Trong kinh nói: “Được làm người là khó, sáu căn toàn vẹn là khó, sinh nơi trung tâm đất nước là khó, gặp Phật đạo là khó, phát khởi lòng tin là khó”. Tôi từng luận bàn về sự khó khăn của việc phát khởi lòng tin: Có nghi ngờ mà không đoạn trừ, sao phát sinh lòng tin được? Cho nên, kinh Kim Cang nói: “Lòng tin chân chánh rất là hiếm có”. Kinh Pháp Hoa nói: “Do lòng tin mà được vào”. Long Thơ Tịnh Độ nói: “Đức Phật là bậc Đại Y Vương, có thể cứu tất cả bệnh nhưng không thể cứu người mạng tận. Đức Phật có thể độ tất cả mọi người nhưng không thể độ người không có lòng tin”. Bởi lòng tin là sự chân thành trong một niệm. Nếu tâm niệm người muốn bước đi thì chân theo đó mà đi, tâm niệm muốn ở lại thì thân theo đó mà ở lại. Đủ thấy, thân này theo tâm niệm hành động, nhưng có lúc tâm niệm muốn đi thân lại bị trói buộc. Khi sắc thân tan hoại thì chỉ có một niệm mà thôi, một miệm này muốn đến đâu thì đều đến được. Vì vậy, một niệm tín tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh độ thì nhất định vãng sinh Tịnh độ. Huống chi đức Thế Tôn, chư đại Bồ tát còn có sức mạnh thệ nguyện tiếp dẫn vãng sinh.
Có người hỏi:
– Nay có người cả đời trì giới niệm Phật, lúc lâm chung không được sinh về Tịnh Độ là tại sao?
Đáp:
– Đó là do lòng tin không sâu, hạnh nguyện kém khuyết, lại chưa hề phát tâm Bồ đề rộng lớn và chưa từng dứt trừ tà hạnh của mười việc ác. Tuy nói tu hành, nhưng lời nói và việc làm chưa từng phù hợp; tuy nói niệm Phật, mà tịnh niệm chưa từng tiếp nối. Đã không có công phu chân thật, làm sao được quả báo Tịnh độ! Trong kinh Duy Ma nói: “Tùy theo tâm thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh”. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: “Trong tâm nếu không có niệm bất thiện, Tây Phương cách đây không xa. Nếu ôm lòng bất thiện niệm Phật cầu vãng sinh thì khó đến được. Không đoạn trừ tâm thập ác, Phật nào đến đón rước”.
Lục Tổ vì thấy người đời không lo thanh tịnh tâm mình, miệng chỉ niệm danh hiệu Phật, tìm Phật ở ngoài tâm, vọng tưởng chấp trước, chẳng tự thanh tịnh tâm mình, lại tạo những điều ác. Đó gọi là tự làm mất Phật của chính mình, lại còn đi tìm cầu Phật nào khác. Vì vậy nên nói: “Mê tức là chúng sinh, ngộ tức là Phật”. Chương Niệm Phật Viên Thông trong kinh Lăng nghiêm, Bồ tát Đại Thế Chí nói: “Nhớ Phật niệm Phật, hiện tại, tương lai nhất định thấy Phật”. Vì nhớ niệm tức là tâm niệm, lòng tin thanh tịnh, Tín, Hạnh, Nguyện đầy đủ.
Kinh này còn nói: “Một căn đã về nguồn, sáu căn thành giải thoát; thập ác(1) hóa thành thập thiện(2), lục thức(3) hóa thành lục thần thông(4)”. Cho nên, trong tâm chánh tín nghĩ nhớ niệm Phật, gọi là tịnh niệm tiếp nối thì Di Đà tự tánh hiện tiền. Bên đây cảm, bên kia ứng, lúc sắp mạng chung, sao lại không được thấy Phật mà vãng sinh Tịnh Độ?
Phàm người tu Tịnh nghiệp, nên tin lời Phật, làm theo hạnh Phật. Tâm niệm đã không trái ngược, nhân quả chắc chắn rõ ràng. Nếu nghe mà không tin, tin mà không thực hành, cũng như bánh vẽ không no được bụng đói. Tâm đã không tin thì phát sinh nghi ngờ phỉ báng, đã phát sinh nghi ngờ phỉ báng thì tự mờ mịt tâm mình, tự mờ mịt tâm mình thì càng thêm xa rời Tịnh độ. Do đó, cư sĩ Chu ở Hương Sơn viết lời tựa trong quyển Liên Tông Sám của ngài Từ Chiếu, nói rằng: “Bậc Đạo sư là nói vị giáo hóa có phương pháp để đạt đến giác ngộ, dạy người có đạo lý. Lấy lòng tin sâu làm lối vào, phá trừ sự chấp trước mê mờ của những kẻ Xiển Đề; chuyên niệm Phật làm môn thực hành khiến tâm không loạn động, thêm vào đó là lấy tâm nguyện Bồ đề làm căn bản độ thoát chúng sinh. Đủ ba điều ấy thì có thể lên Thượng phẩm Thượng sinh ở cõi Cực Lạc, dễ dàng đạt đến biển quả Tỳ Lô”. Lại nói: “Việc này người người vốn đầy đủ, ai nấy đều thành tựu trọn vẹn. Nhưng vì không có ba chữ Tín, Nguyện, Hạnh, do đó đọa lạc trong luân hồi”.
Than ôi! Phàm kẻ làm người chẳng luận phước đức, chẳng luận tôn quý, chẳng luận thông minh, chẳng luận tướng mạo, chỉ đầy đủ Tín, Nguyện, Hạnh thì chính là tư lương để vãng sinh Tịnh Độ. Tứ Liệu Giản nói: “Từ đây qua phương Tây, cách mười muôn ức cõi Phật có thế giới tên là Cực Lạc, đó là đứng về khía cạnh xa mà nói. Nếu một niệm tín tâm niệm Phật thì liền đến Tây Phương, đó là đứng về khía cạnh gần mà nói. Cho nên bảo rằng, cũng gần mà cũng xa, chỉ ở nơi lòng tin và tâm nguyện của người mà thôi. Tin thì không cách mảy tơ, nghi thì lưu chuyển trong sinh tử”. Lại nói:
Từ đây qua Tây Phương
Lộ trình xa mười vạn
Tư lương nếu đầy đủ
Lo gì không đến được.
Thế nên nói: “Lòng tin đứng đầu muôn điều lành, lòng tin là chủ của trăm hạnh”. Kinh Hoa Nghiêm lấy Thập tín(5) làm điểm khởi đầu của sự thành Phật, kinh Pháp Hoa lấy chánh tín làm cửa để vào đạo, Ngũ căn lấy Tín căn làm đầu, Ngũ lực lấy Tín lực làm trước. Vì thế, chư Phật trong ba đời, chư đại Bồ tát, lịch đại Tổ sư tu các công hạnh, đầy đủ đại nguyện lực, vào cảnh giới Phật, thành tựu Bồ đề, chưa có ai không từ nơi chữ Tín này mà bước vào.
Pháp sư Đàm Loan gặp được kinh Quán Vô Lượng Thọ của ngài Lưu Chi trao cho, liền đốt kinh Tiên tu Tịnh nghiệp, lẽ nào không phải là do chữ Tín này? Bạch Cư Dị đi cũng niệm Di Đà, ngồi cũng niệm Di Đà, cũng chẳng ra ngoài chữ Tín này! Tô Đông Pha mang bức tượng Di Đà, lúc đi hay ngồi cũng đều mang theo bên mình nói là Tây Phương công cứ, thế thì cũng không ra ngoài chữ Tín này! Trương Thiện Hòa cả đời mổ trâu, khi lâm chung tự thấy tướng địa ngục hiện, nhưng gặp được vị tăng dạy niệm Phật A Di Đà. Ông niệm chưa được mười câu thì thấy Phật tiếp dẫn vãng sinh Tịnh độ, liền thoát khỏi địa ngục. Đó chẳng phải là do lòng tin mà được như thế hay sao?
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, là mẹ sinh ra công đức. Lòng tin hay nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt ra khỏi các đường ma. Lòng tin có thể được vào chánh định. Lòng tin có thể thoát biển sinh tử. Lòng tin có thể thành tựu đạo giác ngộ của Phật”.
Than ôi! Thời nay, người trì trai tin giữ giới mà không tin niệm Phật, tin thờ Phật mà không tin vãng sinh Tịnh độ. Như thế là tự làm mất lợi ích lớn, cần nên xét kỹ!
Trên đường Trời, Người lấy phước làm đầu; trong biển sinh tử, niệm Phật bậc nhất. Nay có người muốn được sự vui vẻ nơi cõi Trời, Người mà không chịu tu phước; muốn ra khỏi sinh tử nhưng lại không niệm Phật; ví như chim không cánh mà muốn bay, cây không gốc mà muốn sum suê tươi tốt, làm sao đạt được?
Nếu là bạn pháp với tôi, cần phải tin sâu lời chư Phật nói chân thật không giả dối. Phương pháp hay giải thoát đau khổ không gì bằng niệm Phật, chuyên tu Tịnh nghiệp mong ra khỏi luân hồi. Thời gian chẳng đợi người, thận trọng chớ nghi ngờ hối tiếc!
Như thế, thật đáng gọi là:
Thân này chẳng chịu đời này độ
Lại đợi đời nào độ thân này!
CHÚ THÍCH:
(1) Thập ác: Sát sinh, Trộm cắp, Tà dâm, Vọng ngữ, Lưỡng thiệt (nói lời gây ly gián, lời phá hoại), Ác khẩu (nói lời thô ác), Ỷ ngữ (là lời nói vô nghĩa, lời nói do tâm nhiễm phát ra), Tham dục (tham ái, tham thủ, xan tham), Sân khuể, Tà kiến (tức ngu si).
(2) Thập thiện:
Không sát sinh;
Không trộm cắp;
Không tà hạnh;
Không vọng ngữ;
Không lưỡng thiệt;
Không ác khẩu.
Không ỷ ngữ.
Không tham dục;
Không sân nhuế;
Không tà kiến.
(3) Lục thức (six sense of consciousness): sáu tri thức tức sáu sự hay biết:
Nhãn thức: tri thức của mắt;
Nhĩ thức: tri thức của tai;
Tỷ thức: tri thức của mũi;
Thiệt thức: tri thức của lưỡi;
Thân thức: tri thức của thân
Ý thức: tri thức của ý.
(4) Lục thần thông: sáu thứ diệu dụng tự tại vô ngại do Phật, Bồ tát nương vào sức định, tuệ mà thị hiện, đó là: Thần cảnh thông, Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông và Lậu tận thông.
a. Thần cảnh thông (cũng gọi Thân thông, Thân như ý thông, Thần túc thân): năng lực hiện thân theo ý muốn một cách tự do vô ngại.
b. Thiên nhãn thông: năng lực thấy rõ tướng khổ, vui, sống, chết của chúng sinh trong sáu đường và thấy tất cả các thứ hình sắc trong thế gian, không gì ngăn ngại.
c. Thiên nhĩ thông: năng lực nghe được những tiếng nói khổ, vui, lo, mừng của chúng sinh trong sáu đường và tất cả loại âm thanh của thế gian.
d. Tha tâm thông: năng lực biết được những điều mà chúng sinh trong sáu đường đang suy nghĩ.
e. Túc mạng thông (cũng gọi Túc trụ thông): năng lực biết được vận mạng và những việc làm của chính mình và của chúng sinh trong sáu đường từ trăm nghìn muôn kiếp trước.
f. Lậu tận thông: năng lực dứt hết Kiến hoặc và Tư hoặc trong ba cõi, không bị sống chết trói buộc trong ba cõi mà được thần thông lậu tận.
Ba năng lực: Thiên nhãn thông, Túc mạng thông và Lậu tận thông trên đây còn gọi là Tam minh.
(5) Thập tín: gọi đủ là Thập tín tâm, gọi tắt là Thập tâm, chỉ cho mười tâm mà Bồ tát của mười giai vị đầu tiên trong 52 giai vị tu hành. Mười tâm này thuộc Tín vị, có khả năng giúp cho hành giả thành tựu hạnh tín.Về tên gọi và thứ tự thì các kinh điển ghi có hơi khác nhau.
Theo phẩm Hiền Thánh Danh Tự trong kinh Bồ tát Anh Lạc Bản Nghiệp quyển thượng thì mười tâm là:
a. Tín tâm: nhất tâm quyết định, mong muốn thành tựu.
b. Niệm tâm: thường tu 6 niệm: Phật, pháp, tăng, giới, thí và thiên.
c. Tinh tấn tâm: nghe Bồ tát tạng, siêng năng tu tập thiện nghiệp không gián đoạn.
d. Định tâm: tâm an trụ nơi sự và nghĩa, xa lìa tất cả hư ngụy, vọng tưởng phân biệt.
e. Tuệ tâm: nghe Bồ tát tạng, tư duy quan sát, biết tất cả pháp vô ngã, vô nhân, tự tánh rỗng lặng.
f. Giới tâm: thọ trì luật ghi thanh tịnh của Bồ tát, thân, khẩu, ý thanh tịnh, không phạm các lỗi; nếu có phạm thì sám hối trừ diệt.
g. Hồi hướng tâm: đem các thiện căn đã tu được hồi hướng về Bồ đề, không nguyện sinh vào các cõi hữu lậu, hồi thí cho chúng sinh, không vì riêng mình; hồi hướng cầu chứng được thật tế, không chấp danh tướng.
h. Hộ pháp tâm: phòng ngừa tâm mình, không khởi phiền não, lại tu năm hạnh: mặc hộ, niệm hộ, trí hộ, tức tâm hộ và tha hộ.
i. Xả tâm: không tiếc thân mạng, tài vật; tất cả những gì có được đều buông bỏ.
j. Nguyện tâm: thường tu các nguyện thanh tịnh.
Mười tâm được liệt kê trong phẩm Bồ tát Giáo Hóa Kinh Nhân Vương quyển thượng do ngài Cưu Ma La Thập dịch là: Tín tâm, Tinh tấn tâm, Niệm tâm, Tuệ tâm, Định tâm, Thí tâm, Giới tâm, Hộ tâm, Nguyện tâm và Hồi hướng tâm, cho đó là mười tâm của Thập chủng tính.
Kinh Phạm Võng quyển thượng thì nêu mười tâm là: Xả tâm, Giới tâm, Nhẫn tâm, Tấn tâm, Định tâm, Tuệ tâm, Nguyên tâm, Hộ tâm, Hỷ tâm, Định tâm, và cho đó là mười tâm phát thú trong Kiên tính nhẫn.
Kinh Lăng Nghiêm quyển 8 thì gọi đó là Thập tâm trụ, tức Tín tâm trụ, Niệm tâm trụ, Tinh tiến tâm trụ, Tuệ tâm trụ, Định tâm trụ, Bất thoái tâm trụ, Hộ pháp tâm trụ, Hồi hướng tâm trụ, Giới tâm trụ và Nguyện tâm trụ.
Trích: Liên Tông Bảo Giám
Đại Sư Ưu Đàm
Thích Minh Thành dịch
Xin cô chú cho con hỏi hoặc gửi giúp con bài viết nói về 1 Cõi Phật độ rộng lớn thế nào trong vũ trụ ạ, con xin cám ơn ạ. A DI ĐÀ PHẬT.
Tu Di là tên núi trong thần thọai Ấn Độ, được sử dụng trong vũ trụ quan Phật giáo, cho rằng đây là ngọn núi cao, đứng sừng sững ở chính giữa một tiểu thế giới. Lấy núi này làm trung tâm, chung quanh có tám lớp núi, tám lớp biển bao bọc mà hình thành một thế giới (thế giới Tu Di).
Vũ trụ quan Phật giáo chủ trương vũ trụ do vô số thế giới cấu thành, 1000 thế giới gọi là một Tiểu thiên thế giới, 1000 Tiểu thiên thế giới gọi là một Trung thiên thế giới, 1000 Trung thiên thế giới gọi là một Đại thiên thế giới. Họp cả Tiểu thiên, Trung thiên và Đại thiên lại gọi chung là Tam thiên đại thiên thế giới, đây tức là một phạm vi hóa độ của một đức Phật.
Trích: Liên Tông Bảo Giám
Bạn Sơn có xem video này có thể hiểu rỏ thêm
Đại Thiên Thế Giới Nói Trong Kinh Phật Như Thế Nào
https://www.youtube.com/watch?v=eAmsmDXWFV4
Nam Mô A Di Đà Phật
Dạ con rất cám ơn cô chú Sông Lạm và Duyên Trí ạ,A Di Đà Phật.
3 Cha Con Buông Lời Vọng Ngữ Phải Chịu Quả Báo Kiếp Lâu Xa
Lúc đức Phật thuyết pháp ở thành Tỳ Gia Lê, có một người tên là Ca La Việt, được nhìn thấy tôn nhan của Thế Tôn, sinh lòng hân hoan vô hạn, bèn thỉnh đức Phật đến nhà để có dịp thành tâm cúng dường.
Khi đức Phật đến và từ bi chú nguyện cho ông, Ca La Việt trân trọng đứng lên cung thỉnh Thế Tôn thuyết giảng ý nghĩa chân thật của Phật pháp. Đức Phật mỉm cười, từ miệng Ngài phóng ra một luồng ánh sáng năm màu rực rỡ, luồng ánh sáng này lập tức nhiễu quanh Ngài ba vòng rồi mới ẩn vào đỉnh đầu của Ngài mà biến mất.
Ngài A Nan thấy thế, vội sửa y phục đến trước đức Phật mà bạch rằng:
– Bạch Thế Tôn! Phật không khi nào cười mà không có nguyên do. Hôm nay Thế Tôn cười, chắc là có điều gì muốn khai thị cho chúng con. Chúng con vô cùng ngưỡng mong được nghe Thế Tôn từ bi thuyết pháp.
Đức Phật lại cười đáp:
– Được rồi, A Nan! Ta biết ông lúc nào cũng vì chúng sinh mà mong muốn vạch ra một con đường đưa đến giải thoát, cho nên bây giờ ta sẽ vì ông mà thuyết giảng.
Cách đây rất lâu, tại một vương quốc nọ, có 500 người lái buôn chuyên đi đào quật các mỏ vàng ngọc châu báu. Có một hôm, họ vào biển sâu tìm kho tàng. Tìm được kho tàng rồi, trên đường về, họ sợ gặp sóng dữ nguy hiểm nên mới bỏ thuyền mà đi trên đất liền. Ngày hôm ấy họ băng qua một ngọn núi cao, khi mặt trời đã ngả về tây, mọi người nằm ngay xuống đất mà ngủ, hẹn nhau rằng hôm sau khi trời vừa hừng sáng thì phải lập tức lên đường.
Quả nhiên, sáng sớm ngày hôm sau, 499 người thức dậy đúng giờ chuẩn bị hành trang xong xuôi là khởi hành ngay, chỉ có một người không ai nhìn thấy mà đánh thức nên vẫn còn nằm ngủ say ở đó.
Khi người này mở mắt tỉnh giấc thì đã lạc mất đồng bạn, cuống cuồng chạy ra đường núi những tưởng bắt kịp đoàn người kia, nhưng đã muộn mất rồi! Người này chạy tới chạy lui, nhưng chạy đường nào đi nữa cũng không ra khỏi được những hẻm núi quanh co hiểm trở.
Đúng lúc ấy, gió bắc bỗng nổi dậy rít lên giận dữ, trong chớp nhoáng một trận cuồng phong thổi tới làm cho cát đá bay loạn xạ, từng tảng băng tuyết ào ạt rơi xuống, con đường núi trước mặt phút chốc đã bị băng tuyết phủ kín, không trông thấy đâu nữa.
Con đường về nay đã không còn, người lái buôn này tuyệt vọng ôm mặt khóc ròng, nước mắt lả chả.
Trong những hẻm núi quanh co đó có một cây gỗ thơm Chiên Đàn, hấp thụ tinh hoa của trời đất từ lâu đời nên có được tánh linh và biến thành một vị thần cây. Thần cây biết được nỗi thống khổ của người lái buôn lạc đường nên phát tâm cứu giúp, đến trước người này mà nói rằng:
– Ông có thể tạm thời đến chỗ của ta mà ở, chuyện ăn uống, quần áo đã có ta lo liệu, chờ tới mùa xuân năm sau, băng tuyết tan rồi sẽ tìm ra đường về.
Người lái buôn đã đến bước đường cùng, nghe thế mừng rỡ vô cùng, từ đó bèn trú ngụ dưới gốc cây Chiên Đàn này.
Thời gian qua như tên bay, chẳng mấy chốc mùa xuân đã đến, băng tuyết đã tan, đường về đã hiện ra trước mắt, người lái buôn lạc đường mới nói với thần cây:
– Khi tôi cùng đường mạt lộ, hân hạnh được ngài cứu vớt mới sống sót được tới ngày hôm nay, chỉ hận là trong người không có vật gì để báo đáp ơn ngài. Bây giờ tôi còn chút cha già phải về phụng dưỡng, xin ngài vui lòng đưa đường chỉ lối cho tôi về.
– Được –thần cây cười nói và đưa cho người này một cái bánh bằng vàng –, ông cứ đi thẳng trước mặt thì sẽ đến một ngôi thành nhỏ, cứ ven theo ngôi thành ấy thì sẽ tìm được đường về nhà.
Nghe xong, người lái buôn lạc đường mới cáo biệt thần cây:
– Gốc cây này mùi hương ngào ngạt thanh khiết không gì sánh bằng, trên thế gian chắc chắn không có một gốc cây thứ hai như thế. Hôm nay tôi từ biệt ngài mà về chốn xa xôi, có lẽ suốt đời tôi sẽ không được gặp lại ngài nữa, chỉ ao ước ngài vui lòng cho tôi biết tên.
Thần cây trả lời:
– Ông hãy đi về đi, tìm biết tên ta mà làm gì.
Người lái buôn nói:
– Tôi rất xấu hổ, lúc cùng đường gặp ngài nên được sống sót, tính lại hơn một trăm ngày đã trôi qua mà chưa báo đáp được mảy may nào công ơn to lớn của ngài, thật ra tôi không làm gì khác được là xin được biết quý danh để khi về tới nhà, tôi có thể kể cho người nhà biết đến công đức của ngài.
Thần cây thấy người lái buôn có vẻ thành thật, không nỡ từ chối hảo ý của người này nên thẳng thắn nói tên mình là Chiên Đàn, nhưng dặn đi dặn lại mấy lượt:
– Rễ nhánh của ta có thể trị được tất cả các loại bệnh của thế gian, mùi hương của ta bay ngát bốn phương trời, ở xa cũng có thể ngửi thấy, có thể nói là trên đời có một không hai. Nhưng nếu mọi người biết được sự hiện diện của ta, lòng tham không đáy của họ sẽ khiến họ đến đốn ngã ta mất. Vì thế, ta hy vọng ông sẽ không nói với ai chỗ ta ở.
Người lái buôn cám ơn thần cây rồi, đi theo lộ trình thần cây chỉ dẫn, quả nhiên về được tới nhà của mình. Sau đó ông sống những chuỗi ngày an vui hạnh phúc bên cạnh cha mẹ và vô số bạn bè thân thích.
Sau đó không lâu, nhà vua bỗng mắc bệnh đau đầu, thuốc thang mọi thứ đều vô hiệu, sau gặp một vị thầy thuốc danh tiếng nói cho biết rằng chỉ có một phương thuốc chữa được bệnh của vua, đó là làm sao tìm cho ra một cây Chiên Đàn, lấy lá rán lên làm thuốc mà uống.
Nhà vua nghe thế, lập tức xuống chiếu nói rằng, hễ ai tìm được cây gỗ thơm Chiên Đàn thì sẽ được phong thưởng hậu hĩ, chưa kể còn được vua gả công chúa cho nữa.
Lệnh vua truyền xuống chẳng mấy chốc đã tới tai người lái buôn ngày nào đi lạc đường. Người này tuy mặt người nhưng lòng thú, tâm tham dục quyến rũ không sao cưỡng được, nên quên mất ơn cứu mạng và những lời căn dặn năm lần bảy lượt của thần cây, lén lút chạy đi nói với nhà vua là mình biết chỗ có cây Chiên Đàn.
Nhà vua liền phái một đoàn dũng sĩ đi theo gã lái buôn để đốn cây Chiên Đàn mang về.
Thế là một đoàn người rầm rộ, ngày đi đêm nghỉ không một ngày nào ngừng, quả nhiên đến được chỗ có cây chiên đàn. Mọi người ngước lên chỉ thấy cành lá sum sê, thân cây sừng sững chót vót. Bọn vệ sĩ thấy cây như thế, không ai nỡ ra tay đốn. Nhưng nếu về tay không thì cái tội khi quân, cưỡng lệnh vua làm sao trốn thoát? Đang phân vân lưỡng lự thì bỗng có tiếng nói vang rền từ trên không vọng xuống:
– Ta là thần của gốc cây này, quý vị nếu muốn đốn cây thì cứ việc ra tay. Chỉ xin quý vị cố gắng giữ gìn rễ cây để cây đừng chết hẳn. Đốn cây xong, xin quý vị kiếm xác của một người mới chết, lấy máu người này bôi lên rễ cây, rồi lấy ruột gan đắp lên trên, cây sẽ có thể sống lại như cũ.
Nghe đến đây, ai nấy mỗi người một tay đưa búa lên chém, thân cây ngã xuống đánh ầm một tiếng. Đúng lúc đó, người lái buôn đứng bên cạnh đang mải mê ngước đầu lên nhìn bỗng rú lên rồi ngã xuống đất. Mọi người hớt hải chạy đến thì thấy trên thân của người này máu chảy dầm dề. Thì ra người này không hiểu sao bỗng vấp phải một cái rễ cây mà ngã xuống, bị trúng ngay chỗ hiểm. Thật đáng thương, tiền lãnh thưởng thì chưa thấy đồng nào mà tính mệnh thì than ôi đã đi đời!
Lúc mọi người còn đang bàn tán sôi nổi bên cạnh thi thể của người lái buôn xấu số, thì có một người lên tiếng:
– Lúc nãy tôi nghe có tiếng người nói từ trên không vọng xuống, bảo kiếm xác người mới chết lấy máu mà bôi lên, rồi lấy ruột gan mà đắp lên rễ cây. Lúc đó tôi hoang mang tự hỏi, ở một nơi hoang vắng như thế này thì lấy đâu ra xác người? Nào ngờ người lái buôn này lại chết bất đắc kỳ tử, hay có thể ông ta vừa tới số cũng không chừng, thôi thì chúng ta hãy tạm lấy máu và ruột gan ông ta đắp lên rễ cây vậy.
Mọi người ai nấy đều đồng lòng hưởng ứng, khi họ hoàn tất việc này, trong nháy mắt rễ cây bỗng đâm ra tua tủa và cành lá vươn lên rậm rạp, gốc cây sum sê tươi tốt như thể chưa từng bị đốn xuống bao giờ.
Nhà vua nhờ uống thuốc chế từ cây Chiên Đàn nên bệnh đau đầu phút chốc đã lành, bèn truyền lệnh cho tất cả thần dân, ai có bệnh thì hãy đến lấy thuốc Chiên Đàn còn lại đem về uống, chẳng bao lâu, bệnh tật nào cũng chữa lành hết. Từ đó đất nước thanh bình, quốc thái dân an, hưởng hạnh phúc lâu dài.
Ngài A Nan nghe đức Phật kể đến đây, bèn rời chỗ ngồi, tiến lên lễ Phật bạch rằng:
– Người lái buôn lạc đường sao lại vong ơn bội nghĩa, quên lời dặn dò của thần cây? Tại sao vì muốn lãnh thưởng mà lại làm chuyện trái với lẽ phải như thế kia?
Đức Phật là một vị đại giác, Ngài biết một cách rõ ràng mọi dây mơ rễ má của từng quan hệ nhân quả một, nên trả lời ngài A Nan:
– Ngày xưa khi Phật Duy Vệ còn tại thế, có ba cha con nhà nọ. Người cha chăm chỉ thực hành ngũ giới, thập thiện, nghiêm trì bát quan trai giới, tinh tiến, không giải đãi. Người con trưởng cũng hay ở giữa sân hướng lên không trung mà đốt hương lễ bái, cúng dường chư Phật trong mười phương. Còn người con út lại ngu si không biết tôn kính Tam Bảo, thường lấy áo quần không thanh khiết mà đậy lên những nén hương này. Người con trưởng nói:
– Hành động mày làm rất tội lỗi, làm sao mày có thể ngang ngược làm chuyện xúc phạm như thế được!
Người con út không những không hối lỗi mà còn dùng lời thô ác mắng lại anh:
– Hứ! Sao anh dám xía vô chuyện của tôi? Tôi thề chặt đứt chân anh mới hả lòng!
Người con trưởng không nén được cơn giận mới trả lời:
– Đồ mất dạy, tao giết mày chết bây giờ!
Người cha đứng bên cạnh cũng nổi cáu lên mà ôm đầu than:
– Chúng bây hai đứa cãi nhau ồn ào quá, làm tao bực bội nhức cả cái đầu đây này!
Người con trưởng nói:
– Con sẵn sàng mổ thân con ra làm thuốc chữa cho cha lành bệnh.
Đức Phật nói đến đây, ngừng lại một lúc rồi nói tiếp:
– Ai cũng thế, không nên thốt lời vọng ngữ! Kiếp này tạo khẩu nghiệp, về sau thế nào cũng bị báo ứng. Như đứa con út vừa nói ban nãy, vì niệm ác khởi lên muốn chặt đứt chân anh, quả nhiên về sau đem người đến đốn cây, tức là người anh đầu thai lên làm thần cây. Người con trưởng đòi giết em, quả nhiên sau đó thực hiện lời nói của mình. Còn ông vua bị bệnh đau đầu chính là cha của anh em nhà ấy, nhờ phụng trì trai giới một cách tinh tấn nên sinh ra được mọi người tôn quý, nhưng chỉ vì khi hai đứa con của ông cãi nhau, ông đã từng nói “làm cho tao nhức đầu quá” nên về sau quả nhiên bị bệnh đau đầu.
Những người này, người nào cũng đã từng thốt lời vọng ngữ bừa bãi, nên mỗi người đều chịu quả báo lời nói của mình.
Cho nên nói rằng, nhân quả báo ứng như bóng theo hình, không mảy may sai chạy là như vậy.
Đức Phật thuyết về vấn đề giữ giới thân khẩu ý xong, ông Ca La Việt đứng bên cạnh Ngài lập tức chứng quả Tu Đà Hoàn. Trong nhà ông có bao nhiêu tài sản, ông đem lên cúng dường hết để dùng vào việc truyền bá rộng rãi Chánh pháp. Xong, ông còn đưa vợ con đi quy y Phật, để họ được bước trên con đường chính giác.
Trích Truyện cổ Phật giáo
Xin các thầy các cô cứu con
Nam mô quán âm bồ tát
Con bây giờ vô cùng kinh hãi và cảm thấy mình bị cô lập với mọi thứ xung quanh, bạn bè xa lánh, họ hàng, hàng xóm xa lánh, con lại rất nhút nhát, sợ sệt. Xin các thầy các cô chỉ cho con biết con nên làm gì? Đi làm lúc nào con cũng lo sợ cứ về nhà là con lại vào xem bói chỉ tay, tìm thầy và vào đọc thơ phật và kinh cầu an nhưng nỗi sợ hãi vẫn không rứt, xin các thầy các cô cứu con, khoảng gần 1 tháng con như vậy rồi, hãy cho con biết von nên làm gì ạ
Kính chào bạn Nguyễn Đăng Kiêm,
Bạn muốn cầu Phật cứu mình thoát khổ nhưng lại đi tin bói toán, 2 điều đó là trái ngược nhau thì làm sao có kết quả được. Trong quy y Tam Bảo có phần quy y Pháp, nghĩa là phải nương tựa theo Pháp của Phật dạy mà sống và tu học (ví dụ như Nhân quả, Duyên khởi,..), tuyệt đối không tin vào những điều bói toán. Khi bạn tin vào bói toán, nghĩa là bạn đã không tin vào Phật Pháp, cho nên các hành động đọc kinh Phật,… chỉ là hình thức, vì về mặt Tâm mà nói, thì Tâm của bạn đã nghiêng về đường tà rồi. Tâm đã nghiêng về tà thì tự nhiên sẽ không yên, sẽ có sự sợ hãi.
Bạn muốn thoát khỏi hoàn cảnh hiện tại thì điều cần thiết trước nhất là phải sửa tâm mình lại. Bạn đọc cho kỹ ý nghĩa của quy y Tam Bảo và 5 giới của người tu tại gia, rồi thực hành theo đúng như vậy. Nếu bạn thật sự làm được đúng như vậy thì tự nhiên Tâm không còn sợ hãi. Còn nếu bạn vẫn giữ cái Tâm tà vạy tin bói toán, hoặc tin vào những điều huyền hoặc, hoặc tin mình có gì đó đặc biệt khác người,… mà đọc kinh Phật thì vẫn sẽ không được an lạc đâu. Hình cong thì Bóng sẽ cong. Tâm đã không Chính thì sao có thể an được. Nên phải biết sửa Tâm mình là cần thiết nhất.
Những điều như quy y Tam Bảo, giữ 5 giới của người tại gia là rất đơn giản, căn bản, chẳng có gì cao siêu nên thông thường người ta thấy dễ mà bỏ qua, không chịu thực tâm thực hành. Nào biết đâu rằng đó là cửa vào Đạo, là con đường dẫn đến sự an lạc. Nếu bạn muốn an vui, thì hãy bắt đầu lại bằng việc khiêm cung tu tập, thực hành đúng ý nghĩa quy y Tam Bảo, giữ 5 giới của người tại gia trước đã, đó mới là tu. Còn các bàn luận về “vô ngã, vô thường, thế giới, vũ trụ,…” vốn chỉ là câu chữ, nó không giúp Tâm mình an vui được (trừ khi mình biết áp dụng tu tập). Phải tu được phần cơ bản nhất là quy y Tam Bảo, 5 giới tại gia trước đã.
Kính chúc bạn tỉnh giác.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Cảm ơn cư sĩ phước huệ đã phúc đáp cho con
5 giới .không sát sinh con làm được
Không trộm cắp con làm được
Không tà dâm con đang vượt qua
Không uống rượu con làm được
Không nói dối chắc là con đang bị khẩu nghiệp nho nhỏ nên con hơi sợ mỗi khi thấy người lạ, cư sĩ có cách nào giúp con hết sợ không ạ
Chào bạn Nguyễn Đăng Kiêm
Xét theo nhân quả, bạn bị sợ hãi có thể là do trong quá khứ bạn đã từng gây sợ hãi cho những chúng sinh khác, vì vậy bạn nên thường xuyên lạy Phật sám hối và thực hành bố thí vô úy bằng cách tập ăn chay, phóng sinh, tùy duyên giúp đỡ những chúng sinh khác v.v…
Con muốn hỏi là mình sợ hãi thế này giống như mình cứ sợ bị ngta hại mọi người hàng xóm ai cũng gét con mà Hôm nay con có một thiệp mời cưới, con không biết đi sẽ ngồi đâu vì bạn bè hàng xóm không thích con,con cũng sợ đi đám cưới có người đánh hay làm gì mình thì sao? Vì đã sai một số chuyện nên khá sợ, các thầy các cô bảo con phải làm sao ạ
Kính chào bạn Nguyễn Đăng Kiêm,
Điều đầu tiên bạn cần sửa là tuyệt đối không xem, không tin bói toán, cũng như không khởi tâm tìm cầu một vị thầy nào đó biết chuyện kiếp trước của bạn để giải đoán cho bạn. Bạn cần phải sửa đổi, cần thực sự tin vào nhân quả mà Phật dạy, nếu thực sự tin thì sẽ sống đúng tinh thần nhân quả; ngược lại, khi xảy ra việc lại đi tìm bói toán, giải đoán thì sự tin đó chỉ là lời lừa mình, lừa người chứ không thật tin.
Hiện tại mọi người ghét bạn, xa lánh bạn, hoặc muốn hại bạn nghĩa là trong quá khứ bạn đã từng gieo nhân không tốt ở ba nghiệp thân, khẩu, ý. Người bình thường ắt sẽ phải lo lắng, sợ hãi. Nhưng là một người biết tu thì cần phải hiểu rằng lo lắng, sợ hãi, bất an không giúp gì được cho bạn, cũng không ngăn bạn nhận quả xấu. Dù bạn lo lắng, sợ hãi cách mấy thì quả xấu cũng vẫn sẽ xảy đến nếu nó đã chín muồi. Sẽ có hai việc bạn cần phải làm như sau.
1. Tích cực gieo nhân tốt ở ba nghiệp thân, khẩu, ý. Tích cực sửa đổi chính mình, làm mình thành một con người dễ thương, hoà nhã, luôn biết giúp đỡ người khác. Một người luôn chân thành vui vẻ với mọi người, và thực tâm giúp đỡ mọi người thì khó ai mà ghét hoài cho được. Đây là việc làm cả một đời chứ không chỉ vài ba ngày mà mong có ngay kết quả. Bạn có làm được không?
2. Bạn dùng hết tâm ý mà niệm danh hiệu của một vị Phật hoặc vị Bồ tát mà bạn thích và cầu Ngài gia hộ. Khi dùng hết tâm ý mà niệm thì cái tâm bất an đó sẽ từ từ được chuyển hóa, bạn sẽ dần bớt sợ hãi, đến một lúc tâm bạn sẽ có chuyển biến là: mặc dù vẫn hết sức tin tưởng Phật, Bồ tát sẽ gia hộ nhưng nếu quả xấu có xảy đến thì bạn sẽ an nhiên đón nhận nó vì hiểu rõ đây là Quả mà mình đã trót gieo và quả xấu đó đã nhẹ đi rất nhiều nhờ lực gia hộ của Phật, Bồ tát. Nhờ niệm danh hiệu mà tâm bạn sẽ chuyển từ lo lắng, bất an trở nên an ổn. Còn trên mặt hiện tượng thì thông thường khi mỗi ngày miệt mài dùng hết tâm ý mà niệm danh hiệu của Phật, Bồ tát như vậy thì tùy theo nghiệp nặng nhẹ mà sẽ có những chuyển biến tích cực. Điểm chính yếu là “dùng hết tâm ý mà niệm”.
Lời nói của PH không thể làm tâm bạn An được, chỉ khi bạn thật sự tu tập thì mới có thể An được.
Trở lại việc đi đám cưới, nếu bạn đã trót “gây thù chuốc oán” với người, nếu có khả năng họ sẽ đánh mình, thì bạn tránh mặt, không đi là tốt nhất, bạn có thể gửi tiền nhờ ai đó mừng hộ, hoặc gửi qua bưu điện cho cô dâu chú rể. Thông thường nếu mình biết tình huống đó có thể nguy hiểm đến tính mạng thì mình phải tránh xa chứ.
Kính chúc bạn tỉnh giác, tinh tấn.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Dạ thưa cư sĩ phước huệ
Bạn học từ hồi lớp 6 hơn nữa lại gần nhà
Con không đi không được vì mời cả bố con cùng đi nữa
Con không biết là con có gây thù với ai không mà chỉ cảm giác thấy ngta không thích và gét mình, von rất sợ ngta hại, cũng chỉ vì sợ hãi mà con bỏ việc từ long an về nhà với bố mẹ và giờ về với bố mẹ con lại sợ những người hàng xóm xung quanh
Con giờ rất là bế tắc, bạn bè không còn ai, hàng xóm mọi người gét con
Con phải làm sao, con nhút nhát, sợ hãi vì cuộc đời chưa va chạm bao giờ
Gửi bạn Nguyễn Đăng Kiêm
Theo như miêu tả của bạn thì có vẻ như bạn đang mắc “hội chứng sợ xã hội”: https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Hội_chứng_sợ_xã_hội
Bạn có thể tham khảo một số phương pháp để vượt qua hội chứng sợ xã hội ở trang web này: https://m.wikihow.vn/Vượt-qua-hội-chứng-sợ-xã-hội
Chúc bạn sớm vượt qua.
TP
Kính chào bạn Nguyễn Đăng Kiêm,
Có vẻ như nỗi sợ của bạn không có căn cứ, nó gần giống như bệnh (hoang tưởng vì nghĩ mọi người xung quanh ghét mình, ám hại mình). Bạn nên đi gặp bác sĩ tâm thần để có chẩn đoán và nếu thật có bệnh thì sẽ được điều trị phù hợp.
Về nỗi sợ của bạn, bạn là người tự tạo ra nỗi sợ đó, thì người giải quyết nó phải là bạn (ai buộc gút thì người đó cởi gút). Bạn càng ngại ra ngoài, càng ngại giao tiếp với xã hội thì sẽ ngày càng sợ hơn. Bạn nên cố gắng tham gia các hoạt động bên ngoài, bắt đầu bằng môi trường thân thiện như: làm công quả ở chùa, sinh hoạt gia đình Phật tử,..
Về việc dự đám cưới, cũng giống như nhiều việc khác trong cuộc sống, đôi khi ta phải lựa chọn, rất nhiều việc không thể trong cùng lúc vẹn toàn theo ý mình được, muốn không mất lòng người thì phải ráng vượt qua nỗi sợ mà đi (nỗi sợ này là không có căn cứ, phần lớn là do bạn tự tưởng ra như vậy); còn sợ quá thì ở nhà. Cho nên tùy ở bạn thôi, không ai có thể chọn giùm bạn được đâu.
Bạn đã bắt đầu tập “dùng hết tâm ý mà niệm” danh hiệu của Phật, Bồ tát chưa? Bạn thực sự cần phải thực hành cho thật nhiều.
Kính chúc bạn tỉnh giác.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật
Khi mình bị trầm cảm thì niệm Phật có thể giúp trị bệnh không.Sao cảm xúc buồn chán tuyệt vọng thấy đâu cũng là một màu xám này cứ lặp đi lặp lại khiến mình muốn chết.Như có một cục đá nặng đè trong lòng muốn thoát ra mà không được dù cố gắn niệm Phật nhưng vẫn không thể nào thoát khỏi cảm giác này thât là khổ sở. Chỉ muốn ngủ một giấc an lành không bao giờ tỉnh,phải chi tâm hồn và thể xác này hòa vào hư không rồi biến mất mãi mãi ko còn vết tích ko còn tái sanh thêm làm gì nữa. Tại sao lại có thế giới, con người,tình cảm ,yêu nhau.. ,sanh ra rồi chết đi rồi theo nghiệp lại sanh ra chết đi..cuối cùng có gì thực sự là ý nghĩa chứ. Làm việc tốt cũng chẳng qua là để tích đức cho kiếp sau sống tốt hơn thôi rồi lại tiếp tục sống như vậy thật là chán nản.
Chào Phan Thị Hạ
– Khi bị trầm cảm thì thường là mọi suy nghĩ, phán đoán của bạn lúc đó đều bị bóp méo theo hướng tiêu cực, vì vậy bạn đừng vội tin vào những suy nghĩ của mình ngay lúc đó.
– Bạn có thể niệm Phật nhưng đừng cố sức quá khiến bản thân bị căng thẳng, bạn có thể mở một bài nhạc niệm Phật nhẹ nhàng rồi nhiếp tâm lắng nghe.
– Bạn nên dành một khoảng thời gian vào buổi tối để viết nhật ký, ghi lại mọi việc xảy ra trong ngày cùng những suy nghĩ, cảm xúc của bạn, điều này có thể giúp xác định nguyên nhân gây trầm cảm, đồng thời việc viết mọi thứ ra giấy cũng sẽ giúp bạn cảm thấy nhẹ nhõm hơn.
– Ngoài thời gian tu học hàng ngày, bạn hãy dành thêm thời gian cho gia đình, bạn bè. Việc nói chuyện, chia sẻ với mọi người cũng góp phần giảm bớt chứng trầm cảm.
– Vãng sinh Cực Lạc không phải là để cầu an lạc cho riêng mình. Thay vì chìm vào nỗi khổ của chính mình, bạn hãy nghĩ đến nỗi khổ của những chúng sinh khác, phát tâm cứu độ tất cả chúng sinh khiến họ đều lìa khổ được vui. Nếu có thời gian hãy tham gia các hoạt động thiện nguyện hoặc bỏ tiền mua các con vật để phóng sinh.
– Cuối cùng, nếu bạn không tự vượt qua được hãy tìm đến sự trợ giúp của bác sĩ.
THOÁT NẠN CƯỠNG HIẾP nhờ niệm danh hiệu BỒ TÁT QUÁN THÊ ÂM
(Câu chuyện CÓ THẬT tại bến xe Mỹ Đình – Hà Nội, hãy đọc để cảnh giác !)
Tôi có duyên với Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát đã cứu tôi rất nhiều lần, và lần thót tim nhất, li kì nhất, là một lần tôi bị lọt vào bẫy của một gã bặm trợn, âm hiểm. Bồ tát đã cứu tôi ra khỏi tay hắn một cách khó tin.
Đó là ngày 12/1/2016, tôi theo chân những người cùng quê đến cửa khẩu Lạng Sơn. Chắc ai ở Hà Tây đều biết bao nhiêu năm nay mọi người đều qua Trung Quốc làm rất đông, tôi thấy nhiều người đi cũng đã đổi đời, kinh tế khấm khá.
Tôi cũng đi với niềm mong ước đó, nhưng chỉ còn vài bước chân nữa qua biên giới, thì tôi bỗng đau bụng dữ dội, quặn thắt từng cơn. Mọi người bảo thôi về đi chứ đau thế này mà sang đấy mà có chuyện gì thì nguy hiểm. Thế là tôi đành ngậm ngùi bắt xe về Hà Nội.
Đến bến xe Mỹ Đình lúc 8h tối thì không còn xe nào về Hà Tây. Buồn vì bị lỡ việc thì ít, mà lo lắng không biết đêm này mình ra sao thì nhiều, bởi lúc đi chủ đoàn nói sang Trung Quốc họ lo cho đầy đủ nên không cần mang nhiều tiền. Nên sau khi bắt xe về đến Hà Nội thì trong túi tôi chỉ còn đúng 80.000đ. Thấm mệt và say xe vì đi đường dài, nghĩ không thể bơ vơ thế này cả đêm ở bến xe được, tôi đành bấm bụng ghé vào một nhà nghỉ ở gần đó , mong họ cho một chút cảm thông để tá túc nhờ đêm nay. Tôi nói với ông chủ nhà nghỉ:
– Em bị lỡ việc, giờ lại không còn xe về quê, anh có thể cho em ở nhờ được không ạ?
Ông chủ đầu trọc lóc, mặt bặm trợn, dáng người cao to, nhìn tôi từ đầu đến chân rồi nói:
– Thôi được rồi, cho vào ngủ với bà giúp việc.
Tôi đồng ý và cảm ơn ông ta. Ánh mắt ông ta hắt ra một tia nhìn âm hiểm khiến tôi thoáng sợ hãi, nhưng khi nghe ngủ chung với bà giúp việc thì tôi cũng yên tâm được phần nào. Khoảng 9h tối, bà giúp việc bảo tôi qua phòng bên kia ngủ. Họ bảo thì tôi qua thôi, nghĩ chắc họ dư phòng nên để cho tôi một phòng chăng?
Tôi vừa bước vào phòng thì cánh cửa bỗng đóng lại. Tôi giật mình, vội quay lại, thì ra đó là ông chủ nhà nghỉ. Hắn khóa trái cửa phòng lại, dắt một con dao to ngay trước cửa. Tôi bàng hoàng không nói được gì, thì bỗng hắn lên tiếng với một giọng đê tiện:
– Anh em mình ngủ với nhau tí nhé!
Tôi lắp bắp trong sợ hãi:
– Không… không… anh ạ!
Hắn bắt đầu nịnh nọt tôi:
– Anh em mình làm tí không việc gì đâu. Mai em xem công việc thế nào, không được thì ở đây làm với anh!
Tôi cố gắng lấy bình tĩnh, giả vờ nói:
– Thôi…thôi được rồi, mai em chiều anh. Giờ anh để em nghỉ hôm nay cho đỡ mệt cái đã. Rồi anh xem mai có việc thì anh cho em làm.
Hắn đâu có dễ bị lừa, liền gạt đi, nhanh nhảu đáp:
– Không, giờ anh em mình làm tí đã!
Như con thú hoang háu đói, hắn cởi phăng hết quần áo ra, rồi tiến lại gần tôi. Tôi hoảng sợ đến tột độ, tôi đã rơi vào cái bẫy của hắn, không còn lối thoát nào. Đừng nói đến thanh danh, ngay cả mạng tôi cũng không chắc giữ được.
Trong lúc nguy cấp cùng cực, tôi bỗng nhớ đến một đoạn trong Kinh Phổ Môn có dạy rằng : “Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.”
Vậy là tôi ra sức niệm thầm trong tâm : “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát! Mẹ Quán Âm Bồ Tát cứu con! Mẹ Quán Thế Âm Bồ Tát cứu con !… ” rồi nhắm mắt chờ bàn tay số phận định đoạt.
Một phút… hai phút… rồi mười phút trôi qua ! Thật kì lạ, hắn vẫn chưa làm gì được tôi. Chân tay hắn chẳng biết thế nào mà chỉ quờ quạng một cách yết ớt, đôi mắt hắn lộ vẻ mệt mỏi và đờ đẫn. Thấy vậy, tôi càng tha thiết niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, đồng thời kiên cường thủ thế.
Phải nói rằng câu niệm hồng danh “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát” linh ứng không thể tưởng tượng nổi. Hắn – một gã đàn ông lực lưỡng, hung bạo, với thú tính đang bạo phát hừng hực, còn tôi, một phụ nữ chân yếu tay mềm, toàn thân đang run rẩy, không còn giữ được chút bình tĩnh nào. Vậy mà hắn loay hoay mãi không thể làm gì được tôi.
Không biết thần thông của Quán Thế Âm Bồ Tát tác động như thế nào đó, khiến hắn đột nhiên trở nên yếu xìu. Càng lúc càng chậm chạp dần. Mặt hắn cứ đờ ra, mắt díp lại dần dần.
Không lẽ hắn buồn ngủ ? Vào lúc tưng bừng như thế này mà hắn lại buồn ngủ được sao ?
Ấy thế mà hắn ngủ thật.
Cố gắng thêm một chút với những động tác đờ đẫn, mang tính chất minh họa là chính, hắn lăn ra đó ngủ một cách ngon lành. Cứ như bị người ta chụp thuốc mê vậy.
Thấy vậy tôi vui mừng không sao mà tả hết được, nhưng vẫn còn sợ, toàn thân run lập cập. Nên tôi chỉ còn biết ngồi một góc, ra sức niệm liên tục : “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát ! Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát”, cầu xin Người cứu tôi, cứ thế niệm suốt đêm.
Thỉnh thoảng hắn thức giấc, rồi quay qua nhìn tôi, có lẽ dục tính của hắn đang cố gắng chiến đấu kịch liệt với cơn buồn ngủ… cuối cùng ánh mắt hắn lộ vẻ bất lực, rồi lại lăn ra ngủ. Đến 5h sáng, hắn thức dậy, xem đồng hồ rồi uể oải bảo tôi:
-Thôi… cho em về !
Hắn lờ đờ bước đến cánh cửa, rút con dao và mở cửa ra, tôi chạy đi thẳng, không dám quay đầu lại.
Chuyện này trước giờ tôi không dám kể với ai, bởi nói ra , nếu một người không có tín tâm vào Phật pháp có lẽ họ cho rằng tôi bị thần kinh, bởi làm gì có chuyện nam nữ ở chung phòng cả đêm mà tôi lại không việc gì?
Các bạn biết đấy, ở bến xe dân tình rất phức tạp, nhất lại là chủ nhà nghỉ thì không phải dạng vừa. Tôi như con cá nằm trên thớt, hắn thì to con bặm trợn, lại trên địa bàn của hắn, số phận tôi khi ấy 10 phần thì 9 phần nguy nan.
Đến giờ tôi vẫn còn ám ảnh bởi hình ảnh con dao chắn ngang ở cửa. Đêm ấy, nếu chẳng phải nhờ phép màu của Bồ Tát, biết đâu tôi đã được ghi tên trong hồ sơ một vụ án cưỡng hiếp- giết người nào đó. Thậm chí, nếu hắn phi tang một cách khéo léo, có khi tôi còn bị chết mất xác không ai tìm ra. Chuyện đó vẫn thường xảy ra mà, biết đâu được…
Nhờ niệm danh hiệu Bồ Tát mà xuất hiện một thần lực vô hình cản trở hắn, khóa hắn lại bằng cơn buồn ngủ bất chợt, khiến tôi vẫn bình an, chẳng mất cọng lông nào. Phật Pháp quá vi diệu phải không các bạn?
Lời Đức Phật dạy trong Kinh điển là chân lý vĩnh hằng, dù chỉ là một câu, một từ thôi, đều chẳng phải hư dối. Ngày ấy làm gì tôi đã biết đến Chú Đại Bi và siêng năng trì tụng như bây giờ, vậy mà nhờ may mắn nhớ được một câu trong Kinh Phổ Môn mà tôi được thoát nạn.
Tận thâm tâm tôi luôn biết ơn Bồ Tát đã cứu tôi rất nhiều lần. Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát! Người là bến bờ giải thoát, cứu vớt chúng sinh ra khỏi trầm luân, khổ đau, tăm tối! Con xin đem hết lòng thành kính xin quy y Người! Con xin đem vô lượng kiếp lễ kính Người !
Nhân đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn các bạn đã đọc câu chuyện “NHỜ CHÚ ĐẠI BI mà khỏi bệnh VIÊM TỬ CUNG & HO RA MÁU” trên trang và gửi lời chúc mừng đến tôi. Nguyện cho tất cả mọi người đều tin thọ Phật Pháp, biết quý trọng sinh mạng, đoạn trừ sát sinh, dứt ác hành thiện, đều ngộ ra giáo lý của đức Phật, cùng tu tập tinh tấn để sớm chứng Bồ Đề, thoát khỏi mọi khổ đau của thế gian này.
Trịnh Thanh Thanh
/cho mình hỏi khi mình ngồi niệm Phật trong lúc thời khóa mình cảm thấy khá mệt và không ngồi yên được thì mình nằm có sao không ạ?
2/ Mình cũng cố gắng tu gần 1 năm và mình cảm thấy quá khó và không rõ mình có đang bị sa đọa hay không? Với lại là gần đây mình không bỏ được cái cảm giác không ưa 1 ai đó. Khi mình ở bên người đó và người đó nói những lời mỉa mình không thích và mình hoàn toàn có giới hạn riêng.
Xin các đạo hữu chỉ bảo
A DI ĐÀ PHẬT
Gửi bạn UnknownTraan,
*Niệm Phật được chẳng dễ. Nếu dễ thì ai cũng niệm được hết. Chính lẽ đó nên hàng ngày mọi người phải tập niệm Phật. Sở dĩ bạn niệm Phật mà thấy khá mệt và không ngồi yên được là do bạn ép mình phải niệm Phật, nghĩa là bạn ép mình ngồi xuống, nhưng thực trong tâm bạn không muốn ngồi niệm Phật. Nguyên tắc tu: thân đâu, tâm phải ở đấy. Bạn ép mình ngồi, nhưng tâm lại thích đi nơi khác, giả dụ bạn muốn nằm cho nó thoải mái hơn, vì thế dù bạn có niệm Phật, nhưng tâm bạn đang hướng về giường. Đó là lý do bạn niệm Phật mà thấy mỏi mệt. Để khắc chế hiện trạng này bạn nên thu xếp thời gian niệm Phật cho thích hợp, tránh gò ép tu, và không nên tu những lúc quá mỏi mệt. Bởi lúc đó dẫu bạn gượng ngồi cũng chỉ là hành xác. Chư Tổ dạy: Đó thì ăn, khát thì uống, mỏi thì nằm. Ý nói: mọi việc phải nên thuận theo lẽ tự nhiên. Giờ giấc tu phải định khoá cụ thể. Đến giờ là dậy, đến giờ là phải ngồi vào tu, không tìm cách thoái thác, trốn tránh rồi sanh lười biếng, thoái tâm.
*Bạn đừng tính thời gian tu vì thời gian không nói lên điều gì hết. Tu hay không tu chỉ trọn trong một niệm: giác hay không giác; sửa hay không sửa. Nếu hàng ngày bạn tu mà tâm luôn không giác, lỗi không chịu sửa thì cho dù bạn tinh tấn ngày 3 thời công khoá sáng-trưa-tối, cũng chỉ là hành xác, thực không có lợi lạc.
*Sa đoạ hay không bạn phải quán xét hàng ngày tâm bạn luôn hướng đến những gì? Nếu luôn hướng về tham, sân, si, ngũ dục, lục trần thì hẳn là bạn đang sa đoạ. Nhưng nếu hàng ngày bạn luôn tìm cách niệm Phật khi những ý niệm bất thiện kia khởi lên, đồng nghĩa bạn đang hướng về sự an lạc.
*Người thường mỉa mai, mắng, chỉ trích bạn… một là bạn từng làm như vậy với họ; hai là họ giúp bạn tiêu nghiệp. Hãy biết ơn và hoan hỉ đón nhận, sám hối nghiệp đó để không tái phạm. Niệm Phật chính là sám hối. Ngay khi họ mắng nhiếc, mỉa mai, chỉ trích bạn, hãy niệm Phật liên tục để tiêu trừ nghiệp tội đã gây cho họ. Lâu ngày, nghiệp sẽ tiêu trừ.
Chúc bạn tỉnh giác và tinh tấn.
Dạ cám ơn đạo hữu Thiện Nhân đã khai sáng mình 1 chút nhưng việc học của mình không nhẹ hầu như mỗi lần mình về nhà mình chỉ muốn nghỉ ngơi nhưng mình cảm thấy mình phải làm đó là cách duy nhất để mình định thời khóa nên muốn định thời khóa ở 1 thời gian không bị mỏi mệt thì mình thực sự không biết.
Mình đọc trên 1 bài viết thì mình nghĩ trong Phật giáo nếu là người tu nên đối xử hòa nhã thân thiện và không ngăn cách mọi người. Nhưng ở ngoài đời mình cảm thấy khó khăn, có lẽ mình đã gieo nhân không tốt với người ta mà bị ghét, bị ngứa mắt thì cho mình hỏi mình né người đó ra có thuận với chánh pháp không? Tại nếu người ta cảm thấy mình ngứa mắt tới như vậy việc gì xáp lại? Người ta thấy không ưa mà bản thân mình lâu ngày khó tránh bị phiền não.
Xin đạo hữu cho mình ý kiến
LỜI HỨA CỦA “CHA” – CHA KHÔNG BỎ RƠI CON
Một câu chuyện có thật vào năm 1989, một trận động đất 8,2 độ Richter gần như san bằng Armenia, làm hơn 30.000 người chết trong vòng 4 phút. Trong cơn hỗn loạn, có một người đàn ông dặn vợ mình ở nhà cho an toàn, rồi chạy ào đến trường, nơi con trai của ông đang học
Ở đó, ông nhìn thấy một đống đổ nát – ngôi trường đã sập hoàn toàn. Ngay lúc đó, người đàn ông nhớ đến lời hứa ông luôn nói với con mình: “Dù thế nào, bố cũng luôn bảo vệ con!”. Và ông bật khóc khi nhìn đống gạch vụn đã từng là trường học. Rồi ông bắt đầu cố định hướng xem lớp của con mình nằm ở vị trí nào. Góc bên phải phía sau của trường học! Ông lao đến và bắt đầu bới đống gạch đá.
Nhiều vị phụ huynh nhìn thấy người đàn ông làm như vậy, họ vừa khóc vừa kéo ông ra, kêu lên: “Quá muộn rồi!”, “Anh không làm được gì đâu!”, “Về nhà đi!”, hoặc “Chúng ta phải chờ cứu hộ đến thôi!”… Nhưng để đáp lại những lời đó, người đàn ông chỉ nói đúng một câu: “Giúp tôi một tay!” Và ông vẫn tiếp tục bới đống gạch, cẩn thận quẳng từng viên gạch, từng mảng tường ra ngoài.
Đội cứu hộ đến và họ cũng cố lôi ông ra khỏi đống đổ nát. – Chúng tôi sẽ lo việc này! Ông về nhà đi! Nhưng người cha vẫn dọn dẹp từng viên gạch, và chỉ đáp: – Giúp tôi một tay đi!
Cảnh sát cũng có mặt. Họ cũng khuyên can người đàn ông: – Anh đang trong trạng thái không ổn định. Anh có thể gây nguy hiểm cho mình và cho người khác, đề nghị anh về nhà! Nhưng họ cũng chỉ được nghe một câu đáp: – Giúp tôi một tay!
Một người, rồi nhiều người bắt đầu vào “giúp một tay”. Họ đào bới đống gạch suốt 8 tiếng… 12 tiếng… 24 tiếng… 36 tiếng… Và đến tiếng thứ 38, khi kéo một tảng bê-tông ra, dường như họ nghe thấy tiếng trẻ con.
– Armand? – Người đàn ông gọi to, giọng nghẹn lại.Và ông nghe tiếng trả lời:
– Bố phải không? Con ở đây này! Con đang bảo các bạn đừng lo, vì bố sẽ đến cứu con, và cứu cả các bạn nữa! Bố đã hứa bố sẽ luôn bảo vệ con mà…
14 học sinh trong số 33 em ở lớp của Armand được cứu sống hôm đó, vì khi ngôi trường sập xuống, một tảng bê-tông to đã chèn vào tạo thành cái “hang” nhỏ và các em bị kẹt. Armand đã bảo các bạn đừng khóc, bởi vì “bố tớ sẽ đến cứu chúng ta”.
Các em nhỏ hoảng sợ, đói và khát, nhưng đã được cứu sống, bởi vì có một người “cha” đã hứa.
_________________________________________________________________
Các vị, Người cha ví như đức A Di Đà Phật, người con là chúng ta, luôn luôn tin tưởng, nhớ, niệm, hằng ngày chờ “cha” tới. A Di Đà Phật đã khả hứa với chúng ta, lời Phật là chân thật là tuyệt đối không vọng ngữ. Chúng ta nên tin và khẩn thiết làm theo lời Phật dạy.
Nam Mô A Di Đà Phật
A Di Đà Phật!
Con cảm thấy mình cũng có duyên với Phật Pháp một chút! Từ lâu mình hay tin vào nhân quả, cũng có ăn chaykỳ và khi có cơ hội, đi chùa, phóng sanh, bố thí, niệm Phật, có niệm lúc ấy chỉ niệm để cho mình cảm giác bình an thôi, để cảm giác như có Phật ở bên che chở vậy. Vì lúc ấy chưa biết niệm Phật sẽ được vãng sanh cực lạc. Hay chưa nghĩ gì và biết gì về Pháp môn Tịnh Độ này. Bây giờ có duyên được hiểu sâu rộng hơn, và có duyên gặp được nhiều Thiện Tri Thức nữa thật là vui lắm ạ. Giờ hiểu rồi thì con càng ngày cành niệm Phật nhiều hơn nữa, làm các việc lành nhiều hơn nữa, biết sám hối tội lỗi lúc xưa và nguyện không bao giờ tái phạm. Gắng tu sửa thân tâm, khẩu, ý… mỗi hành động, lời nói và việc làm… Nên cảm thấy đời rất an nhiên… Nhưng điều chăn trở của con là làm sao để người thân mình, bạn bè mình và nhiều người khác cũng có thể giác ngộ để khỏi nghe than thân trách phận, đó là nguyện ước của con vậy. Con cũng có khuyên nhủ, có hồi hướng cho họ khi mình làm được những việc phước thiện nào đó, con không biết phải mất bao lâu thì những người thân yêu của mình mới giác ngộ cùng tu mà thoát khỏi luân hồi? Và con muốn hỏi con không có bàn thờ Phật, con ngồi chắp tay thành tâm hồi hướng có được không ạ? Con cũng muốn hỏi thêm nữa là nếu mình được vãng sanh cực lạc rồi thì mình có thể độ cho người thân của mình và tất cả mọi người không? Và nếu được thì cách thức độ như thế nào ạ? Con xin cảm ơn! A DI ĐÀ PHẬT!
Chào bạn Tâm An,
Thoát khỏi luân hồi không phải chuyện dễ dàng, chẳng thể dùng chút ít thiện căn phước đức mà về Cực Lạc được. Vậy bạn có chắc rằng khi nào bạn sẽ liễu thoát sinh tử được? Vậy nên bạn hãy tạm gác thắc mắc thứ nhất qua 1 bên. Tiếp tục Phước huệ song tu. Tất cả phụ thuộc vào 2 yếu tố: nhân duyên, và ở chính bản thân chúng sanh (có chịu lắng nghe, thực hành chánh pháp không). Nếu người thân của bạn qua đời, chẳng may đọa lạc tam ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc xanh) thì bạn hãy phát tâm trì tụng 7 bộ Kinh Địa Tạng liên tục 7 ngày, mỗi ngày 1 bộ.
Nếu hoàn cảnh bất tiện, ví dụ ở phòng trọ quá chật hẹp, thì không có bàn thờ cũng được. Vì “Phật dụng tâm chứ không dụng vật”, “vô vi tướng mới là thiệt tướng”.
Khi bạn niệm Phật, lễ bái Phật, thì bạn hãy quán tưởng rằng mình đứng trước 10 phương chư Phật, chứ không chỉ Phật A Di Đà. Khi cầu nguyện và hồi hướng công đức, hãy hướng tới toàn thể pháp giới chúng sanh chứ không chỉ người thân của mình.
Cực Lạc có 81 phẩm vị, vãng sanh cao hay thấp là tùy thuộc công đức của bạn. Về đó, Phật A Di Đà và chư Bồ Tát sẽ hướng dẫn bạn bước tiếp theo.
Nam mô A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật
Chào bạn P. M. H!
Cảm mến công đức muốn bố thí pháp của bạn trên Đường Về Cõi Tịnh. Song có vài ý kiến góp ý mong bạn hoan hỷ đón nhận.
Các đạo hữu viết thắc mắc đa phần là những người mới chập chững vào Đạo, vậy khi viết phúc đáp nên tùy thuộc vào sự hiểu biết, tiếp nhận của họ mà trả lời sao cho ngắn gọn, dễ hiểu; tránh dài dòng, dùng pháp thoại “cao siêu”; bằng không những thắc mắc của họ không được tháo gỡ, lại càng thêm nghi vấn, ắc họ sẽ lầm lạc trong bước đường vào Đạo.
Ví như đạo hữu Tâm An, khi đọc phúc đáp có thể đoán biết vị này vừa mới phát tâm niệm Phật. Nhưng rồi PMH lại khuyên “Khi bạn niệm Phật, lễ bái Phật, thì bạn hãy quán tưởng rằng mình đứng trước 10 phương chư Phật, chứ không chỉ Phật A Di Đà”. Chỉ riêng đôi mắt của A Di Đà Phật đã bằng cả 4 biển, quán tưởng đôi mắt Từ phụ không hề đơn giản rồi, vậy nên Nhị Tổ Thiện Đạo dạy rằng: quán tưởng chỉ dành cho bậc thượng căn, còn đối với hàng phổ thông chỉ nên chăm lo vào pháp niệm Phật mà thôi. Ở đây chúng ta cần phân biệt giữa hai từ “quán tưởng” và “nghĩ tưởng”, với hành giả sơ cơ như chúng ta thường thì chỉ nghĩ tưởng. Chiêm ngưỡng tượng Phật, hàng ngày lễ bái, không nghĩ đó là tượng cất bằng đất đá, keo sơn, đồng sắt mà nghĩ tưởng rằng hàng ngày đang thân cận Phật- điều này hành giả chúng ta hoàn toàn hành được, “nhớ Phật niệm Phật hiện tại tương lai nhất định thấy Phật” vậy.
A Di Đà Phật
Cảm ơn tiền bối Hạnh Nhân!
Con đã dùng sai từ, ý của con là “nghĩ tưởng”.
Chúc tiền bối an lạc.
Dạ, con xin ghi nhận mọi ý kiến đóng góp của các Thầy và con sẽ cố gắng nhiều hơn nữa ạ! NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT