Cư sĩ Trầm Khải Bạch tự Trung Húc đời Thanh, người Ngô Huyện thuở nhỏ tánh hào đãng, thích giúp đỡ người hoạn nạn. Sau ông nổi danh về tài làm thuốc, càng ưa bố thí. Ðối với người nghèo, ông chẳng lấy tiền khám bịnh, hoặc còn cho thêm tiền. Năm hai mươi lăm tuổi, vợ mất, ông không tái giá, dốc lòng tu Tịnh nghiệp. Trên những tăng phường, đầu đường, thành cầu đi qua, ông đều đề danh hiệu Tây Phương Phật và những lời cảnh sách khuyên người niệm Phật. Gặp phải người bịnh nguy ngập, ông đều nghiêm nghị bảo:
– Tội nghiệt sâu nặng, sức tôi chẳng cứu nổi biết làm sao đây!
Người bịnh khóc lóc cố van nài, ông liền bảo:
– Chỉ có đức A Di Ðà Phật ở thế giới Cực Lạc nơi phương Tây, nếu ông có thể chí tâm xưng niệm một tiếng thì diệt được tội trong tám mươi kiếp sanh tử. Ông có tin nổi, niệm nổi hay không?
Kẻ ấy vâng vâng, dạ dạ. Ông bảo:
– Nếu đúng là như vậy thì bịnh có thể trị được!
Liền cắt thuốc, lần nào cũng hiệu nghiệm lạ kỳ nên từ đó, những người quy hướng Phật rất nhiều. Lúc hơn bảy mươi tuổi, ông niệm Phật rồi tịch.
(Theo sách Nhị Lâm Cư, tập cuối)
Bố Thí là độ đầu trong Lục Ðộ. Ông Vương Long Thư nói: “Kẻ làm thầy thuốc nên thường tự nghĩ: Thân người bịnh khổ nào khác thân ta. Chớ nề quý, tiện, nghèo, giàu, chuyên tâm cứu người để kết nhân duyên, để tích phước cho mình. Trong chốn u minh sẽ tự được thánh hiền gia hộ. Nếu luôn giữ được tấm lòng như vậy, hồi hướng Tịnh Ðộ ắt sẽ sanh trong Thượng Phẩm.
Nếu nhân lúc người khác bị bịnh khổ mà mình khuyên dạy họ Tịnh Ðộ thì họ dễ sanh tín tâm. Lại khiến cho họ phát đại nguyện: sẽ lưu truyền rộng rãi chuyện của họ để bù chuộc túc nghiệp, cầu mong được lành bệnh thì ắt sẽ được thỏa nguyện. Nếu như tuổi thọ đã hết thì cũng nhờ vào nguyện lực ấy chóng sanh về Tịnh Ðộ.
Thường giáo hóa người khác như vậy thì chẳng những chỉ sau khi xả thân được sanh trong Thượng Phẩm mà ngay trong hiện đời cũng được hưởng phước báo vô tận vậy!”
Trích Niệm Phật Pháp Yếu
Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính sưu tập
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
VẠN PHÁP DUY THỨC
(video dùng khoa học để chứng minh “tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” rất hay)
“Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”, chúng ta phải nhận thấy 5 uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) đều là không thật, nên qua hết các khổ nạn. Chúng ta “nhìn thấy” vạn vật qua 5 giác quan (ngũ căn) rồi Thọ lãnh chúng, rồi biến thành Thức (ý thức, tri thức) của Ta. Cho nên, Thức của ta và của người khác không giống nhau qua quá trình huân tập từ việc học hành và kinh nghiệm khác nhau. Nên 1 sự việc không nên tranh cãi đúng-sai, phải-trái vì có sự phân biệt của Thức.”…nãi chí vô ý thức giới…”, cho đến ý thức cũng là không thật, vậy tri thức thế gian của ta cũng là không thật, là mê lầm không phải giác ngộ. Chúng ta phải làm cho Tâm thanh tịnh, trở về tự tánh, không còn ảnh hưởng bởi ngũ uẩn, thì đó mới là trí huệ bát nhã, trí huệ chân thật, thấy được thật tướng của vạn pháp. Khi chúng ta Thọ thì có Lạc Thọ (vui sướng) và Khổ Thọ (đau buồn, bất hạnh)sẽ bị lục trần cuốn theo làm cho tâm bị mê hoặc. Chúng ta đã biết 5 uẩn đều không thì vui sướng cũng không dính mắc vì dục vọng dễ tăng, đau buồn cũng không dính mắc vì sân hận, bi quan dễ tăng. Chúng ta gặp thuận cảnh, hay nghịch cảnh đều không vui cũng không buồn (Xả Thọ hay Vô ký thọ), chúng ta sẽ có sự an lạc từ trong nội tâm, đó là cái chúng ta kiếm tìm. Cái vui sướng từ tâm an lạc không giống như cái vui sướng của thế gian, vì nó không có được- mất, những người nhiếp tâm vào câu niệm Phật và với tâm rỗng rang sẽ hiểu được cảm giác này.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
A DI ĐÀ PHẬT. Các liên hữu cho mình hỏi vợ chồng mình ở nhà trọ chật hẹp. chồng mình thì không tin Phật pháp nên vẫn tham dâm. Vậy thì có được mở máy tụng kinh giảng pháp trong phòng không ạ?
Chị hãy chọn một nơi nào đó ở nhà trọ mà chị nghĩ trang nghiêm nhất, sau đó hãy mua 1 chiếc tủ loại nhỏ có cửa đóng/mở để thờ Phật. Khi nào tụng niệm chị hãy mở tủ ra, khi xong khóa thì đóng lại không sao cả. A Di Đà Phật.
LANG BĂM VÀ KẾT CỤC KHÔNG TRÁNH KHỎI
Tôi( Quả Khanh – một cư sĩ có túc mạng thông, thấy được nhân quả nghiệp duyên của người khác) từng gặp một vị toàn thân nổi đầy ghẻ lở , ưng mủ, ruồi nhặng bu quanh, khắp người xông hơi thuốc nồng nặc…khiến ai cũng lánh xa không dám tới gần, ngay cả bệnh viện cũng không nhận chữa trị.
Tôi hỏi :
– Có phải anh từng làm thầy lang châm cứu?
Anh gật đầu đáp :
– Phải!
Tôi hỏi:
– Anh đã trị lành cho bao nhiêu người?
– Không biết! Tôi chữa mấy đợt, thấy họ không đến nữa thì chắc là …lành rồi.
Tôi hỏi anh tốt nghiệp bệnh viện nào? Anh kể mình tự học mà thành tài. Tôi hỏi bốn huyệt chủ trị các bệnh đau đầu, đau lưng, đau bụng, đau gan là gì? Anh đáp sai bét.
Tôi bảo:
– Tôi là người ngoài nghề mà còn biết rành các huyệt :
“Bụng thì Tam Lý lưu,
Lưng thì Ủy Trung cầu,
Đầu thì tìm Liệt Khuyết,
Mặt thì Hợp Cốc thu…”
Vậy mà anh là thầy châm cứu lại không biết rõ? Anh toàn là châm ẩu tả tạo thêm bệnh cho người, thậm chí còn dùng kim chưa khử trùng khiến họ bị nhiễm trùng…vậy mà còn thu phí cao. Anh xem, ngày nay mình anh đầy ghẻ lở, chính là do anh làm sai, châm chích bậy bạ, tạo thành vết thương gây nhiều thống khổ cho người. Nếu không thành tâm sám hối, thì không ai trị lành bệnh cho anh được. Tạm thời tuy anh không bị mất mạng, nhưng cũng là sống cảnh đền tội, đây chỉ là quả báo nhẹ ở nhân gian, chết rồi sẽ vào địa ngục thọ báo.
Anh vội hỏi:
– Phải làm sao để sám hối?
Tôi bảo:
– Hãy nghĩ kĩ xem anh đã làm cho bao nhiêu người bị thương tích, thống khổ… thì nhớ mà sám hối. Không những trong tâm mình phải biết tội, mà số tiền thu phí kia anh phải đền gấp bội cho họ. Nếu không tìm ra người để trả thì có thể dùng tiền đó mà in sách thiện, hoặc in “Kinh Địa Tạng” cho người. Cũng cần phải dứt tuyệt đồ mặn, chuyển sang ăn chay trường, mỗi ngày tụng một bộ Kinh Địa Tạng hồi hướng cho những người bị anh làm hại. Hiện tại nếu anh muốn dùng thuốc ( mà có thành phần động vật thì không nên dùng), nên đặt thuốc trước Phật, rót một ly nước rồi quỳ tụng 21 biến Chú Đại Bi. Xong, lấy nước này rửa vết thương và hòa với nước để chữa trị. Lưu ý : 21 biến Chú Đại Bi này người nào ăn chay trường cũng có thể tụng thay cho anh, chỉ cần anh dùng tâm sám hối chí thành, kiên tâm bền bỉ, dần dần bệnh sẽ lành. Bệnh có hồi phục triệt để hay không là tùy ở nơi anh thực hiện tốt hay không mà thôi.
Trích: Nhân Quả Phụ Giải Lương Hoàng Sám 2
Tác giả: Quả Khanh
Cụ bà niệm Phật chết đói khi xác luôn trồi lên không chịu nằm dưới
Đời Nguyên bên Trung Hoa, vào năm Canh Ngọ niên hiệu Chí Thuận ở vùng Triết Tây bị thất mùa liên tiếp. Trong thành Hàng Châu, dân chúng đói chết nằm ngổn ngang đầy đường.
Mỗi buổi sáng, quan phòng chánh mướn người khiên tử thi chở đem bỏ xuống hang núi, sau tháp Thái Hòa. Trong số tử thi có thây một bà lão hơn mười hôm không hôi thúi, ngày nào cũng tự trồi lên nằm trên các thây chết khác. Chúng lấy làm lạ, vòng giây kéo đem lên, soát trong người thấy có túi vải đựng ba bức đồ niệm công cứ A Di Đà Phật.
Việc này truyền đến quan Hữu Tư, Ngài cho mua quan quách tẩn liệm và đem ra thiêu hóa. Khi củi đốt lên, trong khói lửa hiện ra tượng Phật, Bồ Tát, ánh sáng rực rỡ. Do nhân duyên đó, rất nhiều người phát tâm niệm Phật.
(Trích Sơn Am Tạp Lục).
https://www.facebook.com/LEPHUCMINHVAN/posts/3059959507380768