Muốn nhanh chóng thoát khỏi nỗi khổ luân hồi, không gì bằng trì danh niệm thánh hiệu A Di Đà Phật cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Muốn chắc chắn vãng sanh cõi Cực Lạc, không gì bằng lấy lòng tin làm người dẫn đường phía trước, sự phát nguyện làm người thúc đẩy ở sau. Tin sâu, nguyện tha thiết, dù tâm tán loạn niệm Phật cũng được vãng sanh. Tin không chân thật, nguyện không mạnh mẽ, dù nhất tâm không loạn cũng chẳng được vãng sanh.
Sao gọi là Tin?
1. Tin nguyện lực của Phật A Di Đà.
2. Tin lời dạy của Phật Thích Ca.
3. Tin lời khen ngợi của chư Phật trong sáu phương.
Không tin những điều ấy, thật không thể cứu độ. Cho nên, trước phải tin sâu đừng sinh khởi nghi hoặc.
Sao gọi là Nguyện?
Lúc nào cũng chán nản nỗi khổ sinh tử nơi Ta Bà, ưa thích niềm vui giác ngộ nơi Tịnh Độ. Có làm việc gì, hoặc thiện hoặc ác, thiện thì hồi hướng cầu vãng sanh, ác thì sám hối nguyện cầu vãng sanh, hoàn toàn không có hai chí hướng. Đó là Nguyện.
Tín–Nguyện đã đầy đủ thì niệm A Di Đà Phật mới là chánh hạnh, sửa ác làm lành đều là trợ hạnh. Tùy công phu sâu cạn phân ra chín phẩm bốn cõi, chẳng lạm mảy may, chỉ cần chính mình kiểm xét, chẳng cần hỏi han kẻ khác.
Người tin sâu, nguyện thiết, niệm A Di Đà Phật, nhưng khi niệm Phật tâm còn nhiều tán loạn, chỉ được sanh về Hạ phẩm Hạ sanh. Tâm loạn dần ít, được sanh về Hạ phẩm Trung sanh. Không còn tán loạn, được sanh về Hạ phẩm Thượng sanh.
Niệm đến Sự nhất tâm không loạn, chẳng khởi tham sân si, được sanh về ba phẩm Trung. Niệm đến Sự nhất tâm không loạn, tự nhiên trước đoạn kiến tư trần sa hoặc, cũng có thể hàng phục và đoạn trừ vô minh, được sinh về ba phẩm Thượng.
Thế nên, Tín–Nguyện–Trì danh niệm A Di Đà Phật có thể trải qua chín phẩm, xác thật không sai lầm. Hơn nữa, người Tín–Nguyện–Trì danh tiêu trừ hàng phục nghiệp chướng, còn lậu hoặc được vãng sanh thì ở cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Đoạn sạch kiến tư hoặc mà vãng sanh thì ở cõi Phương Tiện Hữu Dư. Phá tan một phần vô minh mà vãng sanh thì ở cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Trì niệm đến chỗ cứu cánh, đoạn sạch vô minh mà vãng sanh thì ở cõi Thường Tịch Quang.
Thế nên, Trì danh có thể làm thanh tịnh bốn cõi, cũng là điều xác thực không sai lầm.
Trích lời dạy của Đại Sư Ngẫu Ích từ “Linh Phong Tông Luận”
trong cuốn “Niệm Phật Chỉ Nam” do Thầy Thích Minh Thành biên dịch.
Trong quyển Long Thơ Tịnh Độ HT Thích Hành Trụ cũng có ghi:
” Vãng sinh, nghĩa là ly bỏ cõi Ta Bà qua sinh nơi cõi Tịnh độ. Nhưng cõi Tịnh độ tuy là một cảnh, mà vãng sinh có chia nhiều phẩm khác nhau :
1 – Người thượng căn thượng trí hiểu lý Đại thừa giữ trọn giới luật, nhất tâm niệm Phật quán Phật trong một ngày không một phút nào là không niệm và không quán tưởng, cho đến trọn đời và đến khi lâm chung cũng vậy, không một khi nào là quên cái nguyện vãng sinh về cõi Phật, tu được như thế thì chắc chiếm đặng bậc thượng phẩm thượng sinh, mau đắc đạo thành Phật. Cũng như người thế gian tài trí siêu việt thì phẩm hàm chắc đặng cao thăng, lộc vị chắc đặng mau lớn vậy.
2 – Người trung căn trung trí, hiểu lý trung thừa, giới luật giữ đặng phân nửa, trọn đời cũng niệm Phật, phát nguyện cầu sinh, đến cái bậc nhất tâm bất loạn, thì không bì đặng với người thượng trí, tu như vậy thì đến lúc lâm chung chắc sinh về hạng trung phẩm, ít nữa cách hai kiếp sẽ đặng thành Phật. Cũng như người thế gian, tài trí bình thường, phải do theo giai cấp mà bổ quan, lộc vị không đặng mau lớn.
3 – Còn người hạ căn hạ trí, đã không hiểu đặng đạo lý, không giữ đặng giới luật, mà niệm Phật cũng không đặng nhất tâm, khi tán tâm thì nhiều lúc định tâm thời ít, tu như vậy thì đến lúc lâm chung chắc sinh về bậc hạ phẩm, ít nữa cũng cách đến nhiều kiếp mới tỏ tánh đắc đạo mà thành Phật. Cũng như người thế gian đương khi tài chưa thành, trí chưa mở, thì phải làm dân mà chờ thời, chớ không đặng vội trông đến sự làm quan vậy.”
Như vậy có thể thấy hàng phàm phu sát đất chúng ta niệm Phật tán loạn vẫn có phần vãng sanh nhưng theo những gì PB đã đọc được thì các Ngài vẫn khuyên chúng ta niệm Phật phải Nhất tâm, có nghĩa là trong thời khoá mình định ra ngoài việc quan tâm đến thời gian niệm Phật, số lượng còn là xem xem sau một thời gian số câu niệm không bị vọng tưởng là bao nhiêu, có tiến bộ hay không. Cố Hoà thượng Thích Giác Khang giảng về hạnh niệm Phật để nhất tâm rất hay. HT cho rằng niệm Phật như dăt trâu đi trên đê, để tán loạn cũng ví như để trâu sa xuống dốc vậy, cho nên phải lấy pháp thập niệm ký số để cầm cương con trâu này không cho nó chạy lung tung. Niệm từ 1 đến 10 mà không bị vọng tưởng mới lần 1 hạt ( hoặc bấm 1 số), hạng bình thường kém cỏi thì sau một năm đạt được mức niệm 1000 tiếng liên tục phải không bị vọng tưởng trong thời khoá và tăng dần lên theo thời gian tu tập.
Các vị liên hữu hãy thử quát sát lại mình xem đã được như vậy chưa, PB đã thử và nghiệm thấy rằng để niệm 1000 tiếng không khởi vọng tưởng như vậy còn khó hơn vạn tiếng niệm chỉ để lấy số lượng.
Đôi lời chia sẻ.
Nam Mô A Di Đà Phật!
Kính chào bạn PB.
Đại cố HT Thích Trí Tịnh có chỉ dạy phải nên tập niệm Phật đếm số từ 1-3 bấm một hột cho giỏi cộng phu đắc lực không tán loạn rồi thì mới tiến đếm số từ 1-5 một hạt. Sau khi hành giả đắc lực trình độ niệm Phật từ 1-5 không tán loạn thì mới có thể nghĩ đến phương pháp thập niệm. Phương pháp cố HT Thích Trí Tịnh. nghĩ ra do cái nghiệm ngài tu tập cả đời hơn 60 năm mới đạt được bất niệm tự niệm phải đồi hỏi người tu niệm Phật phải có sức kiên nhẫn tu tập từ từ thẳng tới quả vị vãng sanh trong 9 phẩm liên hoa.
Chúng ta phàm phu xác đất thì nên tu tập theo trình độ của mình không nên ngồi trông núi nầy núi kia. Cố Hoà Thượng TT là bậc thượng căn mà còn phải mất hơn 60 năm mới đạt được tâm bất loạn trong đời còn chúng ta có ai căn tánh trí tuệ trong thời nầy hơn ngài không mà lại đi khởi vọng tưởng đắc nầy đắc nọ. Huệ Tịnh nầy coi Cố HT TT Tịnh như là ơn sư vì 10 mấy năm trước tuy không để ý tới Phật pháp bao nhiêu nhưng từ khi có nhơn duyên đọc cuốn sách “Đường về Cực Lạc” của Cố HT mà mới có lòng tin phát nguyện vãng sanh Cực Lạc. Cho nên phàm phu như Huệ Tịnh chỉ nguyện sanh về Cực Lạc là vui rồi. Làm cây làm cỏ làm chim gì cũng được miễn sao ở gần Đức Phật Di Đà và các Đại Bồ Tát Thánh chúng nghe pháp nhiệm mầu là đại phước rồi.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc A Di Đà Phật.
Kính đạo hữu Huệ Tịnh.
Phúc Bình không rõ cách hướng dẫn niệm Phật của cố đại lão hòa thượng Thích Trí Tịnh mà bạn nêu được trích dẫn từ đâu, ngay cả việc bạn cho rằng HT đạt được “tâm bất loạn” theo ý hiểu của PB chắc là bạn diễn đạt mức thành tựu nhất tâm bấn loạn cũng chưa từng được Hòa thượng nói đến. Hòa thượng chỉ cho rằng mình đạt được mức “Bất niệm tự niệm”. Hòa thượng chưa bao giờ có ý nói ra mình đạt được nhất tâm bấn loạn cho nên xin bạn cũng đừng suy diễn, mọi sự comment trên diễn đàn này chúng ta cũng chỉ là diễn tả lại lời Phật, lời Tổ – tự chúng ta chưa có thành tựu gì để có thể chỉ bảo người khác . Mình diễn tả lại đúng đắn thì mình thấy có chút vui vẻ vì đem lại lợi ích cho ai đó còn chưa biết, mình diễn tả không đúng vô tình lại làm tổn phước chính mình.
Hòa thượng Thích Trí Tịch giảng về pháp tu niệm Phật như thế này:
“Lúc niệm Phật đừng ham nhiều rồi niệm phớt phớt, không cần nhiều nhưng phải thật rành rõ. Khi công phu nắm thiệt vững chỗ này. Kế đến là “tâm tiếng hiệp khắn nhau”, tuy khó nhưng luôn luôn cố gắng, đừng để lúc niệm Phật tiếng một nơi, tâm một ngã. Đó là tu không đúng rồi, mà không đúng thì không thể được. Ví như anh thợ mộc muốn làm cái bàn, anh phải làm đúng phương pháp thì mới thành ra cái bàn. Do vậy, việc quan trọng trước nhất là phải tu đúng pháp. Trì danh niệm Phật mà tâm tiếng hiệp khắn nhau gọi là tu đúng pháp, còn sai trật thì không được gì.
Muốn được như vậy, tôi đã dùng chuỗi để hạn định thời gian,LÚC ĐẾN CHỖ MƯỜI CÂU MỚI LẦN MỘT HỘT phải mất mấy tiếng đồng hồ mới rồi một xâu chuỗi. Mỗi thời niệm Phật như vậy, ngồi khoanh chân niệm thầm phải mất hai tiếng đồng hồ. Tu hành phải chịu khó, phải bền bỉ thì mới có chỗ được. Lúc tôi niệm thầm mười tiếng lần một hột chuỗi, trong mười tiếng đó tới câu số tám hoặc số chín mà xao lãng thì bỏ không lần qua, bắt đầu từ một trở lại. Thế nhưng lúc thành tựu được chút gì trên đường đạo (đạo lực), trong tâm an lạc khỏe lắm!”
Đại sư Ấn Quang cũng có dạy về pháp Thập niệm ký số như sau:
“Nếu niệm Phật tâm khó quy nhất thì nên nhiếp tâm niệm khẩn thiết, tâm sẽ tự có thể quy nhất. Tâm chẳng chí thành, muốn nhiếp tâm cũng chẳng được. Nếu đã chí thành, nhưng vẫn chưa thuần nhất thì hãy nên lắng tai nghe kỹ; chẳng luận là niệm ra tiếng hay niệm thầm, mỗi niệm đều phải từ tâm khởi, tiếng từ miệng thoát ra, âm thanh lọt vào tai (khi niệm thầm, miệng chẳng động, nhưng trong ấy vẫn có thanh tướng). Tâm và miệng niệm được rõ ràng, tách bạch; tai nghe cho rõ ràng, phân minh. Nhiếp tâm như thế vọng niệm sẽ tự dứt.
Nếu sóng vọng tưởng vẫn còn trào dâng thì dùng ngay pháp Thập Niệm Ký Số, dốc toàn bộ sức lực của tự tâm đặt vào mỗi câu Phật hiệu thì vọng muốn khởi cũng chẳng đủ sức. Diệu pháp nhiếp tâm niệm Phật rốt ráo này các vị hoằng dương Tịnh Ðộ trước kia chưa nhắc đến vì căn tánh người thời ấy còn lanh lợi, chẳng cần phải làm vậy vẫn có thể quy nhất. Ấn Quang vì tâm khó chế phục, mới biết cách này mầu nhiệm, càng thực hành càng thấy hiệu nghiệm, chứ chẳng phải là tự tiện nói mò. Xin chia sẻ cùng những người độn căn trong khắp thiên hạ đời sau ngõ hầu vạn người tu, vạn người về.
Pháp Thập Niệm Ký Số vừa nhắc đến đó như sau: Trong khi niệm Phật, từ một câu đến mười câu phải niệm cho phân minh, nhớ số phân minh. Niệm hết mười câu lại niệm từ một câu đến mười câu, chẳng được niệm hai mươi, ba mươi câu. Niệm câu nào nhớ câu nấy, chẳng được lần chuỗi, chỉ dựa vào tâm để nhớ. Nếu thấy khó nhớ cả mười câu thì chia ra làm hai hơi: từ câu thứ nhất đến câu thứ năm và từ câu thứ sáu đến câu thứ mười. Nếu vẫn chưa được, hãy niệm thành ba hơi: từ câu thứ nhất đến câu thứ ba, từ câu thứ tư đến câu thứ sáu, và từ câu thứ bảy đến câu thứ mười. Niệm cho rõ ràng, nhớ cho phân minh, nghe cho rành rẽ, vọng niệm không chỗ chen chân, lâu ngày sẽ tự được Nhất Tâm Bất Loạn.”
Pháp Thập niệm ký số này tại sao lại lấy số 10 mà không phải là con số khác, theo PB suy luận có thể xuất phát từ lời nguyện thứ 18 của đức Phật A Di Đà “Lúc tôi thành Phật thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, (trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp), thời tôi không ở ngôi Chánh giác.”
Như vậy bạn có thể thấy HT Thích Trí Tịch giảng về pháp niệm Phật cũng đồng theo cách Ngài Ấn Quang đã chỉ dẫn, không có sai khác.PB nêu ra cách cố Hòa thượng Thích Giác Khang giảng về thập niệm ký số cũng không có khác với Tổ Ấn Quang và của cố HT Thích Trí Tịnh, bạn đọc kỹ, hiểu sâu hơn một chút đều thấy các ngài hướng chúng ta đến niệm Phật nhất tâm. Niệm Phật nhất tâm không phải là Bất niệm tự niệm – xin bạn đừng có nhầm lẫn, ở đây không có sự mong cầu nào cả mà đơn giản là sự lựa chọn phương pháp tu tập mà thôi. Hoặc bạn lựa chọn niệm thật nhiều, bất kể có tán loạn hay không tán loạn thì khi lâm chung nếu gặp duyên thù thắng bạn vãng sanh về Hạ phẩm. Hoặc bạn lựa chọn phương pháp niệm Phật nhất tâm để đạt được đạt được lợi ích như các Ngài đã nêu, vãng sanh có thể dự hàng Trung phẩm, Thượng phẩm nếu không may thì rớt hàng Hạ phẩm. Hòa Thượng Tịch Không cũng giảng nhiều về điều này rồi, HT Tịnh Không cho rằng chúng ta tu tập dãi đãi mong mình may mắn dự hàng Hạ phẩm thôi thì không may mà rớt thì rất nguy hiểm.
Mong bạn Huệ Tịnh đọc và nghe kinh nhiều hơn nữa để có thể chỉ dẫn Phúc Bình và các bạn hữu khác trên đường tu.
Nam Mô A Di Đà Phật!
Phúc Bình cũng mong bạn xem lại lời nguyện của mình, bạn cho rằng nguyện “Làm cây làm cỏ làm chim gì cũng được miễn sao ở gần Đức Phật Di Đà và các Đại Bồ Tát Thánh chúng nghe pháp nhiệm mầu là đại phước rồi.” là nguyện là loài vô tri làm loài bàng sanh. Cái nguyện này của bạn không phải sự khiêm cung mà là rất nguy hiểm dễ đưa đẩy bạn vào con đường ác đạo. Chắc chắn bạn biết rằng cõi Tịnh độ không có loài bàng sanh sao bạn lại muốn làm chim thú ở đấy thì Phật A Di Đà có thỏa cho bạn được cái ước nguyện này không. Hay khi thần thức bạn đang tán loạn lúc lâm chung có ma quỷ giả dạng đến bảo bạn đi đầu thai làm chim ca lăng tần già nơi cõi Cực Lạc, bạn vui sướng đồng ý theo cái nguyện đó của mình thế là bao công sức tu tập của bạn trong đời này không phải đổ sông đổ biển hay sao. Cho nên cái nguyện của mình có đúng pháp hay không rất quan trọng, mong bạn suy xét kỹ.
Nam Mô A Di Đà Phật!
Mô Phật đạo hữu Phúc Bình.
1. Nếu PB đọc kỹ lại Huệ Tịnh có nói ở đoạn trước cố đại lão HT T Trí Tịnh đạt bất niệm tự niệm nhưng đánh sai câu nhất tâm bất loạn ở đoạn sau đáng lý là phải nói bất niệm tự niệm. HT thành thật xin lỗi khiến PB hiểu lầm.
2. Nếu PB bình tĩnh suy tư kỹ hơn thì Huệ Tịnh chỉ nhắc lại lời khai thị của cố đại lão HT T Trí Tịnh là ngài chỉ dạy niệm Phật tu tập từ 3 câu lần một hột. Khi nào 3 câu chắc chắn không tán loạn thì ngài nói tiến lên 5 câu. Cứ theo vậy mà từ từ tiến lên 7 câu rồi mới tới 10 câu. Huệ Tịnh đây chỉ muốn bổ sung nhắc nhỡ lời của sư tổ để cho các Phật tử sơ cơ phát tâm niệm Phật hiểu cách tu tập đúng đường chắc chắn chứ không thôi nghĩ mới tu niệm Phật theo phương thức thập niệm thì chắc là hơi khó rồi. Cái đó PB đã hạ thủ công phu đủ biết. Xin xem video của ngài sẽ hiểu thêm.
Khai Thị Của Một Vị Chân Tu Đã Đạt Bất Niệm Tự Niệm – HT T Trí Tịnh
http://www.youtube.com/watch?v=GyK0lP8nH5M&feature=youtube_gdata_player
3. Nếu PB có tụng qua kinh Di Đà hằng ngày thì chắc chắn không dám phát lời sai lầm cho là cõi Cực Lạc không có cây, cỏ, chim mà cũng không nên cho rằng các loài chim là bàng sanh ác đạo mà có ở cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà mang tội lắm đó anh bạn. PB nên xem lại nghiên cứu cho kỹ kinh Di Đà đi trước khi nòi lời nguy hiểm quá. Nếu PB nói vậy thì HT Thích Giác Hạnh giảng bài “Sự Mầu Nhiệm Của Pháp Môn Niệm Phật” chắc ngài cũng đi vào đường ác đạo luôn hay sao? Xin đạo hữu PB xem video.
http://www.youtube.com/watch?v=_fIsoQbtmjM&feature=youtube_gdata_player
Huệ Tịnh đây xin thệ nguyện nếu có tâm lên trang DVCT không vì lợi ích cho các Phật tử sơ cơ phát tâm tu pháp môn niệm Phật thì xin cho mình đọa xuống địa ngục liền. Nếu thiệt vì lợi ích lớn thì xin mươi phương Tam Bảo gia hộ thành tựu viên mãn. Còn các vị Liên hữu nào kinh nghiệm đầy người đạo hạnh thâm sâu thì HT đây không dám không dám chỉ dạy vì một xâu chuỗi mình còn chưa niệm Phật được nhất tâm bất loạn cho nên không dám nghĩ đến.
Từ Kinh Di Đà:
“Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao?”
http://phapamgiaithoat.com/index.php?option=com_content&view=article&id=252:kinh-a-di-da-nghia-viet&catid=50:kinh-tung&Itemid=70
Đạo hữu PB nên nhớ cho dù công phu niệm Phật chúng ta tu tập trong thời khoá hằng ngày cao đến đâu nhưng khi bước chân ra ngoài vòng tiếp xúc ngoại cảnh phải cẩn thận để ý cái tâm giữ sức lực bình tĩnh. Thuận cảnh hay nghịch cảnh xuất hiện bất ngờ nếu chúng ta niệm Phật mà không có cái sức bình tĩnh thì sẽ bị động tâm sân lên mất hết công đức nhất là khi lâm chung gia đình con cái sơ ý chọc tức là tiêu không vãng sanh tiếc lắm. Vài lời chia sẻ kinh nghiệm đang còn tu tập của HT xin PB hoan hỉ cho.
Nam Mô Hoan Hỉ Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô A Di Đà Phật
Phúc Bình thấy rằng đạo hữu vẫn còn vướng mắc rất nhiều điều, ở đây điều mà PB muốn nói đến là cái nguyện của đạo hữu làm cây, làm chim nơi cõi Cực lạc có đúng pháp hay không (PB cũng nói rõ là cõi Cực Lạc không có loài bàng sanh). Nếu như Phúc Bình không trao đổi với bạn về vấn đề này cũng sẽ có đạo hữu khác trao đổi với bạn vì thấy bạn đi sai đường thì không thể đứng yên mà nhìn.
Trong kinh A Di Đà có câu “ Rồi lại còn nữa, Xá Lợi Phất ơi! Nước kia thường có nhiều các loài chim, màu đẹp, vẻ lạ như: chim hạc trắng, chim vẹt, chim công, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mạng. Những đ àn chim ấy, ngày đ êm sáu buổi, tiếng hót hòa nhã, diễn ra các pháp: ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phận, bát thánh đạo phận, và nhiều phép khác cũng như thế nữa. Chúng sinh nước kia nghe tiếng ấy rồi đều vui niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. “ đã được đức Phật giải thích ngay là “Xá Lợi Phất này! Ông chớ bảo rằng: Những loài chim ấy thực vì tội báo phải làm kiếp chim. Là vì lẽ sao? Vì nước Phật kia không bao giờ có ba loài ác đạo. Xá Lợi Phất này! Trong nước Phật kia, cái tên ác đạo còn không thấy có, huống chi lại có ác đạo thật ư? Những chim ấy là Phật A Di Đà muốn cho tiếng Pháp chan hòa khắp nơi mà biến hóa ra. “
Như vậy bạn biết rằng cái mong muốn chỉ cần làm chim của bạn sẽ không thành vì cõi cực lạc không có loài súc sanh các loại được đầu thai từ nơi khác về. Nguyện làm cây của bạn càng phải xem xét, nếu bạn có đọc về các sám giảng của ngài Huỳnh Phú Sổ ( đạo Hòa Hảo) hay bài giảng có Hòa thượng Tuyên Hóa mới thấy rằng cây cỏ tưởng vô tri kia cũng chính là do cái nguyện của chúng sanh mà thành. Kẻ cùng hung cực ác không thể cải tạo, kẻ si mê nguyện làm cây cỏ khi mất thân, thần hồn tán loạn thành tám vạn bốn ngàn mảnh chiêu cảm làm linh tánh của chừng đó cây cỏ, hoa lá. Vô lượng vô số kiếp về sau mới có thể tụ lại được.
Ngoài ra cái nguyện đọa địa ngục của bạn cũng rất không nên, hàng Thánh Tăng họ quán xét được tâm tưởng của mình từng sát na nên không để khởi lên vọng niệm luân hồi nên họ có thể phát nguyện như vậy được. Mình phàm phu vọng niệm luôn trùng trùng điệp điệp, niệm xấu, niệm tốt đan xen nhau mình đâu chắc không có khởi tâm phân biệt, chấp ngã … do đó vì cái nguyện này mà mình không may phạm phải thì đọa địa ngục rồi biết ngày nào mới ra. Không thể coi thường lời nguyện của mình, nó như lời thề và sức nghiệp của nó là rất mạnh mẽ.
Phúc Bình mong bạn hãy chiêm nghiệm lại những lời nguyện của mình, thấy được đúng sai mà lựa chọn hướng đi đúng đắn.
Nam Mô A Di Đà Phật!
Mô Phật, đạo hữu Phúc Bình:
HT xin chịu thua không dám bàn luận thêm vô ích. Chúc đạo hữu sớm ngày sanh về Cực Lạc chứng quả vô sanh pháp nhẫn rồi nhớ khởi lòng từ bi chở lại ta bà độ cho tui vì nhơn duyên hôm nay.
A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật
Trung Đạo kể mẩu chuyện nhỏ này để Đạo hữu Huệ Tịnh và Phúc Bình nghe cho khuây khoả nghe.
… Một lần Tổ Huệ Năng đi qua chỗ hai vị Tăng, khi đó có gió thổi, lá phướn bay… và hai vị Tăng đó bèn tranh biện.
Một vị nói: Phướn (cờ) động.
Vị kia nói: Gió động.
Thấy cuộc cãi vã của hai vị không có hồi kết thúc, Tổ bèn bước lại bảo:
Chẳng phải gió động. Chẳng phải phướn động. Tâm các ông động.
Tâm động, tâm không động … thiết nghĩ người tu Tịnh chúng ta cũng không nên quan tâm mà sinh vọng tưởng. Có ai phàm phu mà tâm không động, có ai còn comment trên diễn đàn này mà tâm không động nhưng cái hay, cái thù thắng nhất của người tu Tịnh chúng ta là sống trong đời tâm còn động vẫn được vãng sanh.
Nếu bạn đọc “Cực lạc di luận đạo” sẽ thấy có câu nói của Bồ tát trong đó rất đang suy ngẫm đó là: người đời nay tu tập thường là tu trong sự tranh luận.Cho nên PB thấy rằng việc mình tranh luận để biết mình còn sai ở đâu để sửa, tranh luận để học tập cái hay của các bạn đồng tu, tranh luận để xem cái tâm ngã mạn, hơn thua … của mình đang ở mức nào là rất xứng đáng để làm, không có gì là vô ích.Chỉ vô ích khi mình không chịu học hỏi, sửa đổi mà thôi. Người xưa đã bảo “Học Thày không tày học bạn” mà bạn.
Kính bút.
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô A Di Đà Phật!
TĐ: Trung Đạo kể mẩu chuyện nhỏ này để Đạo hữu Huệ Tịnh và Phúc Bình nghe cho khuây khoả nghe.
HT: Thiện Tai, Thiện Tai. Đặt tên Trung Đạo rất hay rất hay.
A Di Đà Phật@Trung Đạo … hahaha!
Chỉ cần tin sâu nguyện thiết, thành thực chuyên niệm thì không có người nào mà không thành tựu. Đại sư Thiện Đạo nói rất hay, đây là pháp môn “vạn người tu vạn người vãng sanh”. Nhưng tại sao ngày nay người niệm Phật nhiều như vậy nhưng người vãng sanh thì quá ít? điều này có hoàn toàn trái ngược với lời nói này của đại sư Thiện Đạo hay không? chúng ta nghĩ xem, không có trái ngược.
Đại sư Thiện Đạo nói vạn người tu vạn người vãng sanh, nhưng bạn không có tu mà, bạn chỉ có niệm không có tu nên không thể vãng sanh. Cái gì gọi là tu? Tu là đem tập khí xấu của chính mình thay đổi lại, đó gọi là tu. Nếu bạn niệm Phật tín tâm không đủ, tức là bạn không có tu, bạn phải đem nó thay đổi lại. Bạn tâm nguyện không thiết, xen tạp quá nhiều, Tín-Nguyện-hạnh đều không đạt đến tiêu chuẩn.
Không phải kinh này không linh, không phải lời tổ sư nói không đáng tin cậy, mà chính mình phải nghĩ lại xem, là ta có đem những tập khí tâm bệnh này thay đổi hay không. Tu chính là sửa đổi lại. Nói tóm lại, thân tâm thế giới bạn có phải thật đã buông bỏ rồi không? buông bỏ thì mới có thể đi, buông bỏ mới có thể chuyên tâm, chuyên tâm chính là buông bỏ vọng tưởng, buông bỏ xen tạp, buông bỏ nghi lo, là chuyên tín. Những thứ này bạn chưa buông bỏ, thì nó sẽ chướng ngại bạn, kinh điển không hề chướng ngại bạn, giáo huấn của tổ sư đại đức không hề chướng ngại bạn, bạn phải biết chướng ngại bạn là ở chỗ nào, bạn phải tìm cho ra chỗ chướng ngại, phải trừ bỏ đi chướng ngại thì trên đạo Tịnh Độ mới thuận buồm xuôi gió.
(Trích lời HT. Tịnh Không giảng từ Kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác)
Xin chào các vị liên hữu.
Huệ Tịnh muốn hỏi có đạo hữu nào thực tập phương pháp nầy qua chưa? Nếu có thì kết quả đúng như bài đã chỉ dạy không? Huệ Tịnh chuẩn bị phát tâm thử xem mỗi khi thức dậy nửa đêm xuống giường tọa trước bàn thờ niệm Phật 3 xâu chuỗi (15 phut) xem ra sao rồi đi ngủ lại. Xin các vị nào đã có thực tập kinh nghiệm qua chia sẻ cho HT học hỏi thêm.
Nam Mô A Di Đà Phật!
———————————————–
Phương pháp giúp Niệm Phật khi ngủ
Sư hỏi vị tăng Hải Châu: “Niệm Phật có thường gián đoạn chăng?”
Tăng đáp: “Hễ nhắm mắt ngủ liền quên mất”.
Sư nghiêm mặt, quở:
Nếu nhắm mắt liền quên thì niệm Phật như vậy dù có niệm một vạn năm cũng vô ích! Từ nay trở đi, ông cần phải trong lúc ngủ cũng niệm Phật chẳng gián đoạn thì mới có phần thoát khổ nổi!
Nếu trong giấc ngủ chẳng niệm Phật được, quên mất đi thì khi mở mắt ra liền buồn khóc, nhỏm dậy ngay, đến ngay trước đức Phật dập đầu đến chảy cả máu, hoặc niệm ngàn tiếng, vạn tiếng, dốc cạn hết sức chính mình mới thôi. Làm như thế chừng hai ba chục lần thì tự nhiên trong khi ngủ mê mệt, niệm Phật cũng chẳng bị gián đoạn.
Người đời niệm Phật hoặc là hai, ba chục năm hoặc suốt đời niệm Phật mà đến lúc lâm chung lại thành vô dụng là do lúc ngủ nghỉ chẳng hề có ý niệm nhớ đến Phật. Người sống như đang tỉnh, người chết như mộng; bởi vậy, người nào trong mộng vẫn niệm Phật thì lúc lâm chung tự nhiên chẳng loạn vậy! Muốn khám nghiệm một cách chính xác xem mình niệm Phật có chơn thật hay không thì chỉ cần quan sát lúc mình hoan hỷ và phiền não thì biết rõ ràng ngay là Tâm mình chơn thật hay giả dối.
Ðại để, người Chơn Tâm Niệm Phật dù là lúc hoan hỷ hay phiền não thì tất nhiên vẫn “Niệm Niệm chẳng gián đoạn vì phiền não chẳng lay động người đó nổi, hoan hỷ cũng chẳng lay động người đó được” Phiền não lẫn hoan hỷ đều đã chẳng lay động nổi người đó thì trong cảnh sanh tử sẽ tự nhiên chẳng hoảng sợ. Nay người niệm Phật vừa mới gặp phải chút vui mừng, giận hờn đã vứt A Di Ðà Phật ra sau ót thì sao mà niệm Phật được linh nghiệm cơ chứ?
Nếu làm theo cách niệm Phật của tôi, thật sự có thể chẳng quên mất câu A Di Ðà Phật trong lúc yêu ghét, thế mà chẳng được lợi ích gì trong cuộc sống hằng ngày cũng như khi lâm chung chẳng được vãng sanh thì cái lưỡi của tôi ắt sẽ bị gãy nát vậy!
Nhận định:
Pháp này rất diệu, muốn khám nghiệm “Tâm Niệm Phật” là chơn thật hay giả dối chỉ cần xét trong lúc hoan hỷ hay phiền não. Nếu như trong giấc ngủ, việc niệm Phật bị gián đoạn thì hãy nên dũng mãnh tinh tấn làm theo cách này thì hiện tại sẽ được lợi lạc, lâm chung tự được vãng sanh.
Trích yếu sách Tử Bách Lão Nhân Tập
của đại sư Tử Bách Ðạt Quán đời Minh
Xin chào ĐH Huệ Tịnh,
KG thấy phương pháp đạo hữu giới thiệu rất hay, đặc biệt có nhắc đến việc chúng ta quan sát lúc ngủ, lúc hoan hỷ, lúc sân giận, v.v. xem tâm chúng ta có giữ được câu niệm Phật hay không, nếu chưa được phải cố gắng đạt đến khả năng này thì công phu niệm Phật mới đạt kết quả tốt.
KG xin mạn phép chia sẻ một tí về bản thân. Hiện tại KG cũng tập quan sát xem trong giấc ngủ mình có nhớ niệm Phật hay không. Buổi tối mệt mỏi quá độ chìm vào giấc ngủ thật sâu, đôi khi cũng có chiêm bao thấy mọi việc Sáng tỉnh ra, nếu nhớ lại không niệm Phật thì thật là buồn vì chánh định mình còn quá yếu.
Giữ câu niệm Phật lúc tỉnh không khó nhưng ngủ mà vẫn niệm được thì không dễ tí nào vì lúc lâm chung cũng gần như vậy, cho nên việc này cũng đáng quan tâm. Huệ Tịnh có nghĩ vậy không?
Chúc đạo hữu thành tựu nguyện vãng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật
Đạo hữu Phúc Bình thân mến,
Tâm động, tâm không động … thiết nghĩ người tu Tịnh chúng ta cũng không nên quan tâm mà sinh vọng tưởng.
Câu này thật chẳng đúng và cũng thật nguy hiểm. Trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật Phật Thích Ca khuyên Diệu Nguyệt Bồ tát và bà Vi Đề Hy như sau: „Người niệm Phật chỉ cột chặt tâm vào danh hiệu Phật, chăm chú lắng nghe, từng câu rõ ràng, từng niệm phân minh. Quên cả thân, quên cả cảnh, quên cả cái ý thức biết mình đang niệm Phật…“.
Tại sao Phật lại khuyên hành giả niệm Phật „phải cột chặt tâm vào danh hiệu Phật“? Bởi nếu chẳng cột chặt tất tâm ấy sẽ lăng xăng và sẽ sanh vọng tưởng không dứt. Vọng tưởng từ đâu tới? Từ tâm tham, sân, si, ngã mạn, phân biệt, chấp trước (tâm vô minh). Vậy nếu nói: „tâm động, tâm không động cũng không nên quan tâm mà sanh vọng tưởng“ là hình như Đạo hữu đang sanh vọng tưởng? Bởi cái ý khởi lên “không nên quan tâm” thì đã là vọng tưởng rồi. Hơn nữa nếu Đạo hữu chẳng vọng tưởng thì làm sao biết đó là động và chẳng động? Bằng không thì Đạo hữu đang chấp cái không ngơ. Nghĩa là chẳng có động, chẳng có tịnh. Thực tế là trong động có tịnh; trong tịnh có động. Nói 2 mà là một; một mà là hai. Một hay hai là do tâm của mỗi chúng ta. Chấp thì là hai; chẳng chấp thì là một. Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc chính là không, không chính là sắc cũng là ý vậy. Khi hành giả niệm Phật hành trì đã có một chút tiến bộ sẽ có rất nhiều vi tế niệm xảy ra, ập tới, nếu chúng ta không khởi quán kịp thời sẽ đi vào vọng cảnh lúc nào chẳng hay.
Vạn pháp duy tâm tạo. Các pháp đều do duyên sanh rồi cũng do duyên diệt. Nếu chấp sự sanh-diệt đó thì là mê, là vọng tưởng nên chẳng thấy pháp. Ý Tổ Huệ Năng nói: Đừng nên chấp pháp. Hai vị Tăng vì chấp có cờ bay, có gió thổi nên sanh tranh biện. Điều này Đạo hữu HT đã ngộ ra rất nhanh. Bay và thổi là do duyên sanh: Nhờ có gió-thấy cờ bay. Nhưng nếu duyên đó diệt: Không có gió-cờ ngưng bay. Chấp cái duyên sanh-diệt đó chính là vọng tưởng phân biệt chấp trước.
Pháp niệm Phật của HT Thích Trí Tịnh và Ấn Quang Đại Sư tuy có sự khác biệt khi dụng pháp, nhưng cái đích đều đưa hành giả niệm Phật đến sự nhất chân. PB hành pháp của HT Trí Tịnh cảm thấy an lạc; HT hành pháp của Ấn Quang Đại Sư cũng thấy an lạc. Nhưng nếu TĐ dụng hai pháp ấy chưa chắc được an lạc. Vì sao? Vì các pháp có diệu dụng hay không còn phụ thuộc vào căn cơ của người hành pháp. TĐ chẳng dụng được nhưng cũng chẳng thể nói hai pháp đó là dở, hay nói pháp này hay, pháp kia dở. Dở là do căn cơ mình thấp kém. Hay là mình có đủ thiện căn, phước đức, nhân duyên. Chỉ cần quán và nên quán như thế là đủ, chứ nếu đem ra để so sánh, đối chiếu thì chúng ta là người bị kẹt trong pháp và tất chẳng bao giờ thấy pháp. Chính vì thế Phật mới dạy:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt ảnh
Như sương cũng như điện
Thường khởi quán như thế (Kinh Kim Cang)
Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát
A Di Đà Phật Đạo hữu Trung Đạo,
Ý của đạo hữu Trung Đạo như thế nào. Người niệm Phật chẳng nhận được bản tâm cho dù niệm Phật 10 năm cũng vô ích hay không? Nếu trong sát na niệm niệm nối nhau trong tâm nhận ra bản tâm tuy nói không hề niệm nhưng thật ra người đó thường niệm Phật. Có lúc là như vậy có lúc lại không phải như vậy. Nếu thường được như vậy thì đối với tất cả pháp sẽ sanh tâm bình đẳng không phân biệt. Lấy tâm như vậy mà niệm Phật thì chim, cây, cỏ và Trung Đạo còn khác biệt hay không?
=======================================================
Ngũ Tổ đọc hai bài kệ và thấy Huệ Năng là người đã ngộ Thiền nên trao y và bát cho Huệ Năng và truyền ngôi Tổ thứ sáu. Khi truyền pháp cho Huệ Năng thì Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang, đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Nên không trụ vào chỗ nào mà sanh tâm mình), Huệ Năng ngay đó đại ngộ là tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh, mới trình với Ngũ Tổ rằng:
“Ðâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
Ðâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ.
Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động.
Ðâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp.”
Ngũ Tổ biết Huệ Năng đã ngộ bản tánh, nên nói với Huệ Năng rằng: “Chẳng nhận được bản tâm, học pháp vô ích, nếu nhận được bản tâm, thấy được bản tánh, tức gọi là Trượng phu, là Thầy cõi trời, cõi người, là Phật.”
========================================================
Nam Mô Thường Bất Khinh Bồ Tát.
Kính đạo hữu Trung Dao, những lời kiến giải của đạo hữu nếu hiểu theo ý Thiền thì không phải là không đúng. Đạo hữu cho rằng PB đang vọng tưởng lại càng đúng nữa, PB là kẻ phàm phu độn căn nên tâm mình luôn vọng tưởng lăng xăng cũng là điều dễ hiểu.
Ngày đầu học Phật, PB hơi bướng bỉnh cố tình đọc về Lục Tổ Đàn Kinh, tìm hiểu về giáo lý thiền và cho rằng những lối tư duy cao siêu này đáng để mình xem lắm. Nhưng rồi khi đọc đến đoạn “Vị Sử quân lại hỏi về vấn đề niệm Phật A Di Ðà để được vãng sanh về Tây phương. Tổ nói: “Kẻ mê niệm Phật cầu vãng sanh nơi khác, người ngộ tự tin nơi tâm … Phật dạy: Khi nơi tâm mình tịnh tức là cõi Phật tịnh … Nếu ngộ được pháp vô sanh thì cõi Tây phương cách đây chẳng xa, chẳng ngộ tự tâm mà niệm Phật thì con đường vãng sanh còn xa xôi … Muốn thấy Phật phải tìm ở nơi tánh, chớ nên cầu ở bên ngoài … Chỉ cần tâm được thanh tịnh, thì tự tánh tức là Tây phương vậy.” ” Phúc Bình mới giật mình ân hận vì không nghe lời Tổ Ấn Quang, lời các vị Thánh Tăng chuyên hoằng pháp Tịnh Tông là người tu Tịnh không nên đọc, tìm hiểu về Kinh sach Thiền ( bao gồm cả kinh Kim Cang) mà chỉ nên chuyên tâm Kinh sách Tịnh độ, phạm vào là tạp tu. Từ đó PB không có khi nào đọc về sách Thiền, vì sao vậy? Đơn giản mình không tu Thiền, trí mình là trí phàm phu độn căn đọc lời giảng của Tổ Thiền tông liệu có hiểu đúng được không hay lại lệch lạc rồi dao động tín tâm (hôm nay cần trích dẫn nên PB mới đọc lại).
Chỉ riêng những lời giảng của Tổ Tịnh tông mình cũng đã thọ dụng hết đâu đúng không ạ!
Chính vì vậy truyện của bạn nêu lên của Tổ Huệ Năng mang triết lý Thiền tông rất thâm sâu không dành cho hàng ngu phu ngu phụ, hiểu cho đúng về tâm không thể bằng đọc sách, nghiên cứu suông. Cho nên PB thiết nghĩ mình không nên tìm hiểu suy xét mà sinh vọng tưởng là vậy, nhưng PB phán như vậy đúng là cũng hơi vội vàng. PB là kẻ độn căn thì đúng rồi nhưng bạn Trung Đạo và nhiều đạo hữu khác căn cơ đâu có kém cỏi như mình. Thành thật cáo lỗi.
Nam Mô A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật liên hữu Phúc Bình,
Xin đạo hữu chớ sanh tâm sợ đối với các pháp đại thừa của thiền tông mà không dám đọc. Nếu quả thật đạo hữu có tín tâm vững chắc như núi Tu Di thì thiên ma ngoại đạo chẳng thể lay động được tâm bạn huống chi là chánh pháp thiền môn của sư Tổ truyền lại. Nếu cho rằng tín tâm còn yếu sợ bị dao động đối với lời dạy của các sư Tổ thiền tông thì liệu cái tín tâm ấy có đủ sức để vãng sanh không? Khi hành giả đọc kinh sách đại thừa mà sanh lòng sợ sệt thì làm sao có thể phát đại nguyện vãng sanh Cực Lạc để thực hành thập đại nguyện Phổ Hiền rộng lớn? PB nên hiểu rằng pháp môn Tịnh Độ là Tối Thượng Thừa chỉ có Phật với Phật mới hiểu. Hàng tiểu thừa tâm nhỏ hẹp không có phần để dám nhận lấy để làm lợi ích vô lượng vô chúng sanh. Trong thời mạt pháp nếu chúng sanh nào khi nghe đến pháp môn Tịnh Độ khó tin khó tin nầy mà sanh lòng hoan hỷ tin nguyện không nghi ngờ trong sát na niệm thì biết trong tàng thức đã gieo trồng hạt giống Bồ Đề sâu xa với các chư Phật ở trong vô số kiếp trước. Cho nên nói muốn vãng sanh là phải có tín nguyện xuất từ tâm Bồ Đề. Bởi vì sao trong kinh Hoa Nghiêm Đức Phật nhấn mạnh quan trọng của sự hàng Sơ Bồ Tát phải phát Bồ Đề tâm thì công đức mới bất khả tư nghì. Lấy tâm đó mà tu pháp môn niệm Phật thì chắc chắn sẽ được lợi ích lớn cho tất cả chúng sanh.
Còn nếu vì cho mình là độn căn không dám đọc các kinh sách đại thừa vì sợ tạp tu thì cái đó không phải chấp hay sao? PB cho tự mình độn căn thì chắc cho Huệ Tịnh là độn độn căn rồi.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Đạo hữu PB và HT kính mến,
Trong thiền có tịnh, trong tịnh có thiền. Thiền-Tịnh vốn chẳng hai. Người ngộ được đạo cũng sẽ chẳng nói thiền-tịnh là hai pháp riêng biệt.
Những lời Tổ Huệ Năng dạy chẳng phải dạy người thượng trí, thượng căn, cũng chẳng phải dạy riêng người tu thiền, mà là lời dạy đại chúng thời hậu thế chúng ta.
Pháp Sư Tịnh Không giảng pháp Tịnh Độ cũng chẳng phải chỉ dành riêng cho người tu Tịnh Độ, bởi trong những bài pháp đó cũng bao hàm vạn pháp. Tại sao? Các pháp của Phật vốn chẳng hai. Vạn pháp đều quy về một mối. Vì thế PS Tịnh Không cũng tuỳ duyên mà khai pháp; tuỳ căn cơ mà giảng pháp. Nếu chúng ta nghĩ những lời PS Tịnh Không giảng chỉ chuyên dành cho người tu Tịnh Độ thì thật tội lỗi và bất kính với Pháp Sư và cũng thật khổ cho ba đời Chư Phật. Nói khác đi như Phật thường nói: Tin ta mà chẳng hiểu ta thời là phỉ báng ba. Bởi lời chư Phật dạy nếu chúng hữu tình (kể cả cỏ cây) ngộ được cũng đều có thể trở thành Phật cả.
TĐ thấy chúng ta thường rất thích dùng cụm từ “tôi là kẻ phàm phu sát đất”, nhưng những tri kiến thật chẳng “lè tè sát đất” chút nào. Vậy là miệng nói nhưng tâm chẳng hành.
Điều TĐ muốn chia sẻ cùng hai Đạo hữu và cũng là chia sẻ cùng tất cả các Đạo hữu khác: Chúng ta học pháp nên phải thường hoan hỉ (hoan hỉ cũng chính là xả, là lạc pháp, cũng chính là thanh tịnh, bình đẳng, giác) coi các pháp đều bình đẳng, được vậy chúng ta sẽ không bị vướng kẹt và rơi vào thiên kiến.
Trao đổi là tối cần thiết cho người học đạo và tu đạo, nhưng nếu vì đại chúng mà trao đổi nó khác xa với vì tri kiến của cá nhân.
Mong hai Đạo hữu hoan hỉ suy xét, được thế công đức thật vô lường. TĐ và các Đạo hữu khác cũng nhờ đó được tỏ tường lây vậy.
Nam Mô Thường Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô A Di Đà Phật!
Tam đồ bát nạn, trong đó có nạn thế trí biện thông, các Tổ sư cũng nói rõ thời Mạt này người nghe đạo kẻ nói lý thì nhiều người hành thì ít, thời mạt pháp này nạn này nhiều lắm, nhưng người rơi vào các nạn này thì rất khó tự nhận biết được vì họ bị chướng, chướng này do tâm ngã mạn mà sanh như người húc đầu vào đá bị choáng váng, chẳng tự nhận được mình đang ở đâu nói gì nghe điều phải.
Đáng tiếc!
Cho nên việc nghe pháp, đọc pháp của Pháp sư Tịnh Không, Đại sư Ấn Quang rất tốt nhưng nếu người nghe đó không có tâm cầu học, thật hành thì rất dễ sinh chướng. Bình thường người mới học đạo khi nghe pháp tâm sanh hoan hỷ nhưng liền sau đó lại sinh phân biệt chấp trước như sát sanh là phạm tội, ngay lúc đó mình thấy người sát sanh sinh tâm oán hận hay coi thường họ …thấy họ trộm cắp, tham lam … cũng liền bực tức. Thấy Tăng, ni, cư sỹ không giữ giới cũng có chấp kiến nổi lên.Dần dần nó phát sinh lên chướng ngại, mà chẳng biết lại luôn cho rằng mình thông hiểu Phật pháp, trong lòng thế, nhưng miệng luôn nói ra ta là kẻ độn căn, độn căn mà lời nói ra lại toàn mượn lời Tổ sư răn người, vậy độn căn ngu si đi dạy người thông minh, trí huệ; Cái này chính Tịnh Minh mắc phải nói ra để sám hối với các đồng tu, không phải nói các đạo hữu, đồng tu đâu nhé!
Hay như trong Phật pháp Tịnh Minh tranh luận thấy ai trái ý mình liền sân giận, phiền não nổi lên, tìm cách đối đáp lại. Tâm Thanh tịnh đâu rồi, mà không thanh tịnh được thì công đức tiêu tán hết, còn đâu vốn mà Vãng Sanh.
Tâm như vậy liệu có phải đúng pháp không! trong (tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến) thì ác kiến là cuối là mức nặng nhất, như cư sĩ Diệu Âm Úc Châu có nói rơi vào ác kiến thì khó cứu được vì chướng quá nặng.
“Khẩu đầu thiền” là nghĩa gì? trong đó liệu có Tịnh minh không, chắc chắn là có, vì có mới lên đây! Mong các đạo hữu không mắc nạn này như Tịnh Minh.
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát!
Kính đạo hữu Trung Đạo, Huệ Tịnh; được đàm đạo với các quý vị thật là duyên may của Phúc Bình, Phúc Bình xin hết sức cảm ơn những lời chỉ bảo của các đạo hữu. Kẻ phàm phu thô lậu PB cũng xin có đôi lời trình bày với quý đạo hữu như sau:
Mình nghe kinh, xem sách, nghiên cứu … tựu chung cũng đều phải có mục đích. Mục đích của người tu Tịnh chúng ta là gì, chẳng phải là để vãng sanh hay sao, vậy xem kinh, nghiên cứu Thiền có lợi ích gì cho pháp tu Tịnh độ của chúng ta hay không. Phúc Bình xin trích dẫn lời Ngài Ấn Quang Đại sư đã khuyên người đời như sau: “Biển cả sanh tử không nhờ niệm Phật không cách nào vượt được! Muốn biết gốc cội của pháp niệm Phật nhưng chẳng xem kinh luận Tịnh Độ, làm sao biết được? Vì thế, hằng ngày nên tụng kinh A Di Đà, thường xem kinh Vô Lượng Thọ, và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Đó là Tịnh Độ Tam Kinh. Đọc những kinh ấy sẽ biết thệ nguyện rộng sâu của Phật A Di Đà, cảnh duyên thù thắng của Tịnh Độ, hành tướng vãng sanh của hành nhân.”
Chẳng có câu nào ngài khuyên chúng ta đọc sách Thiền tông, vì sao vậy “ Thiền và Tịnh lý vốn không hai. Nếu luận về Sự Tu thì tướng trạng [của hai pháp này] khác xa nhau. Thiền nếu chẳng triệt ngộ, triệt chứng sẽ chẳng thể siêu xuất sanh tử.” “Xét tình thế hiện tại, đừng quan tâm tới các Thiền lục nữa, cứ chuyên tu Tịnh nghiệp, dùng cái tâm chẳng nhiễm mảy trần để chuyên trì thánh hiệu vạn đức hồng danh. Niệm ra tiếng hoặc niệm thầm, chẳng tạp, chẳng gián đoạn sao cho niệm khởi từ tâm, tiếng thấu vào tai, từng chữ phân minh, từng câu chẳng loạn. Lâu ngày chầy tháng, tự thành một phiến, tự chứng Niệm Phật tam muội, tự biết Tây phương tông phong. Đấy là dùng công phu “phản văn tự tánh” (xoay trở lại nghe nơi tự tánh) của Quán Âm để tu tịnh nghiệp “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” của Thế Chí, tuy là Tịnh nhưng chính là Thiền, còn gì hay khéo hơn!”
“Nên biết rằng: trong hết thảy pháp môn đức Phật đã nói, đều phải đoạn Hoặc chứng Chân thì mới có thể liễu sanh thoát tử, tuyệt đối chẳng có chuyện chưa đoạn sạch Hoặc mà liễu thoát được! Với pháp môn Niệm Phật, nếu người vãng sanh đã đoạn Hoặc nghiệp thì sẽ mau chứng Pháp Thân, người tuy còn đủ Hoặc nghiệp mà vãng sanh thì cũng đã vượt lên địa vị thánh nhân. Một đằng hoàn toàn cậy vào tự lực, một đằng hoàn toàn nhờ vào Phật lực kiêm thêm tự lực.
Điều thứ hai, [sự tu trì] khó dễ thật là một trời một vực. Thường có kẻ thông minh, đọc sách Thiền qua quít, hiểu chút vị Thiền, bèn toan lấy Thiền làm mạng, học đòi làm bậc cao nhân thông suốt, nhưng toàn là hạng chẳng biết Thiền lẫn Tịnh đến nơi đến chốn, cứ lầm tưởng mình là hạng tôn quý, đại căn. Tuyệt đối chớ nên bắt chước theo thứ tri kiến như thế. Bắt chước theo đó, chỉ e trải kiếp số như vi trần vẫn chẳng mong gì được liễu sanh thoát tử cả!”
Phúc Bình không có giải thích gì thêm vì xét thấy lời Tổ như vậy là quá đủ, vốn mình lại là phàm phu cũng không đủ kiến thức để biện giải về vấn đề Thiền và Tịnh được.
Còn tại sao Phúc Bình luôn nhận mình là kẻ phàm phu sát đất, ngu phu ngu phụ, cái này rất hay nếu đạo hữu nào thực hiện rồi mới thấy lợi lạc nhiều lắm, hoàn toàn không phải lời chót lưỡi đầu môi. Phúc Bình đang tập thực hành theo lời Ngài Ấn Quang Đại Sư dạy “Người niệm Phật cũng đừng ỷ mình thông minh, trí huệ, mà cần phải vứt bỏ [những điều ấy] ra tận ngoài biển Ðông. Nếu không, e rằng sẽ bị chúng gây lầm lạc, tự chuốc buồn khổ. Bởi lẽ, do thấy biết nhiều nhưng không chuyên nhất, đâm ra chẳng bằng hạng ngu phu, ngu phụ niệm Phật, chánh tâm, thành ý được hưởng ích lợi rất nhiều. Vì thế, một pháp Niệm Phật tốt nhất là phải học theo ngu phu, ngu phụ, [lấy việc] thật thà tu trì làm chánh yếu. Tục ngữ có câu:“Thông minh phản bị thông minh ngộ” (Thông minh đâm ra lại bị lầm lạc vì thông minh), chẳng đáng sợ sao? “
Làm người ngu sẽ tự diệt dần được cái tâm cống cao ngã mạn, làm người ngu mới không nhìn cái sai của người khác … ngu thì mới thật thà được mà ở đời ai là người thật thà chẳng bị coi là ngu. Nhưng không phải là ngu si trong công việc đúng không ạ, cái gì mình cùng ù ù cạc cạc thì ai còn thuê mình làm việc, thất nghiệp vợ con đói nheo nhóc ai lo. Ở đây cái ngu của Phúc Bình là ngu trên đường đạo, càng tu tập càng thấy mình kém cỏi, càng thấy tâm mình còn tham, sân, si, mạn đầy rẫy. Lúc đó mới thấy rằng nơi đạo tràng có những bà cụ tóc bạc phơ, cười hiền lành niệm Phật. Ai khen cũng không vui hơn, ai chê cũng hiền từ không oán trách, ai bàn luận gì cũng mặc … chỉ cần mẫn chuyên cần lạy Phật, niệm Phật thật đáng cung kính đến nhường nào.
Phàm phu Phúc Bình kính bút!
Nam Mô A Di Đà Phật!
Hôm nay PB đọc lại quyển “Niệm Phật Thập Yếu” HT Thích Thiền Tâm, thấy rằng mục Từ tán tâm sẽ đi đến định tâm rất hợp với lời của Đại sư Ngẫu Ích với việc niệm Phật Nhất tâm, xin trích dẫn như sau:
“Miệng niệm Phật, tâm tưởng Phật, hoặc trụ nơi câu niệm Phật, gọi là Định Tâm Niệm Phật. Miệng niệm Phật, tâm không nhớ Phật mà suy nghĩ mông lung việc khác, đó là Tán Tâm Niệm Phật. Tán tâm mà niệm, hiệu lực so với định tâm yếu kém rất nhiều. Vì lẽ ấy, từ xưa đến nay các bậc thiện tri thức đều khuyên người cố gắng định tâm trì niệm, đừng để tán tâm. Cho nên tán tâm niệm Phật không đủ làm gương mẫu.
Tuy nhiên, mỗi tác động bên ngoài đều liên quan đến tiềm thức, tức là thức thứ tám ở bên trong. Nếu tán tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, thì sáu chữ hồng danh kia từ đâu phát hiện? Đã có sáu chữ hiện thành, tất phải có hai chuyển lực: một là do chủng tử, từ tiềm thức phát hiện ra ngoài. Hai là sức tác động từ ngoài lại huân tập trở vào bên trong. Cho nên chẳng thể nói tán tâm niệm Phật hoàn toàn không công hiệu, bất quá so với định tâm nó yếu kém hơn nhiều mà thôi. Lối niệm tán tâm từ xưa đến nay không được đề xướng, nhưng hàm ý và công dụng của nó cũng không thể phủ nhận. Vì thế cổ nhơn có lưu một bài kệ rằng:
Di Đà sáu chữ pháp trung vương,
Tạo niệm phân vân chớ ngại màng!
Muôn dặm phù vân che ánh nhật.
Nhơn hoàn khắp xứ ửng dương quang.
Bài kệ này suy ra có điều xác đáng. Bởi hạt giống niệm Phật nơi thức thứ tám khi thành thục, tất dẫn phát thức thứ sáu khiến cho sanh khởi tịnh niệm. Rồi từ thức thứ sáu lại cổ động ra năm thức trước để thành hiện hành. Nhưng vì lúc chủng tử niệm Phật trải qua thức thứ sáu, bởi trần nhiễm của chúng sanh sâu dày, nên bị các niệm khác lấn cướp, tuy có lọt khỏi vòng vây song ảnh hưởng còn lại chẳng bao nhiêu. Ví như ánh mặt trời tuy rực rỡ, nhưng vì bị nhiều lớp mây che, nên khi lọt xuống nhân gian, chỉ còn vẻ ửng sáng. Nhưng ánh sáng thừa ấy sở dĩ có, cũng do công năng ảnh hưởng của mặt trời. Biết được lẽ này, người tu Tịnh Độ đừng quá ngại màng đến tạp tưởng phân vân, chỉ liên tiếp niệm hết câu này sang đến câu khác, chánh niệm còn được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Niệm như thế một lúc lâu, tự nhiên ngựa ý sẽ quay về tào, vượn lòng lần lần vào động. Niệm một lúc lâu nữa, thì chánh niệm hiển lộ rõ ràng, không cần gạn bỏ điều nhiếp, mà tự nhiên thành tựu. Hiểu được lẽ này thì chỉ quí niệm nhiều, đừng ngại tán tâm. Như nước tuy bợn đục, lóng mãi tất sẽ thành trong. Người tuy tạp niệm nhiều, niệm Phật lâu tất sẽ thành chánh niệm. Nên biết cổ đức khi đi đứng nằm ngồi và tất cả hành động đều niệm Phật. Nếu các vị ấy hoàn toàn dùng định tâm mà niệm, thì lúc đi đường tất phải vấp chạm, hoặc khi tả kinh hay làm việc cũng không thể thành công. Cho nên người xưa cũng có lúc phải phân tâm mà niệm, nhưng vẫn không rời câu niệm Phật, bởi dù có tán tâm vẫn không mất phần ảnh hưởng.
Đến đây, xin thuật một câu chuyện. Lúc nọ, có người đến hỏi một thượng tọa: “Thưa thật với thầy, tôi niệm Phật đã hơn mười năm nay mà vọng niệm vẫn còn nhiều, không biết cách chi trừ diệt. Tôi có đi nhiều nơi cầu hỏi phương pháp với những bậc đã tu trước mình. Vị này đưa kinh nghiệm này, vị kia dạy cách khác, có một đại đức lại khuyên tôi nên nín hơi niệm luôn hai mươi mốt câu rồi nuốt một cái. Tôi đã áp dụng qua đủ mọi phương thức, nhưng chỉ định tâm được lúc đầu, rồi sau có lẽ vì lờn quen nên vọng niệm trở lại như cũ. Không biết thầy có phương pháp nào hữu hiệu để dạy tôi chăng?”
Vị thượng tọa đáp: “Điểm thất bại đó do ông không bền lòng, mà cứ thay đổi đường lối. Nên biết phàm phu chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay gây tạo nghiệp nhiễm vọng quá nhiều đâu thể nhứt thời mà thanh tịnh được! Chỗ cốt yếu là phải dụng tâm cho bền lâu. Tôi xin đưa ra đây hai thí dụ: Ví như một bình nước hôi nhơ dẫy đầy, ông đem nước thơm sạch đổ vào. Vì nước dơ đã đầy, nước sạch tất phải dội ra ngoài, song ít nhứt nó cũng lưu lại trong bình một vài giọt. Nếu ông cứ bền tâm đổ vào mãi, ngày kia bình nước hôi sẽ hóa ra nước sạch thơm. Lại ví như ông đau bịnh dạ dày, uống thuốc chi cũng đều ói mửa ra. Ông cứ bền lòng dùng ngay thuốc trị bịnh dạ dày mà uống, đừng thay đổi thuốc chi khác. Mỗi phen uống tuy có bị ói mửa, nhưng chất thuốc cũng lưu lại ít nhiều, lần lần bệnh của ông sẽ dứt. Bệnh phiền não vọng tưởng của chúng sanh cũng thế, dùng thuốc niệm Phật điều trị tự nhiên là thích đáng, nếu thay đổi mãi làm sao thành công? Như có người dùng phèn lóng nước, nó chưa kịp trong, lại nóng nảy vội quậy lên đổ muối vào, đổ muối chưa kịp trong, lại quậy lên đổ vôi bột vào. Cứ thay đổi mãi như thế, làm sao nước trong cho được? Thế nên vấn đề dứt vọng niệm, không phải do nơi thay đổi nhiều phương pháp, mà ở nơi lựa một phương pháp thích hợp rồi thật hành cho bền lâu là thành tựu.” Vị ấy nghe xong gật đầu cho là hữu lý.
Như đã nói, muốn được định tâm, điểm căn bản là phải dụng công cho bền lâu. Tuy nhiên nếu sợ niệm lực tán loạn, cần có phương tiện để tâm dễ yên tịnh, thì nên áp dụng pháp Thập Niệm Ký Số đã trình bày ở trước. Phép này do dùng hết tâm lực ghi nhớ từ một đến mười câu, nên dễ vào tịnh định. Nếu tâm còn rối loạn và không thể dùng phép Thập Niệm Ký Số, thì trong mỗi câu niệm chỉ cần chú tâm ghi giữ cho chắc một chữ “A”. Khi chữ A còn thì mấy chữ khác đều còn, nếu mê mờ để cho nó mất, tất năm chữ kia cũng mất. Lại chữ A cũng chính là chữ căn bản, và là mẹ của tất cả chữ. Chú tâm vừa niệm vừa ghi chắc chữ A, lâu lâu tự nhiên tâm và cảnh đều tiêu tan dung hợp thành một khối, lượng rộng lớn dường hư không, Phật và mình cũng đều mất. Lúc bấy giờ đương nhiên chữ A cũng không còn. Nhưng lúc trước nó mất là do bởi tâm xao động rối loạn, lúc này nó không còn chính thuộc về trạng thái dung hóa của thường định. Đây là hiện tượng tâm cảnh đều không, điểm sơ khởi để đi vào Niệm Phật Tam Muội.”
Nam Mô A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật – Kính chào liên hữu Phúc Bình,
Dạo này PB niệm Phật được an lạc bình an không? Huệ Tịnh xin cảm ơn PB đã giúp mình giải phóng bớt các phiền não chấp pháp khi bàn luận với PB trong comment bài này. Công nhận mỗi khi lên trang này để xem và phát tâm từ bi góp ý kiến không cẩn thận dễ bị kẹt phải mất mấy ngày mới tháo ra được. Đang tụng kinh niệm Phật lại vọng lên mấy cái comment trong tâm thiệt tình. Lúc đó HT phải quán chuyện comment không quan trọng mới tiêu hoá. 🙂
Nếu HT có mô phạm gì khiến PB mất sự thanh tịnh trong tâm thì mình xin thành tâm sám hối.
PB có thường trì đọc Kinh Niệm Phật Ba La Mật không? Nếu đọc di đọc lại sẽ ngộ ra lý sự của pháp môn niệm Phật.
Theo HT nghĩ thì chủng tử phiền não của mình còn nhiều như sóng gió bão tố nổi lên trên mặt biển. Khi nổi lên thì cứ bình tĩnh nắm chặt câu niệm Phật như cái phao thì sẽ bình an vô sự liền. Nếu không biết cách thì chìm sâu trong biển phiền não khó mà trôi mặt lên lại. Cho nên ai khéo niệm Phật trong thực tại đời sống bão tố phiền não nghiệp chướng thì sẽ dễ có cái phong độ đạo lực bình tĩnh thì mới từ từ thâm nhập Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa. Thành ra hanh giả niệm Phật vừa học vừa phải đối đầu thực tập mới được trưởng thành trong sanh tử.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Chào bạn Huệ Tịnh, Ngài Ấn Quang Đại sư đã có giải nghĩa về pháp danh “Huệ Tịnh” đó là “dùng Huệ để tưới tắm thì ý niệm trần tục tiêu diệt, chánh niệm thanh tịnh” và “ Nếu thường dùng trí huệ để giúp sức thì sẽ dần dần đoạn được phiền não, dần dần hiển hiện được Phật Tánh”.
Nói về các pháp tu Niệm Phật, Tổ Ấn Quang đã dạy ” Pháp Niệm Phật há nên chấp chặt vào lề lối nhất định, cổ nhân lập ra phương pháp giống như tiệm thuốc có đủ các loại thuốc. Cách dùng của chúng ta là phải phù hợp với tinh thần, khí lực và thiện căn xưa kia của chính mình. “ Cho nên PB thiết nghĩ mình chẳng nên bị kẹt vì comment trên diễn đàn mà sinh phiền não khi có ý kiến trái chiều, vì thuốc đấy biết đâu chỉ phù hợp với mình chẳng hợp với người, tùy duyên mà thọ nhận. Lại khi có ý kiến phản biện chính là lúc để mình tìm hiểu lại xem mình đã hiểu đúng lời dạy của các bậc Chư Tổ sư, Thánh Tăng hay chưa để căn chỉnh lại hướng đi của mình nên chẳng thể có tâm không hoan hỷ.
Với cá nhân Phúc Bình, đối với Kinh Phật chỉ dám đọc Kinh được Việt hóa, dễ hiểu như Kinh A Di Đà – Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch; kinh Vô Lượng Thọ Phật – Hòa thượng Thích Đức Niệm dịch chẳng dám thọ dụng các kinh khác vì biết căn cơ mình không đủ.
Tìm được thuốc hay trị đúng bệnh của mình cũng không là điều đơn giản, con đường vãng sanh nhiều khi tưởng như ở ngay trước mắt mà lúc lại xa vời vợi.
Nam Mô A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật -> liên hữu Phúc Bình,
Huệ Tịnh cũng nguyện một ngày nào đó mình tu hành thành tựu viên mãn y như cái giải nghĩa của Ấn Quang Đại Sư về pháp danh của mình. Không kiếp này thì nguyện kiếp sau ở Tây Phương Cực Lạc.
Mình còn là phàm phu không chấp kẹt comment trên đây sao được? Ai nói mình không bị chiêu cảm một ý niệm cái chấp kẹt vì comment thì người đó không bao giờ biết tháo gỡ. Biết kẹt tự biết tháo gỡ mới gọi là tu chứ. Tháo gỡ hoài sẽ biết tại sao bị kẹt. Không kẹt không tháo đó là bổn lai tự tánh Di Đà hiện tiền rồi. Nếu không còn tâm phân biệt khi đọc các comment thì mình là Huệ Tịnh thứ thiệt rồi.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật – liên hữu Phúc Bình,
PB: Tìm được thuốc hay trị đúng bệnh của mình cũng không là điều đơn giản, con đường vãng sanh nhiều khi tưởng như ở ngay trước mắt mà lúc lại xa vời vợi.
HT: Nếu PB đã thấy tâm đơn giản thì đi tìm được thuốc gì nữa? Khi tìm được uống rồi ai ngờ tâm càng đơn giản càng cảm thấy Cực Lạc ngay trước mắt. Cực Lạc thế giới không phải để thấy khi chỉ niệm Phật và tụng kinh. Niệm Phật và tụng kinh là để tâm được đơn giản. Nương tựa theo câu đơn giản “sao cũng được” mà niệm Phật sẽ dễ cảm nhận cái gì đó mà xưa nay vẫn ở bên cạnh mình. Cái đó chỉ cảm nhận được chứ không thể vọng tưởng tìm cầu thấy nổi. Càng tìm ai ngờ lại càng cách xa nó. Nếu đem tâm tín nguyện vững chắc mà đơn giản bình tĩnh niệm Phật thì người đó đang vãng sanh như trong kinh Di Đà thuyết rồi. Hoa sen trong ao thất bảo của mỗi hành giả niệm Phật sáng tươi nở ra hay héo rũ là vậy.
Khi nào cơm chín thì sẽ được ăn thôi chứ lo lắng suy nghĩ chi cho phiền. 🙂
Nam Mô A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật.
Trích từ Kinh A Di Đà (Hán Âm)
“Xá Lợi Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhơn duyên, đắc sanh bỉ quốc.”
1. Đoạn nầy trong kinh có phải Đức Phật ám chỉ là người tu hành phải đủ thiện căn tức là huệ căn chăng? Huệ căn là giải nghĩa như thế nào?
2. Phước đức ở trong kinh Di Đà là giải nghĩa ra sao mới đúng?
3. Nhơn duyên mà Đức Phật thuyết chắc không phải là nhờn duyên bình thường như chúng ta thường thấy gặp?
Huệ Tịnh xin các vị đạo hữu giải nghĩa cho.
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam Mô Phật Thuyết A Di Đà Kinh.
Chào các liên hữu,Thiện Trung có đọc qua tác phẩm “Cực lạc di luận đạo” của ni sư Thanh Tịnh Hải Tạng,nhưng gặp nhiều nghi vấn, các liên hữu có thể hoan hỉ cho Thiện Trung biết thêm về ni sư cũng như tác dụng của tác phẩm trên không?
Xin hoan hỷ và tán thán công đức pháp thí của các liên hữu
A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật,
Ni sư hiện đang ở bên Mỹ – Cali. Tác phẩm đó nếu bạn có duyên đọc được mà có nghi thì hãy đối chiếu những đoạn nghi đó với Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà, và lời giảng của chư Tổ sư Tịnh Độ, chúng ta phải “Y Pháp Bất Y Nhân” – Y vào Chánh Pháp của Như Lai mà tu học chứ không Y theo lời nói của 1 ai đó, hay nương tựa vào thân thế của 1 người nào đó “phi phàm” mà cho người đó là Phật, lời người đó là của Phật, nếu chúng ta đối chiếu lời dạy của họ đối với Kinh Điển của Phật mà thấy không tương ưng thì chúng ta ko nên tin, cũng chẳng cần phỉ báng, chê bai, cứ như thấy mà ko thấy là hay nhất. Trên mạng hiện nay có quá nhiều tài liệu “Phật pháp”, rồng rắn hỗn tạp – Hay nhất là mình chẳng nên học rộng nghe nhiều, chỉ cần chuyên tâm đọc tụng 1 bộ Kinh, nghe một vị Thầy chân chánh giảng Kinh, niệm một câu A Di Đà Phật là quá đủ rồi, thành Phật cũng còn có thừa. Khi tâm mình có sức Định và Huệ như Ngài Lục Tổ Huệ Năng hay như HT. Tịnh Không thì mình có thể học rộng nghe nhiều, còn hiện tại nếu mình học rộng nghe nhiều thì sẽ lợi bất cập hại, lợi thì ít mà hại thì nhiều. Chỗ này không phải ai cũng có thể tin, có thể hành theo, âu cũng là phước duyên của từng người vậy.
Cảnh giới Tây phương đã được diễn bày đầy đủ trong bộ Kinh Vô Lượng Thọ rồi, bạn nên thường đọc, chẳng nên mong cầu thấy biết cái gì khác lạ, mọi chân tướng sự thật của thế giới Cực Lạc đều đã được Đức Phật Thích Ca giới thiệu cặn kẽ trong Kinh Vô Lượng Thọ rồi 🙂 Chúng ta phải nên tin tưởng sâu chắc, nếu chúng ta còn phóng tâm tìm cầu sưu tầm những tài liệu khác mô tả về Tây phương Cực Lạc “cho rõ hơn” thì chẳng phải là chúng ta ko thật tin vào lời Phật dạy trong Kinh Vô Lượng Thọ hay sao? Chỗ này chúng ta cũng nên thường suy nghĩ thêm nhiều một chút.
Hi vọng những lời trên sẽ giúp cho bạn được một ít.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật kính chào các liên hữu.
@Diệu Âm Thiện Trung: HT xin phép hỏi đạo hữu hiện giờ có nương tựa một vị thầy nào để nghe giảng pháp ngoài giờ trì tụng nghiên cứu kinh điển hay không? Đạo hữu thường ngày trì tụng kinh điển gì kính xin cho HT và tất cả đạo hữu trong đây được biết được không?
@Tịnh Thái: Đạo hữu tu tập niệm Phật dạo này thân tâm có an lạc không? 🙂
TT: Chúng ta phải nên tin tưởng sâu chắc, nếu chúng ta còn phóng tâm tìm cầu sưu tầm những tài liệu khác mô tả về Tây phương Cực Lạc “cho rõ hơn” thì chẳng phải là chúng ta ko thật tin vào lời Phật dạy trong Kinh Vô Lượng Thọ hay sao?
HT: Chủng tử thiện căn phước duyên của mỗi nguời thiệt là khó biết khó nói. Nếu mọi người tin tưởng sâu chắc như TT thì biết bao nhiêu người niệm Phật sẽ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. 🙂
Nam Mô Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát!
Nam Mô A Di Đà Phật!
@ chú Tịnh Thái: Cháu rất tán thán lời dạy của chú, cháu biết mình cần nên làm gì rồi ạ. A Di Đà Phật
@ liên hữu Huệ Tịnh: Bình thường Thiện Trung nghe pháp của ngài Tịnh Không và tụng kinh A Di Đà (chưa dám gọi là trì)
A Di Ðà Kinh Yếu Giải
Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc Ðại Sư Soạn
Việt dịch: Bồ Tát Giới Ðệ Tử Tuệ Nhuận
Hán: Xá Lợi Phất! Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sinh A Di Ðà Phật quốc giả; thị chư nhân đẳng giai đắc bất thoái chuyển ư A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sinh, nhược kim sinh, nhược đương sinh. Thị cố, Xá Lợi Phất! Chư thiện nam tử, thiện nữ nhân nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện sinh bỉ quốc độ.
Việt: Xá Lợi Phất ơi! Nếu có những người muốn sinh sang nước Phật A Di Ðà mà đã phát nguyện, hoặc nay mới nguyện, hoặc mai mới nguyện thì những người ấy đều được tới cõi A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề chẳng hề lui chuyển, và đều được sinh sang cõi nước kia: ai đã phát nguyện thì đã sinh rồi, ai nay mới nguyện thì nay được sinh; còn mai mới nguyện thì mai được sinh. Bởi thế, cho nên Xá Lợi Phất ơi! Các thiện nam ơi, các thiện nữ ơi, nếu có ai tin thì nên phát nguyện sinh sang nước kia.
Trong đoạn kinh này có mấy câu: Ai đã phát nguyện thì đã sinh rồi; ai nay mới nguyện thì nay được sinh; còn mai mới nguyện thì mai được sinh… Ðó chính là lời Phật Thích Ca hiển rõ cho ta biết rằng:
“Ai đã y cứ vào cái tâm Tịnh Tín của mình mà phát ra lời nguyện cầu sinh Tịnh Ðộ thì lời nguyện ấy quyết không là nguyện hư ảo vậy”.
Hễ không có Tín thì chẳng thể nào phát nguyện được, mà đã không có Nguyện, không có Tín, thì cũng chẳng thể nào được sinh. Cho nên Phật Thích Ca nói: “Nếu có ai TiN thì nên phát NGUYỆN…”
Lại còn Nguyện ấy là khoán ước của Tín và là then chốt của Hạnh, thì Nguyện phải là một việc thiết yếu lắm. Phật nói một chữ Nguyện thì phải hiểu chữ Tín và chữ Hạnh đều ở cả trong chữ Nguyện ấy rồi. Vì thế mà Phật phải ân cần đến ba lần khuyên phát nguyện.
Lại còn câu cuối đoạn kinh này là: “Nguyện sinh bỉ quốc độ” (nguyện sinh sang nước kia). Câu kinh này tức là 2 pháp môn Hân và Yểm (Hân là hân hoan vui thích, Yểm là yểm ly: chán bỏ).
a) Pháp môn Yểm là yểm ly Ta Bà (chán bỏ cõi Ta Bà vì tệ ác lắm!), phép này cùng với phép tu:
Y vào Khổ Ðế và Tập Ðế mà phát ra 2 hoằng nguyện là: “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ” và “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn” cùng ứng hợp với nhau.
b) Pháp môn Hân là hân cầu Cực Lạc (vui cầu sang Cực Lạc, vì yên tĩnh lắm!), phép này cùng với phép tu:
Y vào Ðạo Ðế và Diệt Ðế mà phát ra 2 hoằng nguyện là: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” và “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
Vì có Phật nguyện rộng lớn như thế, cho nên Phật mới bảo: “Thì những người ấy đều được tới cõi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề chẳng hề lui chuyển” tức là đắc đạo Bồ Ðề, lên ngôi Bất Thoái.
(Ðoạn văn này là cả một bí quyết của tông Tịnh Ðộ mà người đời phần đông mơ mộng không hiểu được rõ ràng đến nơi đến chốn, vì thế mà hiện nay tuy có rất nhiều người niệm Phật mà rất ít người được thành công).
Hoặc có người hỏi: Như ai nay phát nguyện thì chỉ nói là: rồi mai sẽ được sinh mới phải, cớ sao lại nói: “Ai nay phát nguyện thì nay được sinh” là nghĩa làm sao?
Thưa: Câu này cũng có 2 nghĩa:
1. Chữ “nay” ở trong câu này là rút vào một thời kỳ mà nói là “nay”. Như người nào giờ phút này phát nguyện niệm danh hiệu Phật thì đến giờ phút lâm chung (sắp chết) quyết định được sinh Tịnh Ðộ (Phải có cái nghĩa này mới khiến người niệm Phật chỉ tu trong một đời, một thời kỳ thiết yếu là nhất định thành công không thể sai lạc. Nay phát nguyện thì nay được sinh, chính là nghĩa thế. Chữ “nay” ở đây có nghĩa là: Chỉ trong một đời này).
Chữ “Nay” ở trong câu này là rút vào “một niệm” (một giây phút, một sát na) mà nói là “nay”. Nghĩa là mỗi một niệm mà tâm mình ứng hợp với tâm Phật thế là ngay một niệm ấy mình đã được sinh rồi. Niệm nào, niệm nào cũng ứng hợp như thế thì niệm nào, niệm nào mình cũng đã được sinh ngay rồi (Phải có cái nghĩa này mới khiến người niệm Phật thâm nhập vào phép tu “Nhất Hạnh Tam Muội” hay là “Niệm Phật Tam Muội”, bởi thế mà nói: Nay phát nguyện thì nay được sinh)
Nhân mầu nhiệm và quả mầu nhiệm của người niệm Phật đều chẳng bao giờ lìa khỏi. Một tâm (một tâm tức là tâm mình và tâm Phật ứng hợp với nhau làm một), nhân và quả ấy giống như 2 đầu cán cân, hễ lên thì đồng thời lên ngay, xuống thì đồng thời cũng xuống ngay.Vậy thì, người niệm Phật cần gì phải đợi đến hết kiếp Ta Bà rồi mới được sinh vào ao thất bảo? Không, chỉ ngay giờ phút này ta có tín tâm, ta có phát nguyện, ta niệm danh hiệu Phật thì bóng đài sen vàng tươi sáng sủa của ta đã hiện ra ngay rồi. Ta không phải là người trong cõi Ta Bà nữa! (Câu này là một sự thực có đúng với chân lý, chứ không phải là chỉ lý luận suông đâu!) Thực là một phép tu: Cực viên, cực đốn, nan nghị, nan tư (rất đầy đủ, rất mau chóng, rất khó bàn, rất khó nghĩ) chỉ có các bậc đại trí tuệ mới thâm tín, thâm hiểu được.
===================================
Nam Mô A Di Đà Phật!
Liên Thu nhờ cư sĩ Diệu Âm giảng trong bài “Hành Theo Ấn Tổ” nói: “Hôm nay chúng ta đi niệm Phật là để lúc xả bỏ báo thân này niệm được câu A Di Đà Phật”. LT nhờ câu này mà khi đến đạo tràng niệm Phật cố gắng niệm Phật, con đường tu nhiều chông gai nhưng nhớ lại lời tổ dạy cố gắng nhiếp tâm, phiền não cố gắng gạt ra, thấy Ta Bà khổ quá…gặp khó khăn nhớ lời cư sĩ Lưu Tố Vân nói chỉ là “thử thách mà thôi”, cư sĩ Diệu Âm cũng giảng trong “Hành Theo Ấn Tổ” nói rằng “thời mạt pháp đấu tranh kiên cố”, các liên hữu có duyên nghe bài giảng này nhiều lần thì khi gặp phiền não, nhớ lại lời cư sĩ Diệu Âm giảng thì chúng ta buông xuống được. Nếu chúng ta niệm Phật mà vẫn còn đấu tranh thì mất phần vãng sanh, LT nhờ nghe bài giảng của cư sĩ Diệu Âm mà buông được chút chút, cư sĩ giảng rất thiết tha khuyên chúng ta nên cố gắng buông bỏ để niệm Phật cầu sanh Cực Lạc…
Nam Mô A Di Đà Phật.
Xin kính gửi quý vị liên hữu:
CÁC HẠNH VÃNG SANH, NIỆM PHẬT ĐỆ NHẤT – PHÁP NHIÊN THƯỢNG NHÂN
“Pháp Nhiên Thượng Nhân là người đầu tiên chỉ rõ chân diện mục của Tông Tịnh Độ, vạch ra một đường sáng cho tất cả những ai muốn thật sự liễu thoát sinh tử trong một đời. Điều đáng buồn là những lời dạy vàng ngọc nầy chưa hề được giới thiệu rộng rãi với người tu Tịnh Độ ở Việt Nam, dù rằng toàn bộ tác phẩm của Ngài đã được thâu nhập vào Đại Tạng Kinh qua bao thế kỷ.”
1) Thánh Đạo Môn tuy thâm diệu, nhưng thời điểm và căn cơ chẳng tương ứng. Tịnh Độ Môn hình như là nông cạn, nhưng thời điểm và căn cơ đều tương ứng. Thời Mạt Pháp một vạn năm, các kinh điển khác đều tiêu diệt, chỉ còn pháp môn niệm Phật A Di Đà để cứu độ chúng sanh.
2) Tông Tịnh Độ siêu hơn các tông. Hạnh Niệm Phật siêu hơn các hạnh. Bởi vì thâu nhiếp tất cả các căn cơ vậy.
3) Chẳng luận có tội hay vô tội, chẳng kể là trì giới hay phá giới, nếu căn cứ vào thời điểm và căn cơ thì chỉ có pháp môn Tịnh Độ (Hạnh Niệm Phật) là yếu pháp để thoát khỏi sinh tử trong đời này.
4) Để đời này thoát khỏi sinh tử, không gì hơn vãng sinh Tịnh Độ. Để được vãng sinh Tịnh Độ, không gì hơn Niệm Phật.
5) Tu Niệm Phật để cầu vãng sinh Tịnh Độ, thì tương ứng với tâm của Đức Thích Ca, Đức A Di Đà. Tu các hạnh khác để cầu vãng sanh Tịnh Độ thì mâu thuẫn với tâm của Đức Thích Ca, Đức A Di Đà.
6) Để được vãng sinh cõi Cực Lạc, thì dù diệu hạnh gì chăng nữa cũng không hơn niệm Phật. Vì sao thế? Vì niệm Phật là hạnh của Đức Phật A Di Đà Bổn Nguyện vậy.
7) Ngoài niệm Phật, tất cả hạnh khác đều chẳng phải với Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà. Bởi vậy, tuy là diệu hạnh cũng không bằng niệm Phật. Muốn được sinh sang cõi nước đó, nên thuận theo Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà.
8) Niệm Phật là Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà, nên mười phương hằng sa chư Phật đều chứng thành. Các hạnh khác chẳng phải Bổn Nguyện, nên chư Phật chẳng chứng thành. Bởi thế nên thường niệm Phật để được mười phương chư Phật hộ niệm.
9) Kinh QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ chép rằng: “Quang minh soi chiếu khắp mười phương thế giới, thâu nhiếp không rời các chúng sinh niệm Phật ”. Quang minh của Đức A Di Đà chỉ soi chiếu người niệm Phật, chẳng soi chiếu người tu các hạnh khác. Bởi thế người cầu sinh sang cõi Cực Lạc phải biết Niệm Phật là trọng yếu.
10) Bổn Nguyện thâm trọng sau năm kiếp tư duy chép trong kinh PHẬT THUYẾT VÔ LƯỢNG THỌ là: “Chẳng kể thiện hay ác, chẳng quản trì giới hay phá giới, chẳng tính tại gia hay xuất gia, chẳng luận có trí hay không có trí. Chỉ pháp Đại Bi Bình Đẳng, nay đã thành Phật ”. Trụ vào cái Tâm Tha Lực ( nguyện lực của Đức A Di Đà) mà Niệm Phật thì chỉ trong khoảnh khắc, đã được dự vào sự lai nghinh của Đức Phật A Di Đà.
11) Niệm Phật không có hình thức. Ngoài việc xưng Danh hiệu, không có hình thức gì cả.
12) Niệm Phật hoàn toàn không có hình thức. Chỉ cần biết rằng: “Hễ xưng Danh hiệu Đức Phật A Di Đà thì được sinh sang cõi Cực Lạc ”, do đó chí tâm niệm Phật để cầu vãng sinh.
13) Niệm Phật lấy không hình thức làm hình thức. Chỉ biết rằng thường niệm Phật thì đến lúc lâm chung nhất định Phật lai nghinh mà vãng sinh sang cõi Cực Lạc.
14) Vấn đề niệm Phật tuy có nhiều ý nghĩa, nhưng xưng Lục Tự Hồng Danh ( NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ) thì đã bao hàm tất cả.
15) Niệm Phật chẳng phải là quán Pháp Thân Phật, chẳng phải là quán tướng hảo của Phật. Chỉ một lòng chuyên xưng danh hiệu Đức A Di Đà, đó là niệm Phật.
16) Chỉ biết rằng: “Bổn Nguyện của Đức A Di Đà chẳng hư dối, hễ xưng niệm danh hiệu của Ngài thì nhất định được vãng sinh”. Ngoài ra không cần nghĩ gì khác.
17) Tất cả căn cơ cứ tùy theo thiên tính mà niệm Phật để vãng sinh. Cái thân hiện nay do túc nghiệp đời trước mà có, nên trong đời này không thể thay đổi. Như người nữ mà muốn đổi thành người nam trong đời này thì không thể được.
Cứ tùy theo thiên tính mà niệm Phật. Người trí thì lấy trí mà niệm Phật vãng sinh. Người ngu thì dùng ngu mà niệm Phật vãng sinh. Có đạo tâm cũng niệm Phật vãng sinh. Không đạo tâm cũng niệm Phật vãng sinh. Người có tà kiến cũng niệm Phật vãng sinh.
Hàng phú quý, hạng bần cùng, người tham lam, kẻ tánh nóng, bậc có từ bi, hạng không có từ bi, do BỔN NGUYỆN KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ, hễ niệm Phật thì đều được vãng sinh.
18) Hỏi: Người xuất gia niệm Phật với người tại gia niệm Phật hơn kém ra sao? Đáp: Người xuất gia niệm Phật với người tại gia niệm Phật công đức bằng nhau không có hơn kém.
Hỏi: Chỗ này quả thật tôi không hiểu. Vì sao người xuất gia không gần đàn bà, ăn chay trường mà niệm Phật, do đó rất đáng quý. Người tại gia thường hay nghĩ đến sắc dục, ăn thịt uống rượu mà niệm Phật, hẳn nhiên là thấp kém. Làm sao mà bằng nhau được?
Đáp. Công đức bằng nhau không có hơn kém. Vì sao vậy? Người không biết BỔN NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ mới có nghi vấn này!
19) Anh Cát Đằng (một đệ tử tại gia thuộc hạng hạ lưu của Ngài) cũng mong Phật cứu độ mà niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. Pháp Nhiên nầy cũng mong Phật cứu độ mà niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. Hai bên hoàn toàn không khác gì nhau.
20) Niệm Phật của Pháp Nhiên nầy với niệm Phật của anh Cát Đằng hoàn toàn như nhau. Nếu cho rằng không giống nhau, là hoàn toàn không biết ý nghĩa của niệm Phật vậy. Như lấy gấm vóc mà gói vàng ròng, hoặc lấy vải dơ mà gói vàng thì cũng là vàng ròng cả.
21) Hỏi: Niệm Phật khi tâm thanh tịnh với niệm Phật khi tâm vận động hơn kém ra sao?
Đáp: Công Đức bằng nhau, không có gì sai khác!
22) Hỏi: Tôi tuy niệm Phật mà tâm cứ tán loạn không biết làm sao đây?
Đáp: Chuyện đó thì Pháp Nhiên nầy cũng làm không nổi!
23) Tâm của hạng phàm phu làm sao mà không tán loạn được. Cũng chính vì thế mới gọi là Pháp Môn Dễ Tu.
24) Đã sinh làm người trong cõi dục giới tâm địa nầy thì tâm đều tán loạn cả. Nếu bảo rằng phải bỏ cái tâm tán loạn mới vãng sinh được thì thật là vô lý.
Tán tâm niệm Phật mà được vãng sinh, đó là chỗ đáng quý của BỔN NGUYỆN vậy.
25) Chẳng phải thanh tịnh cái tâm của mình, trừ đi nghiệp chướng nầy rồi mới niệm Phật, mà do thường niệm Phật thì tội chướng tiêu diệt.
26) Dù trọng tội vô gián (ngũ nghịch) cũng không thể thắng công đức xưng Danh. Thanh bảo kiếm là Danh hiệu Đức A Di Đà, hễ trì niệm thì ma duyên không gần được. Thường xưng niệm Danh hiệu Ngài thì tội chướng tiêu diệt.
27) Trong khi niệm Phật mà tâm vọng động là thông bệnh của tất cả hạng phàm phu. Nhưng hễ có chí nguyện vãng sinh mà Niệm Phật thì tuyệt đối không chướng ngại. Ví như chỗ thâm tình của cha con, dù có bất hòa đôi chút, thì chỗ thâm tình đó vẫn không thay đổi, vẫn là cha con.
28) Lấy người Niệm Phật mà thí dụ cho hoa sen, vì hoa sen là nghĩa không ô nhiễm. Đối với Danh hiệu của Bổn Nguyện Thanh Tịnh (NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT) thì sự dơ bẩn của thập ác, ngũ nghịch không thể làm ô nhiễm được nên mới thí dụ như thế.
29) Không cần để ý đến vọng niệm, tán loạn… mà chỉ chuyên cần xưng Danh hiệu. Nếu thường xưng Danh hiệu thì do công đức của Phật Danh, vọng niệm tự dừng, tán loạn tự yên, tam nghiệp (thân, khẩu, ý) tự điều hòa, nguyện tâm tự phát. Bởi thế:
Khi nguyện tâm còn yếu, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
Khi tâm tán loạn nhiều, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
Khi vọng niệm sinh khởi, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
Khi thiện tâm phát sinh, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
Khi bất tịnh, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
Khi thanh tịnh, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
Khi tam tâm còn thiếu kém, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
Khi tam tâm hiện khởi, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
Khi tam tâm thành tựu, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.
Đây là phương tiện để chắc chắn được vãng sinh, xin ghi khắc vào tâm can chớ quên.
30) Trong nhãn quan của Pháp Nhiên thì:
“ Tam tâm cũng là NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Ngũ niệm cũng là NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Tứ tu cũng là NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ”.
31) Người làm biếng Niệm Phật là người đánh mất đi vô lượng châu báu.
Người siêng năng Niệm Phật là người khai mở vô biên sáng suốt.
Nên dùng cái tâm cầu vãng sinh mà tương tục Niệm Phật.
32) Danh lợi là dây trói của sinh tử, là lưới sắt để vướng vào ba đường dữ. Xưng Danh là đôi cánh của vãng sinh để lên chín phẩm liên đài.
33) Chúng ta là người bị kẻ thù “tham, sân, phiền não” cột trói mà giam hãm trong lồng chậu tam giới. Hãy nghĩ đến lòng từ bi của Cha Lành A Di Đà, dùng thanh bảo kiếm Danh hiệu mà chặt đứt dây trói sinh tử, lên con thuyền Bổn Nguyện để vượt biển luân hồi, đến bờ Giác Ngộ.
Nước mắt hoan hỷ rơi ướt áo, lòng mong mỏi không nguôi.
34) Đã được thân người khó được, nếu tương lai để rơi vào ba đường dữ thì đáng buồn, đáng tiếc vô cùng.
Chán cõi dơ, ưa Tịnh Độ, bỏ ác tâm, phát thiện tâm thì được tam thế Chư Phật tùy hỷ.
Con đường để ra khỏi sinh tử tuy chẳng giống nhau, nhưng trong thời mạt pháp thì Xưng Danh Đức Phật A Di Đà là hơn cả.
Hạng tội chướng nặng nề ngu si ám độn đi nữa, nếu chịu trì Danh thì sẽ được vãng sinh, vì tương ưng Bổn Nguyện nhiếp thọ của Đức Phật A Di Đà vậy.
Tội chướng nặng nề hãy đừng mặc cảm, vì ngũ nghịch; thập ác cũng được vãng sinh. Dù mười niệm hay một niệm đi nữa, hễ chí tâm thì Phật lai nghinh.
35) Hạnh Trì giới (mà không xưng Danh Hiệu A DI ĐÀ PHẬT cầu sinh Tịnh Độ) chẳng phải là hạnh mà Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà nhiếp thọ, do đó cứ theo khả năng của mình mà giữ là được rồi. Điều quan trọng là chuyên cần Niệm Phật.
36) Chẳng kể là phá giới hay giữ giới, giàu hay nghèo, căn cơ cao hay thấp. Hễ xưng niệm Danh hiệu Ngài thì như gạch ngói biến thành vàng ròng. Ngài nhất định lai nghinh.
Đó là thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà.
37) Người Niệm Phật dù không có chút thiện căn gì khác đi nữa, vẫn chắc chắn được vãng sinh.
Hỏi: Niệm Phật mà không phát bồ đề tâm thì làm sao được vãng sinh? Niệm Phật mà không giữ giới thì làm sao được vãng sinh? Niệm Phật mà không có trí tuệ thì làm sao được vãng sinh? Niệm Phật mà vọng niệm không ngừng thì làm sao được vãng sinh?
Đáp: Hỏi như vậy là vì không biết và hiểu kinh PHẬT THUYẾT VÔ LƯỢNG THỌ.
38) Phật có đại nguyện tiếp dẫn, chúng ta có lòng muốn sinh sang đó, làm sao mà chẳng toại nguyện vãng sinh?
39) Nếu đi bằng thuyền thì người sáng mắt hay kẻ đui mù đều có thể đến bờ bên kia.
Tuy có con mắt trí tuệ mà không Niệm Phật thì không phù hợp với Nguyện Lực.
Tuy ngu si ám độn mà có thể Niệm Phật xin được nương vào Nguyện Lực của Phật để được vãng sinh.
40) Không để ý đến thiện ác của bản thân, chỉ một lòng cầu vãng sinh mà Niệm Phật. Đó gọi là Tha Lực Niệm Phật. Cho rằng bản thân bị tội chướng khó được vãng sinh là điều sai lầm rất lớn.
41) Chẳng cần để ý là tâm mình thiện hay ác, tội chướng nặng hay nhẹ, mà chỉ nên dùng miệng xưng NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT và phát khởi cái tâm quyết định! Nương Phật Thệ Nguyện chắc chắn vãng sinh!!!
42) Hạng vô trí, tội chướng Niệm Phật mà vãng sinh là ý chánh (mục đích chính) của Bổn Nguyện.
43) Thâm tâm tức là cái tâm tin sâu. Tin sâu điều gì? Tin rằng: Hạng phàm phu phiền não sâu dày, nghiệp chướng nặng nề, thiện căn thiếu kém, nhờ tin vào Nguyện Lực Đại Bi của Đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu, hoặc 100 năm, hoặc 45 năm, 20 năm, 10 năm, cho đến một hai năm. Từ khi phát tâm cho đến lúc lâm chung không thối chuyển. Hoặc 7 ngày, hoặc 1 ngày, cho đến 10 niệm, 1 niệm. Dù nhiều hay ít, người xưng danh Niệm Phật chắc chắn được vãng sinh.
Tóm lại, đối với chuyện vãng sinh mà không nghi ngờ thì gọi là “Thâm Tâm”.
44) Tuy được nghe Danh Hiệu mà không tin thì cũng như không được nghe. Tuy có tín tâm mà không xưng niệm thì cũng như không tin. Bởi thế nên một lòng Niệm Phật.
45) Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà là thệ nguyện dùng Danh Hiệu của Ngài để tiếp chúng sanh tội chướng. Do đó, người Niệm Phật (xưng danh hiệu Ngài) thì sẽ được lai nghinh. Đạo lý này tuyệt đối không thể nghi ngờ.
46) Hỏi: Chỉ xưng Danh một niệm mà có thể diệt được trọng tội ngũ nghịch, thập ác ư? Đáp: Đừng nghi!
47) Khi tạo ngũ nghịch mà được nghe Danh Hiệu của Đức Phật A Di Đà thì hỏa xa (cảnh địa ngục) tự nhiên biến mất, liên đài hiện đến lai nghinh.
Người tội chướng nặng nề không có phương tiện gì khác để giải thoát, do xưng Danh Hiệu được vãng sinh Cực Lạc. Đó là nhờ vào Nguyện Lực của Đức Phật A Di Đà.
48) Hỏi: Niệm Phật lúc lâm chung với Niệm Phật lúc bình thường, bên nào thù thắng hơn?
Đáp: Giống nhau!
49) Phút lâm chung, nỗi khổ của cái chết bức bách, thân thể chịu vô lượng thống khổ, giống như trăm nghìn lưỡi dao đâm vào. Mắt mũi bỗng nhiên mờ mịt, muốn thấy cũng không thể thấy. Miệng lưỡi co cứng, muốn nói cũng không nói được.
Đây là tứ khổ trong tám sự khổ của kiếp người, dù người tu Niệm Phật, tin Bổn Nguyện, cầu vãng sinh chăng nữa cũng khó tránh khỏi nỗi khổ nầy. Nhưng dù mờ mịt, đến khi tắt thở, do Nguyện Lực của Đức Phật A Di Đà, sẽ thành chánh niệm mà vãng sinh.
Sát na lâm chung dễ như cắt sợi tơ, điều nầy người khác không biết được, chỉ có Phật và người tu Niệm Phật biết được mà thôi.
50) Người Niệm Phật mà có lòng cầu vãng sinh và không nghi A Di Đà Phật Bổn Nguyện thì khi lâm chung không bị điên đảo. Sở dĩ được như vậy là nhờ Phật lai nghinh.
Phật lai nghinh là để người tu Niệm Phật lúc lâm chung được chánh niệm, chứ không phải lúc lâm chung cần phải chánh niệm thì Phật mới lai nghinh.
Người không biết nghĩa nầy đều cho rằng lúc lâm chung cần phải chân chánh niệm Phật, Phật mới lai nghinh. Kiến giải như vậy là không tin vào Phật Nguyện và cũng không hiểu kinh văn nữa.
51) Vì người chết mà niệm Phật hồi hướng thì Phật A Di Đà phóng quang minh soi chiếu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Kẻ bị chìm trong ba đường dữ mà chịu khổ thì hết khổ. Người chết sau khi lâm chung được giải thoát.
52) Tuy biết rằng: “Dù tội ngũ nghịch cũng không chướng ngại vãng sinh” nhưng phải cẩn thận ngay cả tội nhỏ cũng chớ phạm.
Tuy biết rằng “một niệm cũng đủ” nhưng gắng niệm cho nhiều. Tin rằng một niệm cũng vãng sinh mà niệm suốt một đời.
53) Hỏi: Vì Bổn Nguyện không loại trừ kẻ ác, nên người ta đều muốn tạo ác nghiệp, làm sao đây?
Đáp: Phật A Di Đà tuy không bỏ rơi kẻ ác, nhưng người tạo ác nghiệp thì chẳng phải là đệ tử của Phật.
Tất cả Phật Pháp là để chế phục điều ác, vì hạng ngu si phàm phu không dễ gì làm được, nên khuyên Niệm Phật để diệt tội.
54) Đức Phật A Di Đà thương xót tất cả chúng sinh, dù thiện hay ác Ngài đều cứu độ. Nhưng thấy người lành thì Ngài vui, thấy kẻ ác thì Ngài thương xót.
55) Đáng thương thay! Thiện tâm tùy năm mà giảm, ác tâm theo ngày mà tăng!
Người xưa nói: “Phiền não như ảnh tùy thân, muốn bỏ mà không xong. Bồ Đề như trăng trong nước, muốn lấy mà không được”.
56) Hễ có tín tâm thì tội lớn cũng diệt, không có tín tâm thì tội nhỏ vẫn còn. Nên hổ thẹn là mình không có tín tâm!
57) Người tu Tịnh Độ trước hết nên biết hai điều nầy:
“Vì người có duyên dù phải bỏ thân mệnh, tài sản cũng nên vì họ mà nói pháp môn Tịnh Độ.
Vì sự vãng sinh của mình, nên xa lìa mọi phiền nhiễu mà chuyên tu hạnh Niệm Phật”.
Ngoài hai điều trên không tính toán gì khác.
58) Đã tu Tịnh Độ thì mọi chuyện trong đời đều y theo Niệm Phật mà quyết định. Tất cả đều là trợ duyên cho Niệm Phật, hễ làm chướng ngại thì nên từ bỏ.
Sống một mình không Niệm Phật được thì ở chung mà Niệm Phật. Sống chung không Niệm Phật được thì ở một mình mà Niệm Phật. Tại gia mà không Niệm Phật được thì xuất gia mà Niệm Phật. Xuất gia mà không Niệm Phật được thì tại gia mà Niệm Phật. Sống giữa đời không Niệm Phật được thì trốn đời mà Niệm Phật. Trốn đời không Niệm Phật được thì sống giữa đời mà Niệm Phật.
59) Nguyện rằng người tu Tịnh Độ gặp bệnh hoạn nên vui!
60) Thành Phật tuy khó nhưng cầu vãng sinh thì dễ được. Nhờ sức Bổn Nguyện làm cường duyên, nên tuy là phàm phu mà được vãng sinh Báo Độ (Thực Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ).
61) Một vị tăng ở Trấn Tây đi hành cước, khi đi ngang Cát Thủy Lư, ra mắt Pháp Nhiên Thượng Nhân, gặp lúc ngài đang Niệm Phật ở đạo trường nên thị giả tiếp khách.
Vị tăng hỏi: Trong khi xưng Danh hiệu, có nên để tâm mình vào tướng hảo của Phật hay không?
Thị giả đáp: Quả thật là nên.
Vừa lúc ấy ngài mở cửa đạo trường và nói: “Nguyên Không nầy (một pháp danh khác của Ngài) thì chẳng vậy. Hãy nhớ rằng kinh dạy: “Khi tôi thành Phật, mười phương chúng sinh xưng Danh hiệu của tôi dù chỉ có mười lần, nếu chẳng được vãng sinh, tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác”. ( Kinh PHẬT THUYẾT VÔ LƯỢNG THỌ).
Và Tổ Thiện Đạo dạy: “Đức Phật kia (Đức A Di Đà) nay đang tại thế thành Phật. Bởi thế nên biết rằng Bổn Nguyện Trọng Thệ chẳng hư dối. Chúng sinh xưng niệm thì tức nhiên được vãng sinh”. Theo thiển ý, dù quán tướng hảo của Phật chăng nữa cũng chẳng phải như thuyết quán.
Chẳng bằng nương tựa Bổn Nguyện, miệng xưng Danh hiệu là hơn cả, vì đó là hạnh chân thực ( hạnh tương ưng với Bổn Nguyện).
62) Có người hỏi rằng: Nhật khóa xưng danh sáu vạn, mười vạn lần mà chẳng như pháp: so với xưng danh hai vạn, ba vạn lần mà như pháp. Bên nào tốt hơn?
Ngài đáp: Hạng phàm phu loạn tưởng xưng danh ít lần mà như pháp tu hành, sự thật rất là khó. Chẳng bằng nhật khóa xưng danh cho nhiều. Chỗ trọng yếu của xưng danh là để tâm niệm tương tục, Niệm Phật không ngớt miệng là đủ, cần gì phải cho là như pháp hay chẳng như pháp ư!
63) Hỏi: Thường nghĩ đến chuyện “Bỏ ác tu thiện” mà Niệm Phật, so với thường nghĩ đến ý chỉ của Bổn Nguyện mà Niệm Phật. Điều nào hay hơn?
Đáp: Bỏ ác tu thiện tuy là lời răn chung của chư Phật, nhưng hạng phàm phu thời mạt pháp như chúng ta thường làm ngược lại!
Nếu chỉ tự mình mà chẳng nương vào Bổn Nguyện thì e rằng khó mà ra khỏi sinh tử.
64) Hỏi: Thiện Đạo Hòa Thượng cho rằng Thánh Đạo môn là giáo pháp phương tiện, xuất phát từ đâu?
Đáp: Cuốn PHÁP SỰ TÁN chép:
“ Như Lai xuất hiện nơi ngũ trược.
Tùy nghi phương tiện dạy chúng sanh.
Hoặc nói “đa văn” mà được độ.
Hoặc thuyết “tiểu giải” chứng tam minh.
Hoặc dạy “phước huệ” cùng trừ chướng.
Hoặc giáp “thiền niệm” ngồi tư duy.
Tất cả pháp môn đều giải thoát.
Không hơn Niệm Phật vãng Tây Phương”.
Hỏi: Đã nói rằng: “Tất cả pháp môn đều giải thoát”, sao lại lấy đoạn văn nầy làm chứng cứ?
Đáp: Ở trên nói: “Tùy nghi phương tiện dạy chúng sanh”, kế đến là “Tất cả pháp môn đều giải thoát”, và cuối cùng là “Không hơn Niệm Phật vãng Tây Phương”. Rõ ràng là ngoài Niệm Phật vãng sinh ra, tất cả đều là phương tiện.
65) Thánh Đạo Môn (các tông phái khác) đều tu cái “nhân” của tam thừa, tứ thừa để được cái “quả” của tam thừa, tứ thừa. Do đó không thể so sánh với hạnh Niệm Phật. Còn trong Tịnh Độ Môn thì các hạnh (đọc tụng kinh điển, lễ bái, quán tưởng, quán tượng…) và hạnh Niệm Phật đều là “nhân” để vãng sinh nên có thể so sánh.
Nhưng các hạnh đều chẳng phải tương ưng với A Di Đà Phật Bổn Nguyện, do đó quang minh của Đức A Di Đà chẳng thu nhiếp, mà Đức Thích Ca cũng chẳng phó chúc. Bởi thế Thiện Đạo Đại Sư dạy: “Tất cả các hạnh khác tuy gọi là thiện, nhưng nếu so với Niệm Phật thì hoàn toàn không thể so sánh nổi”.
66) Các Đại sư hoằng dương Pháp môn Tịnh Độ thời nào cũng có nhiều, tất cả đều khuyên người tu Tịnh Độ phát Bồ Đề Tâm và đều lấy hạnh “Quán Tưởng” làm chánh. Chỉ duy một mình Đại sư Thiện Đạo cho rằng không phát Bồ Đề Tâm cũng được vãng sinh và nhận định rằng hạnh “Quán Tưởng” chỉ là trợ nghiệp cho hạnh “Xưng Danh” mà thôi. Theo thiển ý, người tu Tịnh Độ nếu không tuân theo ý của Ngài Thiện Đạo thì e rằng khó được vãng sinh. Hãy ghi nhớ!
67) Một đệ tử hỏi: Nếu trí tuệ là điều cần yếu để vãng sinh thì con người minh mẫn theo thầy học. Còn nếu chỉ cần xưng danh là đủ thì không mong gì khác. Xin Thầy từ bi khai thị cho, con sẽ tuyệt đối vâng theo như lời Phật dạy vậy.
Ngài đáp: Chánh nghiệp vãng sinh thì trọng yếu là xưng danh. Rõ ràng là chẳng phân biệt có trí tuệ hay không có trí tuệ, cần gì phải học hành cho lắm! Chi bằng cứ lo Niệm Phật, thì sẽ mau được vãng sinh Tịnh Độ, gặp mặt Thánh chúng, được nghe pháp môn. Hơn nữa cõi kia trang nghiêm, ngày đêm thuyết pháp sâu xa, do đó sẽ tự nhiên khai phát thắng giải mà chứng Vô Sinh Nhẫn. Nếu chưa biết ý nghĩa của Niệm Phật vãng sinh thì học cho biết, đơn sơ là đủ. Nếu ham học rộng, biết bao nhiêu cho cùng. Hãy siêng năng Niệm Phật là hơn cả.
68) Thọ giáo và phát tâm không hẳn là cùng lúc, vì phát tâm thì gặp duyên mà phát khởi. Trước đây có một vị sơn tăng hỏi tôi rằng: “Tôi học pháp môn Tịnh Độ đã lâu, hiểu được đôi chút nhưng chưa phát khởi được tín tâm. Phải dùng phương tiện gì để thành lập tín tâm?”. Tôi đáp: “Hãy cầu nguyện Tam Bảo gia bị”. Vị tăng kia tuân theo lời dạy. Một hôm ông ấy đến chùa Đại Đông, gặp lúc đang gác cây đòn dông ở chánh điện. Ông bèn đứng xem, bỗng nhiên tín tâm phát khởi rồi tự nhủ rằng: “Nếu không có sự tính toán khéo của người thợ thì làm sao cây đòn dông lên đó được?! Người thợ tầm thường còn vậy huống gì sức thiện xảo không thể nghĩ bàn của Như Lai! Mình có cái chí nguyện vãng sinh, Phật có lời thề tiếp dẫn. Vãng sinh Tịnh Độ hẳn nhiên là tương ứng!”
Từ đó không còn tâm nghi ngờ nữa. Sau nầy ông có đến cho tôi biết. Ba năm sau thì được vãng sinh, điềm lành rất nhiều. Bởi thế nên thường cầu nguyện Tam Bảo gia bị.
69) Yếu đạo để hạng phàm phu thoát khỏi sinh tử không gì hơn Môn Tịnh Độ, hạnh Niệm Phật. Nói về căn cơ thì bao gồm thập ác, ngũ nghịch, tứ trọng, báng pháp, xiển đề, phá giới, v.v… Nói về hạnh thì mười tiếng hay một tiếng, ngay cả trẻ con cũng xưng được.
Nói về tín thì một niệm hay mười niệm, kẻ ngu cũng làm được. Bổn Nguyện vốn vì “mười phương chúng sinh” mà có, không để sót bất cứ căn cơ nào, không bỏ rơi bất kỳ ai. Trong mười phương chúng sinh, thì có trí hay vô trí, có tội hay vô tội, phàm phu hay Thánh nhân, trì giới hay phá giới, người nam hay người nữ, ông già hay trẻ con… cho đến căn cơ của thời Tam Bảo đã diệt đều bao gồm cả. Hễ gặp được Bổn Nguyện, được nghe Danh Hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT và tin theo mà Niệm Phật thì Đức Phật A Di Đà dùng Quang Minh Biến Chiếu thu nhiếp chẳng rời.
Hạng tội nặng nghiệp dày, u minh ám chướng lại càng nên nương vào A Di Đà Phật Bổn Nguyện. Vì sao vậy? Lý do là vì A Di Đà Bổn Nguyện vốn vì phàm phu, chớ không phải vì Thánh nhân.
70) Năm điều quyết định chuyện vãng sinh:
• 1) Bổn Nguyện của Đức A Di Đà quyết định.
• 2) Lời dạy của Đức Thích Ca quyết định.
• 3) Sự chứng minh của Chư Phật quyết định.
• 4) Giáo thích của Tổ Thiện Đạo quyết định.
• 5) Tín tâm của chúng ta quyết định.
Do năm nghĩa trên quyết định vãng sinh.
71) Niệm Phật là chuyện mình làm. Vãng sinh là chuyện Phật làm. Vãng sinh là do Phật Lực ban cho, lại cứ tính toán trong tâm mình thì đó là tự lực. Chỉ nên xưng danh để chờ Phật lai nghinh.
72) Tuy tam học “Giới, Định, Huệ” hoàn toàn đầy đủ, nhưng nếu không nương Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà mà xưng Danh hiệu Ngài thì không được vãng sinh. Tuy không có “Giới, Định, Huệ”, mà một mực xưng Danh thì chắc chắn được vãng sinh.
73) Hỏi: Vấn đề tự lực và tha lực nên hiểu như thế nào?
Đáp: Pháp Nhiên nầy, tuy không phải là loại căn khí, có thể ra mắt Điện Hạ (Thiên Hoàng) nhưng do Điện Hạ triệu vào. Hai lần vào ra mắt không phải là do khả năng của tôi, mà do sức của Thiên Hoàng, huống gì là sức của Đức Phật A Di Đà!
Chuyện Ngài lai nghinh để tiếp dẫn người xưng Danh là Bổn Nguyện của Ngài, điều nầy thật dễ hiểu.
Những người tội chướng vô trí, không nên hoài nghi vãng sinh. Nếu mà nghi ngờ là hoàn toàn không biết gì về Phật Nguyện cả. Bổn Nguyện được phát ra là để cứu những người tội chướng vậy. Bởi thế hãy nỗ lực xưng Danh chớ khá nghi ngờ. Chỉ sợ không ưa cõi Cực Lạc, không tin Niệm Phật thì sẽ chướng ngại vãng sinh.
Vì vậy gọi là “Tha Lực Nguyện”, là “Siêu Thế Nguyện”.
74) A Di Đà Bổn Nguyện phát ra không phải vì hạng thiện nhân có phương tiện, có thể dùng tự lực để thoát ly sinh tử mà là vì hạng ác nhân tội chướng không có phương tiện để giải thoát.
Những hàng Bồ Tát, Thánh Hiền cũng có thể nương vào đó mà cầu vãng sinh. Hạng thiện nhân phàm phu cũng hướng về lời nguyện nầy mà được vãng sinh, huống gì hạng ác nhân phàm phu lại càng nên nương vào Tha Lực nầy chớ nên hiểu sai lầm mà bám chấp vào tà kiến. Hãy nhớ A Di Đà Bổn Nguyện căn bản là vì hạng phàm phu mà gồm luôn cả Thánh Nhân nữa. Xin hiểu rõ lý nầy.
75) Tu Thánh Đạo Môn thì tột cùng trí tuệ để lìa sinh tử. Tu Tịnh Độ Môn thì trở lại ngu si để vãng sinh. Bởi thế khi hướng về Thánh Đạo Môn thì trau dồi trí tuệ, giữ cấm giới, rèn luyện tâm tánh làm tông chỉ.
Còn bước vào Tịnh Độ Môn thì chẳng dựa vào trí tuệ, chẳng lo tròn đạo hạnh, chẳng cần điều hòa tâm tánh, mà chỉ tự thấy mình là người vô năng, vô trí; cần nương vào Bổn Nguyện mà Niệm Phật mà cầu vãng sinh.
76)
• 1) Muốn mau lìa sinh tử: Trong hai loại thắng pháp; Bỏ qua Thánh Đạo Môn, mà vào Tịnh Độ Môn.
• 2) Muốn vào Tịnh Độ Môn; Trong hai hạnh Chánh, Tạp; Hãy bỏ các Tạp hạnh, mà quay về Chánh Hạnh.
• 3) Muốn tu nơi Chánh Hạnh; Trong hai Chánh; Trợ Nghiệp; Chớ dính nơi Trợ Nghiệp; Hãy nên chuyên Chánh Định.
• 4) Chuyên tu Chánh Định Nghiệp; Tức là Xưng Phật Danh; Xưng Danh tất vãng sinh; Bởi do Phật Bổn Nguyện.
77) Yếu đạo để ra khỏi sinh tử, không gì hơn vãng sinh Tịnh Độ. Hạnh tu để vãng sinh Tịnh Độ tuy nhiều, không gì hơn Xưng Danh. Vì xưng Danh là hạnh tương ưng với A Di Đà Bổn Nguyện. Bởi vậy Hòa Thượng Thiện Đạo dạy rằng:
“Kinh VÔ LƯỢNG THỌ” chép: “Khi tôi thành Phật, nếu mười phương chúng sinh xưng Danh hiệu của tôi, dù chỉ mười lần mà không được vãng sinh thì tôi chẳng ở ngôi Chánh Giác. Đức Phật kia hiện tại thế thành Phật. Nên biết rằng Bổn Nguyện Trọng Thệ chẳng hư dối. Chúng sinh xưng niệm, tất nhiên được vãng sinh”. Do đó ngoài xưng Danh không cần quán tưởng gì khác.
Hiểu và tin như trên, lâm chung chắc chắn Phật lai nghinh. Nếu bình thường đã xưng Danh tích lũy công đức thì dù cho lúc lâm chung không xưng được Phật Danh vẫn quyết định vãng sinh.
78) Đệ tử Nhất Hiền Chân hỏi: Thưa Thầy! Để mau chóng lìa khỏi sinh tử, thì Chân Ngôn (Mật Tông), Chỉ Quán (Thiên Thai), Hoa Nghiêm, Phật Tâm (Thiền Tông) phải thâm diệu hơn Tịnh Độ chứ?
Ngài đáp: Pháp môn thì vô lượng nhưng luận về chỗ cấp yếu, thì tối thượng là Tịnh Độ. Các giáo pháp tuy nhiều nhưng xét đến chỗ cương yếu, thì Tha Lực Đốn Giáo thù thắng hơn cả. Vì dễ tu mà công cao, dễ hành mà lý thâm. Bởi thế Tổ Huệ Viễn nói rằng: “Các môn Tam Muội tuy nhiều nhưng công cao mà dễ tu thì Niệm Phật là hơn cả”.
Ngài Nguyên Chiếu nói rằng: “Niệm Phật Tam Muội là pháp để hạng phàm phu ngu độn trong sát na siêu việt thành Phật. Cho thấy rằng Tịnh Độ Giáo Pháp, Niệm Phật Tam Muội là Đại Thừa, Chí Cực, Tốc Tật, Giải Thoát”.
79) Khai thị của Pháp Nhiên Thượng Nhân cho đệ tử lúc lâm chung: “Thầy mấy chục năm nay, công phu Niệm Phật tích lũy, được bái kiến Cực Lạc trang nghiêm và Chân Thân của Phật, Bồ Tát là chuyện bình thường. Nhưng nhiều năm giữ kín mà không nói ra, nay đã đến lúc tối hậu nên bày tỏ đôi chút. Thầy nếu đoan tọa (ngồi kiết già) mà vãng sinh, người đời hẳn nhiên bắt chước. Mà cái thân người bệnh, cử động khó khăn, e rằng họ sẽ mất chánh niệm. Vì vậy nay Thầy nằm thẳng mà ra đi. Bổn Sư Thích Tôn đã thị hiện đầu Bắc, diện Tây (nằm nghiêng bên phải, đầu hướng Bắc, mặt hướng Tây) mà viên tịch, đó cũng là vì chúng sinh vậy. Thầy làm sao hơn Đức Thích Tôn được!”
DI HUẤN CỦA PHÁP NHIÊN THƯỢNG NHÂN
Chúng sinh thời mạt pháp là đương cơ của vãng sanh Cực lạc, hạnh tuy ít xin chớ nghi 1 niệm, 10 niềm đã đủ. Tuy tội chướng xin chớ nghi dù tội nặng cũng được cứu. Thời tuy mạt xin chớ nghi, chúng sanh sau thời mạt pháp còn được cứu huống hồ hiện nay. Thân tuy ác, xin chớ nghi. Tổ Thiện Đạo nói: bản thân tôi là phàm phu đầy đủ phiền não, trong mười phương mà nguyện về Tây phương vì đó là chỗ mà chúng sinh ngỗ nghịch, thập ác được vãng sanh. Trong chư Phật mà quay về với Đức Phật A Di Đà vì 5 niệm, 3 niệm Ngài cũng lai nghinh. Trong các hạnh tu Tịnh độ mà chọn niệm Phật vì đó là Bổn nguyện của Phật A Di Đà được thân người khó được, gặp bổn nguyện khó gặp, phát đạo tâm khó phát, lìa luân hồi khó lìa, xin Tịnh độ khó xin, vui mừng không tả xiết. Tin rằng tội tuy thập ác, ngỗ nghịch cũng được vãng sanh mà không phạm tội nhỏ, kẻ ác còn được vãng sanh huống chi người lành. Tin rằng: niệm 1 lần hay 10 lần vẫn được cứu mà niệm liên tục suốt đời, 1 niệm còn được vãng sanh huống gì nhiều niệm. Đức Phật A Di Đà đã thành tựu thệ nguyện của Ngài hiện đang ở cõi hư đến lúc lâm chung chắc chắn Ngài sẽ lai nghinh. Bổn sư Thích Tôn cũng hoan hỷ, tùy thuận lời ta dạy lìa khỏi sinh tử, 10 phương chư Phật cũng mừng vui. Tin sự chứng thành của ta mà xin về cõi Tịnh độ bất thối chuyển, hoan hỷ biết bao, hiện đời được gặp Bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà. Đi đứng nằm ngồi đều xưng báo đáp ân đức của Ngài. Lời dạy 10 niệm để làm bằng cớ, tất được vãng sanh, tin lại càng tin.
LỜI BẠT
Theo thiển ý của dịch giả, có thể nói Pháp Nhiên Thượng Nhân là người đầu tiên chỉ rõ chân diện mục của Tông Tịnh Độ, vạch ra một đường sáng cho tất cả những ai muốn thật sự liễu thoát sinh tử trong một đời. Điều đáng buồn là những lời dạy vàng ngọc nầy chưa hề được giới thiệu với người tu Tịnh Độ ở Việt Nam, dù rằng toàn bộ tác phẩm của Ngài đã được thâu nhập vào Đại Tạng Kinh qua bao thế kỷ.
Dịch giả xin nguyện rằng hễ ai được đọc pháp ngữ nầy đều phát khởi tha lực tín tâm, hoan hỷ Niệm Phật, tin sâu rằng mình đã được dự vào A Di Đà Bổn Nguyện Hải Hội và tương lai chắc chắn được sinh về cõi Cực Lạc bất thối chuyển.
Nam Mô A Di Đà Phật
Mùa đông năm 1997
Viên Thông Nguyễn Văn Nhàn (Dịch giả) – Người đọc: Chiếu Thành
Phần đầu của cuốn: Niệm Phật Tông Yếu – Pháp Nhiên Thượng Nhân.
Niệm Phật Tông Yếu – Pháp Nhiên Thượng Nhân chính là Bồ Tát Đại Thế Chí hóa thân
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại hiện nay và nhất là đối với hàng cư sĩ tại gia, Niệm Phật có thể nói là con đường tất yếu để ra khỏi sinh-tử. Đây là Pháp Môn Tha Lực duy nhất trong Phật Pháp mà điểm then chốt là tin tưởng tuyệt đối vào Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà.
Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà là dùng Danh Hiệu của Ngài để cứu độ tất cả chúng sanh. Không hiểu rõ lý nầy, người ta thường cho rằng Xưng-Danh là để cho hạng hạ căn không đủ căn cơ để tu những pháp môn như Quán Thật Tướng, Quán Tưởng, Quán Tượng, v.v… Và khi tu Niệm Phật thì phần nhiều đều mang tâm niệm tự lực, vẫn cứ trông cậy vào sức mình để được vãng sinh. Đó là Tự Lực Niệm Phật. Bởi thế, tu rất nhọc nhằn mà cũng không chắc là mình có được vãng sinh hay không. Những ngộ nhận nầy chính dịch giả cũng mắc phải. Hơn một năm trước đây, may mắn thay, gặp được tác phẩm Pháp Nhiên Ngữ Đăng Lục. Như kẻ mù được sáng, người sắp chết đuối gặp phao. Hốt nhiên tín tâm phát khởi, nhận ra lý Tha Lực Niệm Phật. Từ đây, Niệm Phật trở thành một niềm vui không thể nghĩ bàn, vãng sinh Cực Lạc là điều chắc chắn chứ không cần đến lúc lâm chung. Do đó, xin chọn những pháp ngữ tinh yếu của Ngài để dâng tặng người hữu duyên.
Xin nguyện rằng hễ ai đọc đến, đều phát khởi tín tâm, niệm Phật mà được vãng sinh Cực Lạc.
TIỂU SỬ NGÀI PHÁP NHIÊN THƯỢNG NHÂN
Pháp Nhiên Thượng Nhân là Khai Tổ của Tông Tịnh Độ Nhật Bản. Ngài sinh năm 1133. Thân phụ của ngài là một vị quan thời đó. Do đã quá tứ tuần mà vẫn chưa có con nối dõi, nên cha mẹ Ngài đã trai giới thanh tịnh rồi vào chùa tụng kinh 7 ngày đêm để xin Phật gia hộ. Đến đêm thứ bảy, trong lúc nửa tỉnh nửa mê, mẹ Ngài thấy một lão tăng đưa cho bà một con dao dùng để cạo đầu người xuất gia, bảo bà nuốt. Sau đó bà hoài thai. Cha Ngài đã đoán rằng sẽ sinh con trai và sau này xuất gia làm một Đại sư lỗi lạc. Từ khi mang thai Ngài, thân tâm của mẹ ngài trở nên an lạc lạ thường, bà phát tâm ăn chay trường và thâm tín Tam Bảo.
Khi sinh Ngài, có hai luồng hào quang ở trên không chiếu xuống, tiếng chuông lảnh lót. Đầu Ngài vuông vắn có góc, mắt hai tròng, tướng mạo phi phàm.
Năm Ngài lên chín, phụ thân ngài bị địch quân sát hại. Trước khi qua đời kêu Ngài đến và dạy rằng : “Nầy con! Đây là túc nghiệp của cha, tuyệt đối không nên ôm hận báo thù. Hãy nhớ rằng oán không thể diệt oán. Nếu mang cái tâm báo thù thì đời đời kiếp kiếp sẽ giết hại lẫn nhau không bao giờ dứt. Mình biết đau thì người khác cũng biết đau, tiếc mạng sống. Con sau này thành nhân hãy cầu vãng sanh Cực Lạc, lợi lạc bình đẳng cho người và mình!”. Dặn dò xong xuôi cha ngài lớn tiếng niệm Phật mà an ổn qua đời.
Năm 14 tuổi, tuân theo di ngôn của thân phụ, ngài xuất gia với Pháp sư Giác Quán ở chùa Bồ Đề tại quê nhà. Ngài huệ giải mẫn tiệp, nhất văn thiên ngộ. Pháp sư Giác Quán thấy Ngài khí lượng bất phàm, không nỡ đề Ngài bị mai một, nên đưa Ngài lên Tỷ Duệ Sơn – một tự viện nổi tiếng ở kinh đô – để tham học với Pháp sư Nguyên Quang.
Đến ở Tỷ Duệ Sơn không bao lâu thì Pháp sư Nguyên Quang bảo rằng: “Đây là tuấn mã. Không thể để uống phí ở đây!” Rồi đưa ngài đến A-xà-lê Hoàng-viên, một bậc Tông sư của Tông Thiên Thai thời đó. Vừa thấy Ngài, Tổ Hoàng Viên đã nói rằng: “Hồi hôm ta nằm mộng, thấy một vầng trăng tròn chiếu vào chùa. Phải chăng đây là điềm lành báo trước”. Rồi thu nhận Ngài làm đệ tử, bấy giờ Ngài mới 15 tuổi. Chưa đầy 3 năm sau, Ngài đã thấu triệt tất cả những áo diệu của giáo pháp Thiên-Thai. Tổ Hoàng-Viên đã có ý trao truyền Tổ vị cho Ngài. Nhưng Ngài không muốn bị ràng buộc bởi danh lợi nên quyết tâm ra đi. Năm 18 tuổi, Ngài ẩn tu ở núi Hắc Cốc, tham học với Hòa Thượng Duệ Không, một bậc Tông Tượng của Mật Tông thời bấy giờ. Thấy Ngài khí độ phi phàm, dù rằng tuổi còn nhỏ mà không cần phải sách lệ, nên đặt pháp hiệu cho Ngài là Pháp Nhiên (có nghĩa là “Pháp vốn như vậy”), và pháp danh là Nguyên Không (lấy chữ “Nguyên” của Đại sư Nguyên Quang và chữ “Không” của Đại sư Duệ Không). Tại đây Ngài được truyền thụ Viên Thừa Đại Giới và Du Già Bí Pháp.
Không những thông tuệ, Ngài còn rất hiếu học. Tất cả Kinh, Luật, Luận đều được Ngài duyệt đọc cẩn thận. Ngài còn nghiên cứu tường tận về mọi tông phái. Không những thế, Ngài lại đọc khắp bách gia của cả Trung Hoa lẫn Nhật Bản. Ngài từng nói rằng: “Bất cứ kinh điển hay sách vở gì, hễ tôi đọc qua vài lần là tự nhiên thấu triệt, không cần phải suy nghĩ”. Bởi thế, Ngài tinh thông mọi Tông pháp mà không cần phải học với ai cả. Ngài duyệt đọc Đại Tạng cả thảy 5 lần và được đương thời tôn xưng là Trí Huệ Đệ Nhất.
Về phương diện tu hành, Ngài cũng có rất nhiều chứng nghiệm. Có lần Ngài nhập thất 21 ngày tu Pháp Hoa Tam Muội, cảm đức Phổ Hiền cưỡi voi trắng đến chứng minh, Sơn Vương Thần Tướng hiện hình thủ hộ. Khi Ngài duyệt đọc kinh Hoa Nghiêm, có con rắn nhỏ màu xanh nằm khoanh trên bàn. Thị giả Tín Không thấy vậy rất sợ hãi, dùng cây đem rắn ra ngoài. Khi trở vào lại thấy nằm nguyên ở chỗ cũ. Đêm đó Tín Không nằm mộng thấy một con rồng lớn đến bảo rằng: “Tôi là Long Thần thủ hộ kinh Hoa Nghiêm, xin đừng sợ hãi”.
Mỗi lần Ngài nhập thất tu Chân-ngôn Mật-quán là cảm ứng các điềm lành như liên hoa, bảo châu, yết ma và v.v… hiện ra. Rất nhiều lần Ngài đọc kinh ban đêm mà không cần đốt đèn. Ánh sánh phát ra từ trán của Ngài hoặc từ trong thất. Những điều lạ thường như trên, kể ra không xiết. Nhưng dù vậy Ngài vẫn còn băn khoăn chưa thật sự an tâm. Trong cả Đại Tạng Kinh, Ngài hâm mộ nhất là Bộ “Quán Kinh Sớ” của Tổ Thiện Đạo. Ngài đọc đi đọc lại nhiều lần và bỗng nhiên ngộ được ý chỉ DI-ĐÀ SIÊU-THẾ NGUYỆN. Ngài vô cùng hoan hỷ, chẳng khác gì trong đêm tối mà gặp được minh đăng. Ngài lập tức xả bỏ tất cả những pháp môn đã và đang tu, rồi nhập thất chuyên tu Tịnh Độ, Niệm Phật Vãng Sanh, có đêm Ngài nằm mộng thấy Đại sư Thiện Đạo đến bảo với Ngài rằng: “Tôi là sư Thiện-Đạo đời Đường. Ông có thể hoằng dương Chuyên tu Niệm Phật, nên tôi đến để chứng minh. Từ nay ông có thể hoằng pháp thịnh hóa khắp cả bốn phương”.
Năm 43 tuổi, Ngài rời Hắc Cốc đến trụ tích ở Đông Cát Thủy và khai sáng Tông Tịnh Độ. Trước đó tuy có không ít người Niệm Phật, nhưng không có Tông Tịnh Độ riêng biệt. Từ đây Tông Tịnh Độ xuất hiện và liên tục truyền thừa cho đến thời hiện đại ở Nhật Bản. Đây là một điểm đặc sắc cần lưu ý, vì ở Trung Hoa không hề có Tông Tịnh Độ, và dĩ nhiên không có sự kế thừa. Các Đại sư hoằng dương Tịnh Độ ở Trung Hoa có tính cách tự phát và chỉ ở trong đời của các Ngài mà thôi. Từ khi Ngài khai xướng Tông Tịnh Độ, những cảm ứng linh dị cũng nhiều không kể xiết. Xin kể đôi điều để tăng lòng kính tín.
Đương thời Tể tướng Đằng Nguyên Kiêm Thực rất ngưỡng mộ Thượng Nhân. Có lần thỉnh ngài vào điện Nguyệt Luân để tham vấn về Tịnh Tông Yếu nghĩa, giảng xong Ngài từ biệt ra về, khi đi đến cây cầu ở trước điện, tể tướng quỳ lạy dưới đất không cầm được nước mắt, giây lâu mới quay lại hỏi các người tùy tùng: “Vừa rồi các người có thấy Thượng Nhân trên đầu có hào quang, dưới chân có hoa sen đỡ rời khỏi mặt đất, hình dáng giống như Đức Đại Thế Chí hay không?”. Có người thấy, có người không. Từ đó cầu này được đặt tên là cầu Viên Quang.
Có lần cử hành Niệm Phật thất 21 ngày ở Chùa Linh Sơn. Vào nửa đêm ngày thứ 5, có vài người thấy Đức Đại Thế Chí cùng với đại chúng kinh hành Niệm Phật nên vội đảnh lễ. Giây lát ngước lên thì hình Đức Đại Thế Chí biến thành hình Thượng Nhân. Do đó mới biết rằng ngài là hóa thân của Đức Đại Thế Chí.
Từ khi Thượng Nhân sáng lập Tông Tịnh Độ thì cơ hóa độ thịnh hành vô cùng. Từ vua chúa công khanh cho đến hạng dân giả đều qui ngưỡng Ngài. Và hẳn nhiên cũng không thiếu kẻ ganh ghét Ngài. Do lỗi lầm của đệ tử, Ngài bị vu cáo và phải bị đi đày một thời gian ngắn. Nhưng Ngài vẫn an nhiên dạy Đạo cho bất cứ ai đến tham vấn mà không hề phân biệt.
Cũng nhờ lần đi đày này mà nhiều người có dịp gặp Ngài và được vãng sanh.
Ngài vãng sanh vào lúc giữa trưa ngày 25 tháng 2 năm 80 tuổi (1212). Trước đó vài ngày, ngài nói với các đệ tử:
“ Tiền thân của Thầy là một vị tăng ở bên Thiên Trúc (Ấn độ cổ thời), thường tu hạnh đầu đà. Nay đến chốn này học Thiên Thai Tông, sau rốt mở Tịnh Độ Tông, hoằng dương Niệm Phật.”
Đệ tử Thế Quán hỏi: Thưa Thầy! Là vị nào?
Ngài đáp: Là ông Xá-Lợi-Phất.
Lại có đệ tử khác hỏi: Thầy nay có vãng sanh về Thế-giới Cực-Lạc không?
Ngài đáp: Thầy vốn là người của Cực Lạc thì dĩ nhiên trở về Cực Lạc.
Các đệ tử thiết trí tượng Đức Phật A Di Đà và xin Ngài chiêm ngưỡng. Ngài lấy tay chỉ lên không mà nói rằng: “Phật hiện Chân thân kìa, các con có thấy không? Thầy mười mấy năm nay thường thấy Chân thân của Phật, Bồ Tát và Cực Lạc Trang Nghiêm, nhưng tuyệt đối không nói với ai. Nay sắp lâm chung, nên không ngại gì mà không nói cho các con biết”.
Ngày 22 các đệ tử đều đi nghỉ hết, chỉ còn một mình Thế Quán hầu Ngài. Có một người đàn bà đi xe đến và xin được gặp riêng Thượng Nhân. Hai người đàm đạo rất lâu. Khi bà ra về, Thế Quán rất lấy làm lạ nên mới đi theo sau, nhưng chẳng bao xa thì bà đột nhiên biến mất. Thế Quán vào hỏi Thượng Nhân. Ngài đáp: “Bà đó là phu nhân Vi Đề Hy!”.
Từ ngày 23 cho đến ngày 25, Ngài lớn tiếng Niệm Phật cùng với đại chúng để kết duyên lần cuối. Đến giữa trưa ngày 25, ngài đắp y Tăng già lê, đầu Bắc diện Tây (nằm nghiêng bên phải, mặt quay về phía Tây) tụng bài kệ sau rồi an nhiên thị-tịch, thế-thọ 80, tăng lạp 66.
“Quang minh biến chiếu,
Thập phương thế giới
Niệm Phật chúng sanh
Nhiếp-thụ bất-xả”.
(Tạm dịch: Ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới. Thu nhiếp chẳng rời chúng sanh Niệm Phật).
Trước khi Ngài thị tịch 5 ngày (ngày 20) mây ngũ sắc giống như tranh Phật che phủ chùa, khiến cho tất cả đại chúng được thấy đều rơi lệ. Các đệ tử nói rằng: “Đã có mây lành hiện ra thì Thầy sắp vãng sinh rồi ”. Ngài bảo: “Lành thay! Những người được thấy nghe hẳn sẽ tăng trưởng tín tâm!”.
Sau khi Ngài vãng sinh 16 năm, các đệ tử mở kháp đá đựng di thể của Ngài thì toàn thân vẫn như cũ, dung mạo từ hòa. Đệ tử tăng tục hơn ngàn người hộ tống di hài Ngài về Tây Giao làm lễ trà tỳ. Trong khi làm lễ, mây lành hiện ra, hương thơm phảng phất trên các cây tùng nên từ đó nơi này có tên là “Tử Vân Tùng”, hiện nay là chùa Quang Minh. Tác phẩm quan trọng nhất của ngài là TUYỂN TRẠCH BỔN NGUYỆN NIỆM PHẬT TẬP 4 đang được chuyển dịch sang Việt ngữ.
Mình rất tâm huyết với pháp môn niệm Phật tha lực của ngài Pháp Nhiên Thượng Nhân, bổn nguyện A Di Đà thì không thể nghĩ bàn. Chúng ta chỉ cần nương tựa vào bổn nguyện A Di Đà mà niệm Phật vãng sanh thôi, không cần lo lắng gì cả
Tựa như đứa con lưu lạc, hết tiền mà muốn về nhà. Chỉ cần có lòng muốn về. Còn lại mọi chuyện thì Cha lo liệu hết
A Di Đà Phật
A Di Đà Phật! Cho hỏi mình tu tại gia ở nhà ăn chay trường niệm Phật A Di Đà cầu vãng sanh, nhưng nếu thỉnh thoảng có tiệc, uống chút rượu bia như vậy có phạm giới, niệm phật được vãng sanh không?
A Di Đà Phật
Chào bạn Thúy Diễm!
Không biết bạn đã quy y Tam Bảo chưa, nếu đã quy y mà uống bia rượu là phạm giới. Còn giả như bạn chưa quy y Tam bảo mà uống bia rượu thì không coi là phạm giới nhưng xét kỹ thì việc này thật không nên. Chư Tổ dạy điều kiện vãng sanh gồm 3 yếu tố chính quyết định là tín- nguyện- hạnh. Song nếu người tu hành có thể giữ gìn các giới cấm, tinh tấn trong tu tập thì khi vãng sanh phẩm vị sẽ càng cao. Hơn nữa người thật sự tu hành cầu vãng sanh thời nên lánh xa những ưa thích tụ tập đông người, cùng ăn uống mua vui, cần phải có sự cảnh giác kẻo bị “cám dỗ” mà xao nhãng việc niệm Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật