Nay chúng ta bắt đầu học Phật, những điều gây chướng ngại cho chúng ta rất nhiều. Chúng ta muốn đến đây nghe kinh, nhưng bạn thân của quý vị gọi điện thoại hẹn sẵn, khiến cơ hội của quý vị bị phá hoại. Đó là gì? Ma chướng đạo. Kẻ ấy do lòng tốt mời quý vị đi chơi, tức là ma ở ngay trong cuộc sống hằng ngày, ở quanh ta. Hôm nay quý vị muốn định tâm, muốn niệm Phật, tính lạy Phật thì có người đến tìm quý vị, quý vị biết đó là ma đến quấy nhiễu. Khi ấy quý vị tùy thuận giáo huấn của Phật, Bồ Tát, hay tùy thuận ý nghĩ của ma đi theo họ? Lúc ấy do chính quý vị chọn lựa. Chọn lựa đạo nghiệp thì trong tương lai quý vị có thành tựu. Quý vị chọn lựa thù tạc, đi theo ma, đạo nghiệp sẽ bị hủy mất. Từ sơ phát tâm cho đến khi thành Phật, Phật luôn giúp chúng ta, ma cũng luôn nhiễu loạn chúng ta, năm mươi, năm mươi! Mấu chốt thành bại chẳng tại Phật, cũng chẳng do ma, mà do chính mình quyết định. Nếu chính mình có thể kiên trì, một phương hướng, một mục tiêu, chẳng có ai không thành tựu. Nếu phương hướng của quý vị quá nhiều, mục tiêu quá nhiều, chắc chắn quý vị chẳng thể thành tựu. Không thể thành tựu thì chắc chắn vẫn luân hồi trong lục đạo. Phải thấy rõ luân hồi trong lục đạo rất khổ, khổ chẳng thể nói nổi. Thật sự hiểu rõ, thật sự minh bạch, chẳng còn muốn luân hồi nữa. Thời gian trong lục đạo rất dài, đời đời kiếp kiếp trong quá khứ đã chịu lắm nỗi khổ sở oan uổng dường ấy. Bao nhiêu đồng tham đạo hữu đều đã thành Bồ Tát, thành Phật, nhưng chúng ta vẫn luân hồi trong lục đạo, chính mình phải gánh lấy trách nhiệm ấy.
Tôi không cảm thấy giận, quý vị như thế nào, dùng phương pháp gì đối với tôi, tôi đều không giận. Tôi rất có tánh cảnh giác không dễ bị mắc lừa, nổi nóng là tự mình thiệt thòi. Trong Phật pháp nói: “Một ngọn lửa sân đốt thiêu cả rừng công đức”. Lửa là gì? Khi nổi giận sẽ đốt cháy cả rừng công đức. Ma vương đáng sợ như thế nào cũng không đốt cháy được công đức của mình, họ liền nghĩ cách khiến ta nổi giận, nổi giận sẽ đốt cháy chính mình. Quý vị xem không ai có thể đốt cháy được, nếu như vĩnh viễn không nổi giận, công đức đó tích lũy không thể tưởng tượng được! Một niệm sân hận liền đốt cháy tất cả công đức, quý vị nói đáng sợ biết bao! Gặp chuyện không thể nhẫn, lập tức cảnh giác rằng yêu ma quỷ quái muốn đốt cháy rừng công đức của mình, tôi không bị mắc lừa đâu.
Trích từ lớp học Kinh Vô Lượng Thọ Khoa Chú
Tại Tịnh Tông Học Viện Úc Châu 2014
Báo cáo tâm đắc của học sinh lớp Vô Lượng Thọ Kinh Khoa Chú
Thích Tự Liễu soạn
Hòa thượng Tịnh Không giám định
Bích Ngọc chuyển ngữ
Như Hòa giảo duyệt
Nam mô A Di Đà Phật
Cảm ơn Đường Về cõi Tịnh đã chia sẻ
Xin chia sẻ với các liên hữu một số trang/ nhóm có ích mà người học Phật chúng ta nên thường lui tới thay vì cứ lướt face vô bổ. Nếu thấy thiếu xót hoan hỷ bổ sung thêm dưới phần bình luận.
Hãy chia sẻ vì lợi ích của đại chúng _()_
******★**********★**********★*********
★ TRANG WEB CHÙA HOẰNG PHÁP – ngoài xem thông tin Phật sự, quý vị có thể nhấn vào mục PHÁP ÂM để nghe/ tải các kinh sách/ bài giảng của các khóa tu đã diễn ra tại chùa.
http://www.chuahoangphap.com.vn/
★ YOUTUBE CHÙA HOẰNG PHÁP:
Danh sách phát tổng hợp các bài giảng của thầy Thích Chân Tính.
Các video của thầy Thích Chân Tính do chùa Hoằng Pháp Quay dựng và phát hành VCD, DVD.
https://www.youtube.com/channel/UCZSax5QkdSLpkQkqW0q3A7g
★ CÁCH ĐĂNG KÝ/ LỊCH TỔ CHỨC CÁC KHÓA TU TẠI CHÙA HOẰNG PHÁP NĂM 2017
https://www.facebook.com/www.hoangphap/photos/pcb.1288538294560320/1288537484560401/?type=3&theater
******★**********★**********★*********
★ ĐƯỜNG VỀ CÕI TỊNH – đối với người học Phật hiện đang tu tập theo Pháp môn Tịnh độ cầu sinh Cực lạc thì đây là một trang web không nên bỏ qua. Mọi sự thắc mắc về việc tu học/ đời sống nhân quả quý vị có thể để lại Phúc đáp dưới mỗi bài, sẽ có những vị Thầy/ Phật tử có kiến thức tốt về Phật pháp giải đáp, giúp đỡ.
http://www.duongvecoitinh.com/
★THỌ KHANG BẢO GIÁM CONFFESION – Trang là lời tâm sự của nhiều người bàn về những nỗi thống khổ họ đang/ đã trải qua khi rơi vào nghiệp thủ dâm/ tà dâm.
https://www.facebook.com/thokhangbaogiam/?ref=ts&fref=ts
★ LUÂN HỒI VÀ NHÂN QUẢ – Trang chia sẻ những mẫu chuyện về nhân quả/ thiện ác nhằm răn đe người đời sống lành mạnh, bỏ ác làm lành.
https://www.facebook.com/groups/565482133571947/
★ ĐẠO TRÀNG NIỆM PHẬT ONLINE – Nên biết rằng người đã mất dù bao lâu, dù rơi vào cảnh giới nào khi người thân gia quyến niệm Phật, làm lành hồi hướng công đức, nhớ nghĩ đến họ, thì ít nhiều họ đều nhận được mà thoát khổ. Đây chính là lý do trang web này được lập, nhờ vào sức niệm Phật , công đức của đông đảo đại chúng mà vong linh của người mất được nhiều lợi lạc.
https://www.facebook.com/groups/1428061327489564/?fref=ts
★ÂM LUẬT VÔ TÌNH – Trang là lời tự thuật lại của A Ngọc tiên sinh bàn về việc tham quan địa ngục được tận mắt thấy tai nghe những sự hành hình ghê sợ, cũng như lời răn dạy của Phán quan âm phủ nhằm căn dặn người đời xa rời tà dâm.
https://www.facebook.com/am.luat.vo.tinh/?fref=ts
https://www.facebook.com/amluatvotinhsachquy/?fref=ts
★ THƯ VIỆN HOA SEN – Trang là kho tàng kiến thức về đạo Phật từ Kinh, Luật, Thiền tới Tịnh Độ,… trang rất hữu ích cho những vị muốn trao dồi kiến thức Phật học.
https://thuvienhoasen.org/
********★***********★*********★******
MỘT SỐ TRANG/ NHÓM PHẬT PHÁP HIỆN CÓ NHIỀU VỊ ĐANG THEO DÕI KHÁC:
★CHƠN NHƯ VÔ LƯỢNG
https://www.facebook.com/groups/chantamthanhtinh/
★NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ LUẬT NHÂN QUẢ
https://www.facebook.com/groups/luatnhanqua/
★NHÂN QUẢ – LUÂN HỒI – NGHIỆP BÁO
https://www.facebook.com/Nh%C3%A2n-Qu%E1%BA%A3-_-Lu%C3%A2n-H%E1%BB%93i-_-Nghi%E1%BB%87p-B%C3%A1o-521218541321293/
★XIN HƯỚNG VỀ ĐẠO PHẬT
https://www.facebook.com/groups/1159116377492775/
********★***********★*********★*******
FACEBOOK NHỮNG VỊ THƯỜNG CHIA SẺ NHỮNG BÀI VIẾT HAY
★Quang tử – admin nhóm LUÂN HỒI VÀ NHÂN QUẢ
https://www.facebook.com/profile.php?id=100008080300195
★Hương Thi Tran
https://www.facebook.com/vosotru?fref=ts
Sự Thật Về Cuốn Sách “Cực Lạc Du Lãm Ký”
Từ xưa đến nay, hễ có nam nữ thì có sự tranh quyền, tạo thành rất nhiều phiền não.Thế giới Tây Phương tốt, vì không phân nam nữ nên sự việc này đã ổn rồi. Cho nên, “Thế giới Tây Phương Cực Lạc là nước không có phụ nữ”, các vị phải cố gắng ghi nhớ câu nói này. Vì sao tôi phải nêu ra câu nói này?Đại khái vào hơn mười năm trước, khi tôi giảng Kinh ở HongKong, Pháp sư Thường Hoài mang ra một quyển sách đưa cho tôi xem. Quyển sách này nói về du ký của Thế giới Cực Lạc, do một vị pháp sư viết. Ông nói vị Pháp sư này đã từng đến du lãm qua Thế giới Cực Lạc, nhưng ông lại quay lại. Trong đó thấy được tình hình của Thế giới Tây Phương Cực Lạc, người nữ của Thế giới Cực Lạc cũng rất nhiều.
Pháp sư Thường Hoài mang ra cho tôi xem, ông ấy nói: “Pháp sư! Ông thấy việc này có đáng tin hay không đáng tin?” Tôi nói: “Việc này không đáng tin!”. Vì sao vậy? Trong 48 nguyện nói được rất rõ ràng: “Ngã tác Phật thời, quốc vô phụ nữ”, nếu Thế giới Cực Lạc có một phụ nữ, vậy thì A Di Đà Phật không thể thành Phật. Sau cùng Ngài nói “nhược bất nhĩ giả, bất thủ chánh giác”, Thế giới Tây Phương Cực Lạc còn có người nữ, A Di Đà Phật không thể thành Phật. A Di Đà Phật thành Phật đến nay đã mười kiếp, Ngài mỗi một nguyện đều đã thực hiện. Cho nên, nếu có người nói từ Thế giới Tây Phương Cực Lạc trở lại, xem thấy Thế giới Tây Phương Cực Lạc có vô số trang nghiêm, nhưng tình hình đó không tương ưng với 48 nguyện, không giống với trên Kinh đã nói, thì chúng ta chắc chắn không thể tin họ.
Thế nhưng, người hiện tại rất kỳ lạ, họ tin người, không tin Phật; tin giả, không tin thật. Bạn nói xem vậy thì còn cách nào? Họ cứ tin vào điều đó, đem người đó xem thành Phật sống, đem Kinh điển mà Thế Tôn đã nói bỏ qua một bên, xem quyển sách du ký đó của họ, số lượng vượt qua Tịnh Độ ba Kinh, bạn nói xem, vậy thành ra thứ gì? Loại người này làm sao có thể thành tựu? Thế nhưng, người trong xã hội hiện đại ưa thích, tin tưởng, những người này thì thật rất nhiều, rất đông, cho nên chánh pháp suy yếu, tà thuyết lộng hành.Đây cũng là nguyên nhân khiến thế gian gặp phải kiếp nạn.
Trích: Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 145)
Kính thưa các thầy, các thiện tri thức và các bạn.
Con có chút băn khoăn kính mong mọi người khai thị giúp con ạ.
Sau khi nghe 1/3 số giờ giảng Kinh Địa tạng do Pháp sư Tịnh không giảng, con phát tâm niệm phật. Đến nay, đã thực hiện được khoảng 6 tháng. Nhưng con có 1 băn khoăn là: sau khi uống rượu con niệm phật thì có nên không ạ, có lỗi gì không ạ. Vì nhiều lúc do tính chất công việc (cũng có khi vì ma chướng) con không thể từ chối những việc như vậy được
A DI ĐÀ PHẬT
Gửi Bạn Cong,
*Trong bạn đang có giằng xé giữa hai con đường tu hay chẳng tu. Tu sẽ mất đi chuyện này, không tu sẽ được chuyện kia. Sự giằng xé này nếu bạn không biết chấn chỉnh ngay thì sự tu học của bạn sẽ không mang lại lợi ích như bạn mong nguyện.
*Trong 5 giới của người tu tại gia có giới Phật khuyên: Không nên uống rượu và các chất kích thích (ma tuý). Hai chữ “không nên” này giống như một lời khuyến tấn người tu đạo, bởi hệ quả của việc uống rượu ra sao hẳn bạn cũng rõ. Do vậy, trong cuộc sống, nếu bạn vì xã giao, tiếp tân, khao đãi… bạn vẫn có thể dùng rượu, nhưng nên tự chế bản thân sao cho chừng mực để không phạm giới (nếu bạn đã thọ giới). Kế đến sau khi uống rượu rồi thì không nên niệm Phật, tụng kinh hay trì chú, bởi lúc đó thân tâm không thanh tịnh, nếu cưỡng cầu sẽ gặp ma chướng. Vì vậy nên nghỉ ngơi cho thanh tịnh rồi lúc khác niệm Phật cũng không sao. Trong trường hợp vì công việc mà phải uống rượu, bia, lúc đó bạn hãy khởi ngay tâm mà niệm Phật, bởi khi tiếng niệm Phật vang lên trong tâm, nó sẽ giúp bạn tỉnh thức để kìm khắc cái tâm thích ăn nhậu của mình. Điều này khác với việc uống rồi, về nhà cảm thấy hối lỗi nên ngồi niệm Phật .
*Tu đạo là chuyện cả đời, không phải nhất thời vì thế bạn không nên cưỡng chế mình tu trong khi không tỉnh táo. Bạn đã nghe kinh Địa Tạng hẳn bạn hiểu được những nghiệp nhân quả báo ác hại ra sao. Mong là bạn dũng cảm dấn xa hơn trên con đường học và tu đạo để cuộc sống mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn.
TN
Xin chân thành cám ơn ý kiến góp ý của đạo hữu Thiện Nhân. Con năm nay 37 tuổi, con băn khoăn và rất lo mình sẽ vướng vào cái mà Ấn Quang Đại sư có nói đó là “đời không ra đời mà đạo không ra đạo”. Như vậy thì thật là uổng vì có biết đến tịnh độ và không biết khéo để tu.
Con sợ bị quên mất tâm niệm phật nên hàng ngày đều vào trang http://www.duongvecoitinh.com/ để đọc. Đôi lúc vài ngày không thấy có bài mới là cũng thấy thiếu thiếu cái gì đó. Mặc dù vẫn có những tài liệu khác để xem, tuy nhiên xin chúc Ban quản trị trang web và tất cả các đạo hữu luôn khỏe mạnh, tinh tấn. Mong rằng Ban quản trị trang web thường có các bài pháp mới để mọi người cùng học hỏi, tinh tấn thêm.
Nam Mô A Di Đà Phật
Quan lớn họ Đặng
Có một quan lớn họ Đặng muốn ra ứng cử Bộ trưởng. Còn có ba người nữa (họ Triệu, Trần, Lương) cùng tranh chức này…
Ông Đặng hỏi tôi:
– Ta có thể đắc cử Bộ trưởng chăng?
Tôi đáp:
– Có thể!
Được khoảng nửa năm, vị đắc cử chức Bộ trưởng không phải họ Đặng, mà là họ Trần, ông Đặng nổi giận, tìm đến chất vấn tôi, trách vì sao ban sơ nói là ông có thể làm Bộ trưởng nhưng tại sao nay lại không đúng?
– Anh bói toán kiểu gì thế? Căn bản là có linh hay không hả? Chẳng phải là đang lừa người hay sao? Anh giải thích xem? Ông họ Đặng cáu kỉnh nói.
Tôi đỏ mặt tía tai, không đáp được lời nào.
Ông Đặng lại hỏi:
– Chẳng phải anh từng tiên đoán là tôi… “được” hay sao? Thế này là thế nào?
Tôi đánh đáp:
– Thực sự là lúc trước tôi nghe “Thần Phúc Lộc” xác nhận vậy, ông ta bảo sao thì tôi truyền đạt y như thế!…
– “Thần Phúc Lộc” ư? Vậy “Thần Phúc Lộc” ở đâu?
– “Thần Phúc Lộc” là vô hình! Ông chuyên coi về phúc lộc của con người! Tôi thấy và giao tiếp được, nhưng ông thì không thể…
– Đúng là nói bá xàm bá láp!
Ông Đặng vừa miệt thị vừa lộ vẻ bất mãn cực độ.
Ngay lúc tôi bị người chất vấn mắng như thế, bạn có thể tưởng tượng ra “thảm cảnh” này: Khi đó tôi cực kỳ lúng túng, hoàn toàn mất tinh thần, chỉ biết im lặng ngó lên không, kêu trời một mình…
Nhưng bỗng một luồng sáng chiếu vào mắt tôi, “Thần Phúc Lộc” đã xuất hiện, ông nhìn tôi mỉm cười dịu dàng, viết ra một chữ “DÂM”. Cuối chữ dâm còn ghi ngày, tháng phạm lỗi rất rõ…
Tôi liền bảo họ Đặng:
– Thất cử là do ông phạm giới dâm!
Ông Đặng đáp:
– Không có!
-Đúng ngày… tháng… đó mả!
Ông Đặng quả quyết:
– Không có thực mà!
Tôi ngẩn người, rõ ràng “Thần Phúc Lộc” đã viết chữ “DÂM” còn ghi rõ mồn một ngày, tháng phạm lỗi, chỉ thị hết sức rõ ràng, sao lại không có được? Tôi chẳng tin, bèn bảo:
– Ông nghĩ kỹ lại xem!?
Ông Đặng ngẫm nghĩ, bấm tay tính toán ngày tháng một hồi, cuối cùng vẫn đáp:
– Không có mà!
Lúc này Thần Phúc Lộc bèn giải thích cho tôi hiểu: “Đặng đúng vào ngày tháng đó, đã nhìn trộm cô láng giềng tắm”…
Tôi nghe Thần Phúc Lộc kể tội “rình xem khuê nữ tắm”, trong bụng mắc cười quá mà không dám cười. Tôi bảo Đặng:
– Chẳng phải lỗi tư thông, hành lạc… mà là nhìn trộm… cô láng giềng tắm!
Ông Đặng vừa nghe, ngây người một lúc, không nói năng gì, sau đó xẻn lẻn cúi đầu bỏ đi!
Theo tôi được biết, tình huống ông Đặng phạm lỗi là thế này: “Đúng ra là ông Đặng đáng được làm Bộ trưởng, nhưng khoảng mấy tháng trước, có một cô gái dời đến ở cạnh nhà ông Đặng. Cô này trông rất xinh đẹp, cao ráo mỹ miều, ông Đặng thấy vậy để ý, dòm hoài. Nhà ông Đặng có cửa sổ đối diện với nhà tắm của cô gái. Ngày, tháng, đó… cô láng giềng vào nhà tắm, quên kéo rèm che cửa sổ nên bị ông Đặng thấy được… ông bèn đi lấy ống nhòm, cầm lên ngắm cô từ đầu tới chân, từ chân tới đầu… lòng cực kỳ hưng phấn, miệng cứ hít hà suýt soa, luôn lẩm bẩm, ước ao: Giá như mà được cùng em này qua đêm một lần thì đúng là không uổng phí cuộc đời!
Khi đó ông Đặng mắt nhìn, tâm tưởng, lòng khởi đầy niệm tà…
Thần Phúc Lộc nói: Mặc dù ông Đặng chưa có hành vi cấu thành tội với cô láng giềng, nhưng lỡ như thấy cổ tắm, là người đàng hoàng thì phải lo mà tránh đi. Đằng này chẳng những ông Đặng không tránh mà còn cầm viễn vọng kính lên nhìn, săm soi tỉ mỉ từ đầu tới chân, không những mắt động, tâm động, mà ý dâm phát khởi mạnh… tuy không dẫn đến hành vi tư thông cùng người nhưng cũng bị xem như phạm giới dâm! Vì vậy mà bị mất lộc vị! Hãy nhắn ông ta: cần phải tô bồi đức hạnh, tu sửa khoảng sáu năm nữa, mới có thể ra làm Bộ trưởng…
Ngài Trung tướng
Lần nọ, Trung tướng Lữ Cố đến tìm tôi, nói:
– Liên Sư phụ, nghe thầy tiên đoán rất tài, nên hôm nay tôi đến thỉnh ý… Tôi nhớ hồi đó, cha mẹ tôi có đi hỏi Diệp sư phụ (cũng là vua thần toán, nổi danh tiên tri không hề sai), nhờ xem vận mệnh cho tôi.
Ông Diệp nói tôi 18 tuổi đậu thủ khoa toàn quốc, sau đó đi lính được tuyển vào Viện Nghiên cứu, 27 tuổi thì lấy bằng tiến sĩ rồi đi Mỹ ba năm, lấy thêm được cái bằng tiến sĩ khác nữa. Đến 53 tuổi thì tôi thăng quan, làm Thượng tướng.
Lữ Cố kể thêm:
– Vị họ Diệp này, không như các thầy khác, ai muốn ông bói vận mệnh cho, phải trả giá rất cao, lại còn phải xếp hàng, hẹn trước, nếu tùy tiện đến đại thì ông không thèm xem đâu! Mà người nào mệnh nhỏ ông cũng không xem! Ông Diệp coi cho tôi vô cùng chuẩn xác! Đúng là năm 18 tôi chiếm giải thủ khoa toàn quốc, còn như đoán năm 27 tôi lấy bằng tiến sĩ, thì bị sai một chút, (vì phải hai năm sau, tới 29 tuổi tôi mới lấy bằng tiến sĩ). Còn vụ tiên tri tôi qua Mỹ ba năm, lấy bằng tiến sĩ khác nữa thì đúng chóc! Nhưng ông ta nói tôi 53 tuổi thăng quan làm Thượng tướng, lại bị sai! Vì hiện nay tôi đã 56 tuổi mà vẫn còn làm Trung tướng, chưa chạm đến chức Thượng tướng được. Vậy nên, tôi muốn nhờ Liên sư phụ xem giùm, vì lý do nào mà tôi chưa thăng lên Thượng tướng?
Tôi dùng phương thức bói quẻ xem cho Lữ Cố. Tôi bắt ấn và niệm chú xong thì Thần Phúc Lộc như vì sao nhỏ hiện ra, lớn dần và tỏa hào quang sáng chói… Tôi liền hỏi số mệnh cả đời ông Lữ. Thần Phúc Lộc đáp y chang như thầy Diệp đã đoán.
Tôi thắc mắc:
– Nhưng vì sao ông Lữ lấy bằng tiến sĩ bị chậm mất hai năm?
Thần Phúc Lộc giải thích:
– Lẽ ra ông Lữ có thể lấy bằng đúng như tiên đoán, nhưng hồi tuổi trẻ đó, ông ta sau một chầu nhậu thì cùng bạn bè dẫn nhau đến kỹ viện mua vui, nghe bạn bè đốc xúi, ông cũng muốn chứng tỏ mình là tay dũng cảm, chịu chơi, nên đã ngủ với gái thanh lâu. Vì lỗi này mà công danh bị chậm lại hai năm!
Tôi hỏi:
– Vì sao như thế?
Thần Phúc Lộc nói:
– “Đừng đến gặp kỹ nữ thanh lâu, đừng tựa cổng giai nhân bán sắc”. Phải biết quân tử luôn yêu quý thân mình, luôn gìn giữ đức hạnh mình sáng trong như ngọc nên rất sợ, rất kỵ mấy cái chuyện bậy bạ này! Ông Lữ do không hiểu biết, nên cam đọa lạc, tự làm cho phẩm hạnh mình bị tỳ vết, khiến đời bị nhiễm ô. Bởi cách sống sai lầm nên ông bị phá tài hại thân, tinh dục sa đà không những gây nhiễm bệnh lậu, mà còn chiêu họa lớn…
Thần Phúc Lộc còn giải thích thêm:
– Lấy bằng chậm hai năm, chỉ là trừng phạt nhỏ. Bị nhiễm bệnh độc ắt phải chết. Lãnh bằng tiến sĩ rồi tiến sĩ nữa… nhưng sau này sẽ thành tiến… tử!
Tôi thụt lưỡi hết nói năng. Lại hỏi Thần Phúc Lộc:
– Lữ Cố đúng ra 53 tuổi thăng làm Thượng tướng, nhưng vì sao đến giờ đã 56 tuỗi, vẫn còn làm Trung tướng, ông ta chưa được thăng quan là do đâu?
Thần Phúc Lộc im lặng viết ra hai chữ: MẠC THƯ.
Tôi ngơ ngác hỏi:
– Mạc Thư? – Là ý gì vậy?
Thần Phúc Lộc đáp:
– Là tên người!
– Người này có liên hệ với ông Lữ ư?
-Tất nhiên!
Thần Phúc Lộc nói:
– Số mệnh Lữ Cố vốn rất tốt, ông là bậc kỳ tài trong thế gian, văn võ kiêm ưu. Nhưng đáng tiếc thời trai trẻ phạm lỗi ngủ với kỹ nữ đã khiến công danh bị chậm lại hai năm, đây chỉ là trừng phạt nhỏ thôi! Sau thời trung niên, ông lại không biết hối lỗi sửa đổi, lại khởi tâm tả, ưa nam sắc: sinh tâm đồng tính luyến ái cùng một nam nhân tên Mạc Thư. Người này tuấn tú tài hoa, khôi ngô phong nhã, là thuộc hạ dưới quyền ông! Lữ Cố ở chung với Mạc Thư tính đến nay đã tám năm. Phạm lỗi này, hắn còn giữ được chức quan Trung tướng là may lắm rồi, há có thể mơ làm Thượng tướng được ư? Hắn chỉ biết ham cầu lộc vị cho mình, hoàn toàn chẳng hiểu rõ nghiệt chướng mình đang tạo! Phải biết là người có phúc nhiều mà phạm dâm tà thì bị giảm quyền, lộc, còn người phúc ít không có lộc, quyền để sạt thì bị giảm thọ…
Tôi hỏi:
– Thế… tương lai Lữ Cố ra sao?
Sẽ ứng vào con cháu hắn!
– Như vậy nghĩa là sao?
– Bị tuyệt tự, chết yểu! – Thần Phúc Lộc đáp.
– Nhưng ai làm nấy chịu, vì sao con cháu phải gánh?
– Đây là đồng nghiệp chiêu cảm. Cha tích phúc cũng bồi thêm cho mình và con mà!
Tôi nghe xong rất kinh hãi.
Trước tiên tôi chỉ kể cho Lữ Cố nghe lý do vì sao ông lấy bằng bị chậm hai năm.
Lữ Cố nói:
– Có việc này. Hồi trẻ chơi với bạn bè, bị họ rủ rê, nên cùng đi mua vui. Không ngờ bị chiêu hậu quả xấu như vậy, đúng là ngoài sức tưởng!
Tôi lại giải thích vì sao ông không thể làm Thượng tướng. Tôi viết lý do bằng hai chữ “Mạc Thư”, ông vừa xem qua, liền cúi đầu im lặng, không nói gì.
Tôi hỏi:
– Có việc này chăng?
Ông gật đầu đáp:
-Có!
Rồi Lữ Cố đứng dậy bảo tôi:
– Liên Sinh, ông quả là vua tiên tri, đoán việc như thần! Cuối cùng thì tôi cũng minh bạch, số mệnh con người tuy được định sẵn, nhưng có thể biến đổi! Biến tới đổi lui, tất cả đều do tâm tạo ra thôi!
– Nói rất hay! Hy vọng ông tự hiểu, từ nay lo sửa mình cho tốt để tránh không bị quả báo xấu!
Lúc Lữ Cố đi, tôi đưa ông một tờ giấy ghi mấy câu nhắc nhở:
Phu thê nam nữ ở chung
Đó là đúng lẽ – chẳng dung sai lầm! –
Hạnh tà chiêu hại sâu thâm…
Ta người đều tổn, mất luôn lộc quyền
Tử tôn bị tuyệt – đã phiền
Tiền tài táng thất, muôn niên khổ sầu
Dừng chân tỉnh giác mau mau
Tránh cho con trẻ lâm vào nạn tai
Làm người nên sống thẳng ngay
Báo ứng nhân quả không sai, rõ ràng!
Sau đó không bao lâu thì đứa con trai duy nhất của Lữ Cố bị xe tông chết. Phần ông cũng bị thảm nạn, đúng là tuyệt tự như đã đoán!
Giám đốc Viên Mậu
Viên Mậu là giám đốc một xưởng kim loại, hồi xưa khi ông đến hỏi số mệnh, Thần Phúc Lộc đáp:
– Mười lăm năm sau ông sẽ thành đại phú thương.
Kết quả, hơn mười năm sau, Viên Mậu làm ăn thua lỗ phải đóng cửa, do vay vốn quá nhiều, nợ nần chồng chất, ông phải bôn đào ra nước ngoài trốn nợ. Từ đó lưu vong sống tha hương, chẳng thể trở về nước.
Viên Mậu ở ngoại quốc rất gian khổ, ông buôn bán nhỏ, thu nhập rất ít, phải xin làm thợ xây dựng, vốn từng là giám đốc hãng xưởng, nay phải bò lên tuột xuống trên mái nhà người, do không giỏi tay nghề, nên bị đuổi việc.
Viên Mậu bèn xin làm công trong nhà bếp, sống tạm qua ngày.
Sau đó Viên Mậu hay tin tôi đã định cư nơi hải ngoại, bèn đi theo xe hàng đến tìm tôi. Ông ở trên xe hàng lắc lư suốt ba ngày hai đêm mới tới chỗ tôi.
Buổi sáng gặp ông, tôi giật nẩy mình. Viên Mậu ngày xưa, vận âu phục sang trọng, đầu chải láng mướt, ra khỏi nhà ngồi xe hơi sáng bóng, có tài xế cùng bí thư theo hộ tống… Nhưng Viên Mậu bây giờ, đầu muối tiêu, mặt đầy nếp nhăn, dầu dãi phong trần, lếch thếch lôi thôi, dáng khắc khổ, bộ dạng chán chường thất chí, thiểu não đến tội nghiệp…
Tôi mời ông vào nhà, rót trà mời, đãi điểm tâm, ngó bộ ông chưa ăn gì.
Viên Mậu hỏi:
– Ông nói tôi 15 năm sau sẽ làm đại phú gia, là thời điểm này phải không?
– Thế đến giờ đã bao nhiêu năm rồi?
Viên Mậu đáp:
-Vừa tròn 15 lăm nè!
Rồi ông chỉ trích thêm:
– Rõ ràng là nói không đúng, đoán chẳng linh gì ráo!…
-Tôi… (cứng họng, nói chẳng thành lời).
Mặt Viên Mậu lộ vẻ uất ức khó chịu, hỏi:
– Tại sao bói không đúng, nói không linh như vậy hả?
-Đó là…
Viên Mậu kể lể:
– Hồi xưa, thuở tôi còn làm giám đốc huy hoàng, cũng từng mời ông đến hãng tôi xem phong thủy, thiết kế, chỉnh sửa mọi chỗ tốt y như ông dạy… cũng từng nhờ ông xem số cho, ông đã khẳng định là 15 năm sau tôi nhất định đại phát tài, đạt đến thành công tuyệt đỉnh, ở mức tối cao trong cuộc đời. Đến bây giờ là đúng 15 năm, chẳng thấy gì ráo, ngược lại còn thê thảm hơn! Ông trả lời sao đây hả??
-Tôi… (toát mồ hôi đầy mình)…
Viên Mậu nói:
– Hiện giờ tôi cùng đường rồi, ông bảo tôi phải làm sao đây?
Để tôi xem lại cho ông thử nha?…
– Đoán, xem, nữa hả?… Có xem ra cái quái gì đâu? – Viên Mậu bốc hỏa nói.
Tôi nhắm mắt lại… đột nhiên nhìn thấy Thần Phúc Lộc, mỗi tay dắt một đứa nhỏ…
Tôi hỏi: Đứa nhỏ này là ai?
Thần Phúc Lộc đáp:
– Là con Viên Mậu hết đấy!
– A! Tôi hiểu rồi, Viên Mậu suốt hơn mười năm nay, sát sinh, phá thai… cho nên mới có hai vong nhi này.
Thế là tôi la lên:
– Viên Mậu, ông phạm tội sát sinh, người tình của ông phá hai đứa trẻ…
Viên Mậu đáp:
– Đúng vậy! Nhưng tội phá thai có nặng đến như vậy không hả?
Thần Phúc Lộc lại hiển thị, lắc đầu nhìn tôi, ông đưa tay chỉ lên hư không, trên không hiện ra một am thất, có một nữ tu xinh đẹp yêu kiều bước ra, tay dắt hai đứa bé…
Ngay đó tôi hoảng kinh (vì hiểu hết nguyên nhân)…
Tôi nói:
– Viên Mậu! Ông gieo nhân đoản thọ, phạm đại tội làm ô nhục tu sĩ. Đây là lý do ông bị sạt phúc, lộc và sa vào vận mạt cùng cực! Hai đứa bé là của cô đó sinh ra, đúng không?
Lúc này Viên Mậu mặt mày xanh lét, xuất mồ hôi đầy mình! Ông ấp úng.
– Nhưng… vị nữ tu đó cũng thích tôi mà!
– Trời đất ơi! – Tôi thở dài – Ông phải biết đây là điều đại cấm kỵ! Trong các tu viện đều có giới luật, có thần Hộ pháp… các tu sĩ là những vị đã phát nguyện lìa tục, sống đời tu hành thanh tịnh, nếu như ông đến quyến rũ tu sĩ, tội ấy tăng thêm một bậc. Là do ông hành động không kiểm soát, dám khởi tà dục với nữ tu đến độ có hai con, còn cho phá giết chúng… Tội này lớn nặng như thế nào, ông lâm vào đường cùng như hiện nay, chính là do ông tự chuốc lấy đó!
– Đúng vậy ư?
– Tất nhiên rồi! – Tôi đáp.
– Vậy tôi phải làm sao?
– Phải phát thệ nghiêm trì giới cấm của Phật, nguyện từ nay sửa lỗi đổi mới, ông nên phát lộ lỗi mình ra hết trước Phật, thành tâm lạy sám hối thật nhiều… và từ nay trở đi mỗi khởi tâm động niệm, phải cẩn thận răn dè, thề hoàn toàn không phạm đến tà dâm nữa. Phải vĩnh viễn đoạn tận cội rễ gốc tội, hành xử luôn quang minh chính đại và thật sự bước vào con đường tu sửa đàng hoàng. Không chỉ có thế, sau này trong tâm phải luôn giữ niệm thiện, lúc nào cũng phải (dùng miệng hoặc viết ra) khuyên người thế tục chớ phạm tà dâm và tuyệt đối không được khởi ý tà với các tu sĩ. Kinh Phật dạy: “Người giữ giới không tà dâm, ngũ phúc tăng, không bị đọa vào ba nẻo ác”… Ông phải nỗ lực sám hối, ăn chay trường, siêng tụng kinh, hành thiện… mới mong cứu chuộc và dứt trừ tội ác. Riêng đối với các tu sĩ phải hết lòng ủng hộ, hỗ trợ họ giữ gìn hạnh trinh khiết thanh tịnh. Bởi mục đích của người tu là đạt đạo, liễu sinh thoát tử, trong “Bốn điều răn về hạnh thanh tịnh” trong kinh Lăng Nghiêm, Phật đã đưa ra lời giáo huấn rất rõ ràng cho các tu sĩ: “Nhất định phải cắt đứt, loại trừ tâm dâm!” Đây là điều kiện tất yếu đầu tiên của người tu, tâm dâm dứt khoát không được lưu giữ. Vì nếu còn nuôi dưỡng tâm này thì ắt sẽ bị lạc vào đường ma. Nếu ông hay bất kỳ ai khởi tâm tà muốn quấy phá tu sĩ, thì đó là tà ma hạnh, quả báo sau khi chết đi sẽ cực kỳ thảm khốc…
Viên Mậu nghe xong, hứa sẽ làm theo. Tôi tặng ông mấy câu thơ cảnh giác:
Người đã tu hành xuất thế
Nào dung vui hưởng ái tình
Phá hoại giới hạnh người tu
Chẳng để Phật gia thanh tịnh
Mắt thần nhìn rõ tột cùng
Nam nữ lén lút tư tình
Ác báo kinh hoàng thảm khốc!
Mau mau tu sửa, dứt sai!
Tôi tiễn Viên Mậu đi, tặng ông hai ngàn USD làm vốn, hy vọng ông từ đây quyết tâm tu, vĩnh viễn sửa lỗi, đổi mới.
Chuyện của Viên Mậu làm tôi nhớ đến bộ phim “Những con chim ẩn mình chờ chết” kể về mối tình của vị Linh mục chân tu cùng một thiếu nữ, cô này đối với Linh mục luôn khởi dục niệm và có tâm muốn chinh phục…
Hiện nay các phim ảnh, sách truyện, các dạng truyền thông rất khoái rao truyền những mối tình đạo đời ngang trái không thành và cho đó là diễm tình, rất ưa trình chiếu, tải đăng, quảng bá… bất kể chuyện có thực hay không, đây là việc thương phong bại tục, đáng thẹn cho việc tu hành… làm vậy rất có hại cho phong khí xã hội…
Người tu nếu như phạm dâm, tính theo nhân quả, phải hiểu là trả quả rất thảm khốc, đáng sợ. Vì đã hiểu pháp mà còn phạm.
Riêng đối với người đời, trong kinh Phật nói: “Người tạo dâm nghiệp, sẽ bị báo ứng, vợ (chồng) không chung thủy, đoạn tử tuyệt tôn, chết rồi đọa tam ác đạo, thành súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Trăm ngàn vạn kiếp, không dễ thoát ra, chẳng được làm người nữa”… Lời này chẳng phải là hù dọa, mà hoàn toàn có thật!
Chẳng nói chi đến quả báo địa ngục xa xôi, chỉ tả về hoa báo thôi, thì ngay hiện đời người phạm giới dâm, phải mất địa vị, bại hoại danh dự, tiêu tan tài sản! Người háo dâm, sẽ bị nhiều bịnh, dễ già suy, không trường thọ, bị xã hội thóa mạ, oán thù kết sâu, cuối cùng thân bại danh liệt!
Tôi chợt nghĩ đến các phụ nữ, nam nhân đi quyến rũ các tu sĩ và mối tương giao lộn xộn không lành giữa những người trong đạo hoặc giữa đạo và đời. Những chuyện tình không nên, không được phép… nhưng chẳng phải là không có. (Đương nhiên các tu sĩ là kẻ chưa đắc đạo, là người phàm, không phải thánh, ai mà không có lỗi?) Nhưng xin nhắc các vị: Nếu đã phát tâm tu, thân là người xuất gia thì hãy dốc sức giữ giới như giữ mạng, phải hiểu rõ lòng dâm mang đến quả báo thảm khốc khôn lường, lỗi này tuyệt đối không nên xem thường, không thể coi là trò đùa, bỡn chơi!
Xin hãy ghi nhớ các câu chuyện thực tôi đã kể ra mà đề cao cảnh giác. Chư vị phải thường sám hối lỗi lầm, tinh tấn tu, nghiêm trì giới luật để cứu chuộc niệm sai, thì tội kia mới có thể đoạn trừ.
Giới dâm là một trong bốn giới trọng của Phật, các bậc thánh nhân, hiền nhân đều sớm đã nhận ra thống khổ của dâm, nên mới từ bỏ khoái lạc thế tục để đạt đến cực lạc thanh tịnh.
Đối với sách thiện cùng những kinh điển có ích cho nhân tâm thế đạo, cần nên tuyên dương ủng hộ, rộng truyền trong đời. Phải hiểu rõ đuổi theo dục lạc thể xác là vô ích, nếu phóng túng dâm dục sẽ đọa vào thống khổ tận cùng. Quý vị chớ nên đùa bỡn lao theo, cũng đừng mê cuồng ca ngợi…
Giữ tâm hạnh trong sáng là góp phần giúp xã hội thiện lành, bình an… phong khí nếu giữ được tốt, thì lòng người sẽ thuần hậu.
Mọi việc hãy đem thân làm gương. Xin giữ mình trinh khiết, phẩm hạnh sáng trong như ngọc!
Những việc có hại cho thân tâm tuyệt đối không làm. Họa hại khủng khiếp không gì bằng dâm uế. Chẳng chứa niệm tà chính là tu thân!
Liên Sinh
(Trích BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI 5 – NHÂN QUẢ GIẢI THEO PHẬT GIÁO)
A Di Đà Phật…
Kính gởi sư huynh Thiện Nhân:
Bà cư sĩ Hàn ( hộ pháp cho pháp sư Tịnh Không), trước lúc bà vãng sanh có khai thị một câu: ” người tại gia phải giống người tại gia?, người xuất gia phải giống người xuất gia?”.
Nhờ sư huynh lý giải dùm cho, chân thành cảm ơn sư huynh.
A Di Đà Phật. ..
A DI ĐÀ PHẬT
Gửi bạn Tịnh Độ,
Lời khai thị của Hàn Cư Sĩ trước lúc vãng sanh hẳn có nhiều hàm ý. TN chỉ mạo muội chia sẻ cùng bạn những ý nghĩ thô thiển của riêng mình:
”người tại gia phải giống người tại gia?, người xuất gia phải giống người xuất gia?”
*Người xuất gia và người tại gia: Ý nói hàng tứ chúng: Tu Sĩ nam, Tu sĩ nữ, Cư sĩ nam, cư sĩ nữ. Phật gọi đây là bốn chúng giường cột của Phật pháp, trong đó Tăng, Ni (tu sĩ) thay mặt Phật đem giáo pháp độ sanh; Cư sĩ (nam, nữ) có nhiệm vụ hộ pháp. Hoằng pháp và hộ pháp là 2 nhiệm vụ trọng yếu mà 3 đời 10 phương chư Phật luôn thường nhắc tới và cũng là hạnh nguyện của các Ngài, vì thế “người xuất gia – người tại gia” phải là những người luôn hành theo lời và hạnh nguyện của chư Phật = đệ tử chân chánh của Phật.
*Xuất gia-Tại gia là nói về lý tướng, nghĩa là còn có tăng-tục, nhưng đi vào lý tánh thì tăng hay tục cũng đồng một thể, bởi Phật tánh vốn không có tăng-tục=đồng một thể, vì vậy tu sĩ phải làm trọn đạo hạnh của tu sĩ, cư sĩ cũng phải làm trọn đạo hạnh của cư sĩ=đồng tu.
Tuy nhiên thời nay để làm trọn vẹn điều này quả không dễ, đặc biệt là hàng cư sĩ: tu học một thời gian, cũng phát tâm xuống tóc, phát tâm thọ bồ tát giới, học cách thuyết pháp, ăn mặc, tư trang, đi lại, nói năng tựa như hàng tu sĩ; luôn tìm cách châm chích, phê phán, thậm chí bôi xấu hàng tu sĩ…v.v… đây là điều trái với đạo Pháp mà Bổn Sư Thích Ca đã dạy. Nghĩa là hàng cư sĩ đã nương chấp vào sắc tướng của chính mình, lấy đó (cái ngã) làm đối trọng với hàng tu sĩ và nhiều khi đồng danh mình ngang, thậm chí hơn cả hàng tu sĩ. Điều này dẫn đến sự ngộ nhận, hiểu lầm vô cùng nghiêm trọng cho những người không tu, chưa tu, hoặc mới phát tâm tu, từ đó dẫn đến sự ngộ nhận về giáo pháp và đường lối tu học của Phật chỉ dạy. Xa hơn làm tổn hại phước đức của chính bản thân mà không hề hay biết. Khi tu học mà thấy ngã tướng mỗi ngày một lớn, người tỉnh giác phải biết đó là chướng đạo, nhưng thật tiếc là nhiều hàng cư sĩ thời nay đều đang vướng và bị kẹt cứng vào con đường này mà không hề hay biết. Nhân cong tất quả chẳng thể thẳng.
*”Giống” cũng hàm ý: đừng làm khác đi vai trò của bản thân, bởi cái đích của người tu đạo cho dù là tăng hay tục đều là đi đến sự giác ngộ và giải thoát. Niệm Phật để vãng sanh=giải thoát. Người phát tâm niệm Phật là để nguyện sanh về Cực lạc=nguyện giải thoát. Giải thoát vốn không có tăng-tục. Khi về Tịnh Độ hẳn chúng ta sẽ rõ. Cư Sĩ Hàn cũng đã nhìn thấy rõ.
TN
A Di Đà Phật
Tôi ăn chay đã được 3 tháng, cảm thấy thoải mái rất nhiều. Nay muốn trường chay. Nhưng khổ nỗi người yêu và bạn bè khi nghe xong đều cấm cản. Bảo sau này còn bầu bí sinh con, giờ chưa phải lúc, tuổi trẻ ăn chay là chưa cần thiết. Tôi không biết phải nên làm thế nào. Xin các anh chị cô chú đạo hữu cho chút lời khuyên.
Chị xem phần hồi đáp này nhé. A Di Đà Phật.
http://www.duongvecoitinh.com/index.php/2013/05/co-nen-cho-tre-em-an-chay-tu-nho-video/#comment-34194
Việc ăn uống là của mình, đâu ai cấm mình được bạn Liên thư, nếu ko quá bất tiện ko rắc rối thì bạn vẫn trường chay được, nếu nhân duyên chưa phù hợp thì tạm thời ta cứ dùng chung với họ, họ ăn thịt cá nhiều thì mình ăn rau củ nhiều, điều quan trọng là bạn xác định được mục tiêu đời mình, mình có theo tham sân si hay ko, mình có ăn uống theo cách của họ hay ko, người tu đạo có cách ăn rất riêng, tuy dùng chung nhưng chí hướng của họ hoàn toàn trái ngược với người đời. Việc ăn uống chỉ là trợ đạo nuôi dưỡng thân mạng, có cái thân mạng khoẻ mạnh thì đường đạo bước càng thuận lợi, đừng bị lục căn, tham, sân, si đánh lừa mà ăn uống phục vụ chúng, nếu việc ăn uống ko nhằm phục vụ chúng nó thì chằng còn gì để mà ta lo, đạo tâm càng lớn, trí tuệ càng mở thì nhu cầu ăn uống, nghĩ dưỡng cũng sẽ giảm, phiền não chẳng còn nhiều…tự nhiên ta thích ăn chay, thích học Phật, thích đến chùa….
Cứ mạnh dạn trường chay luôn đi bạn. Còn trẻ mà biết trường chay, tu tập càng quý. Về người yêu thì nói chuyện với ảnh về những lợi ích thiết thực của việc ăn chay, rồi khuyên ảnh cùng ăn chay luôn, mới đầu với ảnh thì dừng ở ăn tháng 2 ngày, 4 ngày,… Sau này cả vợ chồng cùng biết ăn chay, tu tập thì thật tuyệt vời.
Còn sau này bầu bí thì đừng lo, giai đoạn thai kỳ ăn chay rất tốt cho cả mẹ và bé nhé. Cái này trong phúc đáp của ĐH Nguời Em Tịnh Độ và các vị thiện tri thức trong đó đã chia sẻ những nội dung vô cùng hữu ích rồi, bạn đọc và chia sẻ với ny cùng đọc để hiểu rõ, an tâm. Còn bạn bè, người ngoài có nói ra nói vào thì thôi tùy duyên, nếu có duyên thì khuyên lại họ cùng ăn chay tu tập, không thì thôi, mackeno, họ nói gì bỏ ngoài tai chẳng bận tâm.
Cố gắng nhé.
A Di Đà Phật
A Di Đà Phật.
Xin cảm ơn mọi người rất nhiều. Quả thật khi ăn chay có rất nhiều người chỉ trích. Bạn trai tôi vốn không thích đi chùa, ăn chay gì cả. Tôi mới thật sự tìm hiểu đạo Phật được thời gian gần đây. nghe pháp của PS Tịnh Không, đại sư Ấn Quang giảng, lại nghe danh ông Lê Phước Vũ, chủ tịch tập đoàn Tôn Hoa Sen mà còn trường chay tiếp khách thì tôi muốn ăn chay. Một thời gian ăn chay, tôi làm việc hiệu quả, lại cảm thấy khỏe mạnh, không hay giận hờn buồn bực vô cớ.
Tôi rất vui vì mọi người ở đây đều ủng hộ tôi. Cũng là động lực để tôi giữ vững tâm đạo.
Nam Mô A Di Đà Phật ! Kính chào các Quý Đạo Huynh ! Thời gian qua, việc Tu Tâm sửa tính của tôi khong có nhiều tiến bộ ( tôi thấy buồn nhiều ), chủ yếu là tôi vẫn mắc vào ” nóng giận “, tuy thời gian khong kéo dài, bực bội rồi cũng thôi. Đa số các trường hợp đều là với 1 người ( thân trong nhà ). Tôi cố suy nghĩ để tìm nguyên nhân : là vì hình như tôi khong có nhieu niềm tin vào người ấy. Tính tôi vốn trực. Người này nói chuyện hay theo kiểu vòng vo. Tôi hiểu tính người ấy lắm. Vậy nên cảm giác trong tôi như là bị lừa dối, bị dẫn dắt, vậy nên người ấy chỉ nói với tôi quá 3 câu là tôi bắt đầu cảm thấy bực bội, khó chịu trong lòng. Một chuyện đơn giản nhưng mở đề, phát triển và …kết thúc khong thể đoán trước được. Ví dụ, hom nay mở đề, đến ngày mai mới phát triển, lật đi lật lại vấn đề, nhưng kết thúc cho một vấn đề đó là 5 ngày sau… Thật sự tôi khong đủ kiên nhẫn, tôi khong biết người ta định dẫn dắt mình đi đâu, theo hướng nào, với mục đích gì … Mong các Đạo Huynh bằng kinh nghiệm giúp đỡ tôi. Thật sự, đây là chướng ngại quá lớn của tôi ( ở gần người khác, tôi khong nóng nảy như vậy ) . Tôi cố gắng tự nhủ, nào là Tâm Từ bi, tam khoan dung…nhung khi đối mặt người ấy tôi lại chịu khong nổi …
Cứ như thế này, tôi vẫn khong có gi tiến bộ, ko có gi thay đổi cả. Nếu một thời gian dài khong gặp người ấy, hoặc người ấy khong nói gi với tôi , thì tôi thấy mình khong có lý do bực bội với ai khác. Tôi chỉ nổi nóng với những kiểu người có tính cách tương tự ( gợi ra một vấn đề, nhưng lại khong nói ra ý kiến cua mình, thăm dò thái độ, hom sau, nói một chút, hom sau nữa lại thay đổi …)
Xin cảm ơn lời khuyên của các Đạo Huynh ! Nam Mô A Di Đà Phật !
Chào Diệu Tiến.
Np có đôi dòng ngắn gọn gởi đến DT, hy vọng sẽ giúp được DT phần nào trong con đường tu học.
Ngã lớn thì phiền não lớn
Ngã nhỏ thì phiền não nhỏ
Ngã mất thì phiền não chằng còn
Trong ta còn để ngã thì còn phiền phức, ta buông được cái ngã của mình ra thì ta đặng an ổn, vạn vật cứ thuận theo tự nhiên, có gì đâu ta phải buồn bực, họ nói mặc họ, ta cứ chậm rãi lắng nghe, đâu cần phải theo cái ngã của mình mà nổi sân, vốn biết nó chẳng tốt, chẳng thật, thì sao ta lại lao theo nó, chính mình phải trừ bỏ được cái ngã, phải cảnh giác, đề phòng và xa lìa nó, như vậy ta mới an ổn nơi tâm, sóng gió gì cũng chẳng làm ta lo sợ. Khi cái ngã quá lớn, chỉ một việc dù nhỏ nhất khiến ta ko hài lòng ta cũng sẽ nổi sân, chính mình phải luôn cảnh giác, phải luôn nhắc nhở, đề phòng….cuộc sống xung quanh đáng sợ lắm, chỉ lơ là một chút thôi, lại bị lũ giặc đến kéo ta ra, vô ngã…phải học vô ngã…chẳng có ngã nào của ta cả…chỉ là nương theo duyên mà ra…chớ nên bị cuốn theo mà đánh mất chính mình. Người đời sống trong vạn duyên nhưng chẳng biết được sự thật này, chẳng tin, chẳng học…nên cứ theo cái ngã, cái sai lầm của mình, làm nô lệ cho tam độc rồi xoay chuyển luân hồi mà chịu khổ, nhưng lại chẳng thấy khổ mà cứ cho là vui, người tu đạo khéo thấy là độc là hiểm nguy mà cảnh giác đề phòng, dần lâu xa lìa được chúng nó, thân tâm đặng an ổn, ở trong khổ mà chẳng thấy khổ, vì rõ biết nên chẳng thấy, chẳng sợ, đặng tự tại, ko bị trói buộc mê lầm như người đời.
Là khổ mà cũng không
Có ngã cũng chẳng ngã
Là thật ta giữ lấy
Chẳng thật ta buông ra
Rõ biết chẳng mơ hồ
Không giặc nào dám đến.
Chào bạn Diệu Tiến,
Như vậy nghĩa là giữa bạn và người ấy (hoặc với những người có tính ấy) đã có một oán kết từ những đời kiếp trước. Nói rõ hơn, sự khó chịu đó đến từ tâm bạn. Muốn giảm sự sân hận thì bước đầu tiên mình phải thấy rõ sân đó đến từ tâm mình, chứ không phải do người khác mang lại. Những tâm từ bi, khoan dung không hiệu quả trong trường hợp của bạn bởi vì lúc đó bạn vẫn nghĩ là họ không đúng và bạn là người làm cái việc tha thứ, khoan dung cho họ. Ngày nào mà mình còn chưa thấy mình sai thì mình cứ xoay tâm ra ngoài mà thấy lỗi người, thay vì phải xoay tâm vào chính mình để nhiếp phục cơn giận đó.
Tại sao PH lại nói, khi nổi sân thì chính là mình sai? Sai ở điểm: tâm nóng giận là không đúng với tâm thanh tịnh, sẽ cản trở sự tu tập của mình. Cho nên, để khắc phục nóng giận, bạn hãy thực tập đừng nghĩ đây là lỗi của người, và cũng không nghĩ là lỗi của mình. Đừng nên nghĩ ngợi ai đúng, sai, phải như thế này, thế nọ (vì đó chính là thêm chất liệu cho cơn sân), lúc đó gắng tập trung để ý nhiếp tâm niệm Phật. Lúc bình thường bạn hãy tập nhiếp tâm cho sát vào câu Phật hiệu, để cho mình có chút định lực mà dừng vọng tâm lại. Cơn sân giống như cơn lũ, đến rất nhanh và bạn sẽ nhanh chóng chìm vào đó nếu bạn không có định lực để thấy khi nó đến. Bạn hãy gắng tập nhiếp tâm, sẽ mất khá nhiều thời gian, từ từ bạn sẽ thấy mình làm được.
Xin được nhắc thêm với bạn, khi mình chưa khống chế được sân, lúc ngồi nghĩ lại mình sẽ thấy buồn và đôi lúc thấy bực với chính mình, thấy sao mình dở quá, đó cũng chính là hiện tướng của sân. Trong trường hợp này, bạn hãy tập khoan dung với chính mình, thông cảm với chính mình. Như vậy là bạn chuyển được tâm sân thành tâm khoan dung. Khi mình chấp nhận là mình sai, dở, và mình khoan dung được với chính mình, thì tự nhiên mình sẽ khoan dung được với người.
Chúc bạn thường tỉnh giác, tinh tấn.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Xin quý thầy quý cư sĩ cho con lời khuyên! Chuyện là vầy: con của con chỉ mới 5 tuổi thôi còn lâu lắm nữa mới vào đại học thế nhưng mẹ chồng con lo xa bảo con hàng tháng nên bỏ óng heo 50 đồng để đến khi nào cháu nó lên Đại học mà lo. Thế nhưng bản thân con là người học Phật biết nhân quả báo ứng. Con nghĩ thay vì bỏ ống heo mình lấy 50 đồng đó mỗi tháng làm từ thiện (phóng sanh, cúng dường, giúp đỡ người khó khăn…) còn có ý nghĩa hơn là mình nhốt tiền một chỗ. Con cái có nhân quả báo ứng của nó con biết là mình nên để đức chứ nên để tiền mới giúp được nó phần nào thế nhưng mẹ chông con khong tin nhân quả con cũng đành chịu lúc trước mỗi tháng có được 300 điều gửi về việt nam lo cho cha mẹ, làm từ thiện thế nhưng nay phải trích ra 50 để bỏ óng heo cho con của con việc này có đúng đạo lí không?(con gửi về việt nam làm từ thiện mẹ chồng và chồng con đều khong biết vì con không có đi làm tiền này là chồng con cho con tiêu vật nhưng con không xài).con nghĩ mình niệm phật cầu sanh Tây Phương chuyện hậu sự đã có Phật và Bồ Tát lo giúp( theo như lời của Tịnh Không Pháp sư).con cứ bỏ óng heo cho mẹ chồng vui lòng nhưng tâm con vẫn thấy không ổn. Xin chư vị cho con lời khuyên!
A Di Đà Phật
Xin mạn phép có đôi lời chia sẻ cùng bạn Kim Thúy. Theo mình nghĩ thì việc bỏ ống heo để mẹ chồng vui thiết nghĩ đây cũng là tùy duyên, hằng thuận tâm chúng sanh vậy. Ổn hay không ổn là do sự chấp trước của mình mà thôi. Nếu thực sự trong lòng mình đã buông xuống thì tiền nhiều, tiền ít hay không có tiền cũng đều như nhau thôi. Bởi vì mọi thứ trên đời thảy đều vô thường giả tạm, do nghiệp mà cảm chiêu chỉ nương nơi một câu Phật hiệu mà vượt thoát luân hồi.
Hành giả tu Tịnh Độ vẫn có người để dành tiền đấy bạn, nhưng người ta không chấp, không để ý theo dõi, nhiều hay ít, còn hay mất đều không bận tâm. Tấm gương điển hình là ông Nghêu Chúc trong quyển Đường Về Cực Lạc.
Nói tóm lại thế sự vô thường, mình dự định để dành tiền để làm việc đó nhưng biết đâu sau này sẽ dùng vào việc khác, chỉ cần dùng vào việc thiện là được. Hy vọng giúp ích phần nào cho bạn nhé.
A Di Đà Phật
Chào bạn Kim Thuý,
Bạn hãy xem như bạn bố thí cho con mình 50 đồng vậy, còn với mẹ chồng là đem lại sự vui lòng cho bà. Con của bạn, còn không biết đến để báo oán hay báo ân, là báo oán thì hành động của bạn sẽ góp phần giải oán, là báo ân thì lại càng tốt. Bạn đừng nghĩ phải bố thí ra cho người ngoài mới tốt, còn việc cho con mình thì không ổn, vì giữ tâm như thế là tâm phân biệt trong bố thí. Bạn hãy khởi tâm vui vẻ dành tiền (bố thí) cho con mình, giống như tâm bạn bố thí cho người khác. Hãy bỏ qua vọng tâm phân biệt đó thì tâm bạn sẽ thấy an ổn.
Chúc bạn thường tinh tấn.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Xin cảm ơn Tùy Duyên và cư sĩ Phước Huệ đã cho lời khuyên! A DI ĐÀ PHẬT!
A Di Đà Phật
Kính gửi bạn Diệu Tiến,
Tiếp lời Đạo Hữu Nguyễn Phú, TT cũng xin có một chút chia sẻ.
Vị thuốc tốt nhất để chuyển phàm tâm của chúng ta ấy chính là thuốc A già đà. Vâng thật vậy, chúng ta hãy chăm chỉ niệm Phật, chỉ có niệm Phật mới cứu giúp chúng ta thôi quý vị. Cứ nhép môi mà niệm để khỏi quên, chổ đông người lúc họp hành cần tế nhị thì niệm trong tâm hay nhép khẽ thôi. Niệm Phật chẳng sợ ngại ngùng chi quý vị.
Dưới đây là đoạn kinh văn xin chia sẻ để giúp chúng ta tăng thêm tín tâm mà niệm Phật:
**********************************************
Lại nữa, Bồ-Tát sơ phát tâm muốn xoay cái vọng tưởng hư dối sanh diệt trở lại với chân tâm thanh tịnh thường trụ thì phải dùng pháp gì, nếu không là danh hiệu Như-Lai ? Làm thế nào để chặt đứt gốc rễ phiền não, nếu không sử dụng lực vô úy của danh hiệu Như-Lai ? Làm thế nào để diệt trừ sạch hết sáu tên giặc khác trần nếu không hiển thị công năng nhiệm mầu đệ nhất của danh hiệu Như-Lai ?
Nầy Phật tử, cõi Diêm-phù-đề nầy vốn lấy âm thanh làm thể. Dó đó, nhiều chúng sanh có thể nương nơi âm thanh viên mãn mà chứng viên thông. Như vậy, danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật chính là âm thanh tối thắng, đưa chúng sanh thâm nhập Như-Lai tạng diệu chân như tánh. Vì thật tướng của danh hiệu là vô tướng, không đọa vào nhân duyên, không lạc vào tự nhiên, chẳng hòa hợp, chẳng phi hòa hợp. Luôn vắng lặng, chu biến khắp mười phương. Tùy theo tín tâm, công năng tu tập mà phát huy diệu dụng.
Nầy Phật tử, danh hiệu Phật chính là Bồ-đề-tâm, vì là chủ tể các thiện pháp, và luôn luôn sanh ra tất cả Phật Pháp.
Danh hiệu Phật chính là Bồ-đề-nguyện, vì là cửa ngõ xu hướng Vô-thượng-giác, và luôn luôn dẫn dắt chúng sanh tới Nhứt-thiết Chủng-trí.
Danh hiệu Phật như mặt trời, vì có uy lực phá trừ si ám, ban phát ánh sáng thiện căn cho nhân gian.
Danh hiệu Phật như kình ngư, vì có thể bơi lội tự tại trong đại dương khổ não, mà chẳng bị sóng dữ phiền não vùi chôn, cuốn lấp.
Danh hiệu Phật như giống chắc thật, vì có thể lưu xuất tất cả phước đức vô lậu.
Danh hiệu Phật như trận mưa lớn, vì khiến hạt giống Bồ-đề nẩy nở, sanh sôi.
Danh hiệu Phật như ruộng tốt, vì có thể trưởng dưỡng hết thảy bạch tịnh pháp.
Danh hiệu Phật như nước cam lồ quý báu, vì có thể tẩy rửa mọi thứ phiền não dơ bẩn, khiến vọng tâm trở thành đài gương làu làu sáng sạch.
Danh hiệu Phật như ngọn lửa mạnh mẽ, vì có thể đốt tan rừng rậm kiến chấp.
Danh hiệu Phật như trận cuồng phong vô ngại khắp thế gian, vì nó cuốn phăng tất cả bụi mù tà kiến, hí luận, thiên kiến.
Danh hiệu Phật như tuệ nhãn xuyên thấu mọi pháp và thấy rõ khắp tất cả chướng ngại, hiểm trở.
Danh hiệu Phật như chiếc xe khổng lồ, vì có thể chuyển vận hết thảy Bồ-Tát sơ phát tâm nhanh chóng tới Phật địa.
Danh hiệu Phật như căn nhà to rộng của Như-Lai, vì khiến chúng sanh không còn sợ hãi, bất an.
Danh hiệu Phật như cung điện nguy nga tráng lệ, vì giúp chúng sanh tu tập và khai phát vô lượng tam muội.
Danh hiệu Phật là chỗ nương tựa chắc chắn cho tất cả Bồ-Tát sơ phát tâm, vì luôn chứa nhóm và và lưu bố hết thảy Bồ-Tát hạnh.
Danh hiệu Phật như từ mẫu, vì ấp ủ, che chở và sanh ra tất cả Bồ-Tát, nuôi lớn căn lành cho hết thảy chúng sanh.
Danh hiệu Phật như kim cương bất hoại, lại có thể đập vỡ tất cả các pháp hữu lậu.
Danh hiệu Phật là vị thuốc A-già-đà, vì có thể chữa được tất cả bịnh tật cho chúng sanh.
Danh hiệu Phật như liên hoa, vì không bao giờ bị nhiễm ô bởi những pháp thế gian.
Danh hiệu Phật như tượng vương hùng dũng, có thể chà đạp tất cả điên đảo tưởng ngang trái, hung hiểm.
Danh hiệu Phật như hạt châu Ma-ni, có thể dùng phát chẩn cho tất cả chúng sanh sanh nghèo khó phước đức và trí tuệ.
Danh hiệu Phật như thủy thanh châu, vì có thể lóng sạch tất cả dây trói sanh tử.
Danh hiệu Phật như ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Thế-Tôn Như-Lai, Ưng-cúng, Chánh-đẳng-giác, do đó tất cả thế gian nên cúng dường, hân ngưỡng, tán thán …
Danh hiệu Phật như Pháp thân bất tư nghị, vì luôn lưu xuất tất cả thân của chúng sanh.
Danh hiệu Phật như Báo thân tư nghị, vì luôn sanh ra vô lượng vi trần thân trong tâm tưởng mọi chúng sanh.
Danh hiệu Phật như Hóa thân Phật bất tư nghị, vì luôn hiện thân Phật ngay nơi thân và tâm của người xưng niệm danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật.
Danh hiệu Phật chính là Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ, vì hiển thị Báo thân viên mãn lưỡng túc của giác quả.
Danh hiệu Phật chính là Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ, vì dung nhiếp Hóa thân tùy nguyện vãng sanh của chư vị Thượng thiện nhân khắp mười phương thế giới.
Danh hiệu Phật chính là cõi Cực-Lạc vì tự thân trang nghiêm và tự tâm trang nghiêm.
Danh hiệu Phật chính là ba đời mười phương chư Phật, vì A-Di-Đà tức là Pháp-giới Tạng-thân, có lực dụng thu nhiếp và hiện Pháp thân của ba đời mười phương chư Phật.
Nầy Phật tử, danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật thành tựu vô lượng vô biên công đức như thế. Cho nên, phải nói rằng danh hiệu Phật chứa đựng vô lượng vô biên công đức của hết thảy Phật pháp, khai vô lượng vô biên diệu dụng, hiển thị vô lượng vô biên uy lực, giải ngộ vô lượng tri kiến giải thoát, siêu việt mọi tư duy, ngôn từ.
Tại làm sao thế ?
Bởi vì nhân nơi danh hiệu Phật mà xuất sanh và lưu bố tất cả Bồ-đề tâm, tất cả bồ đề nguyện, tất cả Bồ-đề hạnh. Ba đời mười phương Như-Lai thảy đều từ danh hiệu Phật mà phát sanh ra. Ba đời mười phương Như-Lai thảy đều do danh hiệu Phật mà thành đạo, chuyển pháp luân, giáo hóa nhị thừa, điều phục chúng sanh cang cường, tội khổ, tham đắm. Ba đời mười phương Như-Lai thảy đều y cứ danh hiệu Phật mà kiến lập Hoa-Tạng Thế-Giới Hải, trang nghiêm vi trần số cõi Phật.
Cho nên, nếu chúng sanh nào nhất tâm xưng niệm danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, tức là xuất sanh vô biên công đức vô lậu bất khả tư nghị, đủ năng lực viên mãn Bồ-tát-đạo, phát huy diệu dụng của tam thân, tứ trí, thập lực, từ vô-úy, tứ vô-lượng-tâm, lục ba-la-mật, thập bát bất-cộng v.v…
(Trích: Kinh Niệm Phật Ba La Mật)
A DI ĐÀ PHẬT…
Kính gởi sư đệ Tâm Tịnh:
Xin sư đệ lý giải dùm câu kinh niệm Phật Ba La Mật:
” phát huy diệu dụng của tam thân?, tứ trí?, thập lực?, từ vô uý?, tứ vô lượng tâm?, lục ba la mật?, thập bát bất cộng?”
Không quên xin cảm ơn sư huynh Thiện Nhân đã phúc đáp dùm cho Tịnh Độ.
Xin cảm ơn Tâm Tịnh, các liên hữu góp ý thêm.
A DI ĐÀ PHẬT…
A Di Đà Phật
Kính gửi huynh Tịnh Độ,
TT xin chia sẻ một số thông tin:
+ Tam Thân: Báo thân, Ứng thân và Pháp thân
Báo thân Phật là thân kết tinh của trí tuệ và công đức phước báu mà Ðức Phật đã tu tập và thành tựu hạnh nguyện Bồ-tát trong vô số kiếp, từ lúc mới phát tâm tu tập cho đến khi đạt quả vị Thập địa, như Phật A Di Ðà, Phật Dược Sư tướng hảo quang minh nơi quốc độ của các Ngài. Báo thân là thân vô lượng sắc tướng, vô lượng công đức trang nghiêm không giới hạn mà hàng Bồ-tát Tam hiền, Thập địa mới thấy được. Ngoài ra, những khả năng phi thường, những phẩm chất cao đẹp, toàn mỹ của Ứng thân cũng được xem là một phương diện của Báo thân Phật. Suốt 49 năm giáo hóa, Ðức Phật đã sử dụng Báo thân của mình thông qua Ứng thân để dẫn đường cho chúng sinh về bến giác, mở ra muôn ngàn cánh cửa phương tiện hóa độ chúng sinh.
Ngoài Ứng thân và Báo thân ra, Ðức Phật còn một thân thứ ba là Pháp thân, bản thể Chân như của các pháp. Pháp thân bao trùm khắp pháp giới, cả không gian và thời gian. Pháp thân thường trụ, bất sinh bất diệt, là tự tánh chân thật và bình đẳng của tất cả các pháp. Trong cuộc đời Ðức Phật, Ngài thị hiện bằng Ứng thân và Báo thân, trau giồi trí tuệ và tích lũy công đức, tu tập phá trừ vô minh, rồi thành tựu Pháp thân, hay nói đúng hơn là trở về với Pháp thân thanh tịnh, với bản thể Chân như. Không có một sự vật, hiện tượng nào rời bản thể Chân như, và bản thể Chân như luôn luôn biểu hiện qua sự vật hiện tượng, vì thế mà kinh điển gọi Pháp thân hay bản thể Chân như là Tỳ-lô-giá-na, Biến nhất thiết xứ.
Mỗi người chúng ta vì còn vô minh vọng động nên Pháp thân không phát huy diệu dụng. Ví như sóng chỉ là hiện tượng biến động của nước, nhưng bản thể của sóng và nước không hai. Ở Ðức Phật, tất cả việc làm của Ngài đều là diệu dụng của Pháp thân, nó tác động đến chúng sinh và các pháp.
Sau khi Phật nhập Niết-bàn, nghĩa là Ứng thân chấm dứt nhưng Pháp thân của Ngài vẫn thường còn, luôn hiển hiện bên chúng ta, được biểu hiện qua tinh thần từ bi, trí tuệ và bình đẳng, biểu hiện qua đường lối tu tập giác ngộ giải thoát, đời sống đạo đức thánh thiện được các thế hệ tiếp nối và kế thừa.
(trích từ Giacngo.vn)
+ Tứ trí:
1-Thành Sở Tác Trí (tức Ngũ Thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân chuyển thành Trí).
2- Diệu Quán Sát Trí (tức là thức thứ sáu: Ý Thức chuyển thành Trí).
3-Bình Đẳng Tánh Trí (tức là thức thứ bảy: Mạt Na Thức chuyển thành Trí).
4-Đại Viên Cảnh Trí (tức là thức thứ tám: A-Lại-Da Thức chuyển thành Trí).
Khi sáu căn không khởi niệm (tức “Vô niệm”), Mạt na thức không khởi niệm (tức “Vô ngã”) thì A lại da cũng tự động chuyển thành Đại Viên Cảnh trí. Khi đó “Bát thức hữu thần uy, Tâm đăng minh Pháp giới”. Nếu bảy thức đầu luôn dấy động, nghiệp tái sanh đẩy chúng sanh mãi trong biển Luân hồi.
+ THẬP LỰC
Thập lực là mười món trí tuệ của Thế Tôn.
Tri giác xứ phi xứ trí lực: Xứ có nghĩa là đạo lý, trí lực biết sự vật nào là đạo lý hay phi đạo lý.
Tri tam thế nghiệp báo trí lực: Trí lực biết rõ nhân quả của chúng sanh trong ba đời ( quá khứ, hiện tại, vị lai )
Tri chư thiền giải thoát Tam muội trí lực: Trí lực biết cả những pháp Tam muội ( bát giải thoát, tam tam muội…)
Tri chúng sanh tâm tánh trí lực: Trí lực biết hết tâm tánh của đệ tử, tín đồ và của tất cả chúng sanh cao hay thấp.
Tri chủng chủng trí lực: Trí lực biết chúng sanh hiểu đạo tới đâu, biết rõ lối nhận hiểu của thế gian và xuất thế gian.
Tri chủng chủng cảnh giới trí lực: Trí biết các cảnh giới khác nhau của chúng sanh như thế nào.
Tri nhứt thiết sở đạo trí lực: Trí lực biết tất cả đạo mà người tu hành sẽ đạt tới, như tu thập thiện, ngũ giới sẽ được ở cõi người hay cõi trời, người tu pháp vô lậu bát chánh đạo sẽ được tới Niết Bàn.
Tri thiên nhãn vô ngại trí lực: Trí lực vận dụng thiên nhãn thấy biết mọi việc của sự sanh tử và nghiệp thiện ác của chúng sanh, mà không hề bị ngăn ngại.
Tri túc mạng vô lậu trí lực: Trí lực biết rõ các đời trước của chúng sanh, biết rõ vô lậu Niết Bàn.
Trí vĩnh đoạn tập khí lực: Trí lực có thể biết rõ như thực mọi tàn dư tập khí, vọng hoặc, sẽ vĩnh viễn đoạn diệt chẳng sanh trở lại (biết rõ vô lậu hoặc).
– Niết Bàn kinh quyển 2 dạy rằng: chừng nào mặt trời huệ có đủ mười sức lực (thập lực huệ nhựt) lặn mất đi rồi, các ngươi sẽ bị vô minh che lấp.
(nguồn hoalinhthoai.com)
+ Tứ Vô Úy
(s: catur-vaiśāradya, p: catu-vesārajja, 四無畏): bốn loại Vô Úy, còn gọi là Tứ Vô Sở Úy (四無所畏), là bốn loại đức có được của chư Phật Bồ Tát dùng trong khi thuyết pháp mà không sợ hãi gì cả. Bốn Vô Sở Úy của Phật là:
(1) Nhất Thiết Trí Vô Sở Úy (一切智無所畏, đức Phật tuyên bố rõ rằng ta là bậc nhất thiết trí và không sợ bất cứ ai cả),
(2) Lậu Tận Vô Sở Úy (漏盡無所畏, đức Phật tuyên bố rằng ta đã đoạn tận hết thảy phiền não và không còn sợ hãi gì cả),
(3) Thuyết Chướng Đạo Vô Sở Úy (說障道無所畏, đức Phật thuyết về các pháp ngăn trở của các hoặc nghiệp, v.v., mà làm chướng ngại con đường Thánh đạo và không còn sợ hãi gì cả),
(4) Thuyết Tận Khổ Đạo Vô Sở Úy (說盡苦道無所畏, đức Phật lấy tự tin để thuyết về con đường đúng đắn của giới định tuệ, v.v., để giúp diệt tận khổ não và không sợ người nào cả).
Bên cạnh đó, Bốn Vô Sở Úy của vị Bồ Tát là:
(1) Năng Trì Vô Sở Úy (能持無所畏, vị Bồ Tát không quên ý nghĩa những điều được nghe và không sợ hãi gì khi thuyết cho người khác nghe),
(2) Tri Căn Vô Sở Úy (知根無所畏, vị Bồ Tát quán sát căn cơ của chúng sanh, thuyết pháp thích hợp với từng căn cơ ấy và không có sợ hãi gì cả),
(3) Quyết Nghi Vô Sở Úy (決疑無所畏, vị Bồ Tát lấy tự tin để giải quyết những nghi nan và không có sợ hãi gì cả), và
(4) Đáp Báo Vô Sở Úy (答報無所畏, vị Bồ Tát đối với bất cứ câu hỏi nào đều trả lời một cách rõ ràng, đúng đắn và không có sợ hãi gì cả).
(nguồn Phatam.org)
+ TỨ VÔ LƯỢNG TÂM: TỪ, BI, HỶ, XẢ
+ Sáu đức hạnh Ba-la-mật là :
1- Sự hào phóng siêu nhiên, (danaparamita), còn gọi là Bố thí Ba-la-mật.
2- Giới hạnh siêu nhiên, (silaparamita), còn gọi là Trì giới Ba-la-mật.
3- Sự nhẫn nhục siêu nhiên, (kshantiparamita), còn gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật.
4- Nghị lực siêu nhiên (viryaparamita), còn gọi là Tinh tiến Ba-la-mật.
5- Sự chú tâm (tập trung tâm thức) siêu nhiên (dhynaparamita), còn gọi là « Thiền định » Ba-la-mật.
6- Sự hiểu biết siêu nhiên (prajnaparamita), còn gọi là Trí tuệ Ba-la-mật.
(trích từ thuvienhoasen.org)
+ THẬP BÁT BẤT CỘNG PHÁP
Thập bát bất cộng pháp là Phật có 18 món công đức chẳng chung cùng với ba thừa (Thinh văn, Duyên Giác, Bồ Tát), vì ba hàng này không có đủ 18 công đức như Phật nên gọi là bất cộng pháp
Thân vô thất: Thân không có lỗi
Khẩu vô thất: Miệng không lỗi
Niệm vô thất: Ý tưởng không có lỗi
Vô dị tưởng: Không có tưởng khác
Vô bất định tâm: Tâm không phải không định
Vô bất tri dĩ xã: Chẳng phải không biết chuyện đã bỏ.
Dục vô diệt: Sự dục không diệt
Tinh tấn vô diệt: Sự tinh tấn không diệt
Niệm vô diệt: Ý tưởng không diệt
Huệ vô diệt: Trí huệ không diệt
Giải thoát vô diệt: Giải thoát không diệt
Giải thoát tri kiến vô diệt: Giải thoát tri kiến không diệt
Nhứt thiết thân nghiệp tùy trí huệ hành: Hết thảy nghiệp của thân tùy theo trí huệ mà thi hành.
Nhứt thiết khẩu nghiệp tùy trí huệ hành: Hết thảy nghiệp của miệng tùy theo trí huệ mà thi hành.
Nhứt thiết ý nghiệp tùy trí huệ hành: Hết thảy nghiệp của ý tùy theo trí huệ mà thi hành.
Trí huệ tri quá khứ thế vô ngại: Trí huệ biết đời quá khứ không ngại.
Trí huệ tri vị lai thế vô ngại: Trí huệ biết đời vị lại (đời sau) không ngại.
Trí huệ tri hiện tại thế vô ngại: Trí huệ biết đời hiện tại không ngại.
(nguồn hoalinhthoai.com)
Vài thông tin đến Huynh, thành thật TT hơi bị kẹt (thời gian) nên đa số trích lục ngắn gọn từ các nguồn mà không bình luận thêm mấy.
Nói chung diệu dụng của câu Phật hiệu như trong Kinh nói là
“Danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật vốn đầy đủ vô lượng vô biên hằng hà sa công đức, vô lượng vô biên hằng hà sa ý nghĩa, vô lượng vô biên hằng hà sa lực dụng, cứu cánh, cảnh giới, giác tánh … dẫu trăm ngàn muôn ức na-do-tha vi trần đại kiếp, cũng không thể diễn nói hết được. Nay vì chúng sanh nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, mà tôi sẽ lược nói, để chúng sanh thu hoạch nhiều lợi ích.”
Kinh lại nói “Tùy theo tín tâm, công năng tu tập mà phát huy diệu dụng.”
Nam Mô A Di Đà Phật.
ĐỜI SỐNG CÀNG ĐƠN GIẢN CÀNG TỐT
Năm xưa, tôi ở Mỹ, đi khắp nơi giảng kinh, thường ở trong nhà các đồng học. Nhà cửa rất to, người lại rất ít, hai vợ chồng cùng một, hai đứa con, chẳng có người làm. [Tiền công trả cho] người làm đắt quá, chẳng thuê nổi người làm. Ngày Chủ Nhật kiếm người làm tạm thời, tại Mỹ bèn kiếm người làm tạm thời, trả tiền công theo giờ, mỗi giờ phải tốn bao nhiêu tiền, để họ đến làm giúp cho quý vị mấy giờ, đáng thương lắm! Vì vậy, thuở ấy, tôi giảng kinh ở đó, tôi hỏi họ: “Rốt cuộc là quý vị làm chủ cái nhà, hay cái nhà làm chủ quý vị?” Bao nhiêu người đã biến thành nô lệ của nhà cửa, mỗi ngày phải chăm sóc, dọn dẹp nó, thời gian đều bị lãng phí hết vào đó.
Người Trung Quốc chẳng phải vậy, người Trung Quốc không làm chuyện ngu ngốc ấy. Cổ nhân Trung Quốc thích sống ở đâu? Ở trong lều tranh! Lều tranh đơn giản, Đông ấm, Hạ mát. Thuở nhỏ, tôi rời khỏi quê nhà khi gần mười tuổi; nói cách khác, trước khi lên mười, tôi sống trong lều tranh. Lều tranh do chính mình dựng, chẳng cần phải tìm kiếm thứ gì, mấy người trong làng quê là đã cất được. Tường đất, dùng hai tấm vách dựng, lèn đầy đất vào giữa. Tường đất rất dầy, Đông ấm, Hạ mát. Phía trên lợp cỏ tranh, rất đơn giản, rất thoải mái, nhà nhỏ thôi! Trong nhà có thêm người thì dựng thêm một gian bên cạnh, bớt rất nhiều việc! Khoa học kỹ thuật đem lại nhiều phiền phức, rườm rà, khổ sở cho con người, thân tâm bất an! Quý vị thấy sống trong lều tranh thoải mái lắm, ngủ rất ấm cúng. Nhà lớn, ngủ chẳng thoải mái, mỗi ngày phải bận tâm, vọng niệm rất nhiều, tâm chẳng định được!
Thức ăn càng đơn giản càng hay, càng khỏe mạnh. Mỗi ngày ăn lắm món như thế, ăn đến nỗi khắp thân toàn bệnh, nhất là đồ ăn hiện thời rất đáng sợ! Tôi thấy một đồng học Tịnh Tông ở vùng Đông Bắc là cư sĩ Lưu Tố Vân đã kể với chúng tôi: Bà ta mời bạn ăn cơm, bạn thân, mời về nhà ăn cơm, chỉ có một món ăn. Người bạn ấy nói: “Một món này có đủ ăn hay không?” [Bà ta đáp]: “Chẳng đủ thì xào thêm một chút nữa!” “Vẫn là món này hả?” Đúng vậy! Một món thôi! Bà ta nói rất rõ ràng, hôm đó, bà ta đãi khách, một món là gì? Giá xào đậu hũ sợi, đúng một món, thật sự bớt việc!
…Đó là sống qua ngày. Trong cuộc sống phải đại tự tại thì mới tốt, mới thoải mái.
HÒA THƯỢNG TỊNH KHÔNG
Nam Mô A Di Đà Phật ! Xin cảm ơn lời khuyên của các Đạo Huynh, mong các Huynh chỉ rõ thêm “nhiếp tâm sát vào câu Phật hiệu ” nghĩa là : đặc biệt khi đối diện người ấy, chuẩn bị giao tiếp, hít thở sâu và niệm Phật trước khi sắp trả lời, nâng niu từng câu nói như ” trứng mỏng ” có được không ạ ? Thực sự, lúc này, tôi đang cảm thấy rất mệt mỏi. Như các huynh khuyên, tôi đều đã cố gắng thực hiện : thu nhỏ bản ngã, khắc phục tính xấu của mình, cố gắng tu tập, hồi hướng cho người đó ( hoá giải Oan Trái ). Nhưng hình như…càng ngày…thử thách ngày càng lớn, ngày càng dồn dập, làm tôi mệt mỏi đối với người này
* Tôi cố gắng sống thật đơn giản, né tránh chuyện thị phi, nghe mọi lời nói như gió thoảng qua tai, nhiều lúc, tôi khong có cả phản ứng trả lời ( khong phải tôi cố ý khong trả lời họ mà tự nhiên, trong vòng 1 phút – tôi khong biet phai nói gì ) . Điều này da xảy ra … Nam Mô A Di Đà Phật !
A DI ĐÀ PHẬT
Gửi bạn Diệu Tiến,
Bạn ráng thanh tịnh đọc kỹ câu chuyện dưới đây để biết cách khắc chế 6 căn nhé:
……………………………………………………..
Lúc Phật đang ngồi dưới gốc cây Nê-cô-luật thì có hai thương gia hỏi Phật: Có thấy xe qua không?
Đáp: Chẳng thấy.
Hỏi: Có nghe tiếng xe không?
Đáp: Chẳng nghe.
Hỏi: Phải đang thiền định không?
Đáp: Chẳng thiền định.
Hỏi: Phải đang ngủ không?
Đáp: Không ngủ.
Người thương gia tán thán rằng: Lành thay! Lành thay! Thế Tôn đại giác nên chẳng thấy nghe.
Lời bình:
Bài pháp này Thế Tôn dạy chúng ta điều gì? Đó là tánh thấy, tánh nghe và tự tánh thanh tịnh.
Tánh thấy, tánh nghe và tự tánh thanh tịnh của mỗi chúng ta vốn không có hình tướng, vì không hình tướng nên như như bất động.
Phật ngồi dưới gốc cây Nê Cô Luật, có xe đi ngang qua, Phật nhìn thấy, nhận biết có xe, nhưng không khởi tâm phân biệt: xe của ai; chở gì; đi về đâu, ai đang điều khiển, người điều khiển là nam hay nữ; già hay trẻ, đẹp hay xấu…, vì thế khi được hỏi: Có thấy xe không? Phật đáp: Chẳng thấy! Phật nói dối chăng? Không phải. Mắt Phật tuy đối cảnh – đối sắc trần, nhưng chẳng sanh vọng thức, vì không vọng nên tâm không duyên theo cảnh và cũng không bị cảnh trói cột. Đó gọi là: Thấy mà chẳng thấy. Còn chúng ta hễ mắt vừa thấy người, thấy vật, ngay lập tức tâm duyên theo cảnh, khởi phân biệt, chấp trước và cũng lập tức bị cảnh trói cột tới điên đảo.
Cũng tương tự khi hai thương gia hỏi Phật: Có nghe tiếng xe không? Phật đáp: Chẳng nghe! Tại sao Phật đáp chẳng nghe? Mặc dù Phật có nghe thấy tiếng bánh xe chạy qua? Bởi Phật nghe, nhưng chẳng khởi tâm phân biệt: bánh xe kêu to hay nhỏ; êm tai hay chẳng êm tai; ồn hay chẳng ồn… Đó gọi là: Nghe mà chẳng nghe. Còn chúng ta? Hễ nghe thấy một âm thanh nào đó, ngay lập tức dấy khởi tâm phân biệt, ví như: lời phỉnh nịnh, êm ái, dịu ngọt thì khởi tâm ưa thích; ngược lại lời ngay thẳng, chân thật thì chẳng ưa. Sở dĩ có ưa và chẳng ưa là bởi tâm tham ái trỗi dậy, vì tham nên sanh sân, vì sân nên có si. Ví thử: lời êm ái, dịu ngọt thì muốn nghe bằng được, mọi nơi, mọi lúc, vô điều kiện; ngược lại thì sanh bực dọc, hằn học, hay thoái thác, chối từ… đó chính là tâm si, vì si nên sanh tham luyến; tham chẳng đặng sẽ nổi sân để giải toả. Như vậy, chỉ một thứ âm thanh, nhưng nếu sanh lòng đắm nhiễm (yêu hay ghét) cũng bị âm thanh đó lôi cuốn và cột chặt tới điên đảo.
Hai thương gia lại hỏi: Phải đang thiền định không? Phật đáp: Chẳng thiền định. Thông thường khi chúng ta thấy ai đó đang ngồi bán già, kiết già rồi lim dim mắt, chúng ta ngỡ ngay họ đang ngồi thiền định. Thực tế Phật đang ngồi toạ dưới gốc cây, nên hai thương gia cũng khởi nghĩ: Phật đang toạ thiền. Nhưng đó là họ chấp vào tướng thiền, nghĩa là thấy thân tướng của Phật đang toạ nên ngỡ Ngài ngồi thiền. Thực tế Phật đã chỉ cho họ và chúng ta thấy: tâm chẳng điên đảo, chẳng thị phi, chẳng nhân-ngã, chẳng vọng tưởng, chẳng phân biệt, chấp trước – đó chính là thiền.
Hàng ngày chúng ta thường đối trước bàn thờ Phật để hành thiền, niệm Phật, trì chú nhưng liệu chúng ta có thực hành thiền, niệm Phật và trì chú chưa? Hay thân ngồi đó nhưng tâm lại đang lang thang, vơ vẫn ở một nơi nào đó? Hoặc trăm thứ nghĩ suy, tính toán thiệt hơn, phải-quấy… sanh khởi? Nếu đúng vậy thì chúng ta đang thiền nhưng thiền trong điên đảo, vọng tưởng và như thế là chúng ta đang tự lừa dối mình, lừa dối cả chư Phật và cả những chúng sanh hữu hình và vô hình.
Hai thương gia lại hỏi Phật: Phải đang ngủ không? Phật đáp: Không ngủ! Tại sao Phật đáp: Không ngủ? Bởi hai thương gia hỏi Phật tới 3 câu: có thấy xe? có nghe tiếng xe? có ngồi thiền không? Phật đều đáp: Không! Vậy chắc chắn Phật phải đang ngủ rồi? Vì thế họ mới hỏi tiếp: Phải đang ngủ không? Và Phật đáp: Không ngủ! Tại sao Phật đáp: Không ngủ? Bởi ngủ là mê! Người ngủ nhiều=mê nhiều. Nhiều người hễ ngồi thiền, niệm Phật là chỉ ít phút sau đã gà gật rồi kéo bễ phi pho… Như vậy chẳng phải là tỉnh thức. Phật đáp: Không ngủ! Chính là Phật chỉ cho chúng ta: Luôn sống trong tỉnh thức đó chính là thiền. Thấy cảnh chẳng sanh tình=thiền; thấy âm thanh chẳng phân biệt=thiền.
Đó chính là chân nghĩa của chẳng thấy, chẳng nghe mà Phật dạy.
TN
Chào bạn Diệu Tiến,
Tiếp lời huynh Thiện Nhân, PH xin đưa ví dụ cụ thể trong tình huống của bạn như sau. Các ý như “hít thở sâu, nâng niu từng câu nói,..”đều không phải, vì đó chỉ là hình thức, cái cần phải sửa đổi chính là cái vọng tâm đang khó chịu của bạn kìa. Khi sự khó chịu đó vẫn còn thì những cách thức bên ngoài chỉ là gượng ép. Bạn hãy khoan nghĩ ra những hành xử, cách thức mà bạn sẽ ứng phó khi người đó đến, thay vào đó hãy tập trung chú ý vào những ý nghĩ trong tâm của mình. Bạn hãy quan sát tâm ý của mình cho thật kỹ, ví dụ, ngay khi thấy dáng người đó thì liền trong tâm bạn đã khởi lên một sự khó chịu, thì việc cần làm của bạn lúc đó là nhận ra được ngay là mình đang khó chịu, nhận ra thì ngay đó liền buông, không đi theo tâm đó nữa mà thay vào đó là niệm Phật. Thông thường, khi thấy dáng người ấy, bạn sẽ không nhận ra mình đang khó chịu, và tâm thường sẽ nhanh chóng chạy theo những tập khí, ý nghĩ “bơm” cho cơn sân bùng phát như: hoặc nhớ lại những chuyện mà hai người đã trao đổi (và bạn đã nổi sân), hoặc suy nghĩ”lại muốn nói gì nữa đây”,.. Việc quán sát nhận ra tâm đang khó chịu, buông nó ra, nhiếp tâm vào câu Phật hiệu phải được thực hiện hoài từ lúc bắt đầu tiếp xúc cho tới lúc hết sự tiếp xúc, vì PH chắc chắn tâm khó chịu đó sẽ xuất hiện liên tục, nếu bạn lơi tâm không để ý là nổi sân lên ngay. Để có thể nhận ra được ngay sự khó chịu trong tâm thì bạn phải thực tập nhiều (trong lúc thời khoá công phu) mới làm được việc đó.
Nhiếp tâm niệm Phật là tập trung hết tâm ý vào câu Phật hiệu. Thông thường, khi niệm Phật lâu ngày, nếu không khéo sẽ tạo thành thói quen miệng niệm Phật mà tâm nghĩ tán loạn việc này nọ mà mình vẫn cứ đinh ninh là mình đang niệm Phật, đó là bệnh chung của người tu niệm Phật. Bạn cần tập quán sát và nhận rõ được tâm ý của mình, ví dụ, ngay lúc bạn đang đọc những chữ này, bạn đang tập trung đọc hay đang nghĩ “liệu nó có đúng không, mình có làm được không,…”.
Quán sát tâm ý rất khó làm, nhưng nếu bạn cố gắng kiên trì thì sẽ làm được. Nếu đã “lờn thuốc” với niệm Phật ra tiếng thì bạn có thể tập nhiếp tâm bằng cách niệm Phật thầm, dùng ý mà niệm Phật. Khi dùng ý niệm Phật, bạn phải tập trung, chú ý để ý khi tâm mình không niệm Phật mà chạy theo vọng tưởng (là những tâm ý khác với câu Phật hiệu), thì phải kéo nó lại vào câu Phật hiệu.
Bạn thấy đó, tất cả đều là những chuyển biến, thay đổi trên tâm chứ không phải ở bên ngoài. Khi tâm thay đổi thì tự nhiên bạn sẽ có những hành xử tương ưng, xuất phát từ tâm không bị cơn sân chi phối. Lúc đó là lúc “lâm trận”, mình phải tập trung khắc chế cơn sân của mình, chứ không phải để đối phó với bên ngoài, lại không phải kiểu như mình chuẩn bị đến lúc đó phải nói, phải hành xử thế nào. Để thay đổi tập khí sân hận cần phải bỏ nhiều công sức chứ không thể chỉ trong một buổi mà bạn hết sân ngay được.
Xin được góp ý thêm với bạn về ý “không có phản ứng trả lời”. Nếu trong một phút đó mà tâm ý bạn sáng suốt rõ ràng với câu Phật hiệu thì PH hết lòng tán thán công phu tu tập của bạn. Nếu trong một phút đó mà tâm ý mơ mơ hồ hồ thì bạn phải cảnh giác vì đó là hiện tướng si.
Vì PH e ngại bạn gặp chướng ngại nên mới dám góp ý thẳng như thế, nếu có gì không vừa ý, mong bạn hoan hỷ bỏ qua.
Chúc bạn thường tỉnh giác, tinh tấn.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Đây sẽ là các BHN của các tỉnh mà vừa có vị đồng tu vừa cập nhật, nếu ai may mắn có trong các tỉnh này thì hãy lưu vào chờ khi có ai sắp mất thì cần phải dùng tới ạ. Mời mọi nguời vào đây ạ:https://mobile.facebook.com/story.php?story_fbid=211638926018877&id=100015183126622&refid=8&_ft_=qid.6420884428246172822%3Amf_story_key.-5547276248550831973%3Atop_level_post_id.211638926018877&__tn__=%2As&fbt_id=211638926018877&lul&ref_component=mbasic_photo_permalink_actionbar&_rdr#s_e6104f3652052e0f20d41e54dbbea9d4
A Di Đà Phật,
Kính mong quý Thầy và các vị thiện tri thức giải thích ý nghĩa của ” vạn pháp đều do tâm sinh tưởng” giúp con ạ.
A DI ĐÀ PHẬT
Gửi bạn Diệu Vy,
Ráng phát tâm thanh tịnh, đọc kỹ phần kinh văn bên dưới, bạn sẽ có câu trả lời:
TN
………………………………………………………….
Phật bảo đại đức A Nan:
– Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, quá nhiều điên đảo(38), hạt giống nghiệp tự nhiên chiêu cảm quả khổ, giống như chùm trái ác-xoa(39). Những người tu hành không thể chứng đạo Vô Thượng Bồ Đề, cùng lắm là thành Thanh-văn, Duyên-giác, hay chư thiên; hoặc tệ đến nỗi sa vào hàng ngoại đạo, hay làm ma vương và bà con họ hàng của ma. Như thế là bởi vì không biết được hai thứ gốc rễ, tu tập sai lầm, giống như nấu cát mà muốn trở thành cơm, thì dù trải qua số kiếp nhiều như vi trần, cũng không thể nào thành được. Hai thứ gốc rễ là gì? Này A Nan, một là cái gốc rễ sinh tử từ vô thỉ, tức như hiện nay thầy và mọi chúng sinh đều dùng cái tâm phan duyên(40) mà làm tự tánh. Hai là cái thể tánh thanh tịnh của bồ đề niết bàn vốn có từ vô thỉ, tức như thầy hiện nay, cái chân tâm sáng suốt mầu nhiệm của thầy sinh hiện ra tất cả các pháp, nhưng thầy chỉ duyên được cái bóng dáng còn rơi rớt lại của chúng mà thôi. Do vì chúng sinh quên mất cái tánh sáng suốt vốn có ấy, nên tuy suốt ngày sử dụng nó mà không tự biết, để phải rơi vào các nẻo luân hồi một cách oan uổng. Này A Nan! Nay thầy muốn biết con đường tu xa-ma-tha, nguyện thoát khỏi vòng sinh tử, bây giờ Như Lai lại hỏi thầy…
Tức thì đức Phật đưa cánh tay sắc vàng lên, co năm ngón tay lại, hỏi đại đức A Nan:
– Thầy có thấy không?
Đại đức A Nan thưa:
– Bạch Thế Tôn, con có thấy.
Phật hỏi tiếp:
– Thầy thấy cái gì?
Đại đức A Nan thưa:
– Con thấy đức Thế Tôn đưa cánh tay lên và co năm ngón lại thành cái nắm tay sáng rực, chói cả tâm và mắt con.
Phật hỏi:
– Thầy dùng cái gì để thấy?
Đại đức A Nan thưa:
– Con và đại chúng đều dùng mắt để thấy.
Phật bảo đại đức A Nan:
– Khi nãy thầy nói rằng, Như Lai đưa cánh tay lên và co năm ngón lại thành cái nắm tay sáng rực, chói cả tâm và mắt thầy; bây giờ thầy hãy trả lời câu hỏi của Như Lai: Con mắt thầy có thể thấy, nhưng thầy lấy cái gì làm tâm để nhận biết cái nắm tay chói sáng của Như Lai?
Đại đức A Nan thưa:
– Đức Thế Tôn hiện giờ gạn hỏi cái tâm ở chỗ nào, mà con thì dùng tâm để suy nghĩ xét tìm; vậy con lấy cái có khả năng suy nghĩ đó làm tâm.
Đức Phật quở:
– Sai rồi! A Nan, cái suy nghĩ đó không phải là tâm của thầy!
Đại đức A Nan giật mình kinh sợ, vội vàng đứng dậy chắp tay bạch Phật:
– Nếu đó không phải là cái tâm của con, thì gọi là cái gì?
Phật bảo đại đức A Nan:
– Đó chỉ là những tưởng tượng tạo nên do những hình tướng hư vọng của trần cảnh trước mặt, chúng mê hoặc cái chân tánh của thầy. Do từ vô thỉ đến nay, thầy cứ nhận giặc làm con, bỏ mất cái tính bản lai thường trụ của mình, nên phải chịu lưu chuyển trong vòng sinh tử.
Đại đức A Nan bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Con là đứa em yêu của Thế Tôn, do tâm kính yêu Thế Tôn mà con xuất gia. Nhưng tâm con đâu phải chỉ riêng cúng dường đức Thế Tôn, mà còn cúng dường phụng sự chư Phật và các thiện tri thức trải khắp hằng sa quốc độ. Con phát lòng đại dũng mãnh, làm các pháp sự khó làm, là đều dùng cái tâm này; mà giả sử có hủy báng chánh pháp, mất hết thiện căn, cũng là do bởi cái tâm này. Nay đức Thế Tôn bảo đó không phải là tâm, thì tức là con không có tâm, đồng với gỗ đá chăng? Vì rời cái tâm hiểu biết ấy ra thì con không còn cái gì khác nữa, tại sao đức Thế Tôn bảo đó không phải là tâm? Con thật kinh sợ, mà cả đại chúng đây cũng đều nghi hoặc. Cúi xin đức Thế Tôn rủ lòng đại bi, chỉ dạy cho những kẻ chưa giác ngộ.
Bấy giờ đức Phật khai thị cho đại đức A Nan và đại chúng, muốn cho tâm mọi người được thể nhập vô sinh pháp nhẫn(41), từ nơi tòa sư tử(42), Ngài xoa đầu đại đức A Nan, dạy rằng:
– Như Lai thường nói, các pháp sinh khởi là do tâm biến hiện. Tất cả nhân quả, thế giới, vi trần, đều nhân nơi tâm mà có thể tánh. Này A Nan! Tất cả sự vật hiện có trong các thế giới, dù nhỏ mọn như ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, thắt nút, nếu gạn xét tận nguồn gốc thì đều có thể tánh; dẫu đến như hư không cũng còn có tên cùng tướng mạo, huống chi là cái tâm thanh tịnh, sáng suốt, nhiệm mầu, làm thể tánh cho tất cả sự vật, mà tự mình lại không có thể tánh hay sao? Nhưng, nếu thầy cố chấp hẹp hòi, cho cái tính suy xét phân biệt hiểu biết là tâm, thì cái tâm ấy phải có thể tánh hoàn toàn biệt lập, không dính dáng gì tới thể tánh của sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Còn như hiện giờ đây, thầy đang nghe Như Lai nói pháp, đó là do nơi âm thanh mà có phân biệt; cho dầu diệt hết tất cả thấy nghe hiểu biết đối với năm trần cảnh bên ngoài(43), bên trong chỉ giữ lấy cái cảnh giới tịch tĩnh của ý thức, thì cái cảnh giới tịch tĩnh ấy cũng vẫn là pháp trần(44), tức sự phân biệt bóng dáng của năm trần cảnh. Chẳng phải Như Lai bảo thầy phủ nhận cái tính phân biệt hiểu biết không phải là tâm, nhưng chính nơi cái tâm của thầy, thầy phải suy xét cho chín chắn, nếu rời trần cảnh trước mắt mà vẫn có sự phân biệt hiểu biết, thì đó mới chân thật là cái tâm của thầy! Nếu cái tánh biết, khi rời trần cảnh liền không còn tự thể, thì nó chỉ là sự phân biệt bóng dáng của trần cảnh mà thôi. Trần cảnh không thường còn, khi chúng biến đổi tiêu diệt thì cái tâm phân biệt trần cảnh ấy cũng không còn, đồng như lông rùa sừng thỏ; đến lúc đó thì pháp thân của thầy cũng thành ra đoạn diệt, còn có gì để tu chứng vô sinh pháp nhẫn?
Tức thì đại đức A Nan cùng cả đại chúng đều ngơ ngác, lặng im, không biết phải nói năng gì! Đức Phật bảo đại đức A Nan:
– Tất cả những người tu học trong thế gian, hiện tại tuy đạt được chín bậc định theo thứ lớp(45), nhưng vẫn không diệt sạch tận cùng phiền não, chỉ chứng quả A-la-hán, đều do cố chấp những vọng tưởng sinh tử này, lầm lạc cho đó là chân thật. Và cũng vì thế mà cho đến hôm nay, thầy tuy là người học rộng nghe nhiều, mà vẫn chưa thành tựu quả thánh.
Đại đức A Nan nghe Phật dạy như thế, lại buồn rầu rơi lệ, đảnh lễ Phật, rồi quì gối chắp tay, bạch Phật rằng:
– Từ khi phát tâm theo đức Thế Tôn xuất gia, con vì ỷ lại nơi oai thần của Thế Tôn mà thường tự nhủ mình, không cần phải tu hành khó nhọc, rồi đây đức Thế Tôn sẽ ban cho pháp chánh định. Con không biết rằng, thân tâm vốn không thể thay thế nhau, cho nên đã đánh mất bản tâm của mình. Vì vậy, con tuy thân thì xuất gia, mà tâm thì không thâm nhập chánh đạo; ví như đứa con cùng khổ đã bỏ cha mà chạy trốn. Hôm nay con mới biết, tuy có học rộng nghe nhiều mà không tu hành, thì có khác gì kẻ không nghe không học! Ví như người cứ nói ăn mà không ăn, thì chẳng bao giờ no được. Bạch đức Thế Tôn! Chúng con ngày hôm nay còn bị hai thứ chướng ngại(46) ràng buộc, do đó mà không nhận biết được cái tâm tánh tĩnh lặng thường trú; cúi xin đức Thế Tôn thương xót kẻ nghèo cùng rách rưới, phát khởi tâm sáng suốt nhiệm mầu, khai mở đạo nhãn cho chúng con!
Liền khi đó, đức Thế Tôn, từ nơi tướng cát tường ở trước ngực, phóng ra hào quang báu, ánh sáng rực rỡ, có trăm ngàn màu sắc, cùng lúc chiếu soi khắp thế giới chư Phật mười phương, soi sáng từ trên chư Phật ở hằng sa cõi nước, xuống đến đại đức A Nan và cả đại chúng. Đức Thế Tôn bảo đại đức A Nan rằng:
– Nay Như Lai vì thầy mà dựng cây cờ chánh pháp lớn, cũng khiến cho chúng sinh khắp mười phương đạt được cái tánh sâu kín nhiệm mầu, cái tâm trong sạch sáng suốt, và đạo nhãn thanh tịnh. Này A Nan! Trước hết thầy hãy trả lời câu hỏi của Như Lai: Lúc nãy thầy nói thầy thấy cái nắm tay chói sáng của Như Lai, vậy, ánh sáng của cái nắm tay do đâu mà có? Làm sao mà thành ra cái nắm tay? Và thầy lấy cái gì để thấy?
Đại đức A Nan thưa:
– Bạch đức Thế Tôn! Toàn thân Phật như vàng diêm-phù-đàn(47), sáng ngời như núi báu, hoàn toàn thanh tịnh, đã sinh ra ánh sáng ấy; quả thật con đã dùng con mắt để nhìn, thấy đức Thế Tôn co nắm năm ngón tay lại, đưa lên cho đại chúng xem, do đó mà có cái nắm tay.
Phật bảo đại đức A Nan:
– Hôm nay Như Lai sẽ đem sự thật trước mắt để nói cho thầy rõ. Những người có trí, chỉ cần dùng thí dụ là được khai ngộ. Này A Nan! Ví như cái nắm tay của Như Lai đây, nếu không có bàn tay của Như Lai thì cái nắm tay ấy không thành; nếu không có con mắt của thầy thì cái thấy của thầy không thành. Vậy thì, lấy nhãn căn của thầy mà so sánh với cái nắm tay của Như Lai, nghĩa lí của hai sự việc đó có giống nhau không?
Đại đức A Nan bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn, đúng như vậy! Đã không có con mắt của con thì cái thấy của con không thành; cho nên đem cái thấy của con mà so với cái nắm tay của Thế Tôn, cả sự việc và nghĩa lí đều giống nhau.
Phật bảo đại đức A Nan:
– Thầy nói giống nhau, nghĩa ấy không đúng. Vì sao? Nếu người không có bàn tay, thì tuyệt nhiên không bao giờ có nắm tay; nhưng người không có con mắt thì cái thấy không phải hoàn toàn là không có! Vì sao vậy? Thầy thử ra đường hỏi một người mù rằng: “Ông thấy cái gì không”, chắc chắn người mù kia sẽ trả lời thầy rằng: “Hiện trước mắt tôi chỉ thấy tối đen, không có gì khác!” Lấy đó mà suy xét thì trần cảnh ở trước mắt tự chúng tối đen, chứ cái tính thấy có hao tổn gì đâu?
Đại đức A Nan bạch Phật:
– Trước mắt những người mù chỉ thấy tối đen, đâu có thể gọi được là thấy?
Phật lại hỏi đại đức A Nan:
– Những người mù không có mắt chỉ thấy tối đen, và những người có mắt ở trong nhà tối, thì hai cái tối ấy khác nhau hay không khác nhau?
– Thật vậy, thưa đức Thế Tôn! Người ở trong nhà tối này và những người mù kia, hai cái tối ấy so ra không có gì khác nhau.
– Này A Nan! Người mù hoàn toàn thấy tối đen, bỗng nhiên con mắt được sáng ra, trở lại thấy được mọi cảnh vật trước mắt, thì gọi là con mắt thấy; còn người ở trong nhà tối kia, trong khi đang hoàn toàn thấy tối đen, bỗng nhiên có đèn sáng, cũng thấy rõ được mọi cảnh vật trước mắt, trường hợp này, chẳng lẽ thầy cũng bảo là cái đèn thấy hay sao? Nếu quả thật cái đèn thấy được, thì tự nó không thể gọi là đèn; vả lại, giả sử cái đèn thấy được thì cũng đâu có liên quan gì tới thầy? Vì vậy mà biết rằng, cái đèn chỉ có công năng làm cho cảnh vật sáng tỏ, nhưng thấy là con mắt thấy, chứ không phải cái đèn; cũng vậy, con mắt chỉ làm cho cảnh vật hiển lộ, còn thấy là TÂM thấy, chứ không phải mắt!
Đại đức A Nan cùng với đại chúng được nghe lời Phật dạy như thế, tuy miệng im lặng nhưng tâm chưa khai ngộ, vẫn còn mong đức Phật từ bi chỉ dạy thêm, nên chắp tay, một lòng thanh tịnh, chờ Phật thương xót dạy bảo.
Bấy giờ đức Thế Tôn duỗi cánh tay mềm mại sáng ngời, mở năm ngón tay ra, bảo đại đức A Nan cùng đại chúng rằng:
– Như Lai khi mới thành đạo, ở trong vườn Nai(48), từng dạy nhóm sa môn A Nhã Đa(49) gồm năm thầy tì kheo rằng: “Tất cả chúng sinh không chứng thành quả vị Bồ-đề cùng A-la-hán, đều do bị phiền não khách trần(50) mê hoặc.” Thuở đó quí thầy nhân đâu mà được khai ngộ và thành tựu quả thánh?
Bấy giờ tôn giả Kiều Trần Na(51) đứng dậy bạch Phật:
– Con hôm nay đã già cả, ở trong đại chúng riêng được cái tên là “Giải”, nhân ngộ được hai chữ “khách, trần” mà chứng quả. Bạch đức Thế Tôn! Ví như người hành khách vào nghỉ nơi quán trọ, hoặc ngủ, hoặc ăn; ngủ, ăn xong lại thu xếp hành trang lên đường, không ở yên được; chỉ có người chủ quán trọ mới không phải đi đâu. Từ ví dụ này mà con nghĩ rằng: Không ở yên thì gọi là “khách”; còn ở yên thì gọi là “chủ”. Và như vậy, con xin lấy sự “không ở yên” để nói lên ý nghĩa của chữ “khách”. Lại như khi trời quang tạnh, mặt trời sáng tỏ trên không trung, ánh sáng chiếu xuyên qua khe hở, làm hiện rõ những hạt bụi trong hư không; bụi bặm thì dao động, hư không thì lặng yên. Từ ví dụ này mà con nghĩ rằng: Lặng yên thì gọi là “không”; còn dao động thì gọi là “trần”. Và như vậy, con xin lấy sự “dao động” để nói lên ý nghĩa của chữ “trần”.
Đức Phật dạy:
– Đúng vậy!
Liền khi ấy, đức Thế Tôn ở trước đại chúng nắm năm ngón tay lại, nắm rồi mở, mở rồi lại nắm, rồi hỏi đại đức A Nan rằng:
– Bây giờ thầy thấy gì?
Đại đức A Nan thưa:
– Con thấy bàn tay quí báu của đức Thế Tôn lúc nắm lúc mở ở trước đại chúng.
Phật hỏi đại đức A Nan:
– Thầy thấy bàn tay của Như Lai nắm mở trước đại chúng, như vậy là bàn tay của Như Lai có nắm có mở, hay là cái thấy của thầy có nắm có mở?
Đại đức A Nan thưa:
– Bàn tay quí báu của đức Thế Tôn nắm mở trước đại chúng, con thấy chính bàn tay đức Thế Tôn khi nắm khi mở, chứ không phải cái thấy của con có nắm có mở.
Đức Phật hỏi:
– Cái gì động? Cái gì tĩnh?
Đại đức A Nan thưa:
– Bàn tay của đức Thế Tôn không đứng yên; chứ tính thấy của con, sự tĩnh còn không có, thì lấy gì mà gọi là động!
Phật dạy:
– Đúng vậy!
Bấy giờ đức Phật, từ trong bàn tay phóng ra một luồng ánh sáng, chiếu đến bên phải của đại đức A Nan, đại đức liền quay đầu ngó bên phải. Đức Phật lại phóng một luồng ánh sáng chiếu sang bên trái của đại đức A Nan, đại đức lại quay đầu ngó bên trái. Rồi đức Phật hỏi đại đức A Nan:
– Cái đầu của thầy vừa rồi nhân đâu mà cử động?
Đại đức A Nan thưa:
– Con thấy đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng quí báu, chiếu đến bên phải và bên trái con, cho nên con quay nhìn bên phải và bên trái, cái đầu con tự nó cử động.
– A Nan! Thầy nhìn ánh sáng của Như Lai mà cái đầu dao động, quay sang phải rồi quay sang trái, đó là cái đầu của thầy dao động, hay cái thấy dao động?
– Bạch đức Thế Tôn! Đó là cái đầu của con tự nó dao động; chứ tính thấy của con, sự dừng lại còn không có, huống gì là sự dao động.
Phật dạy:
– Đúng vậy.
Rồi đức Phật bảo khắp đại chúng:
– Nếu có chúng sinh lấy sự dao động mà gọi đó là trần, lấy sự không ở yên mà gọi đó là khách; thì quí thầy hãy xem thầy A Nan kia, đầu tự dao động mà tính thấy không dao động, cũng như quí thầy xem bàn tay Như Lai tự nắm tự mở, chứ tính thấy không duỗi không co. Vậy tại sao hiện giờ quí thầy vẫn lấy cái động làm thân, lấy cái động làm cảnh; mà chẳng biết rằng từ đầu đến cuối chỉ là niệm niệm sinh diệt! Quí thầy đã bỏ mất chân tánh, toàn làm việc điên đảo. Vì tâm tánh không chân thật cho nên quí thầy đã nhận vật làm mình, tự chuốc lấy sự trôi nổi xoay vần trong các nẻo luân hồi!
(Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
Tâm sanh phiền não pháp cũng sanh
Tâm diệt phiền não pháp cũng diệt
Chẳng có chẳng thật cũng chẳng không
Xoay vần theo duyên mà biến hiện
Theo mê tạo nghiệp, nghiệp chồng nghiệp
Hồi đầu sợ khổ gieo pháp lành
Niệm mê sanh lên liền có pháp
Niệm mê dứt trừ pháp cũng không
Vạn duyên vạn pháp đều như vậy
Tự tánh thanh tịnh chẳng nhiễm ô.
Vô niệm niệm tức chánh
hữu niệm niệm tức tà
hữu vô đều chẳng chấp
tự tánh luôn luôn hiện
Ko sanh diệt tức chánh
Có sanh diệt tức tà
Rõ biết pháp sanh diệt
Trong lòng vạn điều vui.
Mê ngộ vốn đồng thể
khác biệt trong một niệm
tu đạo nhìn nơi tánh
nơi cầu mà không cầu
bên ngoài hiện an vui
tâm tánh vốn sẵn có
thanh tịnh chẳng nhiễm trần
thường nấy giặc làm bạn
bờ tới ko còn xa
Này Thăng, giặc chẳng phải bạn, cảnh giác đề phòng và xa chúng ra, ko được lấy chúng làm bạn, chúng sẽ kéo thăng ra xa bờ giác đấy, phải gần bạn lành, gần pháp lành, ai thường làm bạn với giặc, thường gần chúng thì sẽ bị chúng hại chết, bạn xấu chỉ hại ta được một lúc, một đời nhưng pháp xấu, giặc xấu hại ta cả ba đời ko có hồi kết, rất đáng sợ, chúng khiến cho pháp lành xa rời ta, chúng kéo ta đến tận cùng những khổ đau. Thăng phải thật cẩn thận, khéo tư duy, khéo học, khéo dùng câu từ ko thì lại có những việc ko đáng có.
Haha chào chú NP đã mấy tháng ko cùng chú nói chuyện rồi cứ như là và ba năm liền vậy, dạo này chú vẫn khỏe cứ ạ. A di đà phật.
Chú biết tại sao Thăng lại nói là nấy giặc làm bạn ko, chú hiểu nhầm ý Thăng rồi. Ý Thăng muốn nói ở đây là khi mà chúng ta học phật, thường là bị vướng vào ma chướng thì cứ sau mỗi lần thử thách bản thân. Bản thân Thăng lại cảm thấy cảnh giác hơn, dần xa lìa điên đảo, cho mình mỗi ngày tốt hơn,… Xem lũ giặc như Phật, bồ tát vậy thử thách thử thách mình xem mình ra sao. Và một điều quan trọng nữa là đừng bao giờ bị nó đánh lừa, xem nó là bạn nhưng phải trên phương diện nào bạn tốt tốt như nào?? Đấy chú có hiểu ý Thăng ko, bây giờ con nói như vầy thì khó hiểu quá nhỉ. Con có ví dụ nhé ví như ta ra chợ mua rau ví dụ là ông này ông lừa mình là rau chỉ có 10k/ 1 cân, ông ta nấy nên tận 15k chẳng hạn. Thì ta dùng phương tiện có được xem ông này lừa mình rồi thấy mình lần đầu ra chợ đây, mình ko mua của ông ta nửa. Và lần sau gặp thì mình ko mua rau ông ấy bán nữa và mình cảm ơn ông ấy nữa là khi đi ra chợ nên cẩn thận hơn kẻo họ bớt của ta hay lừa ta. Nhưng nói ví dụ như vậy nếu ngoài đời biết là lưà thì mặc cho người ta lừa, còn trong phật pháp mà để lũ giặc lừa thì cũng hơi là vất vả như trên chú cũng nói. Quan trọng là mình phải dùng phương tiện gì để phân biệt đây, Trí Tuệ được chăng, dựa vào kinh,… Nói chung là như vậy đó chú ạ, hihi thôi con dài dòng quá. À chú làm kệ tiếp đi, chú làm kệ hay lắm chú cứ làm đi.
A Di Đà Phật
Ví như thầy trò Đường tăng, trải qua 81 kiếp nạn mới có thể nấy kinh từ chỗ Phật Tổ về nhà Đường được. Trong quá trình nấy kinh ko biết bao gian khổ có thối chí xong cuối cùng vẫn nấy được kinh về, nếu giả như chẳng có 81 kiếp nạn ấy liệu rằng Thầy trò Đường tăng có thành công ko, nếu ko có các yêu quái, sắc vọng,.. Thì họ cũng sẽ chẳng thành công vì đến một sự thành công nào đó cho dù là nhỏ họ vẫn phải vượt qua. Cuối cùng nếu ko nhờ ơn các yêu quái thì 5 người đấy có nấy đc kinh chăng, cũng xem như là yêu quái ấy cũng góp phần tạo nên. Nhưng nói như vậy chúng ta phải cảnh giác GIẶC vì sa chân một chút là thất bại, là mất hết,… chúng vừa là gió, là sóng cản thuyền ta đi rốt cuộc chúng vẫn là người bạn tốt của ta, Bạn ở đây có hai nghĩa. Tóm lại là Giặc là bạn nhưng bạn lại nhiều bạn không nhất thiết chỉ có Bạn là Bạn thân đâu. Khi sóng gió làm ta dừng bước cũng có lúc nó lật thuyền ta xuông nước, rồi khi ta đến bờ ta sẽ thấy nếu chẳng có chúng ta sẽ chẳng biết phòng thủ, dự bị cho những lần sau, ta mới nghĩ rằng cảm ơn chúng mày tuy chúng mày hại tao xong tao rất cảm ơn chúng mày nếu ko chúng mày có lẽ ta đã bị lật thuyền từ lâu rồi. Con đường tu học ta cũng vậy quãng đường phía trước còn dài biết có gió có sóng nhưng vẫn đi biết khổ vẫn đi, đi để biết để Tìm Lại Tự Tánh đã mất. Vậy nên Giặc là bạn, là bạn đồng hành, vì suốt quãng đường vẫn có nó để an ủi thêm động viên mà
Chú biết ý thăng, khéo biết là đằng khác, nên chú nói thăng phải dùng từ thật kỹ, thật cẩn thận, tư duy thật chắc, thật sâu, lời nói phải rõ ràng, trước là nói lên cái ý cái tâm đắc của mình, sau là chia sẻ cho mọi người cùng xem, vì đây là diễn đàn, có rất nhiều bạn hữu dõi theo, cho nên lời nói càng rõ ý càng tốt, ko khiến người nghe hiểu lầm. Cũng lâu rồi ko thấy Thăng cm liên lạc sợ thăng ko tinh tấn, ráng tu học, ráng giữ đạo tâm, cái nào hay,tâm đắc thì cố gắng dùng phương tiện để chia sẻ, phương tiện như thế nào thì Thăng xem nhiều kinh Phật vào. Thấy thăng tinh tấn vậy là tốt lắm. Chào thăng nhé. Nhớ “lựa bạn lành mà theo học”.
“Từ lúc biết đến Trang Diệt Dục, mình đã biết và nhận thức rõ hơn về khoái lạc dâm dục và tình ái làm cho con người ta đau khổ. Trước kia mình rất hay thủ dâm, thường hay xem hình ảnh nhạy cảm và xem phim sex. Mình cứ hưởng thụ khoái lạc vô độ,ngày thủ dâm hai lần, mọi chuyện cứ thế tiếp diễn cho tới khi mình mắc bệnh Lao – trong độ tuổi sung mãn nhất của đời người – tuổi 20.
Mình như một bộ xương khô, gầy tong teo lúc nào đi học cũng bị bạn bè chê cười. Trời đất như đổ sụp xuống, mình ho rất nhiều, ho mấy tháng không hết, dù đã uống thuốc của rất nhiều bác sĩ.
Trong một lần khám bệnh tống quát mới phát hiện mình mắc bệnh Lao. Sức khỏe mình suy giảm một cách trầm trọng: uống thuốc Lao rất mệt, ăn không còn chút gì ngon miệng nữa.
Mình bỏ bê mọi việc chỉ chăm lo cho sức khỏe thôi, rất may vì khoảng thời gian mình phát hiện ra bệnh là đầu mùa hè, nên uống thuốc và nằm nghỉ ở nhà một cách an nhàn. Trong lúc bệnh khổ, mình nhớ lại câu chuyện mẹ hiền Quan Âm mà mẹ mình kể ngày xưa, mình liền thầm niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Mình niệm ngày này qua ngày kia, tính dâm dục cũng bớt và mình không còn nghĩ đến những chuyện bậy bạ nữa.
Và từ khi niệm Mẹ Hiền Quan Âm, mình đã tìm hiểu tiếp xúc các trang Phật giáo nhiều đến mức nào mà mình chẳng hề hay biết. Có lẽ Mẹ Hiền Quan Âm từ bi nên độ hộ gieo duyên giúp mình tìm đến các trang Phật giáo để cứu độ mình. Mình bắt đầu hiểu ra căn nguyên căn bệnh, mình đã trót hưởng hết phước chỉ vì khoái lạc của thủ dâm.
Kể từ ngày thủ dâm đầu tiên, đầu óc của mình lúc nào cũng đen tối, bức rứt khó chịu, tim đập nhanh và nhiều lúc cảm thấy khó thở, sợ hãi khi tiếp xúc với người khác và mặt lúc nào cũng đỏ bừng, đổ mồ hôi khi đứng lên phát biểu trước lớp, sức học của mình giảm xuống rõ rệt và tính tình mình cũng ngày càng cáo rắt, hay giận dữ.
Mình ít nói chuyện với mọi người hơn lúc nào cũng nằm trên giường và tưởng tượng ra một thế giới cho riêng mình – một thế giới không hơn không kém….Đêm nằm ngủ, mình chưa bao giờ được ngủ yên, các ý nghĩ đen tối cứ luôn bủa vây và xuất hiện trong tâm trí mình, kể cả lúc ngủ rồi cũng vậy. Trong mơ mình cũng thấy những cảnh đó, bứt rứt khó chịu vô cùng, cuộc sống lúc đó cứ như Địa Ngục vậy!
Sau khi tiếp xúc với các trang web Phật pháp, đọc các bài thuyết giảng của các Sư Thầy và Sư Cô mình bắt đầu niệm Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát mỗi ngày, tính dâm dục của mình cũng giảm dần đi, nhưng hễ ngày nào mình không niệm Phật là mình lại trót thủ dâm, sau khi thủ dâm xong thì mình cảm thấy có lỗi với Phật vô cùng và ngày hôm sau, hôm sau nữa mình lại niệm Phật.
Mình đã rất cố gắng để từ bỏ thủ dâm kể từ hai tháng nay. Nhưng cứ được chưa tới 5 ngày mình lại phải thủ dâm tiếp, thật thống khổ vô cùng! Đức Phật từ bi thương xót cho những ai nhớ đến Phật.
Mình để ý là kể từ khi mình niệm Phật, mỗi khi đầu óc mình đen tối và có ý nghĩ sẽ thủ dâm thì có một điều vô hình nào đó ngăn mình làm điều ấy. Chính Đức Phật đã thương xót và gia hộ cho mình. Ngài đã gửi mẹ mình đến tiếp xúc, nói chuyện với mình mỗi khi mình định làm điều ấy và bản thân mình không thể hiểu nổi khi mình định thủ dâm thì mình lại mở điện thoại lên và vào các trang Phật giáo một cách vô thức…Dù không biết vô tình hay ngẫu nhiên, con xin cảm ơn Đức Phật rất nhiều, con sẽ cố gắng đoạn tuyệt dâm dục và sống tốt hơn, giúp đỡ mọi người nhiều nhất có thể.
Sức khỏe của mình cải thiện rất nhiều sau khi từ bỏ thủ dâm, tính tình cũng dịu hẳn đi không còn bực tức, bứt rứt khó chịu nữa, mình cũng mở lòng ra tiếp xúc với mọi người nhiều hơn, trái tim mình dịu nhẹ đi, không còn đập nhanh nữa, mình đang sống trong những phút giây được sống. Các bạn à, cố gắng lên nhé, cuộc đời là vô thường, khoái lạc chỉ là nhất thời mà thôi, hãy sống tốt, niệm Phật, thiền định, tìm hiểu Phật Pháp, truyền bá Phật Pháp và giúp đỡ mọi người.
Khi ấy các bạn sẽ cảm thấy cuộc sống của mình thật tuyệt vời! Xin các bạn hãy từ bỏ dâm dục và những khoái lạc để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp và cao thượng hơn. Cuộc sống của mình đã chuyển biến rất tốt sau khi mình cố gắng từ bỏ thủ dâm. Mình sẽ tiếp tục và các bạn hãy cố gắng nhé!
Ngày hôm nay mình viết dòng cảm nhận này để cảm ơn Trang, các Cô chú, anh chị, Sư Thầy, Sư Cô và các vị đạo hữu rất nhiều ! Cảm ơn các bạn đã đọc những dòng cảm nhận của mình và mình rất cảm ơn nếu sau khi đọc xong những dòng cảm nhận của mình mà các bạn quyết định từ bỏ dâm dục. Chúc các bạn an lạc! A Di Đà Phật!”
( trích trong Diệt dâm dục)
Nam Mô A Di Đà Phật ! Xin chân thành cảm tạ vô cùng nhiệt tâm giúp đỡ của các Đạo Huynh, tôi biết rõ các Huynh hơn tôi cả về tuổi Đời lẫn tuổi Đạo nên mới có thể đưa ra những phân tích tâm lý sâu sắc, thấu triệt như vậy! đặc biệt là phân tích của Đạo Huynh Phước Huệ và Thiện Nhân! A Di Đà Phật ! Xin cảm ơn thật nhiều – những người bạn thiện tri thức đã ở bên tôi trong lúc này . Đúng là gần đây, tôi bị tác động tâm lý rất mạnh từ những chướng ngại trong cuộc sống, nhưng tôi đang và sẽ tiếp tục ” lội ngược dòng “, không xa rời giáo pháp mình đã lựa chọn. Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật !
A Di Đà Phật
TĐ có đôi chút thắc mắc, mong hai bạn Lê Văn Thăng và Nguyễn Phú có thể giải nghĩa những câu kệ cho TĐ cùng các liên hữu khác cùng được tỏ ngộ không?
Bạn Lê Văn Thăng viết:
Vô niệm niệm tức chánh
hữu niệm niệm tức tà
hữu vô đều chẳng chấp
tự tánh luôn luôn hiện
Sao gọi vô niệm niệm? Sao gọi hữu niệm niệm? Sao gọi hữu vô đều chẳng chấp? Sao gọi tự tánh luôn luôn hiện? Sao gọi vô niệm là chánh? Sao gọi hữu niệm là tà?
Bạn Nguyễn Phú viết:
Ko sanh diệt tức chánh
Có sanh diệt tức tà
Rõ biết pháp sanh diệt
Trong lòng vạn điều vui.
Sao gọi không sanh diệt? Sao gọi có sanh diệt? Sao gọi rõ biết sanh diệt? Sao gọi trong lòng vạn điều vui? Sao gọi không sanh diệt là chánh? Sao gọi có sanh diệt là tà? Vạn điều vui là tà hay chánh?
Tri ân công đức của hai bạn.
TĐ
Xin kính chào sư huynh Trung Đạo.
NP chỉ cao hứng mà làm một vài câu thơ. Ko sanh diệt ý NP nói là Phật tánh, còn có sanh diệt ý nói các hạnh vô thường của sinh tử, thế gian cũng có thường lạc ngã tịnh, nhưng chẳng thật, mơ hồ, như cát bụi, chúng lại là nguyên nhân khiến cho ta đau khổ nên gọi là vô thường, chẳng thật, là tà, chỉ có thường, lạc, ngã, tịnh của xuất thế gian mới chân thật, ko sanh ko diệt, nhưng vì phiền não che mất mà ta chẳng thấy, đức Phật từ bi chỉ dạy cho ta, nhờ hồi đâu theo học pháp lành mà rõ biết, chẳng điên đảo, chằng mơ hồ, chẳng bị cái vô thường của thế gian làm điên đảo, thân tâm đặng an ổn, cái yên vui này chẳng giống cái yên vui của thế gian kia, cái yên vui này là chân thật.
Chúng ta sống trong tam độc…ko tin, ko theo học Phật nên lầm tưởng những sự vui của thế gian, tìm cầu…tranh giành…hại nhau rồi trôi nổi trong biển sinh tử, tuy nói chúng vô thường nhưng chúng lại hiện hữu, cũng đem đến sự khoái lạc cho thân…đánh lừa được lục căn mà khiến ta mất cảnh giác, lao theo tìm cầu, bỏ mất chánh pháp…dần lâu mà theo đó chịu khổ, dần lâu ko tin ko chịu học phạm hạnh, nhận giặc làm cha, nhận phiền não, nghiệp nhân của sinh tử làm người thân. Phật tánh vốn sẵn có nhưng bị phiền não….che mờ, khiến ta chẳng thấy, chẳng rõ, nhờ niềm tin theo pháp lành ta dần đoạn diệt vô minh khiến cho phiền não tan mất, trí tuệ khai mở, ta rõ biết sinh tử, rõ biết nhân duyên, nhờ rõ biết ta đặng an vui, đặng tự tại, ko bị sinh tử trói buộc, ko bị vô minh làm mê mờ. Như trẻ con vì chẳng biết nguy hiểm của dòng nước, thích đùa nghịch với nước mà rơi xuống dòng nước khiến mất mạng, như người lớn vì biết nguy hiểm nên học bơi, dù rơi xuống dòng nước nhưng chẳng bị mất mạng.
A DI ĐÀ PHẬT!!! A DI ĐÀ PHẬT!!! A DI ĐÀ PHẬT!!!Hay quá!!
A Di Đà Phật
Cảm ơn NP đã giúp cho TĐ và các liên hữu sơ phát tâm hiểu rõ nghĩa hơn.
Bạn Lê Văn Thăng:
Mê ngộ vốn đồng thể
khác biệt trong một niệm
tu đạo nhìn nơi tánh
nơi cầu mà không cầu
bên ngoài hiện an vui
tâm tánh vốn sẵn có
thanh tịnh chẳng nhiễm trần
thường lấy giặc làm bạn
bờ tới ko còn xa
Mong bạn hoan hỉ cắt nghĩa cho TĐ và các liên hữu hiểu rõ những câu thơ bạn chia sẻ:
1. Mê ngộ vốn đồng thể
khác biệt trong một niệm
Mê ngộ đã đồng một thể sao còn có khác biệt trong một niệm?
2. tu đạo nhìn nơi tánh
nơi cầu mà không cầu
Nhìn nơi tánh là tánh nào? Tại sao nơi cầu mà không cầu? Nơi cầu là nơi nào? Nơi không cầu là nơi nào?
3. bên ngoài hiện an vui
tâm tánh vốn sẵn có
Nếu sẵn có tại sao chúng sanh vẫn sống trong khổ nạn? Nếu vậy chúng sanh chúng ta đâu cần phải tu đạo nữa?
4. thanh tịnh chẳng nhiễm trần
thường lấy giặc làm bạn
Thế nào là thanh tịnh. Thanh tịnh chẳng nhiễm trần là trần nào? Tại sao lại lấy giặc làm bạn?
TĐ tri ân bạn.
Vua Diêm Vương khuyên bà lão tuổi đã 70 niệm Phật
Ở tại xã Châu Lâm, huyện Kim Đàn, xứ Trân Giang. Bà này chết xuống âm
phủ, nhưng chưa hết số phải trở về lại nhân gian. Trước khi bái biệt Diêm Vương để trở về chổ cũ, Diêm Vương khuyên bà lão: Bà đã cao niên rồi, khi trở về dương thế lo tu phước đức sẽ được sanh đến cảnh giới an vui . Ngài lại hỏi bà niệm Kinh được không? Bà đáp:
Thưa Đại Vương! Con không biết chữ tụng không được. Diêm Vương bảo không sao! Bà tụng kinh không được, chỉ thành tâm niệm Phật A Di Đà cho nhiều, đến kỳ mãn số sẽ về Tây phương Cực Lạc, không còn trở lại chốn này. Sau khi bà lão sống lại, bà thường nói với những người quen biết rằng: Tôi từ nào vô phước không ai chỉ dạy tu hành tụng kinh niệm Phật. Hôm nay nhân chết xuống âm phủ, vua Diêm Vương dạy tôi niệm Phật, do đó tôi biết đạo Phật không gì hơn. Đức Diêm Vương mà còn khuyên tôi niệm Phật, thì đâu nghi ngờ gì nữa.Từ nay tôi nguyện gác bỏ tất cả mọi việc, đói no không quản đến, con cháu nó có thương cho bữa đói bữa no gì cũng được. Bà từ đấy chuyên tâm niệm Phật, lại sống lâu 120 tuổi mới mãn phần. Khi bà sắp qua đời không bệnh khổ gì lắm, chỉ mệt không đi đứng được nhiều như ngày thường, rồi niệm Phật mà thoát hóa. Cứ theo truyện này thì thấy có hai điều đặc biệt. Một là bà lão chắc chắn được vãng sanh vì bà niệm Phật không bê trễ, chẳng những từ ngày xuống âm phủ rồi về nhân gian, mà lúc lâm chung chánh niệm hiện tiền. Hai là do niệm Phật mà thọ số rất cao, lại không bệnh khổ.
(Trích: OAI ĐỨC CÂU NIỆM PHẬT – Thượng Tọa Thích Trí Minh)
Quý vị có thể cho biết tại sao một cơn sân giận nổi lên có thể thêu đốt cả rừng công đức và điều này được Phật nói đến trong kinh nào ạ?
Giấc Mơ Mầu Nhiệm
Đây là câu chuyện do chính bố tôi kể lại: Ngày trước, khi đất nước còn đang chiến tranh, ông nội tôi cũng như các thanh niên thời ấy phải đi lính ra chiến trường. Bà nội lúc đó đang mang bầu bố tôi. Cả nhà tôi đều có truyền thống theo đạo Phật. Bà nội ngày rằm luôn đi chùa, phóng sanh, bố thí dù nhà cũng không khá giả gì nhưng bà luôn tin vào nhân quả của việc thiện. Mỗi tối, bà nội tôi còn tụng kinh Phổ môn để cầu mong cho gia đình an ổn, mọi sự bình yên….
Một đêm trong cuộc hành quân, trời mưa rả rích, ông nội tôi đang mơ màng chợp mắt nghỉ ngơi thì chợt thấy người phụ nữ áo trắng, vội vàng đi tới lay mạnh ông dậy rồi nói:
– Về gấp đi! Vợ ông sắp sinh rồi!
Ông tôi giật mình tỉnh giấc thì người phụ nữ ấy biến mất. Hóa ra là một giấc mơ, nhưng sao giấc mơ đó thật quá! Ông tôi tự nhủ như vậy nhưng chợt như có linh cảm về chuyện gì đó và lo cho bà nội tôi ở nhà. Ông liền xin với chỉ huy được về nhà vài ngày để thu xếp việc gia đình. May mà chiến sự lúc ấy không căng nên được cấp trên đồng ý. Ông nội liền cấp tốc về ngay. Nhưng khi về tới nhà, bà tôi vẫn bình thường, không bị sinh non hay trở ngại gì. Ông tôi kể lại giấc mơ đó cho bà, nghe xong bà trách:
– Chuyện mộng mị mà ông cũng tin được à. Vì chuyện nhỏ mà làm ảnh hưởng tới chuyện lớn là không được đâu. Thôi, ông quay lại với đơn vị đi.
Ông nội nghe lời bà, vội vàng quay lại nhưng chưa kịp tới nơi thì liền nghe tin động trời: Cả đơn vị ấy ngày hôm sau bị phục kích, không một ai sống sót! Cấp trên liền nghi ngờ ông tôi là gián điệp nên điều tra nhưng không tìm ra được chứng cứ buộc tội vì ông cũng có giấy phép xin về đàng hoàng. Nhưng sau đó, ông bị chuyển công tác về hậu phương và bị quản lý rất chặt. Ông tôi không phải ra chiến trường ác liệt đẫm máu kia nữa. Nghĩ theo một khía cạnh khác thì cũng có thể coi đây là một điều may.
Sau này khi bố tôi sinh ra, ông nội vẫn kể lại chuyện này và nói:
– Có lẽ con là trường hợp đặc biệt nhất vì chưa sinh ra đời nhưng đã cứu bố rồi. Hoặc là do nhờ người phụ nữ kia, nhưng bố chưa bao giờ được gặp lại vị ấy lần nào, kể cả trong mơ để nói tiếng cảm ơn.
Khi tôi được nghe bố kể câu chuyện này cũng là khi ông nội tôi mất được vài năm. Kể xong, đôi mắt bố tôi lại đỏ hoe, tôi không dám hỏi lý do vì sao, có lẽ bố đang nhớ lại những kỷ niệm ngày xưa khi ông bà nội tôi còn sống? Cả hai ông bà đều sống thật thà, chất phác, chẳng làm điều gì trái với lương tâm bao giờ. Con cháu của ông bà luôn hiếu thảo, thuận hòa, nên khi nhắm mắt xuôi tay thuận theo lẽ vô thường, ông bà ra đi rất thanh thản.
Vì tính tò mò nên tôi cố gắng hỏi bố người phụ nữ áo trắng xuất hiện trong giấc mơ của ông nội lúc ấy là ai? Nhưng bố tôi chỉ mỉm cười lắc đầu:
– Lúc ấy bố còn nằm trong bụng bà thì làm sao biết được? Nghe ông kể như thế nào thì bố chỉ thuật lại như vậy thôi! Nhưng bố vẫn luôn tin vào sự gia hộ của Tam bảo, đó không phải là niềm tin mù quáng, mà đó là niềm tin vào Từ bi và Trí tuệ của đạo Phật con à!
Khi nói điều này xong, chợt mắt bố nhìn xa xăm như hiểu ra được điều gì. Ở tầng trên, tiếng mẹ tôi tụng kinh Phổ môn cứ vang vọng mãi trong đầu tôi như một câu trả lời thật đẹp cho sự mầu nhiệm trong tu tập:
“ …Trí huệ quán bao la,
Bi quán và từ quán,
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Ánh hào quang thanh tịnh,
Chiếu xuyên màn u tối,
Tiêu diệt lửa tai ương,
Thế gian bừng chói sáng…”.
Quảng Minh
Nguồn Giác Ngộ
THÂM DIỆU THIỀN KỆ
Nguyên văn
Hữu đại phước đức thỉ niệm Phật
Phát Bồ Đề tâm tu thập thiện
Phật thuyết vô thượng thâm diệu thiền
Thiển nhân đương tác thiển pháp khán
Tứ nghi trang nghiêm tam nghiệp tịnh
Kiêm thủ trọng giới vật thiểu phạm
Đả phá nhân ngã thị phi quan
Phóng hạ sanh bình nhàn tri kiến
Đàm huyền thuyết diệu bất tương can
Tam tự chân truyền lão thật niệm
Chỉ thử tức thị trường dạ đăng
Khổ hải từ hàng trảm ma kiếm
Yêu bạt đa kiếp sanh tử căn
Trực biền thử thân tác ngai hán
Ngũ tông bát giáo nhất cú thâu
Thiết mạc niệm ngoại mích phương tiện
Quá hoản quá cấp đồng thị bịnh
Cường tuởng nhất tâm tâm dụ loạn
Chí kiên như cương khí như miên
Bất gián bất tạp tự thành phiến
Nhân tâm quả Phật hỗ cảm ứng
Căn thân khí giới tiềm chuyển hoán
Phiền não vi phục niệm bất nhất
Tập khí bất trừ Phật bất hiện
Thiên vạn cú như nhất cú thời
Hà sầu bất kiến Di Đà diện
Thử sự phi dị diệc phi nan
Tam muội toàn bằng Tín Nguyện Hạnh
Tạm dịch
Có đại phước đức mới niệm Phật
Phát Bồ Đề tâm tu thập thiện
Phật nói vô thượng thâm diệu thiền
Người thường xem như pháp nông cạn
Oai nghi trang nghiêm nghiệp thanh tịnh
Kiên quyết giữ giới đừng để phạm
Phá bỏ cửa nhân ngã thị phi
Buông bỏ bình sanh điều hiểu biết
Nói huyền nói diệu không liên can
Ba chữ chân truyền thật thà niệm
Đó là cây đèn trong đêm tối
Thuyền trong biển khổ kiếm chém ma
Nhổ gốc sanh tử trong nhiều kiếp
Liều thân này làm kẻ ngu ngốc
Năm tông tám giáo một câu tóm
Đừng ở ngoài niệm tìm phương tiện
Chậm quá nhanh quá đều là bịnh
Càng mong nhất tâm tâm càng loạn
Chí cứng như sắt, dạ như tơ
Không gián không tạp tự thành phiến
Nhân tâm quả Phật cùng cảm ứng
Thân thể cảnh giới dần chuyển biến
Phiền não chưa dứt niệm không nhất
Tập khí không trừ Phật không hiện
Lúc ngàn vạn câu như một câu
Đâu lo không thấy mặt Di Đà.
Chuyện này không dễ cũng không khó
Tam muội đều nhờ Tín Nguyện Hạnh
(Trích THƠ NHẮC NHỞ NGƯỜI NIỆM PHẬT – Biên soạn Ngài Hoàng Niệm Tổ – Nguyên tác Ngài Hạ Liên Cư)
Trong kinh bát nhã, có câu “sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắt tức thị không, không tức thị sắc” , Printemps tạm hiểu sắc như không (vô tướng). Nhưng làm sao thực tế, mình quán chiếu được điều này? Khi mà “thị” nhìn sắc, đã sinh ra “cảm, thọ” rồi, từ tâm sinh ra luyến ái? Nếu dùng phép “thân này là giả hợp, thật ra bên trong thối nát” nhưng nếu gặp một người có tâm hồn đẹp, kiến thức rộng (không phải do sắc) thì tâm vẫn động? Vậy dùng phép gì để phá chấp đây?
A Di Đà Phật
Chúng ta có tới 6 căn lận, chứ chẳng phải chỉ có Nhãn (thấy sắc) không thôi, ví dụ tai nghe âm thanh cũng dễ bị đắm nhiễm vậy… Để điều phục chúng chẳng phải dễ, gọi là đối cảnh chẳng sanh tâm, ‘Thức chuyển thành trí’ (ngũ thức thành trí, ý thức thành trí, Mạt na thức thành trí và tạng thức thành trí). Điều này chẳng dễ dàng, phải dùng pháp gì?
Phật dạy rằng
“Niệm Phật là pháp môn đệ nhất dùng để chuyển thức thành trí, mà chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.”
Trong bài kệ, Ngài Hạ Liên Cư có viết
“Đàm huyền thuyết diệu bất tương can
Tam tự chân truyền LÃO THẬT NIỆM”
Chúng ta liệu đã chịu vâng lời, thật hành?
Nam Mô A Di Đà Phật.
Mình nghĩ bạn cứ công phu niệm Phật rồi sẽ có câu trả lời.
A Di Đà Phật
Bạn Printemps,
Bạn lấy gì để nhận biết người đó có “tâm hồn đẹp, kiến thức rộng”?
Nhãn căn? Nhĩ căn? hay Ý căn?
TĐ
Cảm ơn các Anh Chị Tâm Tịnh và Trung Đạo, Printemps dùng cả 3 ạ. Thật khó để nói như thế nào là tâm hồn đẹp, kiến thức rộng, thường dùng Tâm để cảm nhận.
Chào bạn Printemps,
Xin được chia sẻ với bạn đôi điều. Trong kinh Bát Nhã có chữ “hành thâm”, nghĩa là sự hành trì phải sâu dày, miên mật, chứ không chỉ bỏ ra vài giờ, vài ngày mà được ngay. Và PH cho rằng sự quán này là quán trên thân bạn, trên tâm bạn chứ không phải quán trên thân, tâm người khác. Ở trên thân mình, “sắc” bạn phải quán được nó là “không”, quán được như thế thì khi lạnh, nóng, ốm đau, ăn không ngon,…mình không cuống cuồng lên lo cho nó quá mức nữa (vì đã rõ biết cái “không” của nó) và tương tự như thế đối với bốn uẩn còn lại.
Để có thể dụng công được trong lúc đối cảnh, tiếp trần thì khi bạn công phu, phải đạt trình độ thuần thục thì mới có được định lực để quán được “không”. Và mức này thật sự rất khó, hoàn toàn chẳng phải lời nói suông cho mình được là được.
Trở lại câu hỏi của bạn, ví dụ khi bạn nhìn thấy người, rồi tâm khởi lên hoặc có cảm tình hoặc không thì ngay lúc này không chỉ có “thọ” có mặt mà có lẽ “tưởng, hành, thức” cũng đã có mặt, chỉ là bạn không nhận ra thôi. Tưởng sẽ nhớ lại (tưởng và hành lấy ra từ trong thức) những chủng tử (kinh nghiệm) mà bạn đã huân tập nên bạn phân biệt được đây là người, không phải con vật, bông hoa,.. tưởng, hành cũng sẽ lấy ra trong thức những chủng tử bạn đã từng huân tập về người đó, hoặc liên quan tới những đặc điểm người đó mà đưa ra và theo những kinh nghiệm mà bạn có được từ những chủng tử đó mà bạn sẽ khởi tâm thích hoặc không thích. Ví dụ, trong quá khứ bạn đã từng có duyên tốt với người đó, hoặc bạn đã từng rất thích người có da trắng thì nay tự nhiên bạn thấy người có da trắng là bạn có cảm tình. Và công việc của bạn là phải quán làm sao cho tất cả các thứ “thọ, hành, tưởng, thức” đang diễn ra trong tâm bạn là “không”.
Những thứ “tâm hồn đẹp” là do thức phân biệt của bạn, và bạn thấy thích với những người như vậy là cảm thọ của chính bạn. Công việc của bạn là quán những thức, thọ như thế (xảy ra ngay trên tâm bạn) là “không” chứ không phải quay ra mà quán “tâm hồn đẹp của người đó là không”.
Kinh đang dạy pháp phá chấp đó bạn, chẳng có cách gì ngoài cách hành trì cho miên mật, mà trước mắt phải hiểu “sắc thọ tưởng hành thức” là gì, “không” là gì rồi mới có thể áp dụng mà công phu. Hoàn toàn không thể do công phu đôi ba ngày mà được.
Kinh này ý rất sâu và khó, PH cũng không hiểu rõ, cũng chưa từng thực hành, nên chỉ chia sẻ được với bạn bấy nhiêu thôi. PH nghĩ nếu bạn có duyên và muốn tu tập theo thì phải tìm một vị thầy để học, để hiểu cho đúng ý kinh, và trong lúc tu tập, hành trì thì có người chỉ bảo, hướng dẫn, nâng đỡ.
Chúc bạn thường tinh tấn.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật
Bạn Printemps,
Bạn nói dùng tâm để cảm nhận về “tâm hồn đẹp, kiến thức rộng” của người đó. Vậy tâm cảm nhận lúc đó nó ở đâu? Mắt? Tai? hay là Ý? và tâm đó nó là tâm gì? Bạn có thể hoan hỉ cho TĐ và các liên hữu khác biết không?
TĐ
Cảm ơn Cư sĩ Phước Huệ và các liên hữu đã phúc đáp, lời của các Anh Chị, Printemps nghiền ngẫm và thực hành.
Câu hỏi của Trung Đạo thật khó trả lời, chẵng khác chi gặn hỏi Tâm trong kinh Lăng nghiêm giữa Phật và A-nan. Mạo muội hỏi ngược lại Trung Đạo, thế nào là Tâm, thế nào là thức, Tâm vận hành ra sao, Thức hoạt động thế nào?
A Di Đà Phật
Bạn Printemps,
1. TĐ thực không có tâm làm khó bạn mà chỉ căn cứ vào những điều bạn hỏi, muốn giúp bạn tự tìm ra giải đáp cho chính mình, như thế sẽ tốt hơn là việc để mọi người giải nghĩa.
2. Tu đạo chớ nên nương chấp nơi văn tự, đặc biệt là văn tự của cõi phàm, bởi đó là những kiến giải không liễu nghĩa. Muốn tìm liễu nghĩa ý, phải tự bạn chiêm nghiệm.
3. Chúng ta học Phật pháp luôn phải tự thân tư duy, quán chiếu thật tỉ mỉ, sâu sắc mọi vấn đề để đúc kết cho mình những kinh nghiệm hợp với căn cơ của bản thân sẽ tốt hơn. Rất tiếc bạn không hiểu ý của TĐ nên mới khởi ý không thanh tịnh để đặt câu hỏi ngược lại với TĐ.
4. Chúng ta tu cả đời cho dù pháp môn nào chăng nữa cũng không ngoài chữ tu tâm. Tâm có chân, có vọng. Khi nào có vọng? khi nào có chân? vọng chân, chân vọng là hai hay là một hàng ngày tu chúng ta phải nhận biết cho bằng được, bằng không dù có đọc thiên vạn kinh điển của Phật, nghe ngàn vạn pháp sư thuyết cũng chỉ là tự mình ngụp lặn trong biển nhưng không cảm được vị mặn của nước biển. Đơn giản ý là hàng ngày ăn cơm, uống nước mà vẫn luôn thấy mình đói khát.
5. Bạn ráng thanh tịnh tâm học thật kỹ phần đầu Kinh Lăng Nghiêm khi Phật 7 lần gạn hỏi Ngài A Nan về tâm, bạn sẽ tìm ra câu giải đáp cho chính mình. Tâm Không là một hay là hai? khi nào một? khi nào hai? bạn phải tự tu, tự hành mới ngộ ra được.
TĐ
Dạ ,Printemps cảm ơn Trung Đạo rất nhiều vì nói ra được điều mà Pr. đang mắc phải. Thật tế, khi đọc câu hỏi của TĐ là Pr. biết mình sai rồi, nên có phần cắc cớ hỏi ngược, Printemps xin lỗi Trung Đạo. Xin trả lời lại: thật ra không có Tâm. Pr. hiểu là do mình chấp vào ngoại cảnh mà sinh ra Tâm, mà từ đó sinh ra vọng tưởng như, Phật, bồ tát, thanh văn, duyên giác, Trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh … Đều do tâm của minh mà tạo ra. Những giây phút tu thiện, giây phút đó mới là người. Những giây phút nóng giận, giây phút đó là atula. Khi sống với nhân duyên của cảnh giới nào thì sinh ra Tâm, vọng tưởng và nhận quả báo của cảnh giới đó. Printemps hiểu vậy thôi, thật ra đọc kinh LN Pr. không hiểu gì nên mượn tạm “Không” mà tự hiểu vậy.
A Di Đà Phật
Kính chia sẻ với quý vị bài Pháp quý báu này, nếu ai chưa đọc xin đọc kỹ:
“NHẬT MỘ ĐỒ VIỄN”
https://hoasenvanno.wordpress.com/nhat-mo-do-vien-troi-da-xe-bong-duong-ve-con-xa/
Nam mô A di đà phật
Thưa các vị đạo hữu. Khi tôi thực hành thiền định thì xung quanh tai tôi, nghe thấy những tiếng nói từ trẻ đến già tôi có nên tu theo phương pháp thiền định này nữa không ? Và có ai từng như tôi không ?
A Di Đà Phật
Bạn Gia Long,
Người hành thiền là đi từ có vào không. Có là những phiền não trong tâm dấy khởi đều được hành giả quán chiếu để diệt trừ, giúp cho chân tâm sáng suốt sớm ngày hé lộ. Vì thế nếu trong quá trình hành thiền mà nhất thời tâm có một chút an định, tức những phiền não tạm thời bị đẩy lùi, chợt nghe thấy những âm thanh, hình sắc… lạ, bạn phải biết đó chẳng phải là chứng đắc. Đó chính là nghĩa của Không. Do vậy bạn phải giữ tâm chánh định để không đeo bám những cảnh giới đó, tiếp tục nhiếp tâm hành thiền thì sẽ không gặp chướng nạn. Điều này trong 10 Sắc Ấm Ma Phật Thích Ca đã chỉ rất rõ:
“Cũng ở trong tâm định này, suy cứu đến những cảnh sâu xa, bỗng ở giữa đêm, hành giả thấy những cảnh tượng ở phương xa, nào chợ búa, giếng nước, đường lớn, hẻm nhỏ, nào bà con quyến thuộc; và nghe cả lời nói ở những nơi ấy. Đó là do tâm bị định lực dồn nén, dồn ép đến cùng khiến ánh sáng bay ra mà thấy được chỗ xa cách, chứ không phải là đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến”.
Mong bạn đọc và học thật kỹ 50 hiện tượng ấm ma trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm để hành thiền cho đúng pháp, tránh hiện tượng đeo bám sự chứng đắc hay tâm duyên theo những cảnh giới thần thông mà gặp khổ nạn.
Chúc thành tựu.
TĐ
Thầy ơi con chết mất ,con suýt khởi tâm bất kính với toàn bộ vị phật trong cõi vu tru vô tận ,con sơ mình khởi tâm nó lên ,sẽ khiến con dọa xuống địa ngục mãi mãi không bao giờ siêu thoát ,( y con là nhân qủa vô hạn ) ,con mang ơn thầy suốt đời nếu ai giúp được con ,con mong có kết quả hồi âm sớm nhất
A Di Đà Phật
Xin có vài chia sẻ với bạn để không còn khởi tâm lo lắng, dứt trừ lòng nghi, một lòng tin tưởng và thực hành theo Pháp Môn Tịnh Độ thù thắng nhé
– Lời dạy của Ấn Quang Đại Sư:
* Một niệm tâm tánh của chúng sanh và một niệm tâm tánh của Phật chẳng hai. Tuy còn mê chưa giác, khởi Hoặc tạo nghiệp, gây đủ các tội, Phật tánh sẵn có vẫn không bị tổn thất. Ví như ma-ni bảo châu vứt nhà xí, sánh cùng phẩn uế trọn chẳng khác gì. Kẻ ngu chẳng biết là báu, coi hệt như phẩn uế. Người trí biết là diệu bảo vô giá, chẳng hiềm ô uế, vào trong nhà xí nhặt lên, dùng đủ mọi cách gột rửa cho sạch. Sau đó, treo lên tràng cao, liền phóng đại quang minh, tùy lòng người muốn gì đều tuôn khắp các thứ báu. Bởi đó kẻ ngu mới biết là quý báu.
Đại Giác Thế Tôn thấy các chúng sanh cũng giống như vậy: do hôn mê, đảo, Hoặc, gây đủ ngũ nghịch, thập ác, vĩnh viễn đọa trong đường ác tam đồ; Phật không hề có tâm niệm vứt bỏ, luôn tìm kiếm cơ duyên, hiển nhiên hoặc ngầm gia bị cho, vì họ thuyết pháp, mong họ giũ sạch Hoặc nghiệp huyễn vọng, ngộ Phật tánh chân thường, mãi cho đến khi viên chứng Vô Thượng Bồ Đề mới thôi. Đối với kẻ tội tày đình, ác cùng cực cũng vẫn như vậy. Với kẻ tội nghiệp ít, dạy cho tu Giới và Thiện. Với người có sức thiền định sâu, không một ai là chẳng [được Phật hóa độ] như vậy.
Phàm là trong tam giới, người nhiếp được tâm, chế ngự được các phiền hoặc, nhưng còn chấp thân, tình chủng vẫn còn; một khi phước báo hết, sanh xuống cõi dưới, gặp cảnh, đụng duyên, lại khởi Hoặc tạo nghiệp. Do nghiệp cảm khổ, luân hồi lục đạo không lúc nào xong. Vì thế kinh Pháp Hoa bảo: “Ba cõi không an giống như nhà cháy. Các khổ đầy dẫy, thật đáng sợ hãi”. Nếu chẳng phải là kẻ nghiệp tận, tình không, đoạn Hoặc chứng chân thì chẳng có hy vọng thoát khỏi tam giới.
Nay chỉ có mỗi pháp môn Tịnh Độ, cốt sao lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật, liền có thể nương Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Đã được vãng sanh liền nhập Phật cảnh giới, thọ dụng như Phật, phàm tình, thánh kiến thứ gì cũng chẳng sanh. Thật là ngàn phần ổn thỏa, vạn phần thích đáng, là pháp môn vạn phần chẳng thể bỏ sót vậy. Nay đang lúc Mạt Pháp, bỏ pháp môn này thì không còn có cách nào khác cả.
– Trong sách Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ có đoạn viết:
Trong phần nói về tông chỉ của kinh, sách Hợp Tán cũng nhận
định: “Nói chỉ trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp là đối với căn cơ chưa tạo nghiệp, chỉ là để ngăn ngừa mà thôi. Nếu với căn cơ đã trót tạo nghiệp, đã hồi tâm thì Phật cũng nhiếp thủ chẳng để sót vậy”. Ý nói: Nói “trừ” nhưng thật sự là nhằm ngăn dứt điều ác để kẻ chưa tạo ác sẽ chẳng dám tạo. Kẻ đã trót tạo nếu biết hồi tâm, sám hối niệm Phật thì vẫn nhiếp thủ như cũ chẳng để sót vậy.
……..
Chúc ngày càng tinh tấn nhé!
A Di Đà Phật