Đang đêm tối mịt mùng khó cất bước đi, bỗng nhiên có được một ngọn đèn sáng, thật chẳng khác nào người mù bỗng dưng được sáng mắt, lại cũng giống như lúc trời đã sụp tối lại có thể lưu giữ chút ánh tà dương để soi chiếu khắp mặt đất. Đối với người đang rơi vào hoàn cảnh phải đi trong đêm tối, còn có ân huệ nào lớn hơn?
Người đi trong đêm có được ngọn đèn, ắt có thể nhìn thấy rõ ràng mọi thứ phía trước để dễ dàng tiến bước. Cho nên, kẻ dùng đèn đuốc mang ánh sáng cứu giúp người khác chắc chắn sẽ được phước báo thường có mắt sáng tinh tường.
Lại nữa, khi đi trong đêm có được ngọn đèn sáng, ắt trong lòng không còn lo lắng sợ sệt. Cho nên, kẻ dùng đèn đuốc mang ánh sáng cứu giúp người khác chắc chắn sẽ được phước báo thường đầy đủ mọi niềm vui sướng, hoan hỷ.
Lại nữa, khi đi trong đêm có được ngọn đèn sáng, ắt không phải giẫm đạp lên những chỗ bùn lầy nhơ nhớp. Cho nên, kẻ dùng đèn đuốc mang ánh sáng cứu giúp người khác chắc chắn sẽ được phước báo thường được sạch sẽ, tinh khiết.
Lại nữa, khi đi trong đêm có được ngọn đèn sáng, ắt nghe tiếng chó sủa trong lòng không hoảng hốt kinh sợ. Cho nên, kẻ dùng đèn đuốc mang ánh sáng cứu giúp người khác chắc chắn sẽ được phước báo thường an ổn không sợ sệt.
Lại nữa, khi đi trong đêm có được ngọn đèn sáng, ắt không bị người khác nghi ngờ là kẻ gian tà. Cho nên, kẻ dùng đèn đuốc mang ánh sáng cứu giúp người khác chắc chắn sẽ được phước báo thường hành động quang minh chính đại.
Lại nữa, khi đi trong đêm có được ngọn đèn sáng, ắt không bị vấp ngã gây thương tích. Cho nên, kẻ dùng đèn đuốc mang ánh sáng cứu giúp người khác chắc chắn sẽ được phước báo thường không bệnh khổ, thân thể tráng kiện, khỏe mạnh.
Lại nữa, khi đi trong đêm có được ngọn đèn sáng, ắt không bị mối nguy rơi xuống mương rãnh, khe suối, hố hầm, giếng nước… Cho nên, kẻ dùng đèn đuốc mang ánh sáng cứu giúp người khác chắc chắn sẽ được phước báo tuổi thọ dài lâu.
Đêm tối giúp người đi đường có đèn soi sáng, ắt sẽ được nhiều điều lợi lạc như trên, đâu thể nói rằng đó chỉ đơn thuần là soi đường cho người đi thôi sao?
Người đời si mê, sinh ra vốn chẳng biết mình từ đâu đến, chết đi cũng thật chẳng biết sẽ về đâu. Trong khoảnh khắc đã nhập vào một bào thai, lại trong khoảnh khắc đã ra khỏi một bào thai. Hết thảy đều là lưu chuyển xoay vòng trong chỗ tối tăm mù mịt, ai là người có được ngọn đèn sáng để soi chiếu đường đi?
Đức Phật có dạy rằng:
Dục tri tiền thế nhân,
Kim sinh thọ giả thị;
Dục tri hậu thế quả,
Kim sinh tác giả thị.
Tạm dịch:
Muốn biết nhân đời trước,
Hãy xem quả ngày nay.
Muốn biết quả đời sau,
Hãy xem nhân đời này.
Nếu theo đúng lời dạy này mà suy xét quán chiếu, thì tự nhiên đời trước, đời sau thảy đều sáng rõ như có được một ngọn đèn soi chiếu. Người tu hành theo Mười điều lành, theo đây soi chiếu sẽ thấy rõ chắc chắn được sinh lên cõi trời. Người thọ trì Năm giới, theo đây soi chiếu sẽ thấy rõ chắc chắn được sinh trong cõi người. Người đã quy y Ba ngôi báu, theo đây soi chiếu sẽ thấy rõ chắc chắn không còn rơi vào Ba đường dữ. Quán chiếu như thế chính là đã có được ngọn đèn trí tuệ.
Trích An Sĩ Toàn Thư – Khuyên Người Tin Sâu Nhân Quả
Nguyên tác Hán văn: Âm Chất Văn Quảng Nghĩa
Tác Giả: Chu An Sĩ
Việt dịch và chú giải: Nguyễn Minh Tiến
Mình kiếm trên web thấy có 2 3 bài giảng của bs bành tân thôi .
Các bạn có biết ở đâu có nhiều bài giảng của bs bành k? Thnks
Apple len Youtube search nhen: bs bành tân
https://www.youtube.com/results?search_query=bs+b%C3%A0nh+t%C3%A2n+
Mình có lên youtube kiếm rồi cũng chỉ có 3 bài giảng thôi. Toàn là đăng giống nhau không à
A DI ĐÀ PHẬT
Apple tuy duyên nhen bs giảng nhiều nhưng có thể chưa có ai chuyền Ngữ.
đây có 4 bài giảng của bs.
http://www.tinhkhongphapngu.net/video/Bac-Si-Banh-Tan
YouTube các bài giảng bằng tiếng hoa của BS: https://www.youtube.com/watch?v=kaC5SCPsqpg&index=1&list=PLAeF261RAYdy1g4VyWAj1PP1jMNCgsTYU
A DI ĐÀ PHẬT
Cảm ơn bạn nhe. Thì ra bs giảng nhìu quá mà k có ai dịch lại . Tiec qua
Bố tôi kể lại rằng, quê tôi thời đế quốc Pháp đô hộ, vỡ đê sông Hồng liên tiếp 18 năm. Nhà cửa ngập lụt, mùa màng mất trắng, nhiều người phải lên mặt đê dựng tạm lều bằng rơm, rạ để sống, thậm chí phải trồng khoai, rau trên mặt đê để kiếm cái ăn. Mọi người đói khổ, lầm than.
Lúc ấy, trong làng có một nhà rất giàu còn giữ được rất nhiều lúa gạo. Ngày ngày họ lên đê nấu nồi cháo thật to, có khi nấu cơm rồi nắm thành nắm to bằng hai quả Cau rồi sai người mang dọc bờ đê phát chẩn cho mọi người để cứu đói. Có hôm chính ông nhà giàu cùng con trai mang quần áo phát cho những em bé ăn mặc rách dưới. Mọi người quê tôi lúc bấy giờ thường gọi ông là ông ” Phát Chẩn”
Năm 1945 , dân ta cướp được chính quền, quê tôi thấy ông là người có tâm nên bầu ông làm Chủ Tịch lâm thời, còn con trai ông làm dân quân.
Mùa xuân năm 1947, giặc Pháp từ Hà Nội tràn về quê tôi đóng bốt. Dân làng đi tản cư, ông” Phát Chẩn” cùng con trai ở lại đánh giặc cùng đội du kích.
Một hôm, giặc Pháp và lính bảo an ( lính dõng) đi càn quét, chúng vây bắt được ông, mấy tên trong đội lính bảo an nhận ra ông là ” Chủ Tịch lâm thời” và chỉ huy du kích.
Trên đường chở về bốt , toán giặc bị du kích làng bên bắn tỉa, chặn đánh. Lính Pháp và bọn tay sai phải chạy dạt vào ven đường nấp vào các bụi dứa dại. Ông ” Phát Chẩn” bị một tên lính bảo an đẩy vào bụi rậm, đang lo lắng không biết hắn định làm gì mình, thì ông bất ngờ thấy hắn cởi trói cho ông, vừa cởi hắn vừa rỉ tai nói nhỏ:
– Khi im tiếng súng , bọn Tây và chúng tôi sẽ lên caminhông về đồn thì ông cứ nằm yên ở đây rồi tìm cách trốn thoát nhé !
Người lính đó còn nói thêm :
– Tôi không bao giờ quên ơn ông , khi gia đình tôi sắp chết đói đã được ông cứu giúp… Ông ” Phát Chẩn” ạ !
Trích “Nhân Quả Tập Truyện” của Thiếu Tướng, Tiến Sĩ Nguyễn Chu Phác