các tội tiêu diệt, thiện căn tăng trưởng” chính là như vậy.
Diệu Âm Trí Thành (Canada)
Câu “Chân thật mà tự xét, chúng ta có phải là những người hoàn toàn chân chánh thật thà như vậy hay không? Nếu phải thì hẵn theo cách dạy bảo của đại sư Ấn Quang, còn nếu không thì nên y theo sự giáo huấn của Hòa Thượng Tịnh Không” của huynh Diệu Âm Trí Thành khiến Phúc Bình không khỏi suy nghĩ. Ngài Ấn Quang Đại sư đuoc suy tôn là Liên tông thập tam tổ thứ 13, là người ngộ sâu đến thượng thừa, lý sự đều vô ngại – người đời còn truyền tụng Ngài là hoá thân của Đại Thế Chí Bồ tát. Vậy mà theo như ý của huynh giáo pháp của Ngài chỉ là giáo hoá được những người chân chánh, thật thà hay sao? Mong huynh hãy suy xét kỹ, PB cũng không dám phân tích nhiều e múa rìu qua mắt thợ.
Nam Mô A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật
Phúc Bình thân,
* Đại sư Ấn Quang: Giữ trọn luân thường, tận hết trách nhiệm, ngăn lòng tà vạy, giữ lòng thành kính, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, là có thể đạt được.
* Hòa Thượng Tịnh Không dạy: “Giáo lý có thông đạt, thì việc niệm Phật mới tương ứng”. Tức chúng ta phải có Văn-Tư-Tu.
Bởi vì thế hệ của Đại sư Ấn Quang, người tu Phật tâm họ vốn đã thanh tịnh nên họ chẳng cần phải Văn Tư Tu vẫn có thể giữ được tâm thanh tịnh. Còn thế hệ của chúng ta không có sánh bằng nổi, vì thế mà HT Tịnh Không mới dạy như vậy.
Kính,
DAQH
A Di Đà Phật – Kính thưa huynh Phúc Bình
Nếu thoáng nghe qua lời dạy bảo Tổ Sư Ấn Quang và Hòa Thượng Tịnh Không, xem chừng như là có mâu thuẫn phải không huynh Phúc Bình? Nhưng khi suy xét kỹ càng thì hai lời dạy này chỉ là một, bổ xung lẫn nhau, chớ chẳng có trái nghịch chi cả. Huynh Phúc Bình đọc và suy nghĩ kỹ bài viết này lại để hiểu ý của DATT rõ ràng hơn nhé!
Chư Phật, Bồ Tát và Tổ khi thuyết kinh, giảng đạo đều là tùy căn cơ, hoàn cảnh thực tại mà lập phương tiện để nói. Pháp của các Ngài vi diệu sáng suốt và thường biến, chẳng có cố định nên gọi là “Vô Ngã Pháp”. Nhưng trong cái thường biến đó, lại có cái “bất biến”; đó là chân như thật tế.
Trong mỗi thời đại thay đổi khác nhau, tâm tánh chúng sanh cũng thay đổi theo trần cảnh khác nhau, nên chư Phật Bồ Tát thường luôn thị hiện làm Tổ, làm Thầy để chú giảng kinh pháp của Phật trở lại, làm cho nó thích hợp với căn cơ của chúng sanh trong mỗi thời đại khác nhau. Cho nên chúng ta mới có nhiều Tổ Sư và nhiều sách luận, giải đến như vậy. Những gì DATT viết đều là thuật lại ý của Hòa Thượng Tịnh Không như đã dẫn chứng rõ ràng trong bài viết này rồi. Huynh đọc và suy nghĩ chậm lại một chút và liên kết các ý với nhau thì tự nhiên nhận thấy ngay.
Ấn Tổ là ứng thân của Đại Thế Chí Pháp Vương Tử thị hiện trong đời để giảng dạy cho chúng ta pháp môn Niệm Phật, thì đương nhiên lời dạy của Ngài là bất biến, nên DATT mới viết lại lời của Hòa Thượng Tịnh Không: “Hòa Thượng Tịnh Không khẳng định lời dạy này đã được lưu xuất từ tánh đức, người bình thường trong chín pháp giới chẳng thể nói ra nổi! Và Hòa Thượng cũng cho rằng, 16 chữ “Đôn luân tận phận, nhàn tà tồn thành, lão thật niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ” này, chính là đại sư Ấn Quang đã “truyền tâm pháp ấn” tự hành, hóa tha của Ngài cho chúng ta. Đây là nguyên tắc giáo dục tối cao, là tổng cương lãnh. Và ngay trong chín ngàn năm của thời Mạt Pháp, nguyên tắc này cũng sẽ không bao giờ biến đổi. Nếu chúng ta nhất định nhiếp thủ nguyên tắc giáo dục này, chắc chắn trong một đời sẽ được vãng sanh về Tịnh Độ.”
Ý của Hòa Thượng Tịnh Không là lời dạy của Ấn Tổ là bất biến, là pháp mà chúng sanh muôn đời phải tuân theo để tu. Nhưng do vì tâm tánh của chúng sanh là vô thường, vọng tưởng, phân biệt chấp trước của chúng ta thời nay quá nặng, nên không làm nổi lời dạy của Ấn Tổ. Nên Hòa Thượng khuyên chúng ta ngoài việc niệm Phật ra, còn phải thường luôn tụng kinh, nghe pháp để phát sanh Tín-Nguyện tràn trề mà thực hiện nổi lời dạy của Ấn Tổ. Vậy, rốt cuộc Hòa Thượng Tịnh Không đã đưa chúng ta đi một cái vòng, rồi lại trở về thực hành lời dạy của Ấn Tổ, phải không huynh!.
Huynh đọc lại bài viết này và ngẫm kỹ một chút nữa nhé! Sẽ thấy hai lời dạy giống hệt như nhau. Nhưng vì người đời căn cơ khác nhau nên phải tu khác nhau: Người có thanht tịnh tâm và tín-nguyện đầy đủ, tràn trề thì cứ ý theo lời dạy của Ấn Tổ trực chỉ niệm Phật, chẳng cần tụng kinh, nghe pháp nữa, còn người chưa có những yếu tố đó thì phải thường luôn tụng kinh, nghe pháp để cũng có được những tư lương đó.
Chung cuộc rồi, thì lời dạy của Ấn Tổ lại cũng là “bất biến” muôn đời chúng sanh trong ba hạng (hạ, trung, thượng) đều phải tuân thủ!
Chữ “nghi” trong các kinh có nghĩa là “không hiểu rõ”, do không hiểu rõ nên nghi. Chúng ta thấy có nhiều đồng tu vào website ĐVCT này để đặt ra câu hỏi; đó là hiện tượng gì? Đó là vì chư vị đồng tu còn nghi (tức chưa hiểu rõ), nên mới vào đây học Phật, tìm hiểu chân thật nghĩa của kinh giáo, để phá nghi, sanh tín, để có thể thực hiện được lời chỉ dạy của Phật Bồ Tát nói chung và của Ấn Tổ nói riêng (mà Ấn Tổ cũng chính là Phật Bồ Tát, nên nào có khác chi).
Hòa Thượng Tịnh Không được người đời xem như là Tổ Thứ 14 của Tịnh độ tông Trung Hoa. Vậy, Hòa Thượng Tịnh Không là ai? Ngài là ứng thân của A Di Đà Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát…? Chúng ta mặc sức mà đoán mò, cũng chẳng thể biết. Cái ẩn mật này thì chúng ta phải chờ đến khi Ngài viên tịch rồi thì nó mới được “bật mí”!
Diệu Âm Trí Thành
Y Ý BẤT Y NGỮ. Con ngu tối nếu có viết sai lời Phật là do con hạ căn thấp kém con xin sám hối A DI ĐÀ PHẬT.
A Di Đà Phật – Xin chào Sơn
Trong Kinh Đại Niết Bàn đức Phật đã dạy về Tứ Y Pháp như sau:
1. Y Pháp Bất Y Nhân
2. Y nghĩa bất y ngử
3. Y trí bất y thức
4. Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa
Bạn có thể tham khảo thêm qua phần diển giải của hai vị liên hữu là Cư Sỉ Tịnh Thái ở đây và Cư Sỉ Thiện Nhân ở đây.
Hy vọng giúp ích phần nào cho bạn nhé.
Nam Mô A Di Đà Phật
Phúc Bình xin trích dẫn lời dạy của Ngài Ấn Quang về việc xem kinh như sau:
“Ðối với việc xem kinh, nếu muốn làm pháp sư để tuyên dương cho đại chúng thì hãy đọc kinh văn trước, tiếp đó xem các chú sớ. Nếu tinh thần chẳng sung túc, kiến giải chẳng hơn người, chớ có mất công nhọc nhằn tâm lực, uổng phí năm tháng.
Nếu muốn tùy phận được lợi ích thật sự, phải chí thành khẩn thiết thanh tịnh tam nghiệp. Hoặc trước hết phải đoan tọa chốc lát, lắng định thân tâm, rồi mới lễ Phật, đọc ra tiếng; hoặc chỉ im lặng xem. Hoặc lễ Phật xong, đoan tọa chốc lát, sau đó mới mở kinh [ra xem]. Cũng phải thân đoan nghiêm, ngồi ngay ngắn như đối trước thánh dung, đích thân lắng nghe viên âm, chẳng dám manh nha một niệm biếng nhác, chẳng dám khởi một niệm phân biệt. Ðọc một loạt từ đầu đến cuối, dù là văn hay nghĩa đều nhất loạt chẳng dùng lý lẽ để hiểu.
Ðọc kinh như thế, người lợi căn đối với mỗi mỗi Không lý sẽ lãnh ngộ được, chứng pháp Thật Tướng; còn kẻ căn cơ độn kém cũng tiêu trừ được nghiệp chướng, tăng trưởng phước huệ. Lục Tổ nói: “Ðãn khán Kim Cang kinh, tức năng minh tâm kiến tánh” (chỉ xem kinh Kim Cang liền có thể minh tâm kiến tánh) là nói về cách xem kinh như trên đây, cho nên bảo là “đãn” (chỉ). Kinh Ðại Thừa đều có công năng minh tâm kiến tánh, chứ nào phải mình kinh Kim Cang?
Nếu cứ một mực phân biệt câu này nghĩa như thế nào, đoạn này nghĩa là gì thì toàn là thuộc về phàm tình, vọng tưởng, xét đoán, suy lường, làm sao ngầm phù hợp với ý Phật, lãnh ngộ trọn vẹn ý kinh; nhân đó, nghiệp chướng tiêu diệt, phước huệ tăng cao cho được? Nếu biết cung kính thì còn gieo được chút thiện căn. Nếu cứ làm giống hệt như cách đọc sách Nho của kẻ học rộng sẽ thành hạng người vướng phải tội khinh nhờn sừng sững như non, thăm thẳm như vực, dùng nhân lành chiêu lấy quả ác vậy.
* Lúc xem kinh tuyệt đối chẳng được khởi tâm phân biệt thì tự nhiên vọng tưởng phải tiềm phục, thiên chân phát hiện. Nếu muốn nghiên cứu nghĩa lý hoặc giở xem các chú sớ hãy dành một thời gian khác để chuyên nghiên cứu. Trong lúc nghiên cứu, tuy chẳng nghiêm túc như lúc xem kinh, cũng chẳng được hoàn toàn không cung kính. Bất quá, so với lúc xem kinh, thư thái hơn một chút.
Nghiệp chưa thể tiêu, trí chưa thể rạng thì phải lấy việc xem kinh làm chính, việc nghiên cứu chỉ đại lược kèm theo. Nếu không, suốt ngày quanh năm chỉ lo nghiên cứu, dù nghiên cứu đến mức như vẹt mây thấy mặt trăng, mở cửa thấy núi, cũng chỉ là bàn suông ngoài miệng, chẳng hề can hệ mảy may đến thân tâm, tánh mạng, sanh tử chi cả! Ngày ba mươi tháng Chạp xảy đến chẳng dùng được mảy may!
Nếu có thể xem kinh [theo cách] như trên vừa nói, ắt sẽ nghiệp tiêu, trí rạng, ba thứ tình kiến sẽ trở về “chốn quê hương chẳng hề tồn tại” (ý nói: sẽ biến mất không tăm tích). Nếu chẳng xem kinh được như thế, chẳng những ba thứ tình kiến chưa chắc chẳng sanh, còn e do sức túc nghiệp, tà kiến sẽ phát khởi, bác không nhân quả, và các thứ phiền não: giết, trộm, dâm, dối sẽ nối tiếp nhau nổi dậy như lửa cháy hừng hực, nhưng vẫn cứ cho mình là người hành Ðại Thừa, hết thảy vô ngại! Lại còn vin vào câu nói “Tâm bình hà lao trì giới?” (tâm bình nào phải nhọc công giữ giới?) của Lục Tổ để cho rằng phá hết các giới mà chẳng phá mới thật sự là trì giới. Thật là tu hành khó đạt chân pháp vậy!
Sở dĩ chư Phật, chư Tổ chủ trương Tịnh Ðộ là để nhờ vào Phật từ lực chế phục nghiệp lực, chẳng cho chúng phát hiện. Vì thế nên lấy niệm Phật làm chánh, xem kinh làm trợ hạnh!”
Trên đây chỉ là một đoạn trích dẫn của Ngài Ấn Quang Đại Sư từ sách Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục, Phúc Bình xin gửi quý huynh Diệu Âm Trí Thành, Diệu Âm Quảng Hồng và các quý liên hữu giải thích giúp PB tại sao căn tánh con người thời đó chẳng đủ để xem kinh vậy bây giờ chúng ta còn kém hơn thì lại là nghe giảng kinh.
A Di Đà Phật – Kính thưa huynh Phúc Bình
Chiếu theo lịch sử của Ngài Ấn Quang Tổ Sư thì ngài sanh ra vào thời nhà Thanh, xuất gia lúc 20 tuổi. Tính đến cuối đời nhà Thanh trong hơn ba mươi năm xuất gia, Đại sư trước sau cáo lui giao tiếp để hôm sớm yên tu, cầu chứng Niệm Phật tam muội (cũng là chỗ chứng của Đại Thế Chí Bồ Tát).
Ấn Tổ tu hành ẩn mật chẳng tiếp xúc bên ngoài, nhưng đến lúc Cách Mạng Trung Hoa Dân Quốc bùng nổ cũng là lúc Ngài được cư sĩ Cao Hạt Niên nhân khi hành hương đến chùa Pháp Võ, lúc trở về đem vài bài văn của Đại sư đăng lên Phật Học Tòng Báo ở Thượng Hải, dưới ghi tên là Thường Tâm. Tuy chưa biết đó là ai, nhưng văn tự Bát Nhã đã khiến cho độc giả phát khởi căn lành, nhiều người đua nhau dò hỏi chỗ ở, tung tích rồi cũng có người tìm biết được; lần lượt kẻ vượt bể lên non cầu lời khai thị, người mượn tin hồng nhạn hỏi lối nam châm. Đại sư khi ấy vừa đúng 52 tuổi.
Cũng trong lúc ấy Trung Quốc phát khởi Cách Mạng Văn Hóa, trong đó Phật giáo bị coi là một đạo giáo mê tín, nên việc hoằng truyền kinh pháp bị kềm chế, chùa chiền bị niêm phong theo dõi v.v… Lại nữa, dân tình lúc ấy rất đói khổ, nạn mù chữ gia tăng, nhất là do ảnh hưởng của thời phong kiến nên đa số phụ nữ đều là dân quê không biết chữ, nên việc thuyết kinh giảng đạo càng thêm khó khăn.
Đại biểu là Hòa Thượng Hải Hiền (vừa mới vãng sanh, thọ 112 tuổi) cũng đã từng trải qua cuộc đời tu hành trong thời đại Cách Mạng Văn Hóa của Trung Quốc. Lúc ây các sư bị cấm đốt nhang, niệm Phật, lạy Phật và tụng kinh v.v… Hòa Thượng mỗi ngày chỉ niệm Phật thầm trong tâm, chờ lúc nửa đêm mọi người đi ngủ hết mới dám đến bàn thờ Phật lễ lạy.
Vì hoàn cảnh của Phật giáo bị lâm vào tình trạng khủng bố như thế, cho nên Ấn Tổ phải khéo bày phương tiện phát khởi phong trào “lão thật niệm Phật” để phổ độ và giáo hóa đại đa số quần chúng không có cơ hội học Phật. Bên cạnh đó, Ấn Tổ vẫn tiếp tục hoằng truyền kinh điển Tịnh độ, bằng chứng là 90% tịnh tài Ngài nhận được đều dùng để ấn tống kinh điển, chỉ 10% là dùng cho việc cứu nạn đói khổ trong thời đại chiến loạn ấy mà thôi.
Cũng bởi lẽ, nhân dân thời ấy thiếu phước, lại hay tạo ác cho nên Ngài đã cho ấn tống quyển sách “Liễu Phàm Tứ Huấn” nhiều nhất, chủ yếu là giúp chúng sanh tạo chút ít phước báu mới mong khi gặp được Phật pháp mà khởi tín tâm, niệm Phật cầu sanh Tịnh độ.
Tóm lại, chúng ta thấy các thời đại xưa kia, các chư Tổ và triều đình đều hoằng truyền nền giáo học của Phật Đà rất mạnh mẽ bằng cách lưu thông kinh điển và giảng giải pháp yếu. Nhưng đến thời của Ấn Tổ thì lại khác, bởi hoàn cảnh chánh trị và xã hội đương thời khó thể làm pháp như xưa.
Ngày nay, Phật pháp xem ở bên ngoài hầu tưởng chừng như là rất hưng thịnh, nhưng thực chất bên trong đang suy đồi. Vì sao? Vì chẳng tìm thấy một ai chứng đắc; nên Hòa Thượng Tịnh Không mới nói: “sự việc đa đoan nhiều quá, nhang đèn tưng bừng, tín chúng đông đảo, đấy là tướng suy sụp của Phật môn chứ chẳng phải là tướng hưng thịnh.” Vì sao vậy? Vì chẳng thể có nổi một người thành tựu, không có một người nào khai ngộ, không có một ai chứng quả, thậm chí không có một ai có thể vãng sanh, thì nói thịnh vượng ở chỗ nào? Hòa Thượng Tịnh Không lại dạy: “Giáo lý có thông đạt, thì việc niệm Phật mới tương ứng”.
Nhị Tổ Thiện Ðạo Ðại Sư lại dạy: “Đọc kinh và niệm Phật mỗi ngày không gián đoạn là duyên giúp cho một phàm phu như chúng ta có thể vãng sanh Thượng phẩm.”
Chúng ta thấy ở mỗi thời đại, các chư Tổ Sư đều dùng trí khéo léo dẫn dắt chúng sanh theo phương pháp thích hợp nhất để chúng sanh có thể mau chóng đắc dạo giải thoát. Ngày nay, chúng ta thấy lối dẫn pháp của Hòa Thượng Tịnh Không rất giống với Thiện Đạo Đại Sư, bởi lẽ đây là thời đại dân chủ chúng ta có quyền tự do tín ngưỡng; vì thế kinh điển lưu thông mạnh mẽ hơn xưa. Thế nhưng vì chúng ta sống trong thời mạt pháp “ma cường pháp nhược” nên lại có chướng ngại mới sanh ra.
“Ma cường” là nói đến thời đại ô nhiễm cực điểm, tâm tánh chúng sanh phân biệt chấp trước nặng nề, nạn đấu tranh kiên cố khắp nơi, trong đạo cũng không ngoại lệ.
“Pháp nhược” là chánh pháp của Như Lai, tức kinh điển của Phật ít được lưu thông mạnh mẽ. Người giảng kinh cũng rất hiếm hoi. Phần lớn Phật giáo bị biến thành thế gian pháp, chỉ chuyên nói chuyện gia đình, xã hội, ít bàn đến chuyện giải thoát sanh tử. Nói tóm lại, thời nay “đạo đã biến thành đời”, nên dù cái tướng bên ngoài xem như hưng thịnh nhưng thật chất chẳng tìm ra người chứng đắc, như Đại Lão Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam nói: “người tu như trứng cá, kẻ chứng đạo không đáng để đếm”. Chính bởi do lẽ đó mà Hòa Thượng Tịnh Không tích cực kêu gọi các hàng xuất gia và tại gia phải hết lòng đem kinh Vô Lượng Thọ rộng giảng khắp nơi.
Vì sao phải rộng truyền kinh VLT? Hòa Thượng Tịnh Không giải thích: “Chúng ta duyên phận quá tốt đẹp, vô cùng thù thắng, gặp được bản hội tập của cụ Hạ Liên Cư hay như thế này. Vương Long Thư chẳng gặp được, Ngụy Mặc Thâm cũng chẳng gặp, bao nhiêu vị cổ thánh tiên hiền đều chẳng gặp! Lại gặp được lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ viết tác phẩm Chú Giải này, trong ấy cụ trích dẫn kinh luận và chú sớ của cổ nhân tổng cộng một trăm chín mươi ba thứ. Quý vị đọc quyển sách này giống như đọc một trăm chín mươi ba bộ kinh, luận, trước tác, chẳng dễ dàng! Nhân duyên vô cùng thù thắng. Do vậy, tôi tin tưởng sâu đậm không nghi ngờ, khi Phật pháp bị diệt hết trên thế gian này, bản này vẫn lưu lại một trăm năm. Trong chín ngàn năm thời Mạt Pháp, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, quý vị nương theo pháp môn nào? Chỉ có pháp môn này. Ta giúp hết thảy chúng sanh học pháp môn gì? Cũng học pháp môn này, tự hành, dạy người bằng một bộ kinh Vô Lượng Thọ này. Tôi vẫn còn muốn học pháp môn khác? Được thôi! Thông suốt pháp môn này, sẽ thông suốt toàn bộ hết thảy các pháp môn khác. Tôi có cần phải lãng phí thời gian và tinh thần để học bộ nào khác hay chăng? Không cần! Phật pháp thật sự là “một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông!”
Hòa Thượng lại nói: “…Chúng ta đến lúc nào, có thể đem đạo lý của “Kinh Vô Lượng Thọ” thông đạt tường tận, trên “Kinh Vô Lượng Thọ”, từng câu từng chữ nói ra, chúng ta đều thực tiễn ở ngay trong cuộc sống thường ngày. Đây gọi là NIỆM PHẬT, đây là thật niệm, giáo huấn ở trong kinh điển, nếu như bạn hoàn toàn thực tiễn làm đến được 100%, bạn tương lai vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, quyết định sanh cõi Thật Báo Trang Nghiêm thượng phẩm thượng sanh.
Bạn không cách gì làm đến được viên mãn, có thể làm đến 90%, bạn là thượng trung phẩm vãng sanh, như vậy dần dần hạ thấp xuống, hạ hạ phẩm vãng sanh cũng phải làm đến được 20%; nhưng nghĩ lại xem chúng ta đối với giáo huấn trên kinh điển, có thể làm đến được 20% hay không? Làm đến 20%, niệm Phật mới có hy vọng vãng sanh; 20% cũng không thể làm được chỉ có thể nói ngay trong đời này kết pháp duyên với A Di Đà Phật, ngay đời này vãng sanh khó, đây là thành thật mà nói; ngay ngày trước lão sư Lý thường hay nói với chúng tôi, một vạn người niệm Phật chân thật có thể vãng sanh, hai ba người mà thôi, tại vì sao một vạn người niệm Phật, có 9998 đến 9999 người đều không thể vãng sanh? Cũng chính là giáo huấn của Phật đà ở trên kinh điển dạy bảo chúng ta, ngay 20% cũng không thể làm được. ”
Diệu Âm Trí Thành (Canada)
A Di Đà Phật
DAQH xin chào Phúc Bình,
Sách Quán Kinh Ước Luận dạy: “Chẳng đọc Ðại Thừa sẽ chẳng thể hiểu nổi tâm Phật. Chẳng hiểu Phật tâm thì chẳng khế hợp Phật trí. Chẳng khế hợp Phật trí thì dù có sanh cõi kia cũng chẳng thấy được Phật”.
Chúng ta đang sống trong cõi dục giới, cho nên lòng dục vọng của chúng ta không bao giờ có thể ngừng nghỉ. Việc tụng kinh, nghe pháp, hiểu kinh cốt để những lý nghĩa thâm huyền Phật dạy được tỏa ra, ghi khắc trong thâm tâm chúng ta, rồi ứng dụng mà tu hành.
Cư sĩ Lý Bỉnh Nam nói: nếu chỉ dựa vào niệm Phật, dựa vào tu định thành tựu thì gần như cần tới mười năm bạn mới có thể thành tựu. Nếu như bạn vừa niệm Phật lại vừa nghe kinh, vừa có thể nghiên giáo thì liền rút ngắn được thời gian hoặc ba năm, hoặc năm năm cũng có thể khai ngộ. Vì đó là lợi ích của định & huệ đều cùng học.
Cho nên Phật tử thời hiện nay nên lấy việc niệm Phật làm chánh hạnh, và tụng kinh, nghe pháp làm trợ hạnh.
– Nếu đã đến lúc tuổi già thì thượng sách phải nên buông xuống hết thảy, chỉ cần nắm giữ một câu Phật hiệu mà thôi.
– Người tuổi trẻ vẫn phải làm việc, căn tánh còn hạ liệt, lại sống trong thời mạt pháp, vậy họ có thể duy trì nổi đời sống phạm hạnh, tri túc, tâm bình khí hòa được như Ngài Ấn Quang hay không? Nếu có thể được thì không cần phải bàn thêm nữa, một câu niệm Phật là đủ.
Cũng có nhiều người thường hay phản bác việc tụng kinh, nghe pháp, nhưng chính họ lại âm thầm nghe pháp học kinh. Nay DAQH cũng đành mượn lời khai thị của Sư Ông Thích Trí Tịnh nói rõ về ưu điểm của việc tụng kinh và học kinh vậy.
Mục đích tụng kinh là để thâm nhập trí Phật!
Đó là lời của Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, một trong các vị tòng lâm thạch trụ của Phật giáo VN, việc Ngài vãng sanh cũng đã để lại huyền thoại cho đời. Ngài làm được những điều ‘đã nghĩ và đã nói’, tri hành hợp nhất, Ngài xứng đáng là một bậc hành giả Tịnh độ mẫu mực, tạo tín tâm cho vô số Phật tử trong nhiều năm qua ở hiện tại và mai sau. Và ai ai cũng biết cả đời tu hành ngoài việc miên mật trì danh niệm Phật thì Ngài không bao giờ bỏ sót việc tụng kinh mỗi ngày, ngay đến lúc sức khỏe quá yếu nếu hôm đó Ngài không thể tụng kinh thì vị thị giả cũng phải đọc kinh giúp cho Ngài nghe.
Chúng ta hãy lắng nghe lời khai thị của Ngài như sau:
…. Ưu điểm của việc tụng kinh là tác dụng hàng phục những phiền não nghiệp chướng, khiến cho những thiện căn công đức được tăng trưởng. Nếu mỗi ngày tu hành đều đặn như vậy, tất nhiên lần lần bớt đi phần phàm phu sanh tử mà tiến lần trên con đường Hiền Thánh giải thoát.
…. Tụng kinh là phải học thuộc lòng kinh. Nên nhớ kỹ điều đó! Khi đã thuộc lòng rồi, mình tụng mới có lợi ích lớn. Không những lúc mặc áo tràng đắp y lên điện Phật, mà trong những khi đi đứng nằm ngồi, thỉnh thoảng những lời kinh do mình thuộc nó sẽ khởi lên trong tâm.
…. Mỗi khi tụng kinh, mình nhớ lại những lời dạy của Phật thì đó là mình niệm Pháp. Khoảng thời gian mình tụng kinh thì những niệm phiền não, những niệm xấu, niệm ác bị đè phục nên không khởi lên; do bị đè phục nên nó yếu đi, nó đã yếu thì lúc có khởi lên cũng khởi yếu. Đây là nói phục, còn đoạn là khác nữa. Nhưng nhờ cái phục nên nó yếu.
Vì yếu nên tội chướng nghiệp chướng cũng yếu dần. Khi bên tội chướng, nghiệp chướng yếu thì thiện căn công đức sẽ khởi dậy. Hai cái đó như hai cái giá cân. Nếu bên này nặng thì bên kia bị nhẹ. Nếu bên này nhẹ thì bên kia nặng, lẽ đương nhiên là như vậy. Nói cách khác, ngoài phước báu do tôn kính Phật pháp, người tụng kinh có thể làm tiêu trừ nghiệp chướng.
…. Cũng thế, hằng ngày mình có niệm Phật tụng kinh, thì lúc đó phiền não, nghiệp chướng nó không khởi. Nó không khởi trong khoảng thời gian mình có niệm Phật, tụng kinh, chứ không phải nó luôn luôn không khởi.
Nhưng có như vậy thì nó yếu lần đi. Nó yếu lần đi thì cái lành cái tốt phát triển lên thì gọi là mình có tu. Phiền não nghiệp chướng bị dằn bị phục thì thiện căn công đức phát sanh, cho đến lúc nào đó sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không còn chi phối nội tâm mình là thành công. Mà cũng không biết đến lúc nào, bởi vì chủng tử phàm phu trong vòng sanh tử luân hồi của mình nó nặng nề lắm, phiền não nghiệp chướng nặng nề lắm.
Nhưng nếu hằng ngày mình có phương pháp để dằn để phục, thì nó sẽ yếu lần lần. Bằng không nếu bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp chi phối thì mỗi ngày chẳng những nó không yếu mà lại mạnh thêm, thì mình càng chui đầu sâu vào vòng sanh tử luân hồi. Lẽ tất nhiên hai ngã rõ ràng như vậy. Trên đây chỉ là một ví dụ. Nếu các huynh đệ mỗi ngày đều tụng kinh thì sẽ tỏ rõ nhiều điều bổ ích.
Do đó, tôi khuyên các huynh đệ siêng năng tụng kinh để thâm nhập trí Phật.
Kính,
DAQH
Dạ con xin cám ơn và tùy hỷ công đức của các cô chú thiện tri thức. Con đây chính là kẻ còn trẻ, phước mỏng, nghiệp dày, độn trí hạ hạ căn nên sẽ cố gắng nghe Kinh thật nhiều và y như lời Hòa Thượng Tịnh Không dạy để thêm Tín Tâm và tăng trưởng Bồ Đề Tâm tu hành cho mình. A DI ĐÀ PHẬT.
Đạo hữu Phúc Bình trích dẫn lời dạy của Đại sư Ấn Quang rất hay, rất sâu sắc. Quả nhiên rất đúng là như vậy. Từng câu từng câu thấm đẫm ý của Tổ sư. Chúc đạo hữu thân tâm an lạc.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Phúc Bình rất cảm ơn lời chỉ bảo đúng đắn của huynh Diệu Âm Trí Thành, Diệu Âm Quảng Hồng, cảm ơn bạn Mai Hoa đã đồng cảm. Về việc nghe giảng Kinh pháp có lợi ích hay không điều đó chắc chắn không ai có thể phủ nhận và điều này cũng được Hòa thượng Tịnh Không giảng giải rất kỹ. Phúc Bình cũng không có ý cho rằng chúng ta theo lời giảng của HT Tịnh Không là đúng hay không vì mình là phàm phu đâu thể có cái ý đấy, phạm vào tội hủy pháp thì chịu sao thấu quả báo tam đồ. Trăm sông đều đổ về biển, pháp nào cũng là để cứu vớt chúng sanh thoát khỏi đường ác chỉ là có hợp với căn cơ mình hay không. Tuy nhiên câu hỏi của PB thì vẫn chưa được các huynh giải thích thấu đáo, vậy cho phép PB lấy cái nhìn của ngài Ấn Quang để tự giải thích thêm với các quý liên hữu thế này:
Nếu ai đã từng đọc trước tác của Ngài Ấn Quang sẽ thấy từng câu, từng chữ của Ngài như chùy Kim Cang gõ côm cốp vào cái đầu cứng cáp của chúng sanh để phá đi cái tà chấp của chúng ta. Chấp ở đây là gì, là nghĩ cái gì mình cũng biết, lấy cái biết của mình để mà biện luận với đời mà không thấy được “dù nghiên cứu đến mức như vẹt mây thấy mặt trăng, mở cửa thấy núi, cũng chỉ là bàn suông ngoài miệng”. Chính vì thế Ngài bảo chúng ta phải vứt cái thông minh ấy ra ngoài biển Đông. Ngài cho rằng chỉ có 2 loại người được độ: hạng thượng căn và hàng hạ căn. Đối với hạng người như đa số chúng ta được Hòa thượng Tịnh Không xếp vào hạng trung thì ngài đều khuyên làm kẻ ngu phu, ngu phụ mà niệm Phật cầu vãng sanh. Vì nếu ông muốn nghiên cứu, tìm hiểu về lời lẽ trong kinh thì khi vãng sanh rồi, nơi đạo tràng Tịnh độ vi diệu đó ông nghiên cứu gì mà chẳng được. Hạng có thể xem kinh, nghiên cứu Kinh đều được Ngài cho là hàng thượng căn là đối tượng “muốn làm pháp sư để tuyên dương cho đại chúng thì hãy đọc kinh văn trước, tiếp đó xem các chú sớ. Nếu tinh thần chẳng sung túc, kiến giải chẳng hơn người, chớ có mất công nhọc nhằn tâm lực, uổng phí năm tháng.”
Để phát lòng tin niệm Phật, theo Ngài không gì ngoài chữ Tử dán vào trán, lấy cái chết, nỗi sợ hãi địa ngục mà tu tập.Các liên hữu cũng thấy rõ nếu có Quỷ đầu trâu mặt ngựa đến nói với chúng ta mai ông sẽ chết, thử hỏi chúng ta có toán vã mồ hôi mà cật lực niệm Phật cầu thoát hay không, đâu còn có tâm trí nghĩ nghợi việc nào khác nữa. Sát na lâm chung mỏng manh như sợi tơ, ai dám chắc mình sẽ sống được bao lâu, bạn bè người thân chúng ta không phải có kẻ hôm này còn trò chuyện với nhau mai đã chết rồi sao. Là người học Phật chúng ta biết rằng lúc lâm chung, tâm thần bấn loạn, điên đảo … thì những thói quen thường ngày nhất của chúng ta phát khởi trong tâm. Nếu thường sân hận sẽ chiêu cảm địa ngục, bỏn xẻn thì ngạ quỷ … niệm Phật thì được vãng sanh. Còn thường xem kinh, nghiên cứu kinh thì sao nếu chưa đến mức “ nghiệp tiêu, trí dạng ” thì “ Ngày ba mươi tháng Chạp xảy đến chẳng dùng được mảy may!”.
Thật sự càng đọc trước tác của Ngài , Phúc Bình càng đọc càng thấy vi diệu, Ngài dạy rất kỹ và đặc biệt rất hợp với đại chúng, gần gũi với truyền thống tập tục văn hóa Việt Nam. Ngài cho rằng “Muốn học Phật, Tổ, trước hết phải giữ pháp Thánh Hiền. Nếu như thiếu sót bổn phận, trái nghịch luân thường thì đã là kẻ tội nhân danh giáo, còn làm đệ tử Phật sao được?” . “Nếu chẳng thật sự thực hành hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ, dù có suốt ngày thờ Phật, Phật cũng chẳng gia hộ!”.
Phải chăng người đời nay chúng ta có lẽ không cam chịu pháp tu dễ hành, dễ chứng của Ngài Ấn Quang, không cam phận là kẻ ngu mà vẫn muốn hướng ngoại, tìm cầu, liễu giải Kinh sách làm bậc thượng nên Hòa thượng Tịnh Không mới phải lập phương tiện thuyết giảng kinh pháp cho chúng sanh.
Trên đây PB cũng chỉ là mạn phép diễn giải lời Ngài Ấn Quang mà PB đã trích dẫn, để thấy được chúng ta đang nhận mình là hạng nào, nếu có gì chưa đúng con xin sám hối.
Nam Mô Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam Mô A Di Đà Phật.
p/s: Huynh Diêu Âm Trí Thành cứ gọi Phúc Bình là liên hữu hoặc pháp danh Phúc Bình mà thôi, Phúc Bình không dám nhận chữ huynh ạ!
A Di Đà Phật!
Trong thời khoá hành trì của Đại sư Ấn Quang kiến lập cho chúng ta thì đều phải tung Kinh A Di Đà Phật, tụng chú vãng sanh rồi niệm Phật, phát nguyện. Cách của Ấn Quang Đại Sư là chuyên Niệm rồi tâm khai ngộ sẽ hiểu được lý sự, theo đúng phương pháp chẳng nhọc phương tiện tự được tâm khai. Nhưng thế thời hiện nay chuyên tu đc như vậy quá khó và cách này dành cho bậc thượng. Còn đôn luân tận phận,… Thì dành cho phàm phu chúng ta mục đích tu là người Thiện rồi niệm Phật mới vãng sanh được.
Đại Lão Hoà Thượng Tịnh Không thì đi từ tín giải hành chứng để nhập đạo do căn cơ người hiện nay quá thấp, có điều như Cư sỹ Diệu Âm có dặn là khai ngộ Hoà thượng Tịnh Không khi khai ngộ rồi thì hành trì theo Đại sư Ấn Quang nhưng khổ nỗi người đời nay đọc một chút của Đại sư Ấn Quang, hoà thượng Tịnh Không lại tưởng mình minh tâm rồi rất thích bàn luận Phật pháp mà chẳng y pháp tu hành, uổng một đời. Nên chúng ta phải thường nghe pháp để răn mình không phải để đi răn người đó tâm huyết sâu nặng của Tịnh Không Đại lão Hoà Thượng,
Như pháp tu hành, Tịnh Minh còn lên đây xem cũng là giãi đãi sai lời dạy của Đại sư, xấu hổ vô cùng!
A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật
Huynh Tịnh Minh kính,
DAQH rất tâm đắc câu này của huynh: “Chúng ta phải thường nghe pháp để răn mình, không phải để đi răn người, đó tâm huyết sâu nặng của Tịnh Không Đại lão Hòa Thượng.”
Người tu hành nếu chẳng hiểu chư pháp vô ngã mà tu hết thảy thiện pháp thì chỉ trở thành cái quả hư ngụy trong cõi nhân thiên. Lại vờ nói rằng ngã pháp đều không nhưng lại mặc tình gây các ác pháp thì trở thành hạng xiển đề, địa ngục! Nên DAQH cũng như DATT có mặt ở đây với nguyên tắc chỉ dùng cái tâm vô tư vô tưởng thuật y lại những gì đã nghe/đọc/học từ các vị Tổ sư, hay các bậc Tôn túc giảng thuật từ trong kinh. Để các Phật tử nếu có đọc được thì tùy theo căn cơ/điều kiện/sở tu/sở thích của chính mình tự chọn cách thực hành.
– DAQH và DATT hiểu rất rõ tự mình đây còn chưa chứng đắc, nên cũng chẳng hề có ý định tự muốn sáng tác hay mong muốn răn dạy ai, và quan trọng nhất lại càng không hề có ý muốn làm “đảo lộn những ý chỉ của các bậc cổ đức”.
– Và Phật tử có đọc được việc quan trọng cũng phải: “Tin chính mình cũng có hạt giống Phật, nếu tu thì sẽ được thành Phật,” chớ đâu phải chỉ tin trên những ngôn từ thuyết nghĩa suông này.
DAQH xin cám ơn huynh Tịnh Minh đã nói giúp cho cái khó nói này.
Kính,
DAQH
Mặc dù các bậc Tổ sư, Thánh tăng có nói rằng việc hoằng dương Phật pháp là việc của các Bồ tát, phàm phu chúng ta lấy việc tu tập làm trọng. Nhưng cũng chính các ngài luôn khuyên người tu tập chúng ta đối với người xung quanh “hãy đem những sự những nhân quả báo ứng và lợi ích của việc niệm Phật bàn luận cùng họ”. “Bồ Tát thuận theo thế tục lợi sanh, chẳng bày vẽ phong cách riêng, đối bệnh cấp thuốc khiến cho ai nấy đều đúng đường về nhà mới thôi” – Phàm phu chúng ta may mắn được tiếp cận kho tri thức vô giá của các ngài cũng theo đó mà người hướng dẫn người xung quanh tu tập,giải đáp mọi thắc mắc của người cầu đạo, đâu phải ai cũng có điều kiện tiếp cận ngay với lời pháp của Hòa thượng Tịnh Không, Ngài Ấn Quang Đại Sư …Chính các huynh đệ Diệu Âm Trí Thành, Tịnh Thái, Viên Trí, Thiện Nhân … là người dày công tu tập, am hiểu sâu sắc kho tàng kiến thức pháp môn Tịnh độ, tâm Bồ đề rộng lớn đã khó nhọc mà hướng dẫn, chỉ bảo cho những người sơ cơ chúng ta trên đường tu tập giải thoát, nhiều bài viết, trả lời của các vị liên hữu đó phải nói là rất hay, rất đúng và gần gũi với cuộc sống.
Nên phải nói là kẻ sơ cơ như Phúc Bình và rất nhiều đồng đạo luôn hết sức cảm tạ, tri ân những kiến thức quý báu của các huynh đệ DATT, TT, VT, TN … đã truyền đạt cho chúng ta. Đôi khi những comment của PB trên diễn đàn này mục đích cũng chỉ là để để các vị huynh đệ giải nghĩa thêm cho mình khỏi lạc lối trên đường tu đạo, để phản tỉnh lại chính bản thân còn ưa chấp trước của mình.
Chúc các quý vị liên hữu luôn là người đồng hành với ĐVCT để những người như Phúc Bình có cơ hội được học hỏi, hẹn cùng nhau làm bạn hữu nơi cõi Tây Phương Tịnh Độ.
Nam Mô A Di Đà Phật!
Nam Mô A Di Đà Phật – Kính chào liên hữu Phúc Bình
DATT hoàn toàn đồng ý kiến với liên hữu PB ở chỗ: bậc thượng căn đã thông hiểu giáo lý của nhà Phật, và bậc hạ căn nếu đọc kinh chẳng hiểu thì sẽ càng sanh loạn động, hai hạng người này thì chỉ cần giữ một câu niệm Phật.
Bản thân của DATT cũng vẫn khuyên mẹ, những bác lớn tuổi, hay các bạn đồng tu nếu họ không có tư chất thâm nhập kinh điển, thì cách tốt nhất chỉ nên một dạ niệm Phật là đủ.
Còn chúng ta đây thuộc hạng nào, thượng, hạ hay trung căn?
Hòa Thượng Trí Tịnh, Hòa Thượng Tịnh Không… chẳng dám tự nhận mình là hàng thượng căn, cũng phải lo trì tụng kinh, vậy chúng ta có thuộc hàng thượng căn hay hơn các Ngài ấy chăng? Tức nhiên chúng ta ngay cả việc nghĩ mình là bậc thượng căn cũng không dám, thì làm sao dám thừa nhận mình là thượng căn chứ.
• Nhìn xem, nếu giả sử như chúng ta thuộc bậc thượng căn hay hạng hạ căn thì tại sao vẫn chưa chịu quy ẩn, giữ tâm thanh tịnh, một dạ niệm Phật mà lại rất thường có mặt lướt trên những websites Phật giáo (điển hình là ĐVCT) như vầy mỗi ngày để làm gì?
• Hằng ngày chúng ta tìm vào những websites như vầy có phải để tìm học Phật lý, để bàn luận Phật pháp hay để giúp người khác hiểu rõ thêm Phật lý?
Như vậy ắt hẳn chúng ta phải thuộc vào hạng trung căn – là hạng mà các Tổ sư nói là “hạng người rất khó độ!” . Tại sao khó độ? Vì lúc nào chúng ta cũng khởi tâm động niệm, thấy có cái này đúng có cái kia sai. Chúng ta chẳng giữ tâm mình ở trong Trung Đạo mà quán chiếu pháp này thì thích hợp với người này, pháp kia thích hợp với người kia; nói cách khác pháp Phật vốn bình đảng như nhau. Nhưng vì tâm người có sai biệt nên phải nói các pháp khác nhau, ai thấy thích hợp với pháp nào thì theo pháp đó mà tu.
• Chúng ta vào ĐVCT để diễn nói pháp hay giúp người khác hiểu thêm Phật lý, thì cái Phật lý mà chúng ta đã và đang đem ra nói đó được lấy từ đâu? Có phải lấy từ kinh Phật không?
Nếu chúng ta không trì tụng và hiểu kinh điển của Phật, vậy cái mà ta đang và đã nói là của ai, của Phật hay của ta sáng tác?
Những sự tướng hiển bày như trên cho thấy đích thực chúng ta chẳng phải là hạng người “lão thật niệm Phật”, chúng ta cùng đều thuộc hạng trung căn ‘đầy dẫy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước’, chớ chẳng phải là hạng hạ căn thật thà như chúng ta vẫn tưởng.
– Vậy hàng trung căn, “cấu nặng, chướng sâu, tâm thô, trí kém,” thường hay chấp pháp, chấp tướng như chúng ta thì lấy cái gì để độ?
Như liên hữu Phúc Bình đã nhắc lại lời dạy của Hòa Thượng Tịnh Không rằng: Hạng trung căn này cần phải trì kinh Vô Lượng Thọ thì mới có thể giảm bớt, mới đoạn trừ nổi những vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của họ.
Dưới đây DATT xin gởi tới liên hữu những lời tâm sự của Hòa Thượng Tịnh Không về công việc hoằng truyền kinh VLT của Ngài:
“Sau khi cụ Lý Bỉnh Nam vãng sanh… Lúc lão nhân gia còn sống, chúng tôi muốn hoằng truyền kinh VLT nhưng thầy Lý không đồng ý, nói bản này hiện đang bị tranh luận, bị chướng ngại trong Phật môn.
Và thầy cũng nói: “Chưa được! Tuổi anh (tức Hòa Thượng Tịnh Không) còn quá trẻ, chưa đủ uy tín. Nếu giảng kinh này người khác phê bình, anh sẽ chống đỡ không nổi.”
Vì thế lúc ấy tôi đem bản này in ra một ngàn cuốn, tôi nhớ lúc đó là vào dịp sinh nhật năm 50 tuổi của bà Hàn Quán Trưởng, và lý do chúng tôi muốn giảng kinh này cũng là để chúc thọ bà ấy, nhưng thầy Lý không đồng ý. Chúng tôi bèn đổi ra giảng kinh Lăng Nghiêm để mọi người sẽ chẳng bàn ra nói vào nữa!
Những thứ tranh luận, dị nghị, gây chướng ngại kinh [VLT] này quá nửa đều do ganh ghét, từ xưa tới nay không thể nào tránh được chuyện này. Nay chúng ta sanh nhằm thời kỳ Mạt Pháp, bất luận gì đi nữa thì đức hạnh hay trí huệ đều kém xa cổ nhân… Chúng tôi thiếu trí huệ, không có năng lực này, viết không được, bèn phát tâm ấn hành vì hiện thời việc ấn hành lưu thông thuận tiện lắm. Rộng truyền bản chú giải của cụ Hoàng cũng chính là báo đáp một phần trong muôn phần ân đức của lão nhân gia. Có tri ân, quý vị mới biết báo ân….”
DATT thiếu cả hai thứ đức và trí, nhưng vẫn hết lòng mong muốn đem bản hội tập kinh VLT của cụ Hạ Liên Cư và những lời chú giảng của cụ Hoàng Niệm Tổ giới thiệu đến đồng tu chưa biết tới, cũng là vì muốn làm giống như lời Hòa Thượng Tịnh Không bảo: “Rộng truyền bản chú giải của cụ Hoàng cũng chính là báo đáp một phần trong muôn phần ân đức của lão nhân gia. Có tri ân, quý vị mới biết báo ân….”.
Kính,
Diệu Âm Trí Thành
TỰ CHO MÌNH LÀ THẬT THÀ NIỆM PHẬT, ĐẤY CHÍNH LÀ THIẾU THẬT THÀ !!!!
Nói đến tu hành, y giải khởi hành, chấp trì danh hiệu cầu nguyện Vãng sanh vô cùng quan trọng. Do vậy người niệm Phật chẳng thể nói là chẳng cần hiểu chỉ cần thật thà niệm Phật là được rồi, nói chẳng sai nhưng vấn đề là đâu? Chưa thể thật thà được, tự cho mình là thật thà chẳng được, đấy chính là thiếu thật thà, tự cho mình là thật thà sẽ chẳng phải là thật thà. Thế nào là người thật thà? Thật sự thông hiểu đạo lý, chẳng có một vọng niệm nào, đấy mới là thật thà. Ta chỉ cần niệm A Di Đà Phật, ta không cần hiểu, thì kẻ ấy vẫn còn vọng niệm, cho nên chẳng thật thà, vì thế, thật thà chẳng dễ giải, không đơn giản như vậy. Thật thà niệm Phật quyết định thành tựu, nói đơn giản không có thị phi nhân ngã là người thật thà, còn có thị phi nhân ngã thì làm sao tính làm người thật thà cho được. Coi kẻ thị phi nhân ngã là thật thà thì ai mới là không thật thà, ai cũng thật thà hết, chúng ta thử suy nghĩ, chúng ta có đoạn được thị phi nhân ngã hay chưa. Nhất định phải cầu giải, y giải khởi hành. Ở đây, chữ giải này có thể nói là chuyên dùng để nói về bộ sớ sao này, kể cả diễn nghĩa, chúng ta phải nghiêm túc nghiên cứu, hiểu rõ nó, hiểu xong chiếu theo phương pháp, lý luận này để chấp trì danh hiệu, cầu nguyện vãng sanh. Chấp trì danh hiệu là hạnh; Cầu nguyện vãng sanh là mục đích và thành tựu của chúng ta.
“Kỳ độn căn giả, đơn do sự tướng. Chuyên trì danh hiệu, diệc đắc vãng sanh”. Mấy câu này là tất yếu, lời giảng quá sâu, dung hợp tinh hoa của Thiên Thai, Hiền Thủ lẫn hai tông và tướng, làm sao mà chẳng sâu. Thực sự là có mức độ khá sâu. Do vậy quý vị đọc phần thông tự đâu sắc so ra còn sâu hơn phần chú giải ở phía sau. Chúng ta căn tánh chậm chạp, cùng nhục ngu si, đọc cũng chẳng hiểu, nghe cũng không hiểu, không có hy vọng gì ư? Có chứ! Vẫn còn có hy vọng, có cơ hội, để đọc để nghe, đừng bỏ lỡ, chớ nên nghĩ “ta là kẻ, chậm chạp, cùng nhục, nghe cũng không hiểu, coi như xong khỏi cần nghe nữa. Lầm rồi! Nghe không hiểu vẫn cứ phải nghe, đọc không hiểu vẫn cứ phải đọc, vậy mới đúng. Nghe nhiều sẽ hiểu, xem nhiều sẽ hiểu.
Cổ nhân đã nói, đọc sách ngàn lượt sẽ tự thấy được ý nghĩ, thử hỏi, quý vị đã đọc được ngàn lượt hay chưa? Không có, không có thì quý vị cứ từ từ đọc đi, nhất định đọc nhiều, nghe nhiều tuyệt đối chẳng bỏ lỡ cơ hội. Đó gọi là Bồ Tát. Biện pháp là chỉ do sự tướng, chuyên trì danh hiệu cũng được vãng sanh. Đó gọi là sự trì, chấp trì danh hiệu có sự, có lý. Sự trì là do chưa hiểu lý, chúng ta cứ niệm một câu A Di Đà Phật chưa hoàn toàn hiểu rõ lý, chưa thể thấu triệt, còn chưa thông suốt lý nhưng một câu Phật hiệu vẫn có thể chế ngự phiền não, đạo lý này rất rõ ràng dễ thấy nhất định phải hiểu rõ điều này. Khi lục căn tiếp xúc với lục trần, bèn dùng một câu A Di Đà Phật này, khuất phục ý niệm đè nén nó, điều này chẳng khó hiểu, người căn tánh trung hạ đều hiểu cả. Tương ứng với tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ như thế nào, điều này khó hiểu.
Đừng sợ không hiểu! Chỉ niệm theo mặt sự tướng, ta niệm niệm chế ngự tham, sân, si. Niệm niệm đều có thể chế phục phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, trong mỗi niệm có Tín – Nguyện – Hạnh là được rồi, sẽ có thể vãng sanh, sẽ có thể niệm đến mức công phu thành phiến, có thể niệm đến mức sự nhất tâm bất loạn, chưa niệm đến mức lý nhất tâm bất loạn thì đã rất khá, rất khó có. Nếu hiểu rõ toàn bộ những lý luận ấy thì một câu A Di Đà Phật sẽ là lý trì, trong lý có sự, trong sự chẳng rõ lý. Chẳng thể nói là hiểu lý bèn không niệm Phật, không có đạo lý ấy. Nếu nghĩ như vậy là lầm lẫn quá đỗi, là chấp lý, phế sự. Kẻ chấp lý, phế sự nhất định chẳng đạt được gì. Cổ nhân gọi kẻ ấy là “nói chuyện ăn – đếm của báu – chẳng tu hành” phàm là người hiểu “lý” một hai thời một câu Phật hiệu tuyệt đối chẳng gián đoạn giữa chừng, nhất định còn siêng năng, mạnh mẽ hơn người “sự” trì, nhất định còn sốt sắng hơn thật sự tu hành. Người ấy thông hiểu giá trị, hễ kẻ nào hiểu lý mà chẳng thể hành nơi mặt sự thì chưa chắc kẻ ấy đã thực sự nhận biết giá trị, mạo nhận là người hiểu giá trị là dối mình lừa người. Quý vị phải hiểu, lý sự quyết định chẳng phế bỏ sự trí.
(Trích trong bài giảng của HT Tịnh Không “Kinh A Di Đà sớ sao diễn nghĩa”.)
Các thầy ơi em rất muốn niệm phật được nhất tâm nhưng em còn rất trẻ và cuộc sống cũng rất hạnh phúc, sợ niệm phật được nhất tâm khi ấy sợ phật đến rước em sớm quá, có cách nào niệm phật đến hết thọ mạng mới vãng sanh không thầy?
Bạn cứ yên tâm mà niệm Phật cho nhất tâm đi, Phật có tha tâm thông, cho dù bạn không nói, Phật cũng biết là bạn chưa muốn về Cực Lạc, còn thích ở Ta Bà cho nên Phật chưa rướt bạn liền ngay lập tức đâu.
Hơn nữa khi Phật đến rướt, mình có thể xin hoãn lại vài ngày, vài tháng, vài năm thậm chí vài mươi năm cũng được, điều này trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục cũng có kể vài câu chuyện nhưng các vị ấy xin nán lại là để hoằng dương Phật Pháp, viết sách Tịnh Độ hoặc muốn ở lại tu thêm để đổi đài bạc thành đài vàng, hạ phẩm thành trung phẩm, trung phẩm thành thượng phẩm…
Theo tình hình cho thấy bạn đã có Tín và Hạnh nhưng cái Nguyện thì…hơi khác người ta một chút vì Hành Giả Niệm Phật Phải Có 2 Tâm: Ưa Và Chán.
Sanh tử vô thường, mạng người ngắn ngủi, còn trẻ không có nghĩa là còn sống lâu, hãy xem mày thanh nhiều lắm những mồ hoang. Điển hình gần đây là anh của Nguyễn Thị Tuyết (sinh năm 1998, mất ngày 21/6/Giáp Ngọ).
A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật – Chào bạn Niệm Phật.
Bạn nên biết thọ mạng của con người không dựa trên tuổi tác. Chúng ta cứ quán sát thử xem, số người chết trẻ và số người chết già mỗi ngày trên quả đất này có hơn thua nhau gì không? Số người chết già và chết trẻ mỗi ngày chẳng có mấy sai khác!
Bạn cũng nên biết đức Phật A Di Đà chỉ đến rước bạn khi thọ mạng của bạn đã dứt. Nếu lúc ấy, bạn chừng chờ không chịu theo Phật thì đành phải trôi lăng trong lục đạo luân hồi mà thôi. Vả lại, nếu bạn không có lòng quyết tâm vãng sanh Cực Lạc thì đức Phật A Di Đà cũng chẳng đến rước bạn.
“Nhất tâm” cũng chính “Nhất Tâm Bất Loạn”, tức là trong tâm của bạn không còn một niệm nào nữa, chỉ có một niệm Di Đà mà thôi. Vậy, bạn nghĩ khi nào bạn mới có thể đạt được sự “Nhất Tâm”. Nói thật, trong đời này chúng ta chẳng thể đạt được sự niệm Phật Nhất Tâm, mà chỉ có thể đạt được công phu niệm Phật tinh tấn mà thôi. Do đó, Tín & Nguyện là hai thứ tư lương mà chúng ta phải giữ gìn kiên cố. Hai thứ tư lượng này chính là nhiên liệu hun đúc bạn thường luôn niệm Phật không gián đoạn để cảm ứng với Phật A Di Đà.
Nay, chí nguyện vãng sanh của bạn “Niệm Phật” chưa được thuần nhất, lúc muốn vãnh sanh, lúc không, nữa muốn nữa không, chưa thể buông xả ái dục thế gian thì ắt hẵn là sẽ không thể vãng sanh được. Vậy, bạn cần phải phát khởi Tín-Nguyện cho kiên cố, kẻo việc niệm Phật của bạn chỉ là uổng công.
Có hai cách để nuôi dưỡng và phát triển tín tâm:
(1) Cách thứ nhất: Bạn phải thường tụng kinh Vô Lượng Thọ và nghe giảng kinh Vô Lượng Thọ để hiểu rõ, tức là để đoạn nghi, sanh tín. Nếu bạn đọc, tụng kinh hay nghe kinh đều không hiểu thì chớ nên nãn lòng, tu hành cần phải có thời gian; đọc/ nghe kinh lâu ngày rốt cuộc cũng sẽ hiểu mà thôi, khi hiểu rồi thì hết nghi (Nghi ở đây bao gồm hết thảy thứ nghi, chẳng hạn bạn đang nghi nên vãng sanh lúc trẻ hay phải chờ già rồi mới chịu vãng sanh v.v….)
(2) Cách thứ hai: Nếu bạn là người thật thà, biết nghe lời Phật và làm đúng theo lời dạy của Phật là “Phát Bồ Đề tâm, một dạ chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh Cực Lạc” thì bạn chỉ cần chấp trì danh hiệu Phật là đủ rồi. Thế nhưng đối với tín tâm chưa vững, sự nghi ngờ trong lòng còn bời bợi như vậy thì chắc hẵn việc “lão thật niệm Phật” này đối với bạn khó thể thực hiện được. Do đó, cách thứ nhất thích hợp với bạn hơn.
DATT xin đem một câu chuyện ngụ ngôn để nêu lên hình ảnh/cái tướng của một người tuy không hiểu kinh pháp, nhưng “Thật Thà/ Lão Thật Niệm Phật”.
*** Câu Chuyện của một Người Thật Thà/ Lão Thật Niệm Phật ***
Một thuở nọ có một bà nhà quê, dốt chữ nọ nghe người ta nói niệm Phật có thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, gặp Phật A Di Đà và sẽ thành Phật. Bà ta chẳng hiểu lý sự gì cả, nhưng trong tâm bổng sanh lòng ưa thích. Một hôm nọ, bà tìm đến người em gái, là người hiểu biết Phật pháp để hỏi về vụ này. Người em gái tận tình đem giáo lý Tịnh độ giảng nói cho bà nghe, nhưng vì căn tánh của bà thuộc loại độn căn thứ nặng, nên sau khi nghe giảng xong, bà vẫn chẳng hiểu gì hết ráo. Đứa em gái thấy vậy, bèn nói với chị rằng: “Nếu chị không hiểu lời kinh Phật dạy cũng không sao, em xin tặng cho chị một quả trứng gà này, chị đem về nhà, mỗi ngày chị cứ nhìn vào nó mà niệm “A Di Đà Phật” cho đến khi nó nở ra thành một ông “A Di Đà Phật” thì lúc ấy chị sẽ được vãng sanh Cực Lạc”.
Bà nhà quê này thật thà, nghe lời đứa em gái chỉ bảo, đem quả trứng gà về nhà treo lủng lẳng giữa nhà bếp nơi bà thường ở mỗi ngày để làm việc nôi trợ. Thời thời khắc khắc, ngay trong lúc làm việc, bà đều ngắm nhìn quả trứng gà, tha thiết niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật ….” với chỉ có một tấm lòng mong muốn, ước ao sao cho quả trứng gà này mau chóng nở ra một ông Phật A Di Đà rước bà vể Tây Phương; mặc dù trong tâm của bà chẳng biết A Di Đà Phật là ai, mà cũng chẳng biết Tây Phương là ở chốn nào.
Bà nhà quê này duy chỉ có một tấm lòng tin thật thà, tin chắc là em gái của mình chẳng gạt gẫm mình, chuyện vãng sanh Tây Phương gặp Phật A Di Đà chẳng phải là câu chuyện huyền thoại, ngụ ngôn, hư dối.
Với cái tâm tin-nguyện thật thà như thế, bà nhà quê cứ mãi ròng rặc nhìn vào quả trứng gà mà niệm Phật suốt ngày suốt đêm, suốt mấy mươi năm trời, đi đứng nằm ngồi gì cũng niệm, niệm niệm không gián đoạn, không hồ nghi, thậm chí nó trở thành thói quen hằng ngày của bà, không niệm mà trong tâm vẫn cứ thường luôn niệm dù có quả trứng gà trước mặt hay không có.
Thời gian thấm thoát trôi qua, bổng dưng trong một ngày nọ, bà chợt phát đại ngộ và thốt lên một lời “À! thì ra đây chính là A Di Đà Phật”. Rồi bà tìm đến đứa em gái mà mách rằng: “Chị đã thấy được A Di Đà Phật rồi, đó cũng là nhờ quả trứng gà mà em tặng cho chị. Hôm nay, chị đến gặp em để cám ơn em và cũng để từ giả em, chị phải đi theo Phật A Di Đà về cõi Tây Phương Cực ngay bây giờ đây”. Nói xong bà nhà quê này ngồi xuống ghế, thung dung tự tại, an lạc thanh tịnh, nhẹ nhàng khép đôi mắt lại rồi an nhiên tự tại theo đức Phật A Di Đà vãng sanh Cực Lạc.
Bạn “Niệm Phật” nên tự mình đối tâm của riêng mình (không phải tâm của người khác) mà quán chiếu một trung thực, không hư dối, bạn có phải là người thật thà niệm Phật như vậy không. Nếu phải, bạn chắc chắn sẽ được vãng sanh.
—oOo—
Đức Thế Tôn xót thương, cảnh tỉnh khuyên lơn người đời “sao lúc còn khỏe, không gắng tu thiện, còn đợi bao giờ?”. Người già thể xác suy yếu, khó bề siêng tu, như kinh Niết Bàn đã bảo: “Này Ca Diếp! Ví như cây mía đã bị ép rồi, bã mía chẳng còn vị gì. Tuổi trẻ sắc đẹp cũng giống như thế, khi bị tuổi già ép thì chẳng còn có 3 thứ vị: một là vị xuất gia, hai là vị đọc tụng, ba là vị tọa thiền”.
Tuổi già mất cả ba thứ vị như vậy, nên lúc còn khỏe phải gấp rút nỗ lực, tinh tấn tu hành, sanh tử vô thường có thể xảy ra bất cứ lúc nào chẳng luận là già hay trẻ, bạn chớ nên tu hành một cách chần chừ như vậy!
Diệu Âm Trí Thành
Lời khai thị của ẤN QUANG ĐẠI SƯ
Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được, thay người làm những việc cực nhọc, thành toàn cho người là việc tốt đẹp. Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. Lúc đi đứng nằm ngồi ăn mặc, từ sáng đến tối từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật hiệu không để gián đoạn: hoặc niệm nho nhỏ, hoặc niệm thầm.
Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm, phải tức thời bỏ ngay. Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương, chỉ nên chăm sóc việc nhà mình mà đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên nhìn đến những hình dạng tốt đẹp mà đừng để mắt tới hình dạng xấu xa bại hoại. Hãy coi mọi người đều là Bồ tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu.
Nếu quả có thể tu hành được như những điều kể trên, thì nhất định được sinh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.
Người học Phật chúng ta chớ có lầm chấp vào kiến giải của chính mình. Nếu lầm chấp vào kiến giải của chính mình, ngồi đáy giếng nhìn trời, một khi Diêm La đòi mạng mới hay trước đây mình đã sai lầm, có hối cũng muộn rồi!
(Đại sư Ấn Quang)
A Di Đà Phật tất cả Liên Hữu.
Nói ngắn gọn đơn giản, có được vãng sanh về Cực Lạc hay không tùy thuộc vào một đoạn lời Phật dạy trong kinh Di Đà như sau:
“Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc.”
Nghĩa Việt:
“Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.”
Người nào có căn lành thiện duyên sâu với Đức Phật Di Đà trong kiếp quá khứ thì kiếp nầy gặp duyên hái quả vãng sanh đơn giản vậy thôi. Ai gieo duyên phát tâm niệm Phật kiếp nầy mà vẫn chưa thể tăng trưởng đầy đủ thiện căn phước đức nhơn duyên thì kiếp tương lai (có thể là rất lâu xa về sau, không nhất định là kiếp kế tiếp) sẽ được tiếp tục tu học theo pháp môn Tịnh Độ và sau cùng cũng sẽ được vãng sanh về Cực Lạc. Không gieo trồng nhân Tịnh Độ sâu xa thì không thể có quả Tịnh Độ. Dù có thông liễu nghĩa tam tạng hay đắc thiền định vô sắc giới ở mức rất sâu cũng không bằng các lão ông, lão bà niệm A Di Đà Phật được vãng sanh Cực Lạc, vì những ông bà lão này (người chân thật niệm A Di Đà Phật cầu sanh Cực Lạc) đã gieo trồng và phát Bồ Đề tâm cầu Phật quả sâu xa từ trong vô lượng kiếp, hay nói cách khác thiện căn phước đức nhân duyên thành Phật trong đời này của họ đã chín muồi vậy.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.