Chúng ta tu tập Tịnh nghiệp, lòng tin quý ở nơi sâu, chí nguyện quý ở nơi tha thiết. Do tin sâu, nguyện tha thiết, nên tất cả tà thuyết không thể lay động mê hoặc, tất cả cảnh duyên không thể kéo lôi. Giả sử khi ta đang niệm Phật, bỗng Tổ Đạt-ma hiện ra bảo rằng: “Ta có pháp Thiền chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Ông hãy bỏ niệm Phật, ta sẽ trao cho ông pháp Thiền ấy!”. Lúc ấy, chỉ nên lễ bái Tổ sư mà thưa: “Trước kia con đã thọ giáo pháp môn niệm Phật của Thích-ca Như Lai, phát nguyện thọ trì trọn đời chẳng đổi. Tổ sư tuy có truyền đạo vi diệu, nhưng con không dám trái với thệ nguyện của chính mình!”. Dù Phật Thích-ca hiện thân bảo rằng: “Trước kia ta nói pháp môn niệm Phật chỉ là phương tiện nhất thời thôi. Nay có pháp môn thù thắng hơn cả pháp ấy, ông nên ngừng niệm Phật ta sẽ nói pháp thù thắng này ngay!”. Bấy giờ, chỉ nên cúi đầu bày tỏ với Phật: “Trước kia con tiếp nhận pháp môn Tịnh nghiệp của Thế Tôn, phát nguyện nếu còn một hơi thở quyết chẳng đổi thay. Như Lai tuy có pháp thù thắng, nhưng con không dám trái với bản nguyện của chính mình!” Dù Phật Tổ hiện thân còn chẳng thay đổi lòng tin, huống là thuyết giả dối của ma vương ngoại đạo, há đủ để dao động ta sao? Tin được như thế mới gọi là lòng tin sâu chắc.
Về phần nguyện, ví như có vòng sắt nóng đỏ xoay vần trên đầu, cũng không vì sự khổ ấy mà thối thất chí nguyện vãng sinh. Nếu như có cảnh dục lạc tuyệt vời của Chuyển Luân Vương hiện đến, cũng không vì sự vui sướng đó mà thối thất chí nguyện vãng sinh. Gặp những cảnh duyên thuận nghịch cùng cực như thế còn chẳng thay đổi chí nguyện, huống là cảnh thuận nghịch nhỏ nhặt ở thế gian, lẽ nào có thể lôi kéo được sao? Nguyện như thế, nguyện ấy mới đáng gọi là chí nguyện tha thiết.
Lòng tin sâu chắc, chí nguyện tha thiết gọi là tâm chú trọng. Dùng tâm này tu Tịnh nghiệp thì Tịnh nghiệp rất mạnh mẽ, do tâm chú trọng nên dễ thuần thục, do nghiệp mạnh mẽ nên dễ chín mùi. Khi Tịnh nghiệp Cực Lạc thành thục, duyên nhiễm Ta-bà phải hết. Nếu duyên nhiễm đã hết, thì lúc lâm chung dù có muốn cảnh luân hồi hiện ra cũng không được. Nếu Tịnh nghiệp đã thành thục, lúc lâm chung tuy muốn cảnh Tịnh độ và Phật A-di-đà chẳng hiện cũng không thể được. Nhưng Tín–Nguyện này lúc bình thời phải rèn luyện cho thuần thục, khi lâm chung mới khỏi lạc vào đường khác. Biển cả Phật pháp nhờ lòng tin được vào. Một môn Tịnh độ, lòng tin càng thiết yếu.
Trích Niệm Phật Chỉ Nam
Mao Dịch Viên
Thích Minh Thành dịch
Hôm nay là tết dương lịch…lại khối anh chàng,cô nàng tụ họp …zô.uống vì cuộc gặp gở hôm nay…uống vì tết….Bản thân mình có những lúc khổ sở vì tiêu hoá…cái gọi là “chứng hư”nay nó lòi ra ,chứng hư gọi chung làm bốn loại cơ bản: khí hư,huyết hư,âm hư,dương hư.
Nay mình sẽ cùng mọi người xem xem dùng cây nhà lá vườn có công hiệu không nhá:
-chữa ỉa chảy tháo dạ:
Lấy ngải cứu tươi1nắm và 1củ gừng tươi,2 thứ thái nhỏ và cho vào 2 bát nước sắc còn gần 1bát thì uống lúc còn nóng.
Hoặc:đi cầu xong ra máu ,chữa theo cách sau:
Lá ngải cứu không kể ít nhiều,tán ra,hoà với nước cốt gừng,uống(đan khê toản yếu)
Bị tiện huyết lâu năm: nấu chín đậu đen tươi,ăn uống luôn cả bã lẫn nước(dùng nhạt)là khỏi.Bị tiện huyết lâu năm cũng khỏi(phổ tế phương)
Bẹnh từ miệng vào hoạ từ miệng ra. ĐỨC PHẬT cũng dạy chúng ta ĂN NGỌT THÌ SỐNG ĂN ĐỘC THÌ CHẾT. Chúng ta cần lưu tâm ạ.
Đa tạ sư huynh.
A Di Đà Phật. Mình hiện nay đang ở TPHCM đã kết hôn, nhưng nay mình muốn phát nguyện xuất gia nhưng không biết có chùa hay tự viện nào ở TPHCM tu theo Tịnh Độ tông không, và các thủ tục để xin xuất gia như thế nào. Kính mong các đạo hữu hoan hỉ chỉ mình
A Di Đà Phãt
A Di Đà Phật
Không biết mái chùa Hoàng Pháp có duyên với Sư Huynh không? Đây cũng là nơi con Quy Y bước chân vào Đạo và thường xuyên thăm viếng. Chùa chuyên tu Tịnh Độ.
Sư Huynh có thể tham khảo trang web của chùa:
http://www.chuahoangphap.com.vn/
Nam Mô A Di Đà Phật
Có hai loại người.
1là thấy khổ nên đi tu.
2 là thấy hành vi,lỗi lầm của mình nên phát tâm tu để sửa.
Bước vào nhà NHƯ LAI là gánh vác gia nghiệp của NHƯ LAI. Nhiệt tâm thì dễ phát khởi.hằng tâm(tâm kiên trì không đổi)mới khó giữ gìn.cũng thật hoan hỉ khi bạn phát tâm lớn như vậy.
Cho mình hỏi bạn huy ngoài lề 1 tẹo.bạn kết hôn sao lại xuất gia?bạn có con chưa?mục tiêu xuất gia của bạn là gì?
Chào bạn Hữu Nghĩa, chào các bạn đồng tu. Bạn Hữu Nghĩa trình bày vấn đề một cách rất tường tận. Bạn Hữu Nghĩa đã nói như sau:
Nói về tín, thì có những người, họ đều thật tin vào tin Pháp môn này, đều thật tin vào lời của Phật cả. Nhưng còn cái NGUYỆN thì sao?
Liệu họ có thật nguyện không?
Câu trả lời là: Có.
Lại hỏi: Nếu có, thì sao còn gia duyên nhiều bề thế sự?
Trả lời rằng: Không lẽ bỏ mặc gia đình vợ con sao?
Lại hỏi: Thế thì ông có biết thọ mạng ông đến đâu không? ông còn sống được bao lâu?
Trả lời: không biết.
Hỏi: vậy sao ông không phát tâm tu ngay từ lúc này đi, ngộ nhỡ…?
Thưa các bạn, thế đấy, cái cốt lõi là có thật sự NGUYỆN – MUỐN về hay không thôi. Nếu thật sự có NGUYỆN – MUỐN về, thì ai ai cũng đều phát tâm tu hành chăm chỉ cả.
Hơn nữa, cái Nguyện này cũng rất phức tạp, có nhiều thứ lớp lắm. Thế nên Chư Tổ mới nói là Tin Sâu – Nguyện Thiết mới được.
Vậy làm sao để thật sự muốn về? Không có cách nào hơn là chúng ta phải hiểu cho thật tường tận là: Lý do vì sao phải về? Phải trả lời cho thật rốt ráo câu hỏi này, càng rốt ráo tường tận nó thì cái chí nguyện về của ta càng mạnh, mới thật là Nguyện thiết như Chư Tổ yêu cầu. Chúng ta tu học về Lý phải nói được cho rõ ràng, vì sao rằng chúng ta phải thoát được vòng luân hồi sanh tử này mà về Tây Phương? Luân hồi là gì mà sao bằng mọi giá phải thoát ra nó?
Đôi dòng chia sẻ như vậy. Mong tất cả mọi người cùng phát NGUYỆN cho tha thiết, vững chắc. Nam Mô A Di Đà Phật.
Con xin kính chào các quý Thầy và mọi người ạ.
Con có một số thắc mắc không biết hỏi ai, mong các Thầy và mọi người giải đáp giúp ạ:
Năm ngoái, mẹ con bệnh nặng rồi mất, con chuyển sang ăn chay trường, hay đi phóng sinh, niệm A Di Đà Phật, phát nguyện vãng sinh Tây Phương Cực Lạc. Nhưng gần đây, con có nghe một số người nói là thế giới Tây Phương chỉ là tưởng tượng của người Tàu, chứ không có thật, con rất hoang mang, mong các quý Thầy và mọi người giải đáp giúp: Thế giới Tây phương cực lạc và Đức Phật A Di Đà có thực sự tồn tại? cần phải đọc những Kinh sách căn bản gì và nắm vững những giáo lý gì để hiểu biết cơ bản về Phật giáo.
Con xin trân trọng cám ơn ạ.
A DI ĐÀ PHẬT
Gửi bạn Diệu Hồng,
*Tu hành thì bạn cần phải có chánh kiến và chánh tư duy. Thiếu hai điều này bạn sẽ luôn mò mẫm và bị động khi nghe kinh, thính pháp. Trong Kinh Vô Lượng Thọ Phật Thích Ca nói: Chẳng cứ hàng phàm phu không tin Tịnh Độ mà ngay cả hàng Bồ tát cũng còn không tin. Nguyên nhân? Vì thiếu cái nhân Tịnh Độ. TN xin trích dẫn một số kinh quan trọng có liên quan tới cảnh giới Tịnh Độ và Phật Vô Lượng Thọ để bạn tuỳ nghi tham khảo. Tin hay không phụ thuộc vào thiện căn-phước đức và nhân duyên của bạn.
1/
“Bấy giờ Tâm Vương đại Bồ Tát ở trong chúng hội bảo chư Bồ Tát rằng:
Chư Phật tử! Ở Ta Bà thế giới cõi của Thích Ca Mâu Ni Phật đây một kiếp, nơi Cực Lạc thế giới, cõi A Di Dà Phật là một ngày một đêm.
Một kiếp ở Cực Lạc thế giới là một ngày một đêm nơi Ca Sa Tràng thế giới, cõi của Kim Cang Kiên Phật.
Một kiếp ở Ca Sa Tràng thế giới là một ngày một đêm nơi Bất Thối Chuyển Âm Thanh Luân thế giới, cõi của Thiện Thắng Quang Minh Liên Hoa Khai Phu Phật.
Một kiếp ở Bất Thối Chuyển Âm Thanh Luân thế giới là một ngày một đêm nơi Ly Cấu thế giới, cõi của Pháp Tràng Phật.
Một kiếp ở Ly Cấu thế giới là một ngày một đêm nơi Thiện Ðăng thế giới, cõi của Sư Tử Phật.
Một kiếp ở Thiện Ðăng thế giới là một ngày một đêm nơi Diệu Quang Minh thế giới, cõi của Quang Minh Tạng Phật.
Một kiếp ở Diệu Quang Minh thế giới là một ngày một đêm nơi Nan Siêu Quá thế giới, cõi của Pháp Quang Minh Liên Hoa Khai Phu Phật.
Một kiếp ở Nan Siêu Quá thế giới là một ngày một đêm nơi Trang nghiêm Huệ thế giới, cõi của Nhứt Thiết Thần Thông Quang Minh Phật.
Một kiếp ở Trang Nghiêm Huệ thế giới là một ngày một đêm nơi Cảnh Quang Minh thế giới, cõi của Nguyệt Trí Phật.
Chư Phật tử! Tuần tự như vậy, nhẫn đến quá trăm vạn a tăng kỳ thế giới, một kiếp ở thế giới rốt sau là một ngày một đêm nơi Thắng Liên Hoa thế giới, cõi của Hiền Thắng Phật. Phổ Hiền Bồ Tát và chư đại Bồ Tát đồng hạnh đông đầy trong thế giới Thắng Liên Hoa này. (Kinh Hoa Nghiêm – PHẨM THỌ LƯỢNG THỨ BA MƯƠI MỐT – Hán Bộ Phần Giữa Quyển 45)
2/
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật : ― Thế Tôn ! Như lời đức Phật vừa nói : Nếu Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thời thành tựu mười công đức như vậy. Cớ sao Đức Như Lai chỉ tu có chín điều mà không tu tịnh độ?
Phật nói : ― Nầy Thiện nam tử ! Từ xưa ta thường tu tập đủ cả mười điều. Tất cả Đại Bồ Tát cùng tất cả Như Lai không có ai là chẳng tu tập trọn cả mười điều như vậy.
Giả sử thế giới đầy dẫy nhơ uế, không bao giờ Như Lai xuất hiện nơi ấy.
Nầy Thiện nam tử ! Ông chớ cho rằng chư Phật xuất hiện nơi thế giới nhơ uế. Nên biết rằng tâm tưởng như vậy là kém hẹp chẳng tốt. Ông nên biết rằng thiệt ra ta không có xuất hiện nơi Diêm Phù Đề.
Như có người nói riêng cõi nầy có mặt nhựt, mặt nguyệt, cõi khác không có. Lời nói nầy không có nghĩa lý.
Nếu có Bồ Tát nói cõi nầy nhơ uế xấu xa, cõi khác thanh tịnh xinh đẹp đây cũng là lời không có nghĩa lý.
Nầy Thiện nam tử ! Về phương Tây, cách cõi Ta Bà nầy bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Vô Thắng, những sự trang nghiêm xinh đẹp trong cõi đó đều bình đẳng, như cõi Cực Lạc, như cõi Mãn Nguyệt. Hiện tại ta xuất hiện trong cõi Vô Thắng đó. Vì hoá độ chúng sanh nên ta thị hiện chuyển pháp luân nơi Diêm Phù Đề nầy.
Chẳng phải riêng gì thân ta thị hiện chuyển pháp luân nơi cõi nầy, mà tất cả Chư Phật cũng chuyển pháp luân trong cõi nầy. (Trích Kinh Đại Niết Bàn)
3/
Trong đại hội có một Phạm Vương tên là Bồ đề Tự Tại biến thân mình làm hình nữ nhơn đoan nghiêm xinh đẹp hơn hàng nhơn thiên, dùng diệu anh lạc để tự trang nghiêm, ở trước Tây phương Phật A Di Đà Như Lai chắp tay bạch rằng: “Duy nguyện đức Như Lai gia thần lực cho tôi làm cho tôi một âm thanh vang khắp Ta Bà thế giới nầy. Nay tôi muốn nói đà la ni chú để hộ trợ người thuyết pháp và người nghe pháp. Cũng làm cho sau lúc Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ không ai có thể ở nơi người nói pháp nầy mà khởi ác sự gây hại được, hoặc là ma vương, hoặc là ma vương cha mẹ con cái quyến thuộc, hoặc là Thiên, Long, A Tu La, Dạ Xoa, Ca Lâu La, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Gìa, Nhơn và Phi nhơn, hoặc Cưu Bà Trà, hoặc Phú Đơn Na, Ca Đa Phú Đơn Na, Lệ Lê Đa, Tì Xá Xà, Dạ Xoa, La Sát, cùng cha mẹ con cái quyến thuộc, tất cả ác qủy thần chẳng có thể ở nơi Pháp sư ấy gây hại được nhẫn đến chẳng thể động được một sợi lông của Pháp sư ấy.
Duy nguyện Như Lai gia thần lực cho tôi, khiến âm thanh nói chú của tôi vang khắp thế giới nầy”.
Có một Thiên Đế Thích tên là Cao Trì lên tiếng bảo Bồ Đề Tự Tại rằng: “Nầy đại tỷ! Chớ nên ở chỗ đức Như Lai mà sanh tâm đùa giỡn, tại sao, vì đùa giỡn là pháp phàm phu, Như Lai đã dứt sự nghiệp phàm phu, tất cả pháp hữu vi đều là vô thường, Như Lai chẳng tăng pháp hữu vi mà chỉ tăng pháp không, dứt các âm thanh tự cú. Như Lai ở nơi đại tỷ chẳng sanh tranh tụng, chỉ thấy bình đẳng nhứt tướng vô tướng dường như hư không. Luận về hư không thì không có ba hữu vi không có giác quán chẳng rời hữu vi không có chƣớng ngại. Như Lai Thế Tôn cũng như vậy nơi tất cả pháp không có chướng ngại, nơi dục nơi giác quán thọ mạng sĩ phu ấm giới nhập âm thanh tự cú thảy đều vô ngại. Nầy đại tỷ! Nay sao lại ở nơi đức Như Lai mà sanh tâm đùa giỡn?”.
Vô Lượng Thọ Phật bảo Thiên Đế Thích rằng: “Nầy Thiên Đế! Nên tư duy trước rồi sau sẽ phát ngôn chớ được lúc sau sanh lòng hối hận. Tại sao vậy? Nữ nhơn nầy là đại trượng phu đã ở chỗ vô lượng chƣ Phật tu các căn lành, vì muốn trang nghiêm đại chúng nầy mà hiện thân nữ thiệt chẳng phải là nữ vậy, đây tức là thân đại Bồ Tát. Sao Thiên Đế lại gọi là đại tỷ?”.
Nghe Phật nói, Đế Thích đến trước Bồ Đề Tự Tại sám hối.
Bồ Đề Tự Tại Phạm Vương nói: “Ta thọ ngươi sám hối để ngươi khỏi bị quả ác khẩu”.
Phạm Vương bạch Phật Vô Lượng Thọ rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu Thiên Đế Thích Cao Trì ấy mà không sám hối thì sẽ bị quả báo ác khẩu thế nào?”.
Vô Lượng Thọ Phật nói: “Nầy Phạm Vương! Nếu Thiên Đế ấy mà chẳng sám hối thì sẽ thường thọ thân nữ nhơn trong tám vạn bốn ngàn đời thân thể xấu xí hôi dơ bất tịnh. Vì vậy nên chúng sanh phải giữ gìn nơi miệng”.
Vô Lượng Thọ Phật bảo Phạm Vương Bồ Đề Tự Tại rằng: “Nay Phật ban cho ông oai thần đạo lực bèn được nói đà la ni chú”.
Phạm Vương cung kính bạch Phật thập phương chư Phật, chư Bồ Tát và tất cả nhơn thiên: “Duy nguyện lắng nghe. Nếu ai muốn khiến chánh pháp Như
Lai còn lâu tại thế giới, ai muốn ủng hộ người thuyết pháp và người nghe pháp. Duy nguyện chư Phật ban cho tôi thỏa mãn chí nguyện”.
Nói lời ấy rồi, âm thanh của Phạm Vương liền vang khắp Ta Bà thế giới. Tất cả Phạm Vương Thiên tất cả Đế Thích đều nói rằng: “Ta cho ông toại nguyện và cũng muốn thọ trì”.
Bồ Đề Tự Tại Phạm Vương nói chú rằng: “A ma lê, tỉ ma lê, gìa na sa tri, ba lê chiến tri, ma ha chiến tri, gía di, ma ha gía di, tố mế, đa di, a bà ha, tỉ bà ha, tu gìa xà ni ra khê bà, mâu la ba lợi xa đà. DạXoa chiến tri, tỉ xá gía chiến đồ, a bà a đa ni, tam bà la đá ni, sa gìa la ni, chiêm bà ni, mộ ha ni, úc ma gía tra ni, ha ha ma ma ha ha, a đa gía ni, khê gìa xá bà, a ma la, a mâu la, mâu la ba lợi bạt dẫn, a sá la khê bà, sá ha”.
Nghe chú xong, tất cả nhơn thiên đều tán thán rằng: “Lành thay lành thay, đà la ni nầy bất khả tư nghị không có gì hơn được”.
Phạm Vương lại nói rằng: “Nếu ai chẳng điều phục được ác quỉ nghe tổng trì nầy rồi thì có thể điều. Nếu ai thọ trì thần chú nầy mà ở quốc độ nào có tín tâm quốc vương, thì tất cả nam nữ hoặc lớn hay nhỏ hoặc chư Thiên hay thế nhơn đối với quốc vương ấy chẳng thể khởi sự ác làm hại đƣợc. Nếu ai khởi ác tâm gây ác sự thì đầu kẻ ấy sẽ bể làm bảy phần, tâm họ khô cháy, thận bị bịnh lại, kẻ có thần thông thì bị thối thất, gió dữ thổi thân họ sa vào địa ngục. Tùy xứ nào có thần chú nầy lưu bố thí tôi cũng tự sẽ thủ hộ khiến được xa lìa tất cả các ác sự, người thọ trì người nghe chú chẳng thiếu y phục, ngọa cụ, y dược, các vật cần dùng”. (Kinh Đại Bảo Tích – Q09 – Trang 82)
4/
Lúc bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con
nay làm thế nào được sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni? Nếu được thì vô lượng
thiền định tương ưng không thể nghĩ bàn. Tức đồng được Vô thượng Bồ đề
Chánh đẳng chánh giác, vào môn giải thoát, thấy được địa vị Niết Bàn, tham
sân vĩnh diệt, pháp tạng viên mãn, phá hoại luân hồi của ngũ thú và tịnh các
địa ngục, đoạn trừ phiền não, cứu độ các loài bàng sanh, pháp vị viên mãn
của tất cả trí, dùng trí ấy diễn nói vô tận. Thưa Thế Tôn! Con cần sáu chữ
Ðại Minh Ðà Ra Ni ấy. Con sẽ làm thế này, lấy của thất bảo đầy trong bốn
đại châu làm việc bố thí để chép viết. Bạch Thế Tôn! Nếu thiếu giấy bút, con
sẽ chích thân lấy máu làm mực, lột da làm giấy, chẻ xương làm bút. Thật
như vậy! Thưa Thế Tôn! Con không có hối tiếc, mà tôn trọng như bậc đại
cha mẹ.
Lúc bấy giờ Phật dạy Ngài Trừ Cái Chướng Bồ Tát: Thiện nam tử! Ta nhớ
thời quá khứ, vì sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này mà đã trải qua khắp vô số
thế giới như vi trần. Ta cúng dường vô số trăm ngàn vạn Câu chi an khố đa
của đức Như Lai, ta ở chỗ của đức Như Lai ấy, mà cũng không được nghe.
Thời kỳ đó có Ðức Phật gọi là Bảo Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Ta ở trước Ðức Phật đó
mà rơi lệ buồn khóc. Khi bấy giờ đức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác kia
dạy Ta rằng: Thiện nam tử! Ông chớ nên buồn khóc! Thiện nam tử! Ông hãy
qua bên kia, sẽ thấy đức Liên Hoa Thượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác,
tại nơi ấy Phật kia biết sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni.
Thiện nam tử! Ta từ từ rời chỗ đức Bảo Thượng Như Lai, qua đến cõi Phật
sát của Liên Hoa Như Lai, đến rồi đảnh lễ chân Phật mà chấp tay đứng
trước: Cúi mong đức Thế Tôn! Cho con sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni, Chơn
ngôn Vương kia là bổn mẫu của tất cả, nhớ niệm tên ấy thì tội cấu tiêu trừ,
mau chứng Bồ đề. Vì cớ ấy mà con rất mong muốn, con đã chịu khổ nhọc
trải qua vô số thế giới mà cũng không được nên nay con mới trở lại đây.
Khi ấy Ngài Liên Hoa Thượng Như Lai liền nói công đức sáu chữ Ðại Minh
Ðà Ra Ni rằng: Thiện nam tử! Vi trần đã có ta có thể đếm được số lượng.
Thiện nam tử! Lại như số cát trong biển lớn, ta có thể đếm từng hạt một.
Thiện nam tử! Nếu niệm sáu chữ Ðại Minh một biến thì công đức ấy ta
không thể đếm được. Thiện nam tử! Lại như trời người tạo lập kho lẫm, chu
vi một ngàn du thiện na, cao một trăm thiện na chứa hạt mè đầy trong kho
mà không kẽ hỡ dẫu bằng một mũi kim, người giữ kho không già không
chết, trải qua năm trăm kiếp, ném bỏ ra ngoài từng hạt mè một, như vậy
trong kho ném hết không sót, ta có thể đếm số lượng kia. Thiện nam tử! Nếu
niệm sáu chữ Ðại Minh một biến thì được công đức, ta không thể đếm được.
Thiện nam tử! Lại như bốn đại châu gieo trồng hết thảy các loại lúa nếp,
Long vương mưa nắng thuận thời, lúa nếp đã trồng hết thảy chín vàng, thu
cắt đều xong. Lấy Nam Thiệm bộ châu mà làm sân chứa, dùng xe vận tải
chở hết các lúa về sân, đập để xong xuôi, dồn thành đống lớn. Thiện nam tử!
Ta có thể đếm số lúa ấy từng hạt một như vậy. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu
chữ Ðại Minh này một biến, công đức ấy ta không thể đếm được. Thiện nam
tử! Cõi Nam Thiệm Bộ Châu có những con sông lớn ngày đêm chảy mãi
gọi là sông Di Ða, sông Kinh Nga, sông Nại Ra, sông Tán Nại Ra, sông Bà
Nghiệt, sông Ái Ra Phạ Ðể, sông Tô Ma Na Ðà, sông Hế Ma, sông Ca Lã
Thú na Lị. Mỗi một con sông lớn này có năm ngàn con sông nhỏ làm chi
nhánh, ngày đêm chảy vào biển lớn.
Thiện nam tử! Như vậy mỗi con sông lớn kia ta có thể đếm số mỗi một giọt
nước kia. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu chữ Ðại Minh một biến được công
đức ta không thể đếm số lượng. Thiện nam tử! Lại như loài hữu tình bốn
chân trong bốn đại châu như sư tử, voi, ngựa, trâu đồng, trâu nước, cọp, beo,
nai, vượn, chồn, heo, dê, thỏ; những loài bốn chân như vậy ta có thể đếm số
lượng từng sợi lông một. Thiện nam tử! Nếu niệm sáu chữ Ðại Minh này
một biến thì được công đức ấy ta không thể đếm số lượng được. Thiện nam
tử! Lại như núi Kim Cang Câu Sơn Vương kia, vuông mỗi bên tám vạn bốn
ngàn du thiện na, nơi núi ấy có người không già không chết, trải qua một
kiếp nhiễu quanh núi chỉ được một vòng. Núi Vương như vậy ta lấy y Kiều
Thi Ca có thể trải hết không sót. Nếu có người niệm sáu chữ Ðại Minh này
được công đức ta không thể nói hết số lượng. Thiện nam tử! Lại như biển
lớn sâu đến tám vạn bốn ngàn du thiện na, lỗ miệng rộng lớn vô lượng, ta có
thể lấy một sợi lông nhét vừa hết không dư. Thiện nam tử! Nếu có người
niệm một biến sáu chữ Ðại Minh này được công đức mà ta không thể nói hết
số lượng. Thiện nam tử! Lại như rừng cây Thi Lợi Sa, ta có thể đếm hết mỗi
một lá. Thiện nam tử! Nếu niệm một biến sáu chữ Ðại Minh được công đức
không thể nghĩ lường. Thiện nam tử! Lại như bốn đại bộ châu những kẻ nam
người nữ, con trai con gái ở đầy khắp trong đó, những người này đều chứng
Thất Ðịa Bồ Tát, chúng Bồ Tát ấy đã có công đức cùng với công đức người
niệm sáu chữ Ðại Minh này không khác. Thiện nam tử! Trừ một năm mười
hai tháng ra còn gặp năm nhuần mười hai tháng, lấy tháng dư nhuần ấy làm
số năm đủ mãn một kiếp trên cõi trời, ở đó ngày đêm thường mưa lớn.
Thiện nam tử! Ta có thể đếm số mỗi một hạt mưa kia được. Nếu có người
niệm sáu chữ Ðại Minh này một biến, công đức số lượng rất nhiều. Nơi ý
ông nghĩ sao? Thiện nam tử! Lại như vô số một trăm ức đức Như Lai ở tại
một chỗ trải qua một kiếp của cõi trời, lấy các thức ăn uống, y phục, ngọa cụ
và thuốc thang đồ cần dùng, các thứ ấy đem cúng dường cho các đức Như
Lai mà cũng không thể đếm hết số lượng công đức của sáu chữ Ðại Minh.
Chẳng những ta ngày nay ở thế giới này mà ta từ trong định ra cũng không
thể nghĩ bàn.
Thiện nam tử! Pháp gia hạnh vi diệu tương ưng của tất cả quán trí này,
người đời sau sẽ được tâm pháp vi diệu ấy. Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát,
khéo an trụ sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni như thế.
Thiện nam tử! Ta lấy phước gia hạnh trải qua vô số trăm ngàn vạn Câu chi
na khố đa thế giới, đến chỗ đức Như Lai Vô Lượng Thọ chấp tay ở trước, vì
pháp ấy mà rơi lệ buồn khóc. Bấy giờ đức Vô Lượng Thọ Như Lai thấy ta
tại đó và vì đời sau mà bảo ta rằng: Thiện nam tử! Ông cần sáu chữ Ðại
Minh Vương quán hạnh Du Già đấy ư? Bấy giờ ta bạch: Con cần pháp ấy
Thế Tôn! Con cần pháp Thiện Thệ ấy, như người quá khát nước mà cần
nước. Bạch Thế Tôn! Con vì sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni ấy mà du hành vô
số thế giới, vâng thờ cúng dường vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa
Như Lai mà chưa từng được sáu chữ Ðại Minh vương Ðà Ra Ni, xin mong
đức Thế Tôn cứu cái ngu độn cho con; như không đầy đủ khiến con được
đầy đủ; mê mất đường về, dắt dẫn cho con thấy đường trở về; nắng trời gay
gắt, làm bóng che mát; nơi ngã tư đường trồng cây Ta La. Tâm con
khao khát mong cầu pháp ấy, cúi xin chỉ dạy, kiến được thiện trụ nơi đạo
cứu cánh, mặc được áp giáp đội mũ Kim Cang. Bấy giờ đức Vô Lượng Thọ
Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác dùng diệu âm Ca Lăng tần già bảo Ngài
Quán Tự Tại đại Bồ Tát: Thiện nam tử! Ông thấy đức Liên Hoa Thượng
Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, vì sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này mà
Ngài phải trải qua vô số trăm ngàn vạn Câu chi na khố đa thế giới.
Thiện nam tử! Ông nên cho sáu chữ Ðại Minh. Ðức Như Lai này vì vậy cho
nên đến đây. Quán Tự Tại Bồ Tát bạch đức Thế Tôn: Không thấy được Mạn
Noa La (Ðàn Pháp) thì không thể đắc được pháp này. Làm thế nào biết là
Liên Hoa ấn? Làm thế nào biết là Trì Ma Ni ấn? Làm thế nào biết được Nhất
Thiết Vương ấn? Làm thế nào biết là Thể thanh tịnh Mạn Noa La?
Nay tướng Mạn Noa La đây: Chu vi bốn phía vuông, mỗi bề vuông năm
thước, trung tâm Ðàn Pháp (Mạn Noa La) đặt tượng Phật Vô Lượng Thọ
(Phật A Di Ðà). Nên dùng năm thứ bột quý phân rải trong đàn như: Nhơn
nại ra nhĩ la bảo mạc, Bát nạp ma ra nga bảo mạc, Ma ra kiết đa bảo mạc,
Pha để ca bảo mạc, Tô phạ ra noa lỗ bá bảo mạc. Nơi bên hữu đức Vô
Lượng Thọ Như Lai để trì Ðại Ma Ni Bảo Bồ Tát; nơi bên tả Phật để sáu
chữ Ðại Minh. Bốn tay thì thân sắc trắng đẹp như ánh trăng thu, trang
nghiêm các thứ báu. Tay trái cầm hoa sen, nơi trên hoa sen để Ma Ni Bảo.
Tay mặt cầm xâu chuỗi, hai tay dưới kiết Nhứt Thiết Vương ấn. Nơi dưới
chân sáu chữ Ðại Minh để trời người và các thứ trang nghiêm; tay bên hữu
cầm Lư hương, tay bên tả bưng bát đầy các thứ báu. Nơi bốn góc Man Noa
La bày bốn vị Ðại Thiên Vương nắm cầm các thứ khí trượng. Bên ngoài bốn
góc Mạn Noa La để bốn hiền bình đầy các thứ Ma Ni báu. Nếu người thiện
nam và thiện nữ muốn vào Ðàn Pháp (Mạn Noa La), không thể để cho
những quyến thuộc của mình vào trong Ðàn Pháp, chỉ nên viết tên của họ, kẻ
trước vào Ðàn Pháp ấy, hãy ném tên họ của quyến thuộc mình vào nơi trong
Mạn Noa La, các quyến thuộc ấy đều được Bồ Tát vị. Người ở trong đó xa
lìa các khổ não, mau chứng đắc Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng chánh giác.
Pháp Mạn Noa La này vị A Xà Lê không được vọng truyền. Nếu có phương
tiện thiện xảo, thâm tín Ðại Thừa, gia công hành trì, chí cầu giải thoát, người
như vậy thì nên truyền không nên truyền ngoại đạo dị kiến (các đạo khác).
Bấy giờ Ngài Vô Lượng Thọ Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác bảo Ngài
Quán Tự Tại đại Bồ Tát rằng: Thiện nam tử! Nếu có năm món sắc bảo mạc
như vậy mới được kiến lập Mạn Na Loa. Nếu thiện nam tử và thiện nữ
nghèo cùng thiếu thốn không thể sắm đủ các thứ quý báu ấy thì làm thế nào?
Ngài Quán Tự Tại bạch rằng: Thưa Thế Tôn! Nên phương tiện dùng các thứ
đẹp đẽ mà làm Ðàn Pháp, lấy các thứ hương hoa để cúng dường. Nếu người
thiện nam ấy cũng không sắm sửa được gì vì: hoặc ở nhờ nơi quán chợ miễu
đình, hoặc có lúc giữa đường thì bây giờ vị A Xà Lê vận ý tưởng thành Mạn
Noa La kết A Xà Lê ấn tướng.
Khi bấy giờ đức Liên Hoa Thượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác bảo
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rằng: Thiện nam tử! Hãy nói sáu chữ Ðại Minh
Ðà Ra Ni này cho ta, ta vì vô số trăm ngàn Câu chi na khố đa hữu tình, khiến
họ được xa lìa luân hồi khổ não, mau chứng Vô thượng Bồ đề Chánh đẳng
chánh giác.
Bấy giờ Ngài Quán Tự Tại đại Bồ Tát nói sáu chữ Ðại Minh cho Liên Hoa
Thượng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác rằng:
“ÚM MA NI BÁT NẠP MINH HỒNG”
Khi đang nói sáu chữ Ðại Minh Ðà Ra Ni này, bốn đại bộ châu và các cung
trời thảy đều chấn động rung lay như tàu lá chuối. Nước bốn biển lớn sóng
nổi cuồn cuộn. Tất cả quỷ Tỳ Na Dạ Ca và Dược Xoa, La Sát, Củng Bàn
Noa, Ma Hạ Ca … và các quyến thuộc của các ma làm chướng ngại ấy thảy
đều sợ hãi chạy trốn.__( Phật nói kinh Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương. – Quyển 4)
Con xin cảm ơn thầy, nhưng gần đây con tiếp xúc với những người theo Phật giáo Nguyên thủy, họ khuyên rằng hiện tại con nên tạm bỏ hết kinh Đại thừa đi để đọc những lời dạy căn bản của Đức Phật như Kinh Pháp cú, Kinh tứ niệm xứ, còn Kinh A Di Đà xuất hiệu sau thời Đức Phật thế 600 năm, không đáng tin, ngoài ra nhất định phải học thiền Vipassana để tăng trí tuệ, mong thầy chỉ giúp con nên làm thế nào ạ?
Nếu theo quan điểm của tiểu thừa thì Quán Thế Âm Bồ Tát không có thật nhưng theo lời kể của Nghệ Sĩ Vân Sơn: http://www.duongvecoitinh.com/index.php/2014/06/nghe-si-hai-van-son-nho-niem-quan-the-am-bo-tat-thoat-nan-dam-tau/
ta có thể suy ra được Quán Thế Âm Bồ Tát có thật và Pháp Đại Thừa mới chính là Pháp môn bạn cần tin theo.Quán Thế Âm Bồ Tát có thật thì Đức Phật A Di Đà có thật,cõi Tây Phương Cực Lạc có thật và bằng chứng là nhiều người đã vãng sanh Cực Lạc.Việc bạn bị lung lay bởi tiểu thừa thì mình cũng đã từng bị như bạn rồi, ta tu Tịnh Độ thì phải tin sâu không bị lung lay chứ nếu như lung lay niềm tin thì bạn có niệm nhiều đến mấy cũng không vãng sanh đc.Chúc bạn tinh tấn trên con đường tu học Pháp môn TỊNH ĐỘ.
Cám ơn bạn Niệm Phật tinh tấn.
Thật xúc động khi đọc câu chuyện nhiệm màu cuả nghệ sĩ Vân Sơn, cám ơn bạn nhiều!
Bạn Diệu Hồng thân mến,
Trong khi chờ đợi quý thiện tri thức giúp đở bạn giải tỏa mọi hoài nghi, mình xin gởi bạn một đoạn tóm tắc trong kinh Kalama để bạn tham khảo. Mình cũng xin nói thêm cho bạn rõ là bài kinh Kalama được Đức Phật thuyết giảng trong một ngữ cảnh đặc biệt, là cho bộ tộc Kalama, những người hoài nghi về những vấn đề của riêng họ, tìm đến Đức Phật để xin cố vấn cho họ; và trước khi đến, ho chỉ nghe danh Đức Phật chứ chưa từng biết giáo pháp của Phật, chưa từng là đệ tử Phật ( nhìn danh xưng “Diệu Hồng” của bạn mình nghĩ là bạn và họ ở trong hai ngữ cảnh khác xa nhau)
“…
…Bạch Ngài, có một số du sĩ, Bàlamôn, đến Kesaputta. Họ thuyết minh và phát huy giáo lý của mình, nhưng họ bài xích, khinh miệt, chê bai và xuyên tạc giáo lý người khác. Lại có một số du sĩ, Bàlamôn khác đến Kesaputta, họ cũng thuyết minh và phát huy giáo lý của mình, nhưng họ cũng lại bài xích, khinh miệt, chê bai và xuyên tạc giáo lý người khác. Bạch Ngài, đối với những người ấy, chúng con nghi ngờ phân vân: “Trong những du sĩ, Bàlamôn này, ai nói đúng sự thật, ai nói không đúng sự thật?”
“…Này quý vị Kalama, đừng tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó là truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại, đừng tin vì được ghi trong kinh điển, đừng tin vì lý luận,đừng tin vì suy diễn, đừng tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì dựa theo ý kiến đã được cân nhắc, đừng tin vì vị ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì nghĩ rằng vị ấy là thầy của mình.
Khi nào quý vị tự mình biết rõ: ‘Các pháp này là bất thiện; các pháp này là đáng chê; các pháp này bị người trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau’, quý vị hãy từ bỏ chúng. … Khi nào quý vị tự mình biết rõ: ‘Các pháp này là thiện; các pháp này là đáng khen; các pháp này được người trí ca ngợi; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến lợi lạc hạnh phúc’, quý vị hãy đạt đến và an trú…” (đoạn này được người đời nay rút gọn lại chứ trong kinh Đức Phật giảng giải rất chi tiết)
Chúc bạn được an lạc và tỉnh giác.
Nam Mô A Di Đà Phật!
Bạn trả lời thật hay, người ta nói: đừng tin ai, hãy tự hành, phải không bạn?
Mình cũng có niềm tin, nhưng không vững chắc, nên mới bị lung lay như vậy.
Mình sẽ niệm Phật chăm chỉ hơn, khi thấy được những lợi ích, niềm tin sẽ tăng dần lên.
Cám ơn bạn rất nhiều!