HỎI: Cả nhà tôi lâu nay đều tu theo pháp môn Tịnh độ, luôn khuyến tấn nhau niệm Phật, thực hiện ba điều Tín-Nguyện-Hạnh, đồng thời cũng biết làm lành, tránh dữ, cúng dường, bố thí, phóng sanh, nguyện cầu hiện đời an lành và sau khi xả bỏ nhục thân được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về cõi Tây phương Cực Lạc. Nhưng gần đây chúng tôi được nghe bài pháp thoại nói về vai trò của người Phật tử tại gia đã làm cho chúng tôi cảm thấy hoang mang.
Theo thầy giảng sư thì tu pháp môn Tịnh độ mục đích hướng về cõi Cực Lạc, mong cầu sau khi chết được Phật rước, tu như vậy là vì tham, sẽ không bao giờ được thấy Phật. Một điều khác nữa là thầy nói cõi Cực Lạc mà Đức Phật Thích Ca nói trong kinh A Di Đà chỉ là phương tiện, tạm dùng để cho chúng sanh mê muội hướng về, và cảnh giới Cực Lạc vốn không có thực. Những người lớn tuổi trong gia đình tôi cảm thấy lo lắng khi nghe pháp thoại này. Bây giờ chúng tôi phải làm sao đây? Rất mong được quý Báo sẻ chia và cho chúng tôi biết cõi Cực Lạc có hay không?
(THANH VŨ, [email protected])
ĐÁP:
Bạn Thanh Vũ thân mến!
Niệm Phật là một pháp môn tu tập rất căn bản và phổ biến trong Phật giáo, cả Nam tông lẫn Bắc tông. Tu tập như gia đình của bạn “luôn khuyến tấn nhau niệm Phật, thực hiện ba điều Tín-Nguyện-Hạnh, đồng thời cũng biết làm lành, tránh dữ, cúng dường, bố thí, phóng sanh, nguyện cầu hiện đời an lành và sau khi xả bỏ nhục thân được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về cõi Tây phương Cực Lạc” là hoàn toàn đúng đắn với Chánh pháp.
Tất nhiên, pháp môn tu nào cũng là phương tiện. Vì là phương tiện, nên mỗi pháp môn có một đường hướng, lập trường và quan điểm tu tập riêng. Cũng giống như lên núi, có nhiều cách khác nhau, đi bộ hay ngồi cáp treo là tùy nhân duyên của mỗi người, miễn là lên đến đỉnh núi. Cho nên không thể đứng ở lập trường pháp môn của mình rồi so sánh hay đánh giá các pháp môn khác.
Do đó, các hành giả tu Tịnh độ, “nguyện cầu hiện đời an lành và sau khi xả bỏ nhục thân được Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về cõi Tây phương” chính là Nguyện (Tín-Nguyện-Hạnh), hoàn toàn không phải là tham. Tu Tịnh độ mà không nguyện, không mong sanh về Cực Lạc là thiếu sót, hành giả cần phải cầu vãng sanh, phải nguyện về Tây phương, đây là đường hướng, tôn chỉ căn bản của pháp môn này.
Xin nói thêm, lập trường của người tu nói chung là buông xả, không mong cầu, dẫu là cầu Niết-bàn nhưng bước đầu cũng cần phải “muốn”, đó là Dục định (lòng mong muốn, nhiệt tình, khát khao loại bỏ mọi thứ ngăn che thiền định, khử trừ mọi ham muốn thế thường để đi vào thiền định). Chắc chắn Dục định hoàn toàn không phải là tham. Dục định là ước muốn mãnh liệt để chứng đạt các Thánh quả, thà xả bỏ thân mạng cũng không nao núng, sờn lòng. Phật Thích Ca lúc sắp thành đạo ngồi dưới cội bồ-đề cũng phát khởi đại nguyện, nếu không thành chánh quả thì thà chết chứ không rời khỏi cội bồ-đề đó sao!
Đối với vấn đề, cõi Cực Lạc có hay không? Xin khẳng định rằng: Cực Lạc hoàn toàn có thật với các vị có chánh báo tương ứng, Cực Lạc là y báo của Phật A Di Đà và chư Thánh chúng tu niệm Phật. Các hành giả tu Tịnh độ cầu sanh về Cực Lạc, rồi từ đó nương thắng duyên mà tu tập cho đến ngày công viên quả mãn, thành Phật. Cho nên, Cực Lạc không chỉ “tạm dùng để cho chúng sanh mê muội hướng về” mà các bậc Tổ sư vĩ đại của Tịnh tông, các Đại Bồ-tát có nhân duyên cũng nguyện sanh về cõi ấy.
Tất nhiên, mọi người con Phật có chánh kiến đều biết “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (Kinh Kim cang) nên Cực Lạc dù có thù thắng trang nghiêm đến mấy cũng là phương tiện, không có tự tánh (tánh Không, vô ngã). Vãng sanh Cực Lạc là thành tựu “bất thối chuyển”, không còn bị đọa lạc, để rồi từ đó tiến tu thành Phật, phổ độ quần sanh. Vì thế, gia đình bạn không có gì phải hoang mang cả mà càng tinh tấn niệm Phật hơn nữa để thành tựu nhất tâm.
Chúc bạn tinh tấn!
TỔ TƯ VẤN
([email protected])
Cõi Cực Lạc là cõi do Phật A Di Đà lập nên để chúng sanh có môi trường tu tập tốt nhất vì chúng sanh nơi đây không bị thoái lui trong quá trình tuu học, thọ mệnh dài lâu. Hoàn toàn đối nghịch với cõi Ta bà này với vô số nghịch cảnh dễ khiến chúng sanh bị sa đọa và thối lui trên con đường tu học.
Tâm chúng sanh bất định, dễ phát sinh tham – sân – si trước những nghịch cảnh đời thường, đâu dễ gì giữ TÂM BÌNH THƯỜNG cho được.
Vì thế cầu sanh về Cực Lạc là việc rất cần thiết phải làm. Nếu ai thấy đủ bản lĩnh tự tin và khẩu khí lớn lao thì cứ ở lại Ta Bà mà tu hành. Còn đa số chúng ta là bậc hạ căn chậm lụt nếu ở lại đây thì vĩnh viễn chẳng có ngày thành tựu.
Tôi cũng ao ước có 1 gia đình tinh tấn như sư huynh đã đặt câu hỏi vậy.Rất tiếc là mình phước mỏng nghiệp dày.Tôi tình cờ đọc được lời khai thị niệm Phật của Triệt Ngộ Đại Sư, rất hay.Rất hợp với tình huống này.(http://www.mediafire.com/view/?2srigwuw670ijqy.Ng)ài nói:”Lại giả như đức Thích Ca thoạt nhiên hiện thân với ta rằng: Pháp niệm Phật của ngài dạy cho ta từ lâu nay đó là phương tiện trong một thời kỳ mà thôi,chớ hiện giờ đây ngài có một pháp siêu việt hơn nữa. Nếu ta bằng lòng bỏ pháp niệm Phật thì ngài sẽ truyền pháp mới ấy cho. Quả có như vậy, thì ta cũng cuối đầu đảnh lễ lạy Phật mà bạch rằng: Trước kia tôi đã vâng chịu tu theo pháp môn tịnh độ của đức Thế Tôn chỉ dạy và đã phát nguyện trong khi hơi thở hãy còn, quyết không di dịch thì ngày nay Như Lai dầu có pháp gì đặc biệt đi nữa, tôi cũng không dám từ trái bản nguyện của tôi mà phụng hành pháp ấy.”.
Đọc đầy đủ tác phẩm này,nhận ra nhiều điều bổ ích.Chúc các hành giả tinh tấn trên đường về cõi tịnh.
Pháp môn niệm Phật là pháp khó tin. Chỉ những người cảm được, hoặc thấy được, hoặc giác được mới có tín tâm vững chắc, không thoái lui.
Riêng đối với thầy Thích Trí Huệ, bản thân thanhtam nhớ mãi câu nói của thầy, đại ý như: “Với pháp môn tịnh độ, ai không tin thì mặc họ, nhưng còn tôi, tôi tin tuyệt đối”, vì bản thân thầy từng chứng kiến bà cố thầy vãng sanh với ánh sáng bao phủ với cảnh sắc nhiệm màu không thể nói hết bằng lời, tạo niềm tin mãnh liệt cho những người chứng kiến.
Chúc cho cả gia đình đạo hữu trong bài viết vững tâm với Pháp Niệm Phật của mình.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A DI ĐÀ PHẬT.
Các Liên hữu đã có niềm tin vào Pháp môn Tịnh độ thì chỉ nên nghe pháp của những Thầy giảng về Tịnh độ mà thôi, nghe Pháp nhiều và nghe nhiều Pháp là hai việc khác nhau. Hiện nay Phật tử nghe rất nhiều pháp nhưng do mỗi Thầy có cách hình trì khác nhau, nếu niềm tin của mình không vững mà nghe nhiều như vậy làm cho tín tâm mình bị chao đảo, dễ thối Bồ Đề Tâm. Nghe Pháp nhiều là mình chỉ chọn một Pháp môn rồi thực hành trong cuộc sống hàng ngày.
(Trích phần trả lời Cư Sĩ Diệu Âm về đường học đạo).
Thời mạt pháp, muốn tu hành theo đúng chánh pháp thì phải nhớ tuân thủ 4 điều của Phật dạy:
1- Y theo Pháp Phật, không y theo ý kiến của người.
2- Y theo ý nghĩa Phật dạy, không chấp vào ngôn ngữ.
3- Y theo giáo pháp toàn vẹn, không y theo các pháp giữa vời
4- Y theo lý tánh, không y theo cảm tình.
Có được vậy mới mong có ngày thành tựu.
Thời mạt pháp này cần thành khiêm cung, thành kính tu hành mới được hưởng thiện lợi. Quyết:
– Không được hiếu kỳ chạy theo những hào nhoáng của thế gian.
– Không nên đụng đâu nghe đó,
– Không được móng tâm cầu chứng đắc,
– Không được cầu có thần thông,
– Không được cầu phép lạ.
– Không được cầu cảm ứng điềm lành.
– Thấy cảnh giới vi diệu không được mừng vui tham đắm. Nói chung có cảm ứng tốt không được mừng
– Gặp cảnh giới nghịch xấu cũng không được lo âu sợ sệt. Nói chung gặp điềm dữ, điềm xấu không cần lo sợ.
– Luôn giữ tâm tịnh khí hòa niệm Phật cầu vãng sanh thì an toàn và thiện lợi, tránh được chướng nạn.
– Ấy thế mà trong thời nay nhiều người cứ thấy cái gì hay hay, lạ lạ, chứng chứng, đắc đắc… thì nhào theo hành trì. Chỉ vì không hiểu thấu vấn đề tối nguy phía trong nên nhẹ nhàn bước vào. Thật đáng sợ!… Nếu hồi đầu không kịp thì coi chừng đại họa đang chờ phía trước.
A DI ĐÀ PHẬT.
Nam mô a di đà phật!
Các vị thiện tri thức xin hãy tìm nhiều bài pháp hay,chỉ dẫn cụ thể cho gia đình vị cư sĩ trên nói riêng và những chúng sinh nphúc mỏng nghiệp dày bọn con,do thiện căn còn mỏng,lưới nghi chưa dứt nên dễ bị cảnh chuyển.lúc binh thường thi rất tinh tấn,yên tâm niệm phật.nhưng khi gặp nghịch cảnh,sự phản đối chống phá,cản trở của mọi người thì lại lo lắng,hoang mang.
Xin quý thầy và các vị liên hữu hay chia sẻ những kinh nghiêm,cũng như sự cảm ứng thực tế về pháp môn niệm phật chuyển cảnh,chuyển nghiệp và chứng kiến thắng cảnh của bản thân xác thực để mọi người cùng phát tâm tu học cho tinh tấn.
Nam mô a di đà phật!
Cúi lạy Tây Phương cõi An Lành
Tiếp dẫn chúng sanh Đại Đạo Sư
Con xin phát nguyện nguyện vãng sanh
Mong Đức Phật từ bi tiếp độ.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật!
cõi Tây Phương Cực Lạc là nơi có THẬT do đức Phật A Di Đà làm giáo chủ giúp cho chúng sanh thoát khổ và có môi trường tu tập tốt nhất ^^! một lòng tin tưởng vào ngài, quyết không thối chuyển 😀
Tây Phương Cực Lạc là nơi có thật vì Phật đã nói ra mà 😀 Phật không nói dối chúng sanh bao giờ 😀 đừng đánh mất lòng tin nhé ^^
Kính thưa các bậc tôn trưởng, tôi là người ăn chay niệm Phật, một lòng quy ngưỡng Tây Phương Tịnh Độ, tam tư lương đủ đầy, song vừa rồi tôi có gặp những vị tu theo đường lối Nguyên Thủy, tôi vẫn kính trọng họ, nhưng họ thì ngược lại, họ nói tôi đi đường tà! nhưng không thể phá được đạo tâm của tôi, tôi và họ cùng đàm đạo, tôi vẫn lý luận rõ ràng Tịnh Độ vẫn được đặt trên nền tảng GIỚI – ĐỊNH – TUỆ, vẫn không xa rời TỨ DIỆU ĐẾ, BÁT CHÍNH ĐẠO…Họ không thể phá được tôi, song trong quá trình đàm đạ, tôi tỏ ra là người thiếu cơ bản về học Phật! chư vị có thể từ bi giúp tôi giải tỏa một số câu hỏi? Tôi thành kính tri ân chư vị!
1. Trên giáo lý Phật đà có nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp môn, vậy đây là có thật 8 vạn 4 ngàn pháp môn hay là lời dạy ẩn chứa điều gì? (nếu có thì gồm những pháp môn gì?)
2. Tôn tượng Phật A DI ĐÀ có từ thời điểm nào? do đâu mà có?
xin chư vị từ bi hoan hỉ chỉ dạy cho tôi được thông suốt!
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT NAM MÔ CÔNG ĐỨC LÂM BỒ TÁT MA HA TÁT
Mình không biết gì,cũng đánh dấu chờ người cao minh giải thích như thế nào.Nhưng với mình,ai nói gì thì kệ(vì mình không biết gì hết),chỉ ngửa mặt tin lời đức Bổn Sư Thích Ca,lời tổ từ Ngài Long Thọ,Văn Thù,Phổ Hiền,Liên Trì,Thiện Đạo,…Cho đến HT Thiền Tâm,HT Trí Tịnh..Không lẽ,họ cũng đi đường tà sao?hix.Nói như Pháp Nhiên Thượng Nhân :”Nguyên Không này như một đứa trẻ không biết đen trắng,như một người ngu không biết trái phải,chỉ lo niệm Phật tin sẽ được vãng sanh”.
Mong đạo hữu hoan hỷ.
A Di Đà Phật
Gửi Đạo hữu Văn Phước kính mến,
Kính thưa các bậc tôn trưởng, tôi là người ăn chay niệm Phật, một lòng quy ngưỡng Tây Phương Tịnh Độ, tam tư lương đủ đầy
Ngạn ngữ Tây phương có câu: Tự đánh giá về mình là đang đẩy mình đến bờ vực thẳm. Nếu căn cứ vào câu nói trên của anh, xin anh hoan hỉ cho TN được góp ý thẳng: anh chưa thực hiểu và nắm rõ thế nào là pháp môn niệm Phật và thế nào là Tư Lương Tịnh Độ. Lý do? Bởi người thực tu vốn không ai biết và vốn chẳng khi nào diễn nói mình đang tu; người Tư Lương Tịnh Độ đầy đủ chắc chắn đã không còn những vướng chấp phải gây phiền não như anh hiện đang mắc phải. Do vậy việc tiên quyết anh nên làm hiện giờ là nên rà xét lại toàn bộ quá trình tu hành theo pháp niệm Phật của mình để tự bổ khuyết và đúc kết những gì anh đang thiếu, sai, và ngộ nhận về pháp môn này.
vừa rồi tôi có gặp những vị tu theo đường lối Nguyên Thủy, tôi vẫn kính trọng họ, nhưng họ thì ngược lại, họ nói tôi đi đường tà! nhưng không thể phá được đạo tâm của tôi, tôi và họ cùng đàm đạo, tôi vẫn lý luận rõ ràng Tịnh Độ vẫn được đặt trên nền tảng GIỚI – ĐỊNH – TUỆ, vẫn không xa rời TỨ DIỆU ĐẾ, BÁT CHÍNH ĐẠO…Họ không thể phá được tôi, song trong quá trình đàm đạo, tôi tỏ ra là người thiếu cơ bản về học Phật!
Cổ Đức nói: Đạo bất tương đồng chớ nên khai khẩu. Anh đã vấp phải điều tối kỵ đó. Nói tới Phật pháp là phải nói tới nhân duyên. Nhân duyên chưa chín, chưa hội đủ, hoặc vô duyên, mình tuyệt đối chẳng nên trao đổi, hay tranh biện, bởi làm thế là nghịch đạo, là tạo nhân duyên để mọi người xa đạo và bỉ báng đạo; Thứ nữa, người anh trao đổi Pháp niệm Phật họ không tu về Tịnh Độ, nhưng anh dùng lý Tịnh Độ để bàn luận, cả đôi bên đều không lợi lạc, nếu không nói sẽ xảy ra sự xung đột về các pháp của Phật rồi dẫn tới sự hay-dở, cao-thấp…
Phật pháp vốn không có sự cao-thấp, hay-dở, hay đúng-sai, trái lại chỉ là sự mê hay ngộ mà thôi. Mê=phàm; Ngộ=Thánh. Khoảng cách mê-ngộ và phàm-thánh trong một sát na.
Pháp nào của Phật cũng đều lấy Giới-Định-Huệ làm nền tảng, trong đó Giới là gốc, là nhân để sanh Định và Huệ. Người „có tư lương đầy đủ“ là người có đủ Giới-Định-Huệ. Liệu anh đã được như vậy chưa? Nếu chưa mà nói vậy là vọng ngữ, thật chẳng nên. Hơn thế, người biết trì Giới sẽ không đem pháp của Phật để tranh biện hay-dở, đúng-sai. Sở dĩ có hay-dở, đúng-sai là do sự mê-ngộ không đồng. Chính vì lẽ đó nên Phật mới phải tuyên thuyết tới 84000 pháp môn, trong đó tuỳ duyên, tuỳ thời, tuỳ căn thức của từng chúng sanh (hạ-trung-thượng) mà Phật nói pháp tương xứng và chúng sanh cũng nương nhờ từ lực đó mà chọn pháp tu cho hợp với căn cơ chính mình.
Người ngộ đạo là người biết chọn pháp xứng với căn cơ của mình để tu học và tự giác, giác tha. Do vậy nếu có ai đó nói: Anh chưa hiểu đạo, chưa giác, chưa ngộ đạo, thì anh phải thực sự hoan hỉ đón nhận, chớ nên sanh phiền não, rồi lục vấn và hoài nghi chính mình. Làm thế là mình đã tự phủ nhận con đường mình đang đi, nếu đó là con đường chân chính, đúng pháp.
Việc anh đi truy tìm nguồn gốc 84000 pháp môn của Phật là không cần thiết. Một pháp niệm Phật liệu anh đã thông tỏ chưa? Nếu chưa mà đi tìm pháp kế tiếp rồi sẽ ra sao? Phật nói: Tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta. Chúng ta tin pháp niệm Phật do Phật thuyết, nhưng không thể thực tâm phát Tín-Nguyện-Hành=tin mà chẳng hành, như vậy bất quá là cảm tình với Phật và pháp của Phật mà thôi. Trong khi đó vô thường luôn rình rập chúng ta trong từng hơi thở. TN nghĩ, kể cả anh có dành trọn cuộc đời này để tìm hiểu về 84000 pháp của Phật cũng chỉ là việc cưỡi ngựa xem hoa, chưa nói tới việc một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu. Nếu anh vẫn muốn thực tâm tìm hiểu, TN thành kính khuyên anh: hãy bắt đầu từ bài pháp đơn giản nhất: Bát Nhã Tâm Kinh (hơn 260 chữ). Nếu lý bát nhã anh chọn vẹn thông tỏ=mọi pháp anh đều thông. Các pháp của Phật đều khởi từ Bát Nhã. Anh hãy thử cân nhắc xem có thực sự cần thiết không?
Họ không thể phá được tôi, song trong quá trình đàm đạo, tôi tỏ ra là người thiếu cơ bản về học Phật! chư vị có thể từ bi giúp tôi giải tỏa một số câu hỏi?
Phật nói: Ở đời có hai hạng người đáng kính trọng: Một là không bao giờ phạm lỗi; Hai là phạm nhưng biết sám hối và sửa lỗi. Người không bao giờ phạm lỗi để chỉ hàng Bồ tát. Còn chúng ta là hàng lậu học=đầy tham, sân, si, mạn, phân biệt, chấp trước=đầy phiền não và vô minh. Việc anh nhận ra mình có lỗ hổng về học Phật=sự dũng cảm nhận lỗi. Tuy nhiên liệu anh có đủ dũng khí để sửa lỗi không lại là chuyện khác.
Việc ai đó hỏi anh: Tôn tượng A Di Đà có từ khi nào? Nguyên do từ đâu mà có? Cho thấy người đó chưa thật hiểu: Phật là ai? 10 phương, ba đời chư Phật nói chung trong đó có cả A Di Đà Phật vốn lấy chúng sanh làm phước điền để kiến lập các pháp. Vì thế tâm chúng sanh đồng tâm Phật, thân chúng chúng sanh=thân Phật, đó gọi là pháp thân Phật. Nói khác đi: pháp thân Phật vốn luôn hoà đồng một thể với thân, tâm chúng sanh, nhưng tại sao chúng sanh vẫn là chúng sanh, chưa thể thành Phật; tại sao chúng sanh trong đó có chúng ta không nhận ra điều ấy? – điều này chúng ta phải thực tìm hiểu và lý giải.
Việc dùng một bức tượng để xác minh nguồn gốc và lý do ra đời của một vị Phật cho thấy người đó chưa hiểu lý-tánh Phật và còn kẹt trong chấp tướng và phân biệt. Phật vốn không có tướng, những gì mà chúng ta hiện nhìn thấy đó chẳng phải là thật tướng Phật – Thật tướng Phât chỉ Phật với Phật mới có thể hay biết, ngay cả hàng pháp thân Đại Sĩ, nhiều vị chưa chắc đã có đủ công đức để biết, nói gì tới hạng phàm phu chúng ta? Nhưng vì tâm tưởng sanh của chúng ta, vì muốn hoá độ chúng ta mà Phật, Bồ tát hoá hiện các thân tướng nhiều như số cát sông Hằng để biểu pháp, giúp chúng ta khai ngộ, rồi đoạn ác, tu thiện… cho tới khi giác ngộ và giải thoát. Do vậy nếu ai đó nói với anh: Tôi biết nguồn gốc tôn ảnh, tôn tượng Phật, hay Bồ tát=người đó không hiểu gì về Phật và Bồ Tát.
Chúng ta là người học đạo Phật vì thế điều tối kỵ là mình dùng tri kiến phàm phu (kiến thức thế gian) để luận đàm Phật pháp. Giả như có làm được điều đó thì đó là thế gian pháp chứ chẳng phải Phật pháp anh ạ. Các pháp của Phật chỉ có Phật với Phật mới có thể hiểu nổi, do vậy chúng ta tốt hơn nhất đã tin, đã quy kính Phật rồi và nhận Phật là đấng Bổn Sư rồi thì nên y giáo, phụng hành. Bằng không chúng ta sẽ rơi vào tịnh trạng: thế trí biện thông – nghĩa là: dùng tri kiến phàm phu để diễn bày những điều mình không thể hiểu rõ. Đây là điều mà hiện nay rất nhiều người khi học pháp của Phật nhưng Phật thì không học, mà biến mình trở thành những nhà Phật học. TN hy vọng anh sẽ không rơi vào sự kiến chấp đó, bởi như thế là mình đã tình nguyện để con ma vô thường điều giải mất rồi.
Nếu chúng ta muốn thực học Phật, TN nghĩ, tiên quyết chúng ta phải hạ thấp cái Ngã và Ngã sở hư giả của mình xuống. Cái ngã đó là cái Tôi, cái Ta; cái của Tôi, của Ta, nhưng là cái tôi, ta, của tôi, của ta hư giả chứ chẳng phải là thật ngã hay còn gọi là chân ngã. Muốn thấy thật ngã chúng ta phải thực tâm tu, thực tâm hành, thực tâm đoạn hết thảy việc ác; tu hết thảy việc thiện. Làm được vậy, mà làm rốt ráo, may ra chúng ta mới có cơ hội giải thoát chính mình anh ạ.
TN hy vọng những lời thô mọn này có thể chia sẻ cùng anh đôi điều về những gì anh thắc mắc. Hy vọng các Đạo hữu khác cũng sẽ chia sẻ tiếp cùng anh.
Nguyện chúc anh tỉnh giác và tinh tấn tu học để một ngày kia chúng ta cùng có cơ hội được gặp nhau nơi Tây Phương Cực lạc chứ chẳng phải lại tiếp tục trôi lăn nơi này để bàn chuyện dở-hay của Phật pháp. Được vậy chúng ta mới thực xứng là Phật tử.
TN
Càng nói càng rơi trong thị phi,
Càng sát luân hồi mãi chẳng ra.
Con đường giải thoát là yên lặng,
Chuyên tâm niệm Phật lìa Ta Bà!
Nam Mô A Di Đà Phật.
Cám ơn Quý vị đã viết lên những dòng chữ này để M có thể đọc!
Nam mô Adida Phật!
Monique TT
nam mô a di đà phật!
con xin quý thầy và các bạn hữu cho con lời khuyên về một việc như sau:
con là cư sĩ tại gia rất tin và muốn hành trì theo pháp môn tịnh độ để cầu cho bản thân và mọi người co duyên đều nhờ pháp môn này mà đuợc vãng sinh về tây phuơng cực lạc quốc thoát khỏi cảnh luân hồi khổ cực ở cõi ta bà nay.con đang công tác trong cơ quan nhà nước,nam nay con 27 tuổi.từ khi biết học phật,niệm phật con đa quy y tam bảo.từ đó con không thích việc giao lưu rượu chè hay đi chơi bời đây đó với mọi người vì con thấy mấy việc đó rất mệt mỏi lại làm mình rối tâm luời niệm phật.mọi người thấy con thay đổi vậy cười chê phản đối rất nhiều.may là bố mẹ con cũng tin phạt pháp nên không phản đối nhiều,ông bà chỉ lo con ít giao lưu thi có thể ảnh hưởng đến công việc và chuyện lập gia đình của con sau này.mấy người anh em bên nội của bố con thì lại hay uống ruợu thích tụ tập vậy mới vui nên con ngai tiếp súc lắm vì ruợu chè song lại hay xích mich nói năng không được chuẩn chỉ,chính vì vậy mọi người lại cho là con không hoà nhập,không quan tâm đến mọi người lam con rất buồn và khó xử vì con sợ uống ruọư và cũng không thích nói chuyện tào lao,kề cà theo mọi người được.con xin hỏi quý thầy là con cứ nhất tâm niệm phật xin các ngài gia trì và vẫn tìm cách tránh né việc tiếp xúc ruơu chè vói họ như trước hay phải hoà nhập với họ ạh.con chỉ sợ mình rời xa cuộc sống đời thường quá thì không có kinh nghiệp giao tiếp và lo các công việc gia đình sau này.mong quý thầy và các liên hữu cho con lời khuyên để con thực hành pháp nhà phật đuợc đúng đắn!
nam mô a di đà phật
A Di Đà Phật
Gửi bạn Quảng Phong thân mến,
Điều đầu tiên TN muốn chia sẻ cùng bạn: Phật pháp không lìa thế gian, nếu lìa thế gian sẽ không còn là Phật pháp. Lý do? Nếu lìa thế gian thì mười phương, 3 đời chư Phật sẽ không phải nhọc thân thị hiện xuống cõi Ta bà này để hoằng pháp, độ sanh. Nói vậy để bạn hiểu: Tu mà phải xa cách tất thảy mọi người=vì mình mà tu chứ không phải vì tha nhân. Điều này tương đối vi tế, do vậy TN sẽ ráng dùng chút kiến thức mọn của mình để lý giải cùng bạn.
1. Trước hết bạn nhận diện được tu là gì? Tu không ngoài việc gì khác là phá mê, khai ngộ, lìa khổ, được vui, chuyển tâm phàm phu sang tâm an lạc. Muốn thế hàng ngày, hàng giờ, và niệm niệm chúng ta phải luôn quán chiếu để sửa đổi mọi sai quấy trong tâm của mình. Tâm đạo khác với tâm phàm. Tâm đạo chính là chân tâm của mọi chúng sanh – chân tâm vốn hằng thanh tịnh và bất biến; tâm phàm là tâm ái dục, tâm tưởng sanh: tham, sân, si, mạng, phân biệt, chấp trước=tâm phiền não và ô trược. Vì thế muốn chuyển hoá tâm này bản thân chúng ta phải dũng mãnh trì giới.
Bạn là người đã thọ giới=bạn nguyện sẽ giữ giới. 5 giới của người Phật tử tại gia hẳn bạn đã rõ. Một người khi chưa quy y Tam Bảo và thọ Ngũ giới thường ít khi nghĩ đến nhân-quả. Nhưng khi thọ giới rồi thì mọi hành vi động niệm đều luôn đặt nhân quả lên đầu. Đây chính là lý do tại sao bạn bỗng dưng cảm thấy muốn xa rời những nơi tụ hội, rượu chè, cho dù là của người thân. Đơn giản là bạn muốn giữ giới và không muốn phạm giới. Đây là một dấu hiệu tích cực khi bước vào tu đạo, nhưng những tích cực đó sẽ trở thành sai lầm – điều mà bất cứ ai khi mới tu đạo cũng rất dễ và đều vấp phải, nếu bạn không biết xử lý tình huống một cách khéo léo và uyển chuyển, đến một lúc nào đó hoặc bạn sẽ thoái tâm, hoặc bạn sẽ trở nên cực đoan trong tu đạo. Đây là con đường bạn phải tránh. Tránh cách nào? TN sẽ giải thích để bạn rõ: Bạn tu chính là sửa, chuyển đổi chính mình, tuyệt nhiên đừng nghĩ để sửa, chuyển đổi người khác vội. Họ thích ăn nhậu, nói chuyện thị phi, nhân-ngã đó là chuyện của họ; thứ hai: tu là mọi nơi, mọi chốn, mọi không gian, mọi hoàn cảnh chứ không phải khi đến chùa, đến đạo tràng hay ngồi trước bàn thờ Phật để tụng kinh, niệm Phật mới là tu. Vì vậy những cuộc giao tiếp, đặc biệt là với người thân, bạn bè… bạn lại càng phải khéo léo, bằng không họ chính là những người chống phá, cản trở đường tu đạo của bạn mãnh liệt nhất.
Những cuộc gặp gỡ, ăn nhậu đầy rượu thịt trước khi tu (rất có thể) là những món bạn từng yêu thích? Nay nhập đạo, mình tìm sẽ cách giảm từ từ chứ không nên vội vã và nhất thiết, bằng mọi giá phải giảm hay đoạn tuyệt bằng được những sở thích tạo nghiệp đó – Giục tốc bất đạt!
Sao gọi giảm từ từ? Nghĩa là: Gặp gỡ, giao lưu vẫn như thường, nhưng khác là: Thay vì trước đây uống cả nửa lít rượu, 5-7 chai bia; ăn cả vài lạng thịt, cá; nói chuyện phải quấy tràn cung mây không biết chán… Nay, nguyện uống một ly rượu nhỏ, bia cũng một ly, thịt ăn vài miếng, chuyện nói vừa phải. Quan trọng là bạn đừng cố gắng chứng tỏ cho mọi người hay biết bạn là người đang tu, bạn là người đang ăn chay, đang giữ giới… mà trước họ bạn phải là người bình thường: thân hoà đồng nhưng tâm không hoà đồng=thân nhất thời chưa thể tu, nhưng tâm đang thực hành tu.
Việc bạn uống một ly rượu, một ly bia, ăn vài ba miếng thịt chưa phải là người phá giới. Bởi giới phải chiếu xét từ Tánh. Tánh của chúng ta vốn thường trụ và tịnh lặng, vì thế bạn và không ai có thể phá huỷ được; còn việc bạn đang ăn thịt, uống rượu cùng mọi người là nhìn từ góc độ giới Tướng. Giới tướng là có đen-trắng; phải-trái; tránh-tà; có ăn chay-mặn; có người tu-kẻ không tu; có người trì giới-không trì giới. Do vậy việc bạn còn phải ăn thịt, uống bia, rượu, nói chuyện xã giao là dùng tướng đối đãi với mọi người để duy trì mối quan hệ không bị rạn nứt, nghĩa là dùng sắc tướng của thân phàm, 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý để đối người, tiếp vật (giao tiếp), còn chân tánh của bạn vẫn luôn tịnh lặng. Sở dĩ bạn thấy nó không tịnh lặng vì bạn còn bị những điều phải quấy, ô trược bao phủ lên chân tánh từ vô thỉ cho tới nay, nên giờ đây khi bạn bước vào tu, bạn mới sanh hoảng loạn và cũng vì thế bạn phải tìm mọi cách ngăn chặn, chuyển hoá chúng.
Thực hành điều này khó hay dễ? Khó mà dễ; dễ mà khó. Khó nếu bạn lợi dụng tướng đối đãi (thích tu theo kiểu) này để tiếp tục duy trì những cuộc ăn nhậu=bạn chấp nhận để ô trược tiếp tục bao phủ lên chân tánh; dễ khi bạn thực tâm phát nguyện dần dần chuyển hoá tâm phàm sang tâm tịnh lặng, bằng cách: Miệng ăn thịt mà tâm chẳng nghĩ đó là thịt, chẳng nghĩ tới việc giết, thịt, băm, xào, nấu, ướp, mà thầm niệm Phật, nguyện con còn phải ăn miếng thịt này là để có cơ hội gieo duyên Phật pháp tới chúng sanh=thịt chúng sanh bị giết thịt đã được chuyển hóa=bạn đang ăn rau; Cũng tương tự: miệng uống rượu, bia, tâm thầm niệm Phật=rượu, bia=là nước uống bình thường; miệng nói chuyện xã giao tâm chẳng để những điều thị phi lôi kéo=tâm đang niệm Phật, tâm bạn đang tu, đang trì giới.
Sẽ có người bảo: Tu thế thì ai chả tu được? Đúng vậy! Nếu chúng ta dùng tâm đối đãi để tu, mà tu như thế thì tu làm gì cho mệt? Do vậy ẩn chứa đằng sau sự đối đãi đó là sự dũng mãnh: dùng động chế động; dùng hoàn cảnh uế trược khắc chế tâm uế trược; dùng sự mê đắm, tham luyến của thế tục để khắc chế tâm mê đắm, tham luyến của chính mình. Nói cụ thể hơn: thân bạn dẫu đang hoà mình trong chốn dung tục, nhưng tâm bạn vẫn đang thực hành hạnh nhẫn nhục và trì giới. Nhẫn nhục là ai khen chẳng quá vui thích; ai chê chẳng sổi sân hay buồn rầu; Trì giới lúc này được hiểu là ý bạn đang trì chứ không phải thân tướng: ăn, uống, nói năng…
con cứ nhất tâm niệm phật xin các ngài gia trì và vẫn tìm cách tránh né việc tiếp xúc ruơu chè vói họ như trước hay phải hoà nhập với họ ạ. Con chỉ sợ mình rời xa cuộc sống đời thường quá thì không có kinh nghiệp giao tiếp và lo các công việc gia đình sau này
2. Một trong 3 nghiệp mà chúng ta hằng phải quán chiếu: thân, khẩu, ý. Trong đó ý nghiệp là tối quan trọng, bởi ý sanh khởi sẽ khiến thân, khẩu hành. Ý ham muốn ăn mặn, ham muốn uống bia, rượu, ham ưa nói chuyện thị phi… = thân, khẩu sẽ hành những chuyện tương ưng. Nhiều trường hợp, ngồi bên bàn tiệc, tay gắp đồ chay, miệng nói không dùng bia, rượu… nhưng tâm và mắt lại tưởng hướng về đồ mặn và sự vui thú khi uống rượu bia=thân trì giới mà tâm chẳng giữ giới. Do vậy khi phải hoà mình giao tiếp, nếu bạn tỏ ra mình là người đang tu, đăng ăn chay, đang niệm Phật, đang trì giới=bạn tự tạo khoảng cách giữa bạn với mọi người, và mọi người sẽ cảm thấy khó chịu, hay có áp lực, thậm chí thù ghét khi nhìn, khi gần bạn, từ đó họ sẽ tìm cách chống đối bạn; chê bai, phỉ báng Phật-Pháp-Tăng. Và như thế thay vì bạn tu để giúp, chuyển đổi cuộc sống an lạc hơn, giúp mọi người có cơ duyên được như bạn, nay chỉ còn những phiền toái, bức bối cho cả mình và người xung quanh.
Tu như vậy gọi là tu ngược.
Trong Kinh Vô Lượng Thọ (Phẩm 36) Phật dạy: „Thế nào gọi là hành thiện bậc nhất? Phải tự tịnh tâm chánh thân, tai mắt mũi miệng đều phải đoan chánh, thân tâm thanh tịnh cùng thiện tương ưng, đừng theo thị dục, không phạm điều ác, ngôn sắc hòa diệu, thân hành chuyên cần, hành vi cử chỉ bình tĩnh từ tốn, vội vàng hấp tấp không suy xét chính chắn sẽ hư hỏng hối hận về sau, uổng phí một đời”.
Nguyện chúc bạn có thể ngộ được chọn vẹn câu kinh này làm hành trang tu học để tự độ, độ tha.
TN
@ Quảng Phong:
Nếu bạn phát tâm tu hành tại gia hành trì giới luật nghiêm túc mà không ảnh hưởng đến đời sống của cha mẹ gia đình anh em bà con thì bạn vẫn tiếp tục tuỳ duyên tu tâm hành trì đừng vì lời nói chê bai suy đoán bậy bạ của họ mà khiến bạn phiền não thối tâm. Bạn có nghiệp của bạn thì tự phải sám hối tu trì. Họ có nghiệp của họ phải tự lo liệu đừng can thiệp vào để tránh phiền não. Đạo lực của bạn chưa đủ để đối phó những các thứ nghịch duyên như vậy nếu tránh được thì nên tránh. Còn nếu có duyên bất đắc dĩ phải tiếp xúc giao lưu thì cứ thoải mái vui vẻ giao tiếp. Trong sự tiếp xúc khó ai mà không động tâm nhưng cố gắng giữ mất độ ít thôi. Chúng ta là phàm chứ đâu phải Thánh nhân làm sao không dính mắt. Khi giao tiếp xong rồi thì thôi, dùng câu niệm Phật để đem trở lại sự thanh tịnh.
Còn chuyện công ăn việc làm và duyên nợ tình yêu thì bạn cứ kiên cố tu tâm gieo trồng phước đức làm gì phải lo lắng vô ích. Tu hành là phải TIN nhân quả cho chắc thì sẽ bình tâm tự tại trước những gì sẽ đến. Khi phát tâm tu mạnh mẽ ai cũng bị nghiệp chướng cản trở đường đạo cho nên phải có lòng TIN kiên cố và tuỳ duyên của đời sống thực tế mà khéo léo xử lý theo tình thần Bồ Tát lúc nào cũng vì lợi ích cho chúng sanh mà làm. Nếu uống rượu ăn thịt đem lại lợi ích sự giải thoát cho chúng sanh thì bạn nên làm. Còn cảm thấy không ổn thì tránh duyên giữ giới cho tâm dễ thanh tịnh hơn để niệm Phật. Bạn nên cẩn thận khi giao tiếp với những người còn đam mê rượu thịt nếu không đạo lực còn yếu dễ bị nghiệp lực của bạn chi phối thối tâm Bồ Đề mà không hay biết. Cái này bạn tự soi tâm tự biết sức của bạn mà xử lý.
Vài dòng chia sẻ chúc bạn thành tựu viên mãn trên đường tu hành trở về Cực Lạc.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam mô a di đà phật!
Con xin cảm ơn thầy thiện nhân đã rất nhanh chóng hồi âm giải đáp giúp con.
Trước đây con đúng là đang tu niệm phật mà tâm chưa thể an lạc được,có lẽ phần vì nghiệp trướng của con sâu dày,phần vì con hiểu sai ý của phật,của tổ và quý thầy.con rất sợ việc mình quy y rồi mà không giữ được giới sẽ mang tội lớn nên hay tránh né việc tiếp xúc với môi trường ồn ã,vui chơi hưởng thụ.thế nhưng con lại thường phải chứng kiến hoặc bắt buộc phải tham gia những sự kiện đó thành ra con tham gia với một tâm trạng bắt buộc,bất an,có lúc là bực tức và hay dằn vặt rất lâu về những lỗi lầm mình gây ra.con chỉ muốn ở 1 mình yên tĩnh niệm phật hay vừa làm việc vừa niệm cũng được nên không muốn nói chuyện với mọi người nhiều vì con thấy quý thầy nói:ít nói chuyện 1 câu thì niệm phật thêm 1 câu.phải đi đứng nằm ngồi đều không để gián đoạn câu phật hiệu.không nên phan duyên khi tâm mình chưa đủ sức định,niệm phật nhiều thì tốt hơn.
Chính vì vậy nên con cứ tâm niệm mình cứ niệm phật thật nhiều và gắng xin chư phật và các vị bồ tát gia trì rồi mọi người,mọi việc sẽ chuyển hướng tốt cho mình tu tập chứ không chạy theo mọi người lam những việc ảnh hưởng đến tâm tinh tấn niệm phật.
Có lẽ do con mới bước đầu tu hoc lại vì tuổi trẻ sốc nổi việc j cũng muốn làm cho nhanh cho rốt ráo nên đúng là con gặp khá nhiều phiền não va vấp thầy ah.con cũng muốn đối người tiếp vật được khéo léo để mọi người cùng hoan hỷ với việc tu tập của mình nhưng trí tuệ của con kém quá,nói năng thì hấp tấp vụng về,những việc không được như ý làm con buồn bực lâu lắm thầy ah,lại hay lo lắng cả những việc chưa xảy ra nữa cơ thầy ah.
Con nhiều tâm sự quá nên nghĩ gì con viết hết ra mong thầy và các vị thiện tri thức hiểu và có kinh nghiệm j thi tâm sự giải đáp giúp con với nhe!
Con xin hỏi thầy là mình cứ chuyên tâm niệm phật và không để ý j khác chỉ cầu vãng sanh càng sớm càng tốt có được vãng sanh không thầy hay nhất định là cứ phải sống bình thường tuy duyên niệm phật thì tốt hơn thầy?
Mong thầy hoan hỷ chỉ giúp con!
Nam mô a di đà phật!
A Di Đà Phật
Gửi bạn Quảng Phong,
con chỉ muốn ở 1 mình yên tĩnh niệm phật hay vừa làm việc vừa niệm cũng được nên không muốn nói chuyện với mọi người nhiều vì con thấy quý thầy nói: ít nói chuyện 1 câu thì niệm phật thêm 1 câu.phải đi đứng nằm ngồi đều không để gián đoạn câu phật hiệu.không nên phan duyên khi tâm mình chưa đủ sức định,niệm phật nhiều thì tốt hơn.
Pháp Sư Tịnh Không luôn dạy: Nhìn thấu-buông xả-tự tại-tuỳ duyên-niệm Phật!
Nếu quán chiếu 5 điều dạy trên bạn sẽ thấy: Niệm Phật đứng phía sau cùng. Do vậy có thể hiểu nó vừa là gốc, vừa là ngọn.
Tại sao gọi là gốc? Bởi chúng sanh thời nay, ngoài pháp niệm Phật nguyện vãng sanh Cực Lạc, một đời vĩnh ly sanh tử luân hồi, thật khó tìm một pháp nào khác thích hợp hơn, dễ hành hơn. Nguyên nhân: Niệm Phật là sự kết hợp giữa tự lực (bản nguyện của chính mình) và tha lực (bản nguyện của Phật A Di Đà). Nếu bạn chỉ trông vào tự lực, cho dù bạn hành pháp niệm Phật cũng khó thể thành tựu, bởi chúng ta phiền não nhiều quá. Vô minh nhiều quá. Mọi hành vi động niệm nơi nơi đều là tham, sân, si, phân biệt, chấp trước. Niệm Phật nhiều – nhiều khi cũng chính là tham, bởi nếu bạn niệm không đúng nơi, không đúng lúc, không đúng chỗ, ví thử: trong một bàn tiệc ăn nhậu, mọi người chỉ thích ăn, uống, nói chuyện phiếm, đâm thọc kẻ này, khích bác kẻ kia… mà bạn lại ngồi lim dim mắt, hay bỏ ra ngồi một chỗ, rồi lầm rầm để niệm Phật=bạn đang niệm ông Phật tham; hoặc bạn vào những nơi uế tạp; đang phải tập trung công việc cao độ, nhưng vì sợ mất chánh niệm nên bạn cứ phải gò mình niệm Phật không ngưng nghỉ=bạn đang niệm ông Phật tham; hoặc tại gia đình, tới bữa ăn, cả nhà chờ bạn, nhưng bạn lại bảo để bạn niệm Phật thêm chút nữa, hoặc bạn nói: tôi niệm Phật là đủ no, chẳng cần ăn uống gì nữa cho mệt=bạn đang niệm ông Phật tham. Nói vậy để bạn hiểu: niệm Phật nhưng phải tuỳ duyên, nghĩa là nhân duyên thuận tiện mình niệm Phật, ngược lại chẳng nên cưỡng cầu, bởi mọi chuyện cưỡng cầu cho dù nhỏ nhất đều không mang lại sự lợi lạc nào, trái lại khiến cho những người đối diện bị thương tổn.
Quán chiếu được như vậy=bạn đã biết buông xả.
Tại sao gọi là ngọn? Đơn giản là: bạn muốn niệm Phật được viên thông (niệm trong chánh niệm, tuỳ duyên, mọi thời khắc) điều tiên quyết bạn phải nhìn thấu. Nhìn thấu điều gì? Nhân-Quả. Nhìn thấu thế gian mọi chuyện cho dù là nhỏ nhất đều không rời nhân-quả. Thứ nữa: bạn phải thường quán đời là vô thường; đời là gắn liền cùng 8 nỗi khổ lớn: sanh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, cầu bất đắc khổ, thù oán phải chung sống, gặp nhau là khổ và nỗi khổ của thân ngũ ấm luôn rình rập.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương Phật hỏi một vị Tỳ Kheo:
– Mạng người sống được bao lâu?
Tỳ Kheo trả lời:
– Mạng người sống được vài hôm.
Phật nói:
– Ông chưa rõ đạo.
Phật hỏi vị khác, vị ấy trả lời:
– Mạng người sống chừng bữa ăn.
Phật cũng nói:
– Ông chưa thấy đạo
Phật lại hỏi vị khác nữa, vị ấy trả lời:
– Mạng người chỉ trong hơi thở
Phật nói:
– Ông đã thấy đạo.
Qua câu chuyện này bạn thấy điều mấu chốt Phật dạy: phải biết quán vô thường. Người không ngộ được tính vô thường, không biết quả từ đâu sanh, nhân từ đâu tới, dẫu cho miệt mài tu (cho dù là pháp môn nào) cũng giống như người uống nước, ăn cơm cả ngày mà vẫn thấy đói, khát vậy.
Khi bạn đã nhìn thấu được những sự đó rồi, kế đến bạn phải buông xả. Hai từ buông xả rất quan trọng cho người tu đạo. Cổ Đức dạy: Khi mới tu đạo thì bỏ ác, hành thiện, nhưng tu lâu (có định lực) thì thiện- ác đều phải buông xả. Hai từ buông xả lúc này hết sức vi tế. Ác nhất thiết không làm=xả ác. Nhưng thiện làm rồi mà không so đo, không vướng chấp=thực làm=xả.
TN lấy một VD nhỏ để bạn quán chiếu: Nhiều người khi đến chùa, muốn cúng dường Tam Bảo, nhưng khi bỏ tiền vào phong thư còn phải điền rõ họ, tên, pháp danh, địa chỉ… rồi khi bỏ bao thư vào thùng công đức phải giơ lên thật cao, hoặc phải nói điều gì đó, miễn sao cho những người bên cạnh để ý thấy việc cúng dường của mình. Cúng dường Tam Bảo là làm phước thiện, đáng quý và có phước báu, nhưng nếu còn kẹt giữa việc cho-nhận, nghĩa là còn có người cúng dường, người được cúng dường và vật được cúng dường cộng thêm người chứng minh cho sự cúng dường=không phải thực tâm cúng dường.
Cúng dường là nấc cao hơn của hạnh bố thí – Bố thí=xả tâm tham. Vậy nhưng khi hành bố thí lại muốn nhiều người biết đến mình=còn tham chấp=phước báu không là bao. Vì sự tham chấp này mà tâm không tự tại, bởi còn kẹt giữa thiện và bất thiện. Nghĩa là: ta cúng dường-người kia không cúng dường; ta cúng nhiều-người kia cúng ít… và như vậy là người đó có buông nhưng chưa có xả. Đây là điều chúng ta không thể không biết và phải luôn thường quán chiếu trong mọi hành vi động niệm.
Con xin hỏi thầy là mình cứ chuyên tâm niệm phật và không để ý gì khác chỉ cầu vãng sanh càng sớm càng tốt có được vãng sanh không thầy hay nhất định là cứ phải sống bình thường tùy duyên niệm phật thì tốt hơn thầy?
Trong A Di Đà Kinh Phật nói rất cụ thể: “Xá Lợi Phất! Chẳng thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi kia”.
Như phần trên TN đã giải thích: người niệm Phật quan trọng hàng đầu phải nhìn thấu-buông xả-tự tại-tuỳ duyên và kế đó mới là niệm Phật. Lời dạy trên của Phật cũng nói lên điều đó và khi bạn thực hành được những lời PS Tịnh Không nói=bạn đã đang ngày kế ngày không ngừng tích tụ thiện căn phước đức và nhân duyên cho việc vãng sanh của mình. Khi nhân duyên tròn đầy, tự bạn sẽ biết mình đi về đâu, chứ chẳng cần phải nóng lòng niệm Phật sao cho thật nhiều để chóng vãng sanh. Làm vậy là nghịch đạo. Bởi tâm chưa thuần tịnh, còn đầy uế trược mà lại muốn vãng sanh là chuyện không thể có. Đại Sư Ấn Quang nói: làm vậy chẳng khác kéo mạ non buộc cho nó trổ đòng. Điều này có thể dụ cho người chưa tốt nghiệp cấp 1, nhưng lại muốn có ngay bằng tiến sĩ vậy.
Bạn phải sáng suốt và tránh gấp, kẻo sẽ gặp chướng duyên trên đường tu đạo.
Dưới đây TN xin chép lại một đoạn trong bài Đường Giải Thoát của Thanh Sĩ nói về người niệm Phật. Hy vọng bạn đọc thật kỹ để biết mình đang vướng kẹt hay thiếu vắng những gì cho hành trang về Tịnh Độ.
Chúc bạn tinh tấn
TN
ĐƯỜNG GIẢI THOÁT
Ngồi niệm Phật thì ai cũng niệm
Nhứt Tâm, không xao-xuyến ít người
Tâm như chong chóng giữa Trời
Phật thì một niệm, còn mười niệm ma
Các việc xấu nhớ ra trước nhứt
Kế tay chân buồn bực mỏi mê
Rồi ma buồn ngủ chạy về
Phật quên niệm đến, khói mê phủ vào
Không cần hỏi Ông nào cũng biết
Niệm thế bao giờ Phật chứng cho?
Khác nào nồi gạo mới vo
Bắt lên nhắc xuống bao giờ chín cơm?
Mục đích việc sớm hôm niệm Phật
Là để cho chấm dứt niệm tà
Chỉ còn một niệm Di-Đà
Để nhờ Phật rước sang qua Liên-Đài
Có thật cảm Phật Ngài mới ứng
Niệm lơ là Phật chứng vào đâu
Ví người đã rớt sông sâu
Không cần kêu cứu, ai hầu cứu cho?
Niệm Phật chẳng béo no chi Phật
Phật cũng không mong nhắc đến tên
Chúng sanh muốn Phật vớt lên
Cho nên mới tưởng niệm tên Phật Ngài
Phật nguyện độ muôn loài thoát khổ
Nên khi nghe ai có lời xin
Phật thêm động tấm bi tình
Như là mẹ thấy con mình lâm tai
Phật nhứt định không sai lời nguyện
Nhưng chúng sanh phải niệm chí-thành
Chỉ là một niệm trọn lành
Cũng là được Phật thân-hành đến nơi
Hoặc chẳng niệm một lời chi cả
Nhưng thường hay có dạ từ-bi
Trần ai chẳng nhiễm vật gì
Cũng là được Phật hộ-trì ngày đêm
Người tự độ cầu thêm Phật độ
Như nước xuôi lại gió thuận chiều
Đường về chóng biết bao nhiêu
Được hai sức độ mau siêu phàm-trần
Tuy có được tinh-thần bác-ái
Cũng nhớ nên tưởng vái Di-Đà
Kỳ nầy Phật ấy ghé qua
Rước về Cực-Lạc ngồi Tòa Kim-Liên
Cõi ấy chẳng não-phiền đau khổ
Tuổi sống lâu vô số vô biên
Muốn chi thì được có liền
Thân người nào cũng bằng sen hóa thành
Cõi ấy vốn trọn lành, trọn tốt
Cõi ấy không ai chết, ai già
Thường ngày có đức Di-Đà
Dùng thần-thông hoá hiện ra muôn hình
Người nào cũng quanh mình đều sáng
Ai cũng đều viên-mãn thần-thông
Đường xa muôn dặm Tây Đông
Nhưng đi chỉ mất độ trong phút giờ
Người cõi ấy thường trưa mỗi bữa
Đi cúng dường Phật ở khắp nơi
Đi về trong buổi ngọ thời
Người nào cũng muốn thỉnh lời Như-Lai
Nên ai cũng đồng giai Bồ-Tát
Không người nào sa-lạc phàm-phu
Hạ-Ngươn kẻ phát tâm tu
Cầu về Cực-Lạc là đầu nhập môn
Cõi ấy vốn người thân-thiện cả
Ai muốn sang phải dạ lương-hiền
Cõi sen người phải như sen
Gần bùn mà chẳng ố hoen mùi bùn
Cõi lành kẻ dữ hung khó bước
Phật từ-bi chẳng rước bất lương
Muốn về Cực-Lạc Tây-Phương
Các điều hung dữ chớ vương điều nào
Lá già thì trước sau cũng đổ
Để lá non thay nở nên cành
Hết đời trược, kế đời thanh
Luật đào-thải ấy đã dành từ lâu
Thuở xưa quả địa-cầu rất tốt
Đất bằng vàng, thảo-mộc bằng châu
Người nào cũng dung nghi tốt đẹp
Ai cũng đều hiền-đức thông-minh
Nhỏ lần cho đến hiện tình
Lòng người hoá xấu, địa hình quá dơ
Đến lúc phải ban sơ lập lại
Khó tránh ngày có đại biến đi
Chính là cũng một cuộc thi
Ai rơi ai đậu trong kỳ này đây
Đức Tiếp-dẫn kỳ này cũng tới
Rước hiền-nhơn thế-giới Ta-Bà
Đem về Cực-Lạc Di-Đà
Dứt đường sanh-tử, lánh xa hồng-trần
Bá tánh nhớ tu thân, lập hạnh
Nữ nam cần cải chánh trừ tà
Lọc lừa trận ấy nổi ra
Có Thần che chở cho qua tai nàn
Thiếu đạo-đức sắt gang cũng chảy
Thật hiền lành bới cạy không trôi
Luật kia đã định sẳn rồi
Lành thời tồn tại, dữ thời tiêu-tan
(Lược trích từ Đường Giải Thoát của Thanh Sĩ)
Kính huynh Thiện Nhân: chắc có lẽ lâu lâu huynh không có về Việt Nam. Chứ về VN thì chỉ một vài cuộc nhậu là huynh sẽ hiểu ngay được thế nào trược thế ác khổ. Máu huyết là món hầu như không thể thiếu trong bữa tiệc sang, bát tiết canh đỏ lòm lòm, chai rượu tiết, rượu mật sóng sánh trong ánh mắt vui mừng của dân nhậu. Chó người ta còn làm tiết canh để huynh có thể thấy được chẳng con gì là không bị cắt cổ cả, trừ con không có máu. Uống thì phải uống cho say bét nhè mới là hết lòng, hỷ nộ ái ố gọi là đủ cả. Nhậu say sưa rồi sẽ là tăng 2, tăng 3 … không gì là không dám tới bến.
Trước kia có lần vì cố chiều lòng mọi người PB cũng đã tham gia một cuộc nhậu như vậy, không chỉ ngày hôm đấy thì coi như công khóa không thực hiện được mà còn mấy ngày sau nữa vẫn không thể nhiếp được tâm, rượu nó phá ghê gớm.
Chính vì vậy chỉ những cuộc nhậu nào không thể chối từ (cơ quan giao mình đi tiếp khách cấp trên chẳng hạn) còn lại là PB hủy hết, phàn nàn, trách móc cũng đành chịu. Đi nhậu mà mình không hết mình được thì ở nhà luôn cho lành.
Ngẫm lại mình vẫn là phàm phu sát đất, đạo lực yếu kém nên tu bòn tu mót được chừng nào hay chừng ấy. Nhưng tu thì khó mà sa ngã thì quá dễ luôn. Cho nên Phúc Bình vẫn thấy lựa chọn của liên hữu Quảng Phong là hợp lý. Tu tập mà lý sự viên dung được như huynh Thiện Nhân cũng phải là bậc thượng căn mới làm được.
Đôi lời chia sẻ.
Nam Mô A Di Đà Phật!
Nam mô a di đà phật!
Con xin cảm ơn 2 vị thien tri thức Thien Nhân và Phúc BÌnh đã rành thời gian cho con lời khuyên.đúng là do tâm con nóng vội nên hay cố gắng niệm nhiều,niệm gấp mong mau chóng thành tựu đuợc tịnh nghiệp vì con thấy sợ cuôc sống đầy những cạm bầy khiến mình có thể thối lui bất cứ lúc nào.các thầy cho con hỏi sự thực nếu mình chua hiểu rõ đạo lý,chưa thể buông xả được như thầy Thiện Nhân nói nhưng mình tin niệm phật sẽ được phật ra trì va cứ gắng niệm phật nhiều lâu sau thì tâm cũng đuợc thanh tinh hay là phai tìm hieu giao lý ky càng,nhìn thấu buông xả rồi niệm phật mới đươc lợi ích ah?con hỏi kỹ chút để mong có cách hành trì đúng pháp nhất mong các vị thiện tri thức hoan hỷ bố thí pháp cho con.
Nam mô a di đà phật!
Liên hữu Quảng Phong thân mến, câu hỏi của bạn còn tùy thuộc vào việc bạn lựa chọn đường lối tu hành của vị Thánh Tăng nào để phù hợp với căn cơ của mình.
Nếu bạn muốn tu tập theo con đường “Nhìn thấu-buông xả-tự tại-tuỳ duyên-niệm Phật” thì bạn y cứ lời Hòa thượng Tịnh Không mà thực hành, nghe pháp nhiều là chánh, niệm Phật là trợ. Hiểu tường tận về lý mới đến sự. Chướng ngại của người tu theo cách của Hòa thượng Tịnh Không là tâm ngã mạn, do những hiểu biết được khi nghe giảng kinh nên rất mong muốn truyền đạt cho mọi người xung quanh, làm thầy của mọi người; phù hợp với đại chúng vì ai cũng muốn làm thầy chẳng ai muốn làm thợ. Nếu bạn không sợ bị tâm ngã mạn quấy nhiễu thì lựa chọn pháp tu của HT Tịnh Không là lý tưởng.
Nếu bạn chấp nhận làm kẻ ngu phu, ngu phụ lấy “Lấy Tín – Nguyện để dẫn đường, lấy niệm Phật làm chánh hạnh”, tu các công đức, tụng kinh, nghe kinh … làm trợ hạnh thì theo lời của ngài Pháp Nhiên, Tổ Ấn Quang, Tổ Ngẫu Ích … để thực hành. Chướng ngại của người tu theo đường lối này là đôi khi lòng tin yếu đuối do tín tâm bị dao động, không rõ được Phật trí là bất khả tư nghì. Ngày đầu sơ phát tâm thì kiên cố tu trì, dần dà lại giãi đãi mà bỏ thanh cầu trược. Chọn con đường tu này thì bạn nên đọc cuốn “Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục” của Tổ Ấn Quang; “Niệm Phật Thập Yếu” của HT Thích Thiền Tâm … để bồi dưỡng thêm tín tâm cũng như phương pháp tu hành.
Niệm Phật phải tuần tự tiến tu, đừng vội vàng – bạn đọc các sách như trên PB đã nêu, đọc kỹ mỗi quyển ít nhất 3 lần sẽ hiểu hơn, mấy câu chữ của phàm phu không thể tỏ bày được hết.
Đôi lời chia sẻ.
Nam mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật
TN mạo muội chép lại câu chuyện Đệ Tử Xa Nặc để quý Đạo hữu chúng ta cùng có cơ hội nhìn nhận, chiếu xét lại tâm mình:
Mười Vị Đệ Tử Lớn của Phật
Nguyên tác Hán Văn: Tinh Vân Pháp Sư
Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
và biên soạn phần Phụ Lục
Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
PHỤ LỤC
(Do cư sĩ Hạnh Cơ biên soạn thêm)
Đại đức XA NẶC – Chandaka – Channa
(Người hầu cận trung thành của thái tử Tất Đạt Đa thuở trước ở hoàng cung)
(Lời người dịch: Xa Nặc vốn là người hầu cận trung thành của thái tử Tất Đạt Da. Tuy xuất thân tu giai cấp nô lệ, nhưng ông đã thường được nhắc nhở tới trong kinh điển, vì cuộc đời của ông đã gắn bó khắn khít với cuộc đời đức Phật, từ thời gian trai trẻ của Ngài hồi còn ở hoàng cung Ca Tì La Vệ, cũng như sau ngày Ngài thành đạo. Có thể nói, ông chỉ sống xa đức Phật trong khoảng 8 năm, từ khi Ngài đi xuất gia Ca Diếp khi Ngài về thăm hoàng cung lần thứ nhất sau ngày thành đạo. Câu chuyện về đại đức Xa Nặc sau đây, đã được chúng tôi trích dịch từ sách Disciples of the Buddha của Zenno Ishigami [bản dịch Anh ngữ của Richard L. Gage và Paul McCarthy – Kosei Publishing Co. xuất bản, Tokyo, 1989, trang 131-137]).
Mùa mưa năm ấy, đức Phật đã về an cư tại tu viện Kì Viên (Jetavana). Rất đông đảo chư tăng đã qui tụ về đây để được tu học dưới sự chỉ dạy của Ngài, trong đó có đại đức Xa Nặc. Đức Phật nói pháp mỗi ngày, và mọi người đều chú tâm lắng nghe từng lời dạy của Ngài. Trong tăng đoàn, có hai vị được đại chúng kính trọng một cách đặc biệt, đó là tôn giả Xá Lợi Phất, trí tuệ bậc nhất, và tôn giả Mục Kiền Liên, thần thông bậc nhất, nhưng đại đức Xa Nặc thì lại nhìn hai vị ấy với lòng đầy ắp ganh tị.
Cũng nghe lời Phật dạy, nhưng mỗi vị đệ tử đã chọn cho mình một pháp môn riêng để hành đạo. Có vị thì thích ngồi thiền để đưa tâm thức vào cảnh định sâu thẳm. Có vị chỉ thích học thuộc lòng những bài pháp của Phật. Có vị thì chú ý vào việc nghiên cứu và bàn luận về phương diện lí thuyết của giáo pháp. Rất nhiều vị thích gần gũi các vị trưởng lão để được chỉ dẫn cho những điều khó hiểu trong giáo lí.
Đặc biệt, hai trưởng lão Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, lúc nào cũng được các vị sư trẻ tuổi bu quanh với lòng thiết tha học hỏi. Điều đó đã làm cho đại đức Xa Nặc cảm thấy bị chạm tự ái rất nhiều.
Xa Nặc vốn là một người nô lệ, phục vụ trong hoàng cung Ca Tì La Vệ, thủ đô của vương quốc Thích Ca. Khi đức Phật (nguyên là thái tử đông cung của vương quốc Thích Ca) trở về Ca Tì La Vệ lần đầu tiên sau ngày thành đạo, Xa Nặc vừa nhìn thấy Ngài, liền phát sinh lòng kính ngưỡng sâu xa. Ông ước mong sẽ được làm đệ tử của bậc tôn quí ấy, nhưng làm sao đây? Một kẻ nô lệ thì đâu có thể được chấp nhận vào tăng đoàn! Dù vậy, khi nhìn thấy con của các vị hoàng thân đi xuất gia thì ông không thể tự kềm chế nỗi ao ước của mình được. Ông bèn lấy hết can đảm, đến trước đức Phật, thưa với giọng ấp úng:
– Con cũng muốn được xuất gia, nhưng con lại là một kẻ thuộc giai cấp nô lệ … Có lẽ con không có hi vọng gì …
Đức Phật liền bảo ngay:
– Này Xa Nặc! Hãy đến đây, ông sẽ được xuất gia.
Rồi Ngài dạy cho ông biết rằng, trong giáo pháp của Ngài không có sự phân biệt giai cấp. Mọi người đều có thể giác ngộ nếu biết tôn kính Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng, và nghiêm trì giới luật, cố gắng đạt đạo. Ông đã nhìn chăm chú vào mắt đức Phật khi Ngài dạy những lời ấy. Về sau, mỗi khi nhớ lại cái nhìn đầy tình thương yêu sâu thẳm của Ngài lúc ấy, Xa Nặc đều cảm thấy niềm an lạc dâng cao trong tâm hồn.
Đúng như lời Phật dạy, trong giáo đoàn của Ngài có rất nhiều vị từng là Bà la môn, thương gia hay địa chủ. Nhiều vị từng là những trưởng giả cự phú, và họ đã từ bỏ tất cả để sống đời xuất gia. Có nhiều vị quí tộc đã từ bỏ cả những người vợ xinh đẹp của họ. Tất cả đều khoác trên mình chiếc áo ca sa giống nhau, và đi khất thực đó đây với một chiếc bình bát như nhau.
Từ khi đại được Xa Nặc trở thành một trong những vị tì kheo gia nhập tăng đoàn từ buổi sớm, những vị xuất gia sau đó đều tỏ lòng kính trọng đại đức. Thấy thế, đại đức đã suy nghĩ: “Hồi còn ở hoàng cung, ta đã từng bị mọi người sai bảo và khinh bỉ, nhưng từ bây giờ trở đi thì mọi chuyện đều đổi khác”.
Thật vậy, từ khi mọi người từ lớn đến nhỏ trong tăng đoàn đối xử một cách cung kính, đại đức Xa Nặc càng ngày càng cảm thấy hãnh diện về địa vị của mình. Bây giờ đại đức thấy, hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, chỉ xuất gia suýt soát cùng thời gian với đại đức, mà lại được các đại đức trẻ tuổi tìm đến nương tựa coi như là hai vị cố vấn đầy kinh nghiệm của họ; đại đức tự hỏi, “Tại sao người đáng nương tựa không phải là ta?” Đại đức bắt đầu cảm thấy bị xúc phạm, và cuối cùng thì công khai nói xấu hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Sự việc đó đến tai Phật. Ngài liền cho gọi đại đức đến và hỏi tại sao lại có thái độ như vậy. Đại đức đã nhận lời quở trách của Phật như một liều thuốc bổ dưỡng, và đã hối hận đến nỗi không dám ngẩng dầu lên.
Từ đó đại đức cố gắng kiểm soát tâm ý mình, và siêng năng tu tập, nhưng chỉ một thời gian sau, chứng nào lại vẫn tật ấy. Bất cứ lúc nào đại đức nhìn thấy hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, mối hận cũ lại bùng lên, mà đôi khi lại còn mãnh liệt hơn trước. Nhiều vị đại đức trẻ, công phu tu học còn non yếu, lại vô tình nuôi lớn thêm sự ngông cuồng của đại đức bằng cách dành cho đại đức những lời tâng bốc đẹp đẽ. Bởi vậy, một lần nữa, đại đức lại gây hấn với hai vị trưởng lão kia. Đức Phật biết tin, lại khiển trách, và đại đức lại tỏ lòng hối lỗi, nhưng sự ăn năn của đại đức lúc nào cũng chỉ được một thời gian ngắn thôi. Sau khi đã ba lần phạm cùng một lỗi ấy, đức Phật mới gọi đại đức đến và trách mắng một cách nặng nề:
– Này Xa Nặc! Hai thầy Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên thật sự là những người bạn tu tốt nhất của thầy trong đạo pháp. Thầy không nên để cho chính mình bị kéo vào những hành vi sai trái bởi sự ngu muội và những người không xứng đáng.
Khi mùa mưa chấm dứt, và đồi núi cùng những cánh đồng ở Kiều Tát La (Kosala) phơi mình tươi sáng dưới ánh nắng mặt trời, đức Thích Ca Mâu Ni liền rời tu viện Kì Viên, lên đường tiếp tục sự nghiệp hoằng hóa. Chư tăng cũng vậy, đã lần lượt rời tu viện để đi hành đạo ở nhiều địa phương khác nhau. Đại đức Xa Nặc cũng rời tu viện, và tự mình tìm theo dấu chân Phật. Từ thành Xá Vệ (Sravasti – Savatthi), đại đức đi về hướng Nam đến trấn Ta Chỉ Đa (Saketa), rồi sang thành Ba La Nại (Varanasi – Baranasi), một thành phố thương mại nằm trên bờ sông Hằng, và là thủ đô của vương quốc Ca Thi. Từ đó đi ngược bờ sông, đại đức đến Kiều Thưởng Di (Kausambi – Kosambi), một trung tâm mậu dịch phồn thịnh, và là kinh đô của vương quốc Bạt Sa (Vatsa – Vamsa). Đại đức đến đâu cũng được dân chúng hoan nghênh; tại vì, người dân ở địa phương nào cũng vậy, đều rất sung sướng được đón tiếp bất cứ vị đệ tử nào của Phật đi ngang qua khu vực của họ, và đều đem hết lòng thành hướng về vị ấy để chờ nghe thuyết pháp. Trong lúc đó thì đại đức lại tin rằng, sở dĩ đại đức được tiếp đón nồng hậu như thế là bởi vì đại đức đã trở thành một vị tăng xuất chúng, xứng đáng nhận được sự tôn kính của tín đồ dành riêng cho mình.
Sau một cuộc hành trình dài, đức Phật đến tu viện Cù Sư La (Ghosilarama – Ghositarama) (1) ở thành phố Kiều Thưởng Di. Đại đức Xa Nặc cũng đến đây gặp Phật, và ở lại đó vài hôm. Tại đây, một vị thí chủ giàu có và nhiệt thành, đã tỏ lòng kính trọng và muốn cúng dường cho đại đức, bèn thỉnh nguyện:
– Bạch đại đức Xa Nặc! Xin đại đức hãy ở lại đây để giảng pháp. Con muốn xây riêng cho đại đức một ngôi chùa. Xin đại đức vui lòng chọn địa điểm và chỉ dẫn cho con biết nên xây ngôi chùa ấy như thế nào.
Đại đức vui mừng không xiết, và thầm nghĩ: “Cuối cùng thì ta cũng được mọi người tôn kính như Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên!”
Đại đức liền đi rảo quanh kinh thành Kiều Thưởng Di, và tìm thấy một cây ni câu đà (nyagrodha – nigrodha) rất lớn, sống lâu có đến vài trăm năm. Cho rằng cây đại thọ này chắc chắn sẽ cho gỗ tốt để xây chùa, đại đức bèn mướn người cưa nó xuống, nhưng thật là không may, cây đại thọ đó được người địa phương coi là một cây linh thiêng, được dân chúng sùng kính trải qua nhiều thế hệ. Quá tức giận với hành động khinh suất của đại đức Xa Nặc, dân chúng trong thành phố liền kéo nhau đến tu viện Cù Sư La để khiếu nại. Đức Phật liền cho gọi đại đức đến và quở trách nặng nề:
– Có phải thầy nghĩ rằng đó là những hành động chính đáng của một vị tì kheo, khi thầy khinh thường những gì mà dân chúng sùng bái? Thầy có biết rằng, nhiệm vụ của một vị tì kheo chỉ là đem giáo pháp phân bố cho mọi người nhằm giúp họ đạt đến an lạc và hạnh phúc không? Hành động của thầy quả thật đã làm tổn thương cho đạo pháp và gây nguy hiểm cho giáo đoàn!
Xa Nặc cũng lại buồn rầu trong một thời gian, và ngôi chùa nguy nga ba tầng đã sớm hoàn thành, đại đức lại vui mừng vô hạn. Đại đức quyết định lợp thêm một mái ngói thật đẹp, nhưng mái ngói ấy chưa kịp hoàn tất thì ngôi chùa đã bị sập vì quá nặng; làm cho rất nhiều công nhân bị thương. Vậy mà đại đức bất chấp tất cả, ngôi chùa xa xỉ của đại đức cứ phải hoàn thành! Đại đức đã bảo vị thí chủ mua cho một chiếc giường thật rộng và đẹp như những chiếc giường của các hoàng tử hay quí tộc nằm, để đại đức dùng. Đại đức đã từ chối tham dự lễ “bố tát” mỗi nửa tháng, vì cho rằng mình không phạm lỗi lầm gì để phải tới đó thú nhận.
Đại đức Xa Nặc hoàn toàn không thể khắc phục những khuyết điểm của mình. Đại đức tiếp tục phạm luật, rồi sám hối, rồi lại phạm luật không giữ đúng những lời hứa trước đức Phật, lần này lại lần khác, cứ thế cho đến già.
Tại rừng Câu Thi Na (Kusinagara – Kusinara), trước giờ phút nhập niết bàn, đức Phật đã dặn dò tôn giả A Nan, sau khi Ngài nhập diệt, tất cả mọi người trong tăng đoàn không được nói chuyện với Xa Nặc, dù ở bất cứ trường hợp nào. Nếu Xa Nặc muốn gợi chuyện với vị nào, vị đó phải giữ im lặng, không trả lời. Tôn giả A Nan hỏi tại sao Ngài phải có quyết định đó, đức Phật dạy:
– Xa Nặc vẫn còn chìm sâu trong vọng tưởng. Ngày nào Như Lai còn sống trên đời, thì ngày đó thầy ấy còn có người kềm chế, nhưng sau khi Như Lai diệt độ rồi thì không ai có thể kềm chế thầy ấy được. Muốn giúp cho thầy ấy tỉnh ngộ, chúng ta phải cô lập thầy ấy một thời gian, để thầy ấy tự xét lại chính mình.
Lúc bấy giờ đại đức Xa Nặc đang bố giáo ở một vùng gần đó, cho nên tin đức Phật nhập niết bàn đã đến với đại đức rất nhanh. Đại đức lập tức đến rừng Câu Thi Na, hỏi thăm tôn giả A Nan chi tiết về giờ phút nhập diệt của đức Phật. A Nan từng nổi tiếng là người luôn luôn tử tế và thiện cảm, vậy mà tôn giả đã không trả lời câu hỏi thăm của Xa Nặc, lại quay mắt đi với vẻ mặt đau buồn. Đại đức tự hỏi: “Có phải vì ông ấy quá buồn rầu đến nỗi kiệt sức, cho nên không trả lời được câu hỏi của ta?” Nhưng khi khám phá ra là ai ai cũng đều từ chối nói chuyện với mình, thì đại đức liền đổi thái độ từ ngạc nhiên ra giận dữ. Đại đức nghĩ, toàn thể tăng chúng tại đây đã quyết định xa lánh mình sau khi Phật nhập diệt. Đại đức lại càng tức giận, và bỏ đi. thế rồi trên đường đi, các vị tăng sĩ bạn tu khác, khi vừa nhìn thấy đại đức từ xa, đã vội lẩn tránh không muốn gặp mặt. Đại đức rất đổi kinh ngạc về thái độ lạ lùng ấy của họ. Đại đức liên tiếp bị đẩy vào tình cảnh cô đơn, và sự đau đớn bởi cách đối xử ấy còn thê thảm hơn nỗi đau đớn về thể xác, nhưng đại đức hoàn toàn không hiểu được lí do đã dựng nên bức tường băng đá của sự im lặng này.
Một ngày kia, đại đức Xa Nặc đi thơ thẩn đến vườn Lộc Uyển, gần thành Ba La Nại, nơi mà trước đây đức Phật đã chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên. Thình lình đại đức nhớ ra rằng, chỉ có thiền tọa mới giải tỏa được mọi nỗi lo âu một cách hữu hiệu. Thế rồi đại đức ngồi xuống nơi một gốc cây lớn trong khu vườn, và bắt đầu nhập định. Trải qua nhiều ngày như thế, đại đức đã chiến đấu mạnh mẽ với cảm giác cô đơn và ý tưởng bị mọi người bỏ rơi. Rồi một hôm, chỉ trong khoảnh khắc ngắn trước buổi bình mình, một tia sáng của sự thật bỗng lóe lên trong tâm thức, đại đức chợt nhận ra: “Suốt trong thời gian qua, ta đã là một tên nô lệ của sự tham đắm. Đức Phật đã từng dạy về Bốn Sự Thật như là một phương pháp để thoát khỏi vũng lầy tham đắm này. Ta đã hãnh diện giảng dạy cho tín đồ về những sự thật đó, nhưng chính ta thì lại không tu tập cho bản thân mình. Ta chỉ biết sử dụng mọi năng lượng của mình trong việc hủy báng người khác, mà chưa từng đối diện với chính mình”. Chiếc cùm từng khóa chặt tâm ý đại đức bấy lâu, giờ đã bị tháo tung. Đại đức vừa thấy rõ mặt mũi của sự ngu dốt mà từ lâu nay đại đức đã ôm lấy. Đại đức cũng bắt đầu hiểu được lí do vì sao mà gần đây đại chúng đã công khai xa lánh mình.
Đại đức liền rời vườn Lộc Uyển, và đi thẳng về tu viện Cù Sư La, nơi đó, tôn giả A Nan đang có mặt. Đại đức gieo mình dưới chân tôn giả, xin tha thứ; và tôn giả chỉ dạy lại cho phương pháp tu tập để có thể đạt đến an lạc thực sự.
Tôn giả A Nan nhìn Xa Nặc một cách chăm chú, rồi nghiêm nghị gật dầu. Bấy giờ tôn giả mới cho cho đại đức biết những gì đức Phật đã dặn dò trước khi Ngài nhập niết bàn. Đại đức lẩm bẩm: “Đức Thế Tôn thật dã săn sóc cho mình rất nhiều, nhưng mình lại là đứa đệ tử ngu ngốc nhất của Ngài, cả đến giờ phút Ngài nhập diệt”. Đó là lần đầu tiên đại đức nhận thức rõ rệt tình thương yêu bao la của Phật.
Thật chậm rãi và thật nghiêm trang, tôn giả A Nan bắt đầu giảng dạy trở lại cho đại đức về Ba Ngôi Báu và con đường của tám sự hành trì chân chánh. Lời dạy của tôn giả hoàn toàn làm tươi mát lại tâm hồn Xa Nặc, như nước thấm vào khoảnh đất khô. Và cuối cùng, đại đức đã đạt đến cái trạng thái không còn bị lay chuyển nữa. Từ hôm đó, đại đức dã dùng tất cả thì giờ và công sức vào việc tu tập. Rốt cuộc, đại đức dã chứng được quả vị A la hán, mọi người đều sùng kính.
Niềm vui của đại đức Xa Nặc khi vừa giác ngộ đã được ghi lại trong phẩm “Trưởng Lão Kệ” (2) như sau:
Nhờ vị trưởng lão có trí tuệ siêu việt,
Tôi được nghe giáo pháp vi diệu của bậc Tôn Sư,
Và tu tập để đạt đến quả Vô sinh,
Quả thật người (3) đã theo đuổi tận cùng,
Con đường đưa đến sự an lạc tuyệt đối.
CHÚ THÍCH (của người dịch)
(1) Cù Sư La (Ghosila – Ghosita) là một vị trưởng lão ở thành phố Kiều Thưởng Di, kinh đô của vương quốc Bạt Sa. Ông là một trong ba vị đại thần của vua Ưu Điền (Udayana). Một hôm, nghe nói có Phật và giáo đoàn đang hành hóa tại thành Xá Vệ, ông liền sang đó để xin yết kiến Phật và nghe pháp. Ông qui y theo Phật và thỉnh Phật sang Kiều Thưởng Di hoằng hóa. Được Phật chấp thuận, ông quay về Kiều Thưởng Di xây cất một ngôi tu viện lớn ngay trong khu rừng cây của ông để cúng dường Phật và giáo đoàn, gọi là tu viện Cù Sư La.
(2) “Trưởng Lão Kệ” (Theragatha), trong Tiểu Bộ Kinh [Khuddakanikaya], thuộc Tạng Pali).
(3) Ở câu thứ nhì của bài kệ, đại đức Xa Nặc đã dùng chữ “tôi” (I – đại danh từ ngôi thứ nhất) để nói về mình; nhưng ở câu thứ tư, đại đức lại dùng chữ “người” (he – đại danh từ ngôi thứ ba), cũng để nói về mình. Đó là ý tứ sâu xa của bậc đạt đạo. Khi chưa đạt ngộ thì còn thấy có TA là người học đạo, nhưng khi đã đạt ngộ rồi thì không còn thấy có cái TA ấy nữa.
A Di Đà Phật
Đạo hữu Quảng Phong thân mến,
TN hiểu được những lo âu trong bạn, đây là điều ai trong chúng ta khi bước vào tu đạo đều gặp phải, và cũng đều phải trải qua. Tuy nhiên sẽ có sự khác biệt trong từng cá nhân: Có người sẽ nhận ra được những sai khuyết của mình, rồi đúc kết để tiến tu; ngược lại có người tỏ ra sợ hãi, hoài nghi mình, hoài nghi pháp mình đang tu rồi rao động và tiến tới thoái bồ đề tâm.
Phật Thích Ca và các Chư Tổ, các bậc Chân Sư xưa và nay đều nhận ra những điều đó, vì thế các Ngài luôn khuyến cáo chúng ta: Chớ nên bỏ lý, chấp sự; cũng chớ nên chấp sự bỏ lý.
Hiểu theo nghĩa người đời nghĩa là: chúng ta hoặc thiên lý thuyết mà bỏ thực hành; hoặc thiên thực hành mà bỏ lý thuyết. Trong đạo gọi đó là lý sự chẳng viên dung. Dung là sự hoà hợp, cân đối, sự dung hoà giữa lý và sự. Nhờ sự đó mà lý-sự đều viên mãn.
Điều đầu tiên bạn nên khắc phục: Ý nghĩ cầu vãng sanh quá mãnh liệt. Một người muốn được vãng sanh, hay nói khác đi: muốn đủ tiêu chuẩn vãng sanh – người đó phải hội đủ thiện căn, phước đức, nhân duyên.
Thiện căn=Phát Tín-Nguyện-Hành. Ý nghĩa của tín-nguyện-hành trên ĐVCT đã có quá nhiều bài viết và những trao đổi liên quan.
Phước-Đức: Vừa năng tạo phước (tạo các việc phước thiện) và Trì Giới miên mật. Miên mật được hiểu ở sự âm thầm hành trì trong từng niệm niệm.
Nhân duyên: Nhờ hội đủ thiện căn và phước đức – nhân duyên tới lúc tròn đầy, tự bạn sẽ có cảm ứng và tự bạn sẽ biết bạn sẽ về nơi nào.
Tín-Nguyện-Hạnh (Tin sâu-Nguyện thiết-Thực tâm hành) là điều kiện tiên quyết để chúng ta được về Tịnh Độ. Tuy nhiên để có được tín-nguyện-hạnh chúng ta phải dựa trên nền tảng vững chắc. Nền tảng đó chính là: Nhìn thấu-Buông xả-Tự tại-Tuỳ duyên-Niệm Phật.
TN thực lòng không muốn khuyên bạn xây nhà trên cát. Người chưa nhìn thấu, chưa biết buông xả, nhất quyết không thể tự tại và đương nhiên sẽ chẳng thể tuỳ duyên để niệm Phật được. Tuỳ duyên rất quan trọng, được hiểu: Hoà quang tiếp vật và phản quang tự kỷ. Nghĩa là hoà đồng cùng người, vật mà tâm chẳng phan duyên.
Đây là điều mà rất nhiều đạo hữu mới phát tâm niệm Phật thường bỏ qua bởi nghĩ chỉ cần tín-nguyện-hạnh là đủ.
Một yếu tố hết sức quan trọng TN muốn chia sẻ cùng các đạo hữu: Niềm tin mà không có nền tảng vững chắc=niềm tin rất mong manh; vì mong manh nên ý nguyện cũng hời hợt, vì hời hợt nên công phu cũng chẳng miên mật. Điều này TN xin lấy một VD đơn giản để các đạo hữu hiểu: Tại sao VN thời này lượng người bị tai nạn giao thông không thể kiểm soát? Nguyên nhân: mọi người không làm chủ phương tiện. 80-90% là đi bằng giả, làm bằng giả; hoặc lái xe lậu; hoặc học bằng lái “lậu”. Kế đến coi thường mạng sống của mình và của mọi người. Vấn đề cần nghiêm túc đặt ra: Khi tôi, bạn, chúng ta bị tai nạn chúng ta nhận ra điều gì? Câu trả lời là: chúng ta thiếu kiến thức cơ bản khi điều hành phương tiên giao thông. Cụ thể hơn: Bỏ lý thuyết, thiên thực hành. Vì vậy luật không nắm vững; khi gặp tình huống không biết xử trí sao cho phải, cho thích hợp, để tự giải thoát cho mình và người. Người học đạo cũng tương tự, không thể phế lý để năng sự được; cũng chẳng thể chuyên sự bỏ lý được.
Phật nói: Pháp của ta dụ như thuyền bè. Hiểu theo nghĩa thô: Thuyền bè để trở chúng ta tới bến, nhưng tới được hay không phụ thuộc vào sự khéo léo chèo chống của chính chúng ta. Hiểu theo nghĩa vi tế: Thuyền bè này chính là con thuyền bát nhã – của trí tuệ. Muốn khai mở được tuệ buộc chúng ta phải lý-sự song hành. Được vậy là chúng ta mới mong có ngày cập bến. Nắm vững được điều đó khi bước vào tu học chúng ta sẽ không còn dao động, hoảng sợ và không ai có thể khiến chúng ta thối tâm nữa.
TN nguyện chúc bạn phải kiến lập được pháp niệm Phật trên những nền tảng tu học cơ bản và vững chắc. Được vậy bạn mới thực là người thực tâm tu theo Phật và thực tỉnh giác.
A Di Đà Phật
TN
Khánh Giác xin lược trích “Niệm Phật Thập Yếu” (chương 7) của Hòa thượng Thích Thiền Tâm có liên quan đến câu hỏi của vị cư sĩ trong bài viết, trong đó có giải thích rõ mối nghi hoặc được đề cập. Ngưỡng mong quý đạo hữu kiên định chí thành niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc quốc với tâm Bồ Đề tinh tấn, dõng mãnh.
Nam Mô A Di Đà Phật! Con xin tri ân Hòa thượng!
” Tiết 47 Sự Trì, Lý Trì
Niệm Phật có sự Sự trì và Lý trì. Theo Ngẫu Ích đại sư: “Sự trì là tin có cõi Cực Lạc và Phật A Di Đà, mà chưa đạt lý tâm này làm Phật, tâm này là Phật, chỉ quyết định cầu sanh, tha thiết thì niệm như con nhớ mẹ không lúc nào tạm quên. Lý trì là tin hiểu Phật A Di Đà ở Tây Phương, do tâm ta sẵn đủ, tâm ta tạo nên; đem câu hồng danh sẵn đủ và tạo nên của tâm mình làm cảnh buộc niệm, chẳng giây phút nào xao lãng.”
Nói giản lược, Sự trì là cách trì niệm của kẻ không biết chi về nghĩa lý, chỉ tin có cõi Cực Lạc và Phật A Di Đà, rồi chí thành tha thiết niệm Phật để cầu tiếp dẫn vãng sanh. Lý trì là lối trì niệm của người cũng thật hành đồng như cách Sự trì ở trên, nhưng giải ngộ cảnh Tịnh Độ cùng Phật A Di Đà đều ở trong chân tâm, do công đức thanh tịnh của chân tâm hiện thành.
Như thế, Sự trì với Lý trì có gì sai biệt? – Tất nhiên là có. Bởi kẻ tu theo Sự trì thấy Phật ở ngoài tâm, thành ra có tướng năng sở đối đãi, chưa được dung thông. Người thật hành theo Lý trì, do giải ngộ chân tâm, nên tuyệt được tướng năng sở, tức niệm là Phật, tức niệm là tâm, dung hòa cùng tâm cảnh. Xin thuật một câu chuyện:
Ông bạn xuất gia đồng tu của bút giả một đêm nằm mơ, thấy vị sư áo vàng đến hỏi: “Người niệm Phật, mà Phật là chi?” – Đáp: “Phật là tâm”. Vị sư hỏi tiếp: “Ngươi thử giải thích thế nào Phật là tâm cho ta nghe?” Trong giấc mơ ông bạn bèn ứng khẩu đọc:
Mỗi câu tràng hạt Phật là tâm
Phật rõ là tâm, uổng chạy tìm!
Bể Phật dung hòa tâm với cảnh
Trời tâm bình đẳng Phật cùng sanh
Bỏ tâm theo Phật còn mơ mộng
Chấp Phật là tâm chẳng trọn lành.
Tâm, Phật nguyên lai đều giả huyễn
Phật, tâm đồng diệt đến viên thành.
Ông bạn trên đây đã hiểu cách Lý trì, dung hòa được câu niệm Phật vào tâm cảnh.
* Có một lối nhận định sai lầm, mà những kẻ thiên về huyền luận tự cho là hành trì theo lý, cũng cần nên biện minh. Nhiều người trọng lý khinh sự, thường chấp nê theo lý luận: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ,” rồi phủ nhận cõi Cực Lạc và sự tiếp dẫn vãng sanh. Những người này lý thuyết hóa các kinh nói về Tịnh Độ và bảo: “Di Đà tức là bản tánh Phật của mình; cõi Tịnh Độ là cảnh tịnh ở trong tâm, sao lại tìm bên ngoài?” Đây là điểm sai lầm rất lớn của thiên lý luận. Họ chấp lý bỏ sự, chuộng tánh quên tướng, đem chân đế mà bác hiện tượng của tục đế, chẳng biết rằng song phương không thể rời nhau.
Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, chân tâm có hai phần: tánh và tướng. Phần tánh gọi là Chân Như môn, phần tướng là Sanh Diệt môn; Chân Như không rời sanh diệt, sanh diệt tức là Chân Như. Bởi thế Mã Minh Bồ Tát gọi phần Chân Như là Tạng Như Thật Không, phần sanh diệt là Tạng Như Thật Bất Không; cả hai đồng chung một thể tánh như thật. Ví như mặt biển to rộng, không thể chỉ chấp nhận phần nước mà bỏ phần sóng bọt; vì chấp như thế tức đã sai lạc với hiện tượng của biển, mà cũng chẳng biết biển là gì? Cho nên, bỏ sự tức lý không thành, bác tướng thì tánh không đứng vững. Rất nhiều kẻ có chút học thức thế gian, khi nghiên cứu các kinh Đại Thừa nói về lý Bát Nhã, bởi không hiểu thấu đáo, nên thường mang chứng bịnh chấp “lý không” này. Do đó, họ đem các kinh nói về sự tướng, như các kinh Tịnh Độ hoặc Kinh Địa Tạng, mà lý thuyết hóa tất cả. Họ cho những kinh thuyết về sự tướng này là phương tiện để dẫn dắt hạng ngu thấp, những người tin có Tịnh Độ hoặc địa ngục, đều mê tín; nhưng thật ra, chính họ mới là kẻ lạc lầm! Nhân tiện, xin dẫn vài đoạn kinh ra biện minh, để phá lỗi chấp không ấy.
Như Bát Nhã Tâm Kinh nói: “… Không trí cũng không đắc, vì không sở đắc, nên Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không quái ngại. Chư Phật ba đời y Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.” Trước y theo chân đế nói “không đắc”, tiếp đó y theo tục đế lại nói “đắc”. Thấy “đắc” là chấp có, thấy “không đắc” lạc vào chấp không, nên người học Phật phải khéo hiểu ý kinh để đi vào trung đạo.
Trong Kinh Kim Cang, đức Phật bảo: “Kẻ nào dùng sắc tướng âm thanh thấy và tìm cầu ta, là hành theo tà đạo.” Nhưng tiếp đó Ngài lại bảo: “Tu Bồ Đề! Ông đừng nghĩ rằng Như Lai không dùng tướng Cụ Túc đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Tu Bồ Đề! Nếu ông suy nghĩ: phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề là nói các pháp đoạn diệt. Đừng nghĩ như thế! Tại sao? Vì phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, đối với các pháp không nói tướng đoạn diệt.” Trước tiên, Phật dạy đừng theo âm thanh sắc tướng mà tìm đạo; nhưng kế tiếp Ngài lại nhắc nhở; cũng như đừng rời bỏ âm thanh sắc tướng hoặc diệt hết các pháp để phát tâm cầu đạo. Như thế, ta thấy “đạo” chẳng phải thuộc về “sắc”, cũng chẳng phải thuộc về “không”; tìm chấp một bên đều sai lầm. Ngài Thanh Nguyên Duy Tín thiền sư nói: “Ba mươi năm trước, khi lão tăng chưa vào đạo, thì thấy sông là sông, núi là núi. Đến khi gặp thiện tri thức chỉ dạy cho đường lối tu hành, thấy sông không phải là sông, núi không phải là núi. Ngày nay ngộ đạo, vào nơi tịch tĩnh, thấy sông vẫn là sông, núi vẫn là núi.” Một vị thiền sư khác cũng diễn tả:
Tiếng gà tức tiếng quảng trường thiệt.
Sắc núi nguyên là tịnh pháp thân!
Đây là ý chỉ: sắc tướng âm thanh vốn thật đại đạo, ta nên đem tâm vô phân biệt mà thể nhận, đừng chấp lấy cũng đừng bác bỏ rồi tìm đạo nơi chỗ không không. Cho nên câu “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ,” không phải phủ nhận cõi Tịnh Độ và đức A Di Đà, mà chính là lối nói: nhiếp tướng về tánh, đem dụng về thể, để hiển bày lý Đệ Nhất Nghĩa Không. Trong Đệ Nhất Nghĩa Không, Phật còn chẳng lập, huống chi là các pháp khác.
Tiên đức bảo: “Lý tuy đốn ngộ, Sự phải lần lượt tu hành.” Cho nên Thiền Tông tuy nói là môn tu trực chỉ, nhưng khi còn ngồi thiền, còn nhiếp tâm, còn tham thoại đầu, còn nhập định xuất định, đều còn ở trong vòng phương tiện. Và thật ra cảnh nội chứng còn bước những nấc thang từ thấp đến cao. Chừng nào đến bậc vô tu, mới không còn dùng phương tiện, mới có thể nói các pháp đều không. Nếu chưa được như thế, thì một pháp nhỏ như mảy bụi cũng đều có thật; vì gần lửa còn thấy nóng, ở giữa sương tuyết còn thấy lạnh, một mũi gai nhỏ đâm vào thịt còn biết đau, đâu có cái gì là không? Cho nên những kẻ thích đề xướng cao diệu “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ,” rồi bác bỏ hình thức niệm Phật cầu vãng sanh thuộc về “Sự tu”, sẽ lâm vào cảnh: “Chưa bước lên bờ đã vội phá bỏ chiếc bè,” tất không khỏi bị chết chìm dưới nước. Xưa nay những bậc hiểu sâu về Lý lại còn chú trọng đến Sự, vì Sự tiêu biểu cho Lý.
Cổ đức đã bảo: “Với môn Tịnh Độ, duy bậc trí huệ mới dung thông tánh tướng hiểu đến chỗ tận cùng. Bằng không, thà chấp tướng tu hành, càng chấp lại càng mầu nhiệm!” Bởi càng chấp tướng, chí nguyện cầu sanh lại càng thiết tha, khi đã sanh về Tây Phương lo gì không chứng ngộ được thật tướng? Vấn đề sự lý tánh tướng, nói ra vẫn không cùng, nhưng nếu hiểu được một sẽ hiểu tất cả. Mong các đồng nhơn khéo suy nghĩ, để tránh khỏi sự sai lạc trên bước đường tu.
Viết đến đây, có một Phật tử nhân khi lại thăm chơi, hỏi: – “Thưa thầy, con nghe vài vị tu thiền khá cao, bảo: Cõi Cực Lạc là quyền thuyết, là một ảo tượng của Phật phương tiện nói ra, để cho những kẻ thấp kém nương vào đó tin tưởng hâm mộ, phát lòng chuyên nhứt niệm Phật đặng để đi đến cảnh giới nhứt tâm. Ví như người cha có hai đứa con, một đứa thông minh biết lo học không cần phải nhắc nhở; một đứa tối tăm biếng trễ, nên cha phải dẫn dụ, bảo nếu cố gắng siêng học khi thi đỗ sẽ cho một chiếc xe đẹp. Chiếc xe đẹp là một ảo tượng hay phương tiện, sự học giỏi thi đỗ mới là chân mục đích hay cứu cánh. Bởi thế cho nên Tịnh Độ là lối tu của hạng thường dân tối dốt, còn hạng trí thức đều ưa thích về môn Thiền. Nếu hiểu được lẽ này thì người sáng suốt chỉ nên nhiếp tâm tịnh niệm, không cần phải theo ảo tượng niệm Phật làm chi cho lao hơi nhọc sức. Hãy để chiếc xe trống không chạy đi mới nhẹ nhàng, không nên chuyên chở thêm cho nặng! Con nghe như thế song chưa biết trả lời làm sao, mong nhờ Thầy giải thích.”
Bút giả đáp: – Trong lối điều trần trên, có ba chủ điểm:
1. Cho Cực Lạc là ảo tưởng, quyền thuyết.
2. Bảo Tịnh Độ là lối tu thuộc hạng thấp kém thường dân.
3. Đưa ra mục đích trừ vọng nhứt tâm, cho rằng phương tiện niệm Phật làm tổn hơi nhọc sức như chiếc xe chở nặng, không được nhẹ nhàng thanh thoát như lối tu Thiền.
Về điểm thứ nhứt, Cực Lạc không phải là cảnh ảo tượng hay quyền thuyết, mà là thế giới có thật như cõi Ta Bà này; vì Phật không khi nào nói dối, và có rất nhiều người niệm Phật được vãng sanh, hiện tiền hoặc lúc lâm chung đã mục kích cảnh giới ấy, như trong Vãng Sanh Truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đã có chép. Trong tập này nơi đoạn trước đã dẫn minh về ba lượng để giải thích, xem qua sẽ tự rõ, không cần phải biện luận thêm nhiều.
Về điểm thứ hai, nếu cho rằng Tịnh Độ không phải lối tu của hàng trí thức, chỉ sợ e trí “trí thức” của những vị ấy chưa đủ sức thấu hiểu Tịnh Độ mà thôi. Như khi xưa Phật nói Kinh Pháp Hoa, có đến năm ngàn bậc Đại Đức Thanh Văn chứng từ Sơ Quả đến Tứ Quả, vì chưa tin hiểu nổi nên lui ra khỏi pháp hội. Những vị ấy đã vào hàng Thánh, đâu phải tầm thường, nhưng trước diệu lý quá cao, họ đành thối bại. Nếu bảo rằng hàng trí thức sáng suốt đều phải tu Thiền, niệm Phật để cho hạng dốt nát tầm thường, tại sao vị Tổ thứ mười bốn bên Thiền Tông là Long Thọ Bồ Tát sau khi chứng ngôi Sơ Hoan Hỷ Địa rồi, lại niệm Phật “cầu sanh Cực Lạc?” Và tại sao có rất nhiều bậc thạc đức bên Thiền Tông, như các ngài Vĩnh Minh, Triệt Ngộ, Liên Trì, sau khi tham thiền ngộ đạo, lại chuyển hướng cầu về Tịnh Độ? Phải biết Niệm Phật là pháp môn cao siêu mầu nhiệm, gồm nhiếp ba căn, từ đức Thích Tôn cho đến các bậc đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đều tuyên dương. Cho nên khi đức Thích Ca nói Kinh A Di Đà, hằng hà sa chư Phật ở sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài mà khen ngợi. Và trong Kinh Hoa Nghiêm, sau khi đức Phổ Hiền nói mười đại nguyện vương rồi, liền khuyến tấn các bậc Bồ Tát ở những ngôi Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, đều nên phát nguyện cầu sanh về Cực Lạc? Nếu cảnh Cực Lạc là ảo tượng không phải thật có, và môn Tịnh Độ là tầm thường, tại sao các vị ấy lại cầu sanh? Cho nên Ấn Quang đại sư đã bảo: “Sự cao siêu mầu nhiệm của pháp môn Niệm Phật, chư Tổ bảo là chỉ có Phật với Phật mới hiểu biết hết được. Những kẻ khinh chê Niệm Phật, không phải chỉ khinh chê hạng ông già bà cả tu Tịnh Độ đâu, mà chính là khinh chê luôn cả chư Phật và các bậc Đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ đó!”
Về điểm thứ ba, xin giải thích rõ hơn. Chỗ cứu cánh của Thiền là Chân Như Tam Muội. Điểm cứu cánh của Tịnh Độ là Niệm Phật Tam Muội. Chân Như Tam Muội như vàng khối, Niệm Phật Tam Muội như vòng, xuyến và các món trang điểm chạm trổ xinh đẹp, mà trong vòng xuyến nguyên đã có vàng. Cho nên khi chứng Niệm Phật Tam Muội, tức đã bao gồm cả Chân Như Tam Muội. Chân Như Tam Muội chỉ thuần về mặt trí huệ, Niệm Phật Tam Muội đã có trí huệ còn gồm thêm phần phước đức; bởi người tu Tịnh Độ cũng lấy nhứt tâm thanh tịnh làm căn bản, trên chỗ nhứt tâm ấy lại có thêm công đức niệm Phật. Nhưng Chân Như Tam Muội với Niệm Phật Tam Muội không phải tu một đời mà chứng được, cần phải liên tục tu trong nhiều kiếp; nhứt là chúng sanh thời mạt pháp này khó mà hy vọng. Vì thế Niệm Phật Tam Muội tuy là chỗ cứu cánh của môn Niệm Phật, nhưng chỉ đứng về hàng thứ yếu, mà sự cầu vãng sanh Tịnh Độ trong một đời để được Bất Thối Chuyển, mới là tông chỉ chánh yếu cần thiết của tông này. Do đó pháp môn Niệm Phật mới có tên là tông Tịnh Độ. Cho nên sở dĩ các bậc tu Thiền sau khi ngộ đạo, tự biết con đường chứng đạo còn xa, sợ e kiếp người ngắn ngủi, khi luân hồi sang đời khác phải bị mê lạc, nên mới chuyển hướng Niệm Phật cầu vãng sanh là thế. Niệm Phật, lễ Phật dù rằng nhọc, nhưng được thêm công đức phước báo do công năng tu trì của hai nghiệp thân và khẩu. Như chiếc xe từ Đà Lạt về Saigon, chạy xe không tất nhiên nhẹ nhàng, nhưng nếu chuyên chở thêm bông hoa rau cải, thì đã về đến Thủ Đô mà còn được có thêm phần hàng hóa. Đem công năng siêng nhọc niệm Phật để được thêm nhiều phước báo, đó chính là phần công và thưởng đương nhiên theo luật nhân quả, đâu có chi phải thiệt thòi? Song mỏi nhọc nếu có, chỉ là lúc mới tu. Khi niệm Phật thuần thục đến chỗ vô tâm, nào có chi là mỏi nhọc!
Nghi vấn trên thấy cũng cần thiết, nên dù không phải đoạn quyết nghi, cũng xin ghi tiếp vào đây. Những điểm hiểu lầm chưa thấu triệt về Tịnh Độ hãy còn nhiều, vì e tâm niệm phạm lỗi đấu tranh, nên đối với các sự biện minh tạm xin ngừng bút”.
(Trích ‘Niệm Phật Thập Yếu’ – Hòa thượng Thích Thiền Tâm
Nguồn: http://www.tinhdo.net/sachdao/166-niemphatthapyeu.html )
Cái bệnh lớn nhất của người tu hành tại gia là dễ bị mặc cảm khi tiếp xúc liên hệ với duyên trần không thanh tịnh. Tần số đạo lực tâm của hành giả mà còn yếu chưa đủ kinh nghiệm thì dễ bị ngoại cảnh chi phối khiến Bồ Đề tâm bị lùi lại tạm thời không thể tiến tới. Khi nào hành giả bị phiền não trói buộc thì phải dùng lòng tin vững chắc đối với chư Phật, Pháp, Tăng mà tự biết tháo gỡ thoát nạn nghiệp chướng tinh tấn tu hành lại. Lịch trình đường tu của các Phật tử ở tại gia rất khó vì thời này ngũ trược ác thế quá mạnh bao vây xung quanh không khéo là tiêu. Mỗi người mỗi căn cơ trình độ khác nhau cho nên HT chỉ xin góp ý các bạn đồng tu thực tế nghiệp chướng của chúng ta rất phức tạp không ai khi phát tâm tu hành đều đuợc thanh tịnh như ý muốn đâu cho nên khi bị thói tâm phải cố gắng lên mà tiến tới lại đừng bỏ cuộc. Nếu bị những nghịch duyên làm chướng ngại tâm Bồ Đề thì bắt buộc phải bám chặt câu A Di Đà Phật như là cái phao thì mới hy vọng không bị chìm trong biển phiền não nghiệp chướng vô minh vì trong Kinh QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ có nói rằng: “Quang minh soi chiếu khắp mười phương thế giới, thâu nhiếp không rời các chúng sinh niệm Phật”.
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam mô a di đà phật!
Con xin cam ơn các vị thiện tri thức đã chỉ dậy rất tận tình và tâm huyết,con sẽ gắng tu tập chu đáo và trọn cho mình con đường hợp với căn cơ của mình nhất.con tin phật bồ tát sẽ ra tri cho mình đén đích nếu mình nhất tâm tin tưởng vào pháp niệm phật mầu nhiệm mà 3 đời chư phật đồng khen chuộng-10 phương bồ tát chung tin tưởng này!
Kính chúc các vị thiện tri thức và đạo hữu đồng tu pháp thể an khang,tín tâm vững chắc,quyết định vãng sinh cõi tây phươnng cực lạc môt ngày sớm nhất.
Nam mô a di đà phật!
Nam mô a di đà phật!
Xin quý thầy cho con hỏi thêm 1 việc:
Hôm trước con có đọc đuợc trên mạng bài viét về: (Niệm phật vô tướng) của một vị,thấy trích dẫn nhiều câu nói trong kinh phật và của các vị tổ.
Tác giả của bài viết khẳng định làm theo cách đó tinh tấn,siêng năng thì nguời nhanh chỉ độ 6 tuần,người bình thường 3 dến 6 tháng là đã dạt công phu khá cao,lúc đó có thể tham thiền hay tu tịnh độ đều chắc chắn đạt kết quả cao.con không hiểu phương pháp này đã được vị tổ nào chỉ dạy chưa,có an toàn không.nếu đúng là tốt thi xin quý thầy chỉ bảo khuyến khích mọi người tu tập.nếu không đúng có nguy hại thì cũng xin nhắc nhở,cảnh báo cho những người cư sĩ tại gia chúng con chưa nắm rõ giáo lý dỡ bị nhầm lẫn gặp chướng ngại trong viêc tu tập hoặc bỏ lỡ cơ duyên thù thắng.
Xin quý thầy hoan hỷ chỉ bảo cho
Nam mô a di đà phật!
Về duyên hoằng hóa, Đại sư, quán xét vào thời mạt vận đạo đức lần suy, nhân căn hầu hết đều kém yếu. Phần đồng chỉ ở trình độ giữ Tam Quy, Ngũ Giới, niệm Phật ăn chay mà thôi. Như thế cũng gọi là đã có nhiều căn lành rồi. Còn hạng siêu xuất thì thật ra tuyệt ít. Vì thế, đại khái ngài chỉ khuyên giữ trọn luân thường, tin chắc nhân qủa, lánh dữ làm lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Người đáng chiết phục, dù bậc thiền túc cự nho, đạt quan danh sĩ, cũng thẳng thắng chỉ trích. Kẻ đáng nhiếp thọ, tuy hàng sơ học hậu sanh, nông công nô bộc, cũng từ ái khuyên dậy. Cách giáo hóa của Ngài, chỉ đem những sự lý thuyết thật bình thường để khuyến ích, tuy chính mình hiểu sâu tông giáo, song không chuộng huyền luận cao đàm.
Ấn Quang Đại Sư
Liên Tông Thập Tam Tổ
A Di Đà Phật
Bạn Quảng Phong thân mến,
Vấn đề bạn đặt ra rất ý nghĩa. Có thể nói trong khoảng ít năm lại đây phong trào niệm Phật phát triển rộng khắp, điều đó cho thấy đó là một xu thế của thời nay – điều mà Phật Thích Ca và chư Tổ Tịnh Độ đã đề cập khi hoằng dương pháp môn này. Tuy nhiên sự phát triển rộng khắp này có nhiều điều nguy cập mà hàng Phật tử tại gia chúng ta đã vấp phải, đó là tình trạng: Bỏ lý, chấp sự. Nghĩa là chỉ thiên về đi ngay vào thực hành niệm Phật (đặt ra công khoá; đặt ra số lượng niệm hồng danh Phật; đặt ra số lần, đếm chuỗi tràng hạt), vì những lý do này khi đi vào thực hành rất nhiều người, ngay trong buổi đầu học Phật và thực hành pháp niệm Phật đã gặp những chướng duyên: thân đổ bệnh; gia đình lộn xộn; con cái, quan hệ vợ chồng và người thân trở nên xung khắc, đổ vỡ, rạn nứt; cuộc sống làm ăn, học hành, sự nghiệp thất bại, bất an; nhiều người cảm thấy có người theo dõi, bị ám ảnh, trêu trọc, thường gặp ác mộng, thân thể suy bại, tinh thần khủng hoảng; thường nghe tiếng niệm Phật rào rào bên tai; cho mình đã chứng tam muội; chứng bất niệm tự niệm; chứng tâm bất loạn… Và để rồi nhiều người, nhiều trường hợp đã không đủ tỉnh táo để lý giải hay nhận ra mình đang sai ngay từ khởi điểm, nên quay ra đổ lỗi cho pháp niệm Phật; cho hồng danh A Di Đà Phật có vấn đề. Đây là những bài học xương máu cho thấy chúng ta học Phật nhưng lại quên mất cái nền tảng, giáo lý cơ bản mà Phật dạy: Phá mê-khai ngộ; lìa khổ-được vui; chuyển phàm-thành Thánh.
Sao gọi là phá mê-khai ngộ? Chúng ta phải khẳng định và ý thức ngay từ khởi đầu học Phật: Vì chúng ta quá mê mờ nhân-quả nên chúng ta mới có mặt trong cõi đời này. Vậy nhưng ngay khởi đầu chúng ta vẫn lại tiếp tục mê mờ, bỏ qua nhân-quả, không cần lý giải, quán chiếu nhân-quả, mà chỉ cần đơn thuần phát tín-nguyện-hạnh để niệm Phật và cho đó là điều kiện cần và đủ để được vãng sanh.
Tín-Nguyện-Hạnh là gì trên ĐVCT đã có nhiều bài giải thích về chủ đề này. Nhưng muốn có niềm tin vững chắc (tin sâu); muốn cho ý nguyện không thoái chuyển (nguyện thiết) và tâm hạnh được chân chánh, khai thông (thực tâm hành) chúng ta không thể xa rời nhân-quả.
Nhân-quả hiểu đơn giản là: bạn gieo mạ ắt chỉ có thể gặt lúa chứ chẳng thể ra khoai hay bí được. Mạ là dụ cho nhân. Lúa là dụ cho quả. Nhân lép=Quả cũng lép: Nhân chắc=Quả cũng chắc.
Thứ đến chúng ta phải thường quán 4 điều, Phật gọi là bốn câu kệ: là không thân, là không tâm, là không tánh, là không pháp, nghĩa là: Quán thân bất tịnh; Quán tâm vô thường; Quán tánh tịch tịnh; Quán Pháp hư huyễn. Đây là bốn yếu tố liên quan tới sự bại thành của người học Phật. Điều này trong Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận Phật dạy như sau.
“Sao gọi là không thân? Vì thân này do cha mẹ sanh ra đầy đủ khí huyết của cha mẹ, chín khiếu thường chảy những vật không sạch, bốn đại giả hiệp, sau rồi cũng tan rã; nhưng người trai lành gái tín tin có trí huệ biết thân này là giả, thì khi chưa chết tưởng như thân này đã chết, mượn thân giả này mà học Phật tu hành, gọi là Sắc không, câu kệ thứ nhất.
Thường quán sát tâm của mình chẳng sanh chẳng diệt, chí thánh chí linh. Gặp cảnh như là có, cảnh qua rồi như là không, nay biết được chân tâm thường giác chẳng mê, chẳng theo vọng tưởng kéo dắt, chỉ nương chân tánh làm chủ, gọi là ngộ Tâm không, câu kệ thứ hai.
Lại quán sát tánh của mình thường lặng yên không lay động, nếu cảm đến liền thông suốt, biến hóa vô cùng, uy linh khó nghĩ, sáng suốt làu làu. Tự mình giác ngộ hiểu biết linh thiêng, vắng lặng vô vi mà không ngoài hữu vi, gọi là ngộ Tánh không, câu kệ thứ ba.
Lại quán sát đức Như lai giảng nói kinh pháp đều phương tiện dẫn dắt chúng sanh vào cửa pháp, như nước rửa bụi, như bịnh gặp thuốc, nay chứng được tâm không, pháp không, như bịnh mạnh thì thuốc không dùng nữa, gọi là ngộ Pháp không, câu kệ thứ tư.
Nghĩa của bốn câu kệ này là con đường vào đạo, siêu phàm nhập thánh, các đức Như lai ba đời cũng do con đường này đi đến quả vị cứu cánh.
(…)
Bốn câu kệ này là mở rộng cửa đạo của các đức Phật, nếu thọ trì đọc tụng vì người giảng nói, khiến người nghe ngộ được tri kiến của Phật, quyết định thành Phật không nghi ngại, nên phước đức này lớn hơn trăm ngàn ức phần phước đức đem bảy báu thân mạng bố thí trước kia không được một phần.
Đức Phật bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi rằng: Phật trước Phật sau cũng đồng một thể, đều tại mỗi người tự mình minh tâm kiến tánh mà thành công đắc quả, vì Phật tánh người sẵn có, nếu không y theo Phật mà tu hành thì chẳng đặng thành Phật.
Tại vì sao? Vì chưa có công đức gì ở trong Phật pháp. Nếu muốn cầu đặng bậc Phật, phải y theo mười điều dưới đây:
1.- Phải dùng trai giới làm nền tảng đi đến bậc Phật.
2.- Tìm minh sư chỉ dạy công phu.
3.- Phải biết tâm tánh rốt ráo tỏ rõ.
4.- Phải làm các phuớc lành giúp cho gốc đạo được sung túc.
5.- Phải kết duyên lành cho gốc lành mỗi ngày mỗi thêm lớn.
6.- Rõ nhân quả việc làm đừng có vọng động.
7.- Trừ tà ma xa lìa ngoại đạo.
8.- Phải thông chơn lý chớ chấp hữu vi.
9.- Phải tinh tấn theo đức hạnh Phật.
10.- Mỗi pháp phải thông suốt rõ rệt.
Nếu đủ mười điều công đức này thì mau đặng thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác. Văn Thù Sư Lợi! Sau khi ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp có nhiều chúng sanh căn trí thấp kém, tâm ý mê say, trí tính mờ tối, tuy có trì trai giữ giới đều không trí huệ, cái tâm ngu mê cống cao ngã mạn, tôn sùng tà kiến, không chịu hạ tâm mình để cầu thầy học hỏi những pháp chân chánh, khư khư chấp trước, nhận giả làm thiệt,hoặc chấp trước kinh sách văn tự, hoặc chấp trước tụng trì cho nhiều số, hoặc học được hai câu nói của Phật thì cho là hoàn toàn. Chưa đặng nói là đặng, chưa chứng nói là chứng, căn lành tu ít mà muốn quả to, thiệt người ngu mê không hiểu ý Phật, tự mình điên cuồng tự dối mình, tuy có nhân lành mà khó tránh họa dữ. Tại sao? Hột giống không chắc, khó mà kết trái Bồ đề, một khi mất thân người, muôn kiếp khó phục hồi đặng”.
Tới đây có lẽ chúng ta nên đặt ra một vài câu hỏi:
1. Hàng ngày niệm Phật chúng ta có thường quán: thân này là bất tịnh, thân này là giả tạm? Chắc chắn là chưa, hoặc giả có thì cũng mờ mờ ảo ảo. Bởi vậy mỗi khi thân đổ bệnh hoặc là chúng ta hoảng hốt; hoặc là vội chạy nơi nọ, vái cầu nơi kia; hoặc đổ cho vì niệm Phật, vì tu theo pháp của Phật nên mới sanh ra những tật bệnh như vậy.
2. Hàng ngày niệm Phật chúng ta đã thường quán tâm này là vô thường chưa? Tâm vô thường là vọng tâm, là những điên đảo, vọng tưởng (tâm vô minh). Chắc chắn là chưa? Bởi nếu thường quán thì những phiền não, những điên đảo sẽ ngày một giảm thiểu, và chẳng thể lôi kéo chúng ta tiếp tục sống trong phiền não.
3. Hàng ngày niệm Phật chúng ta đã thường quán tự tánh của chúng ta vốn thường thanh tịnh chưa? Chắc chắn là chưa, bởi nếu quán được chúng ta sẽ chẳng ngồi niệm Phật mà chỉ mơ tưởng tới những chuyện thần thông hay những cảnh giới thần biến nơi cõi Phật; cũng chẳng niệm Phật mà chỉ mong chứng tam muội; mong đắc bất loạn, mong được niệm bất tự niệm.
4. Hàng ngày niệm Phật chúng ta đã thường quán các pháp là hư huyễn chưa? Chắc chắn là chưa. Bởi hễ có ai nói pháp niệm Phật là hư giả, Phật A Di Đà và Tịnh Độ Kinh là nguỵ tạo, hoặc giả có ai đó nói: đừng tu Tịnh Độ mà nên tu Thiền, tu Mật nó dễ chứng đắc hơn, vi diệu hơn… là chúng ta hoặc nổi sân để tìm cách biện minh cho pháp mình đang tu; hoặc tâm trí tứ tán, chẳng còn biết mình tu sai hay đúng nữa và vội tìm cầu những pháp môn khác để tu học. Giả như ai có nói với chúng ta những điều như trên chúng ta cũng chẳng cần hoảng loạn hay lo ngại làm gì, bởi người thực ngộ được Phật pháp, ngộ được lời Phật dạy sẽ chẳng thể nói chuyện pháp hay, pháp dở; pháp này vi diệu, pháp kia chẳng vi diệu; cũng chẳng nói Phật này là giả, Phật kia là thật. Do vậy, giả có ai đó nói với chúng ta những điều tương tự, chúng ta chẳng nên mất thời gian hoài phí về những gì họ bàn tán, khuấy đảo, bởi người niệm Phật=người thường quán chiếu lời Phật dạy= giống như người hàng ngày uống nước, nước nóng hay lạnh chỉ người uống mới hay biết, sao chúng ta lại phí phạm thời giờ để miêu tả cho người không uống cái cảm giác nóng hay lạnh đó? Nên chăng chúng ta hãy tuyệt đối tin vào những lời Phật dạy, nguyện hành theo những lời Phật dạy nói trên. Làm được vậy mới thực là giữ được tâm hạnh chân chánh=có tín-nguyện-hạnh.
Trở lại với điều bạn nêu: Niệm Phật Vô Tướng! Điều này khá trìu tượng, nếu chúng ta không tìm hiểu kỹ lời Phật dạy sẽ rất lúng túng và dễ ngộ nhận, sai lầm, vọng kiến khi tu pháp của Phật.
Nói là Niệm Phật Vô Tướng nghĩa là còn có tướng. Vì còn có tướng nên mới biết nó là “vô tướng”. Do vậy nghĩa chân thật của vô tướng là không còn tướng, mà đã không còn tướng thì lấy gì để nhận biết mà nói đó là niệm Phật vô tướng?
Điều này tương tự như khi Phật hỏi Ngài Tu Bồ Đề: thân to lớn đó có gọi là to lớn chăng? Ngài Tu Bồ Đề đáp: Bạch đức Thế Tôn! Thân to lớn ấy vốn chẳng phải là thân nên Thế Tôn mới nói là to lớn. Câu nói này có thể dụ cho nghĩa vô tướng nói trên. Vì thế nếu có ai đó nói: Tôi tu theo pháp niệm Phật vô tướng; tôi tu pháp niệm Phật tam muội; tu tôi pháp niệm Phật tâm bất loạn; tôi tu pháp niệm bất tự niệm và tôi đã chứng một trong những pháp đó. Người nói như vậy chúng ta phải quán chiếu đó chẳng phải là pháp của Phật nói. Điều này trong Kinh Kim Cang Bát Nhã Phật nói rất cụ thể: chẳng có pháp chi để chứng đắc, chẳng có pháp nào để chứng vô thượng bồ đề, cũng chẳng có pháp nào chứng bồ tát, chứng A La Hán cả.
Phật nói không có chứng đắc, nay có người nói, có người muốn chỉ cho bạn cách tu để chứng đắc, thậm chí trong vào vài ba ngày, vài ba tuần… nếu bạn đủ tỉnh giác, bạn phải nhận diện được: đó chẳng phải là pháp niệm Phật.
Người chân thật niệm Phật là người luôn quán chiếu và thực hành chân chánh lời Phật dạy.
TN
Ít nói một câu chuyện
Nhiều niệm một câu Phật
Đánh chết được vọng niệm
Pháp thân người hiển lộ.
—————————-
Luôn luôn niệm Phật phải chân thật
Y theo lời Phật chớ hồ nghi
Điều phục tâm viên, đừng phóng dật!
——————————
Chỉ nhớ niệm Phật, không việc khác
Lắng tâm quyết định nguyện về Tây
Lâm chung tự thấy Như Lai đến.
– Trích từ Thi Kệ Niệm Phật –
Nam Mô A Di Đà Phật!
Tâm chạy vòng vòng tìm chỗ trụ
Vì Tâm phân biệt cảnh nơi xa.
Đã đến được đâu mà phân biệt
Đã thấy được đâu lại rước Phiền
Hôm nay dốc lòng tôi Niệm Phật
Đón cảnh vô thường với an nhiên
Mặc ai nói đến phi thường cảnh
Tai tôi chỉ một AMiDa (Phật)
MoniqueTT
Nam mô a di dà phật!
Con xin cảm ơn các vị thiện tri thức đã tận tình chỉ dậy.con se cố gắng lão thật niệm phật cầu vãng sinh tây phương cực lạc thế giới.chúc các vị đạo hữu pháp hỷ sung mãn,tín tâm kiên cố.sớm dự thuợng phẩm liên đài nơi tây phương cực lạc thế giới.
Nam mô a di đà phật!
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
HT Xin chia sẻ một ca khúc cho các đạo hữu đọc cho vui.
Thời gian thắm thoáng tuôn nhanh
Phù du kiếp sống mong manh vồ thường
Bao nhiêu năm tháng tha phương
Bây giờ niệm Phật trở về cố hương
Một câu niệm Phật chuyên hành
Tiêu tham sân hận phát tâm Bồ Đề
Đường đi không quá xa xâm
Tây Phương mở lối chờ người vãng sanh.
Nếu ta quyết chí tu hành
Hiện đời an lạc thoát vòng luân hồi
Giữ TIN chí NGUYỆN tâm thành
Một đời sẽ được hoá sanh liên đài.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật trước giờ con thấy sống ở đây khổ quá nên mới niệm Phât cầu sanh Tây phương cực lạc để hưởng thụ cuộc sống nơi đó chứ ko phải muốn về đó tu tâp để thành Phật đễ giải thoát vì con ko biết lúc giải thoát sẽ như thế nào có j vui ko nên tâm ko tha thiết về việc ấy con chỉ muốn sống một đời an lạc thảnh thơi ở TPCL được tự do bay nhảy trên đó thôi vì con hay tưởng tượng ởTPCL mình sẽ được bay đi khắp nơi biết được mọi người ở thế gian đang làm gì và có
thể làm những điều mình thích nhưng nếu con mà còn cái tâm hưởng thụ này thì có phải là còn tham ko. Nếu con dùng tâm này niệm Phật thì có gặp chướng ngại ko vì con cũng là cầu mong vãng sanh nhưg ko phải vì giải thoát mà chỉ vì ham thích cuộc sống nơi đó.A Di Đà Phât