Vào năm Đinh mão niên hiệu Long Khánh, Hàn Thế Long ở Trường Châu ban đêm nằm mộng, thấy một vị thần mặc giáp vàng đến bảo: “Ngươi sắp đựơc hưởng vinh lộc của một viên quan nhất phẩm, ta đến chúc mừng ngươi”.
Thế Năng chưa dám tin, tỏ ra nghi ngờ, hỏi: “Do nguyên nhân gì vậy?”.
Đoạn, vị thần mặc giáp vàng bèn trình bày một sự kiện công đức như sau: Nhân vì ông nội của ngươi là Hàn Vĩnh Thung gia thế tuy bần hàn, nhưng ưa phóng sinh. Mỗi buổi rạng đông, ông cầm chổi quét gom những con ốc nhồi ở 2 bên bờ một dòng suối nhỏ trước nhà, rồi đem thả chúng vào trong nước, để khỏi bị người ta giẫm đạp mà chết uổng mạng. Có hôm, ông nhịn đói, quét hơn mười dặm đường, rồi đem vô số kể những con ốc nhồi đi phóng sinh.
“Ôi! Ngươi thật là một đứa ngốc nghếch! Tuổi còn non trẻ mà nhàn rỗi, vô sự đến thế ư?”. Đại khái đó là những lời đùa cợt, đàm tiếu của thế nhân, nhưng ông đều nhẫn nhục cả. Ông chỉ biết mình đang làm việc tốt là được, còn đối với những lời chê bai của thiên hạ thì chẳng màng để ý làm gì. Huống nữa, trong lúc ông đem hàng trăm con ốc nhồi thả vào trong dòng suối thì tự nhiên cảm thấy lòng mình dâng lên một niềm khoái lạc không gì sánh nổi. Niềm khoái lạc này thực sự không có tiền bạc nào có thể mua được.
Ông nội của ngươi vui thú trong việc làm ấy không biết mỏi mệt, trải qua như thế hơn bốn mươi năm trường. Chính nhờ công đức phóng sinh ấy mà mấy đời đều quý hiển, âm đức này còn đượm nhuần cho đến nhà ngươi”.
Vị thần giáp vàng nói xong thì biến mất. Từ sau giấc mộng ấy, Hàn Thế Năng càng gắng sức làm nhiều việc tốt hơn nữa. Quả nhiên ngày sau làm quan đến nhất phẩm, có lần được vua cử đi sứ sang Triều Tiên. Về sau con cháu ông đều hiển đạt cả.
Trích: Sự Tích Cứu Vật Phóng Sinh
Tác giả: Pháp sư Tịnh Không
Việt dịch: Thượng tọa Thích Phước Sơn
SỰ VI DIỆU CỦA CHÍN CHỮ CHÂN NGÔN “NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT”.
Buổi chiều mưa gió bão bùng, tôi đến thăm Tuệ Tinh, tuy cùng ở chung một thành phố, song cả năm mới gặp mặt một lần. Chúng tôi là bạn bè lâu năm, nói chuyện hết sức tâm đầu ý hợp. Khi bàn luận chuyện gì, chẳng ai chấp vào cái thấy biết của mình. Chị ấy nói thì tôi nghe, còn tôi nói thì chị ấy nghe, đôi khi nói quá hứng thú quên cả cảnh giới bên ngoài. Mỗi khi nói đến “chín chữ chân ngôn”, chị thấy toàn thân rúng động, chị kể:
“Bữa nọ đang đi một mình, bỗng chị nghe rất rõ có tiếng người nói với mình:
– Cô hãy niệm chín chữ chân ngôn!”
Chị nhìn quanh chẳng thấy ai, suốt đoạn đường không một bóng người, vậy tiếng đó của ai? “Chín chữ chân ngôn” là gì? Mới vừa còn nghe rất rõ “Cô hãy niệm chín chữ chân ngôn!” Thế là bao nhiêu nghi vấn đều dồn về câu nói bí ẩn của người bí ẩn đó. Chị hỏi rất nhiều người, nhưng chẳng một ai biết chín chữ chân ngôn là gì.
Mấy ngày sau, một buổi sáng thanh tịnh, chị đang thắp hương lễ Phật, ngước lên chiêm ngưỡng bức tranh Bồ-tát Địa Tạng trong hoa sen lửa, vô thức niệm lớn chín chữ chân ngôn đó: “Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ- tát”, lúc ấy liền hoảng nhiên đại ngộ, vui mừng khôn xiết. Đúng là “tìm kiếm khắp nơi song chẳng thấy, nào ngờ nó hiển hiện trong ta”. Trước đó chị rất hay trì niệm thánh hiệu Bồ-tát Địa Tạng, nhưng không để ý.
Hễ người thân của ai qua đời, chị đều trì niệm thánh hiệu Bồ-tát Địa Tạng hồi hướng công đức siêu độ vong hồn; điều không thể nghĩ bàn lớn nhất, đó là vong hồn nào được chị siêu độ, nhất định cũng hiện về báo mộng một lần, sau đó không còn thấy nữa. Ấn tượng sâu sắc nhất của chị, khi còn bé, nhà chị có thuê một người làm công, chú ấy thật thà, lanh lợi, việc gì cũng làm được. Lúc ấy chị mới có hai ba tuổi, chú ấy cõng chị đi vòng vòng quanh xóm, đôi khi còn giả làm ngựa nhảy nhót nữa. Theo tiếng gọi của đất nước, chú đi bộ đội, không lâu sau chị nhận tin chú tử trận. Năm ngoái bỗng chị nhớ đến người ở trung thành khi xưa, nghĩ chú chết nơi chiến trường, lưu lạc tha hương, nơi chốn núi rừng lạnh lẽo ấy có ai siêu độ cúng bái cho không? Chị phát nguyện niệm thánh hiệu Bồ-tát Địa Tạng nguyên một tháng, hồi hướng công đức siêu độ cho chú. Tối nọ, chị nằm mộng thấy một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú, gương mặt hết sức hiền từ đôn hậu, đến trước mặt chị, tỏ lòng cung kính, mỉm cười, nói nhẹ nhàng như gió thoảng:
– Chú chính là người năm đó! Nói xong ẩn mất.
Có lần bệnh suyễn của chị tái phát, trong lúc hôn mê, bỗng thấy lão thái thái đã chết ở gần nhà, xách giỏ tre, luôn đứng trên hư không chẳng chịu đi. Chị thấy bà không chịu đi cứ đứng trên đó hoài, hơi khó hiểu, song kệ không để ý. Sau đó, không biết thế nào mà lão thái thái đó ngồi bên giường của chị, cầm tay chị. Chị nói tự nhiên như với người sống:
– Bà ơi! Cháu mệt quá, xin bà khám bệnh cho cháu, lấy thuốc cho cháu uống với!
Bà lão liền thò tay vào giỏ tre lấy ra một túi vải, bên trong có cái gì đó giống phấn hoa, bà nói:
– Cháu không cần uống thuốc nữa, lúc nãy bà cho cháu uống rồi.
Ngay cả chị cũng không biết mình uống thuốc lúc nào nữa. Không lâu sau, có người giới thiệu một vị bác sĩ chữa bệnh cho chị, điều kì lạ là thuốc vị bác sĩ này cho uống rất giống với phấn hoa trong giỏ của bà cụ đêm đó, từ đó bệnh không còn tái phát nữa.
Chị là người rất có cá tính, hết sức thành tín, kiên nghị, một khi đã quyết định làm chuyện gì, thì dù có chết cũng không từ nan, tinh thần này chính là “thành thì linh, chuyên thì tinh, một lòng không bỏ, vàng đá cũng tan”. Chị có được những chuyện thần bí linh ứng như thế, quyết chẳng phải chuyện thần thoại, mà là kết quả của quá trình tinh tấn tu hành, phần thưởng của tâm chí thành. Không cần chị phải nói gì, chỉ cần nhìn vào việc làm và những điều linh ứng cũng đủ thấy hết tâm của chị. “Người ngu nói bằng miệng, người trí nói bằng tâm và hành động thiết thực”. Chị chuyên tâm thành ý tụng kinh Kim Cang, Tâm Kinh và trì niệm thánh hiệu Bồ-tát Địa Tạng để hồi hướng công đức cho người khác, phản xạ tâm lực, tự nhiên đạt được linh cảm, như vậy chuyện linh cảm chẳng phải có gì thần bí khó hiểu như người ta vẫn tưởng.
Trình Quán Tâm
Trích: Thánh Đức & Sự Linh Ứng Của Bồ Tát Địa Tạng
Lừa gạt tiền từ thiện chịu quả báo nơi địa ngục
Bố thí, làm từ thiện xưa nay là việc làm cao cả, được người đời ca tụng. Tuy nhiên, có những trường hợp làm từ thiện không những chẳng tích đức mà còn tạo nghiệp nặng.
Vào thời triều nhà Minh, ở Tô Châu có một người họ Nguyên nổi tiếng đức độ vì làm từ thiện. Dân trong vùng rất ngưỡng mộ việc làm từ thiện của ông. Họ Nguyên được đánh giá là người có tấm lòng cao thượng, luôn nhã nhặn vui vẻ với tất cả mọi người, bởi vậy giới quyền quý thường xuyên lui tới và kết bạn bè.
Có một thương nhân từ xa tới đây nghe danh họ Nguyên là người đức độ lương thiện nên rất muốn tới gặp để học hỏi và quyên góp. Tuy nhiên vị thương nhân trên đường đi chưa kịp tới nơi thì trời đã tối, nên đành xin tá túc ở một ngôi chùa nhỏ giữa đường, cách thị trấn nơi nhà họ Nguyên cư ngụ không mấy xa. Vị thương nhân dự tính nội trong ngày mai sẽ tới để gặp gỡ, đàm đạo cùng họ Nguyên.
Ngôi chùa đơn sơ chỉ có một sư thầy trụ trì và hai chú tiểu. Sau bữa cơm chay, thương nhân xin được đàm đạo cùng sư thầy, mọi người đều vui vẻ. Trụ trì hỏi thương nhân từ đâu lặn lội tới đây, thương nhân bèn thuật rõ sự tình:
“Thưa trụ trì, tôi buôn bán lâu nay cũng có dành dụm chút ít, muốn làm từ thiện tích đức cho bản thân và con cái. Nghe danh trong vùng có nhà họ Nguyên đức cao vọng trọng làm từ thiện giúp dân nghèo, nên tôi đã kết hợp vừa tới đây làm ăn, vừa quyên góp tiền cho họ làm công việc này”.
Trụ trì nghe xong mỉm cười đáp: “Mọi thứ đừng nhìn bề ngoài, làm từ thiện cần cái tâm ngay chính, nếu không chẳng tích đức mà còn tạo nghiệp nặng. Nếu không biết mà quyên tiền cho người như vậy cũng sẽ chẳng tích được chút gì”.
Nghe xong thương nhân vô cùng ngạc nhiên bèn hỏi han trụ trì cho rõ sự tình, trụ trì chỉ mỉm cười và nói thương nhân hãy đi nghỉ sớm.
Băn khoăn với những gì vừa được nghe, nhưng vì đường xá xa xôi nên thương nhân cũng nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Nửa đêm thương nhân chợt tỉnh giấc vì có tiếng kêu khóc thảm thiết của ai đó, vội bật dậy tìm dép lần mò ra ngoài xem sao. Trước mắt của thương nhân là khung cảnh rất khác những gì vừa thấy, xung quanh mờ mờ ảo ảo, tiếng khóc than ngày càng rõ. Lại gần thì thấy có ai đó đang bị cùm gông cả chân lẫn tay nằm trong một vạc dầu sôi sùng sục, nhìn rất đáng sợ. Thương nhân rùng mình tự hỏi mình đang ở đâu vậy? Lẽ nào đang ở địa ngục nơi những linh hồn tội lỗi phải chịu nghiệp báo đã gây ra khi còn ở dương gian?
Đang phân vân không rõ thế nào thì nghe một quỷ sứ nói rất to: “Họ Nguyên người Tô Châu cần chịu ngâm vạc dầu đủ 1.000 năm vì tội lừa gạt tiền của người khác để mưu lợi cho bản thân. Tội càng nặng hơn khi dùng danh nghĩa làm từ thiện để làm giàu cho mình. Tiền quyên góp chỉ dùng một phần nhỏ làm từ thiện, phần lớn đổ vào cuộc sống xa hoa, tiêu xài vô độ. Tội nặng khó tha, cứ thế mà tiến hành”.
Nghe vậy thương nhân thất kinh, tới nhìn thì thấy rõ là người đang kêu khóc đó giống như những gì mô tả về ngoại hình của người nổi tiếng đức độ họ Nguyên.
Thương nhân toát mồ hôi vì lo sợ, vội vàng rón rén tìm đường quay về phòng, nằm xuống rồi ngủ luôn lúc nào không biết.
Sớm hôm sau tỉnh giấc, thương nhân vội tới gặp trụ trì và thuật lại câu chuyện đêm qua. Trụ trì vẫn chỉ mỉm cười và nói rằng: “Làm từ thiện phải từ tâm, không nhất thiết quyên nhiều tiền nhiều bạc, dễ sinh tham tâm mà gây nghiệp nặng phải trả về sau. Thí chủ nếu muốn làm từ thiện tích đức thì hãy tự bản thân làm lấy, hãy nhìn vào cái kết của họ Nguyên trong giấc mộng đêm qua, thực chất là điềm báo sắp xảy ra cho ông ta”.
Nghe xong, thương nhân như bừng tỉnh ra, vội cúi lạy và cảm tạ trụ trì vì đã khai sáng cho mình.
Làm từ thiện là điều tốt nhưng phải xuất từ tâm trong sáng và hành động ngay chính. Nếu lợi dụng việc này mà tích tiền tài cho bản thân, đồng nghĩa với việc gạt người chiếm đoạt của, chắc chắn phải trả nghiệp nặng về sau này.
Theo minhbao
THOÁT HỎA HOẠN NHỜ TÍCH PHÚC KHÔNG NGỪNG
Ngày đó, khi còn rất nhỏ, tôi đã gây ra một tai họa mà chính bản thân cũng không ý thức được hậu quả. Tôi nghịch lửa, khi lửa bùng lên, chúng tôi sợ hãi chạy đi trốn, thay vì gọi mọi người tới cứu. Kết quả làm cháy nguyên một căn bếp và một khu vườn của một bác hàng xóm trong khu phố.
Hôm đó là vào một buổi trưa hè, nên rất may bác chủ nhà đã phát hiện và hô hoán cả khu phố tới dập lửa, nên không có khi còn thiệt hại về tính mạng con người. Nhưng không biết chúng sanh đang trú ngụ tại căn bếp đó, khu vườn đó vì lỗi lầm này mà chết cháy đau đớn, oan ức.
Tôi tên Nguyễn Hà, sống tại Hà Nội. Sau này, bố mẹ tôi không rõ lí do gì đã mua một căn nhà, mà trước đó đã bị hỏa hoạn, khiến một người tử vong, là con trai chủ nhà.
Và dường như anh ta mất sớm, linh hồn không siêu thoát được, bao năm vẫn ở trong căn bếp cháy đó khiến gia đình tôi điên đảo, náo loạn, làm ăn điêu đứng, vô cùng khốn khổ.
Thật may, Trời Phật thương khiến cho tôi có được một người em dâu lương thiện và hiểu biết. Em dâu tôi sớm đã theo Phật Quy Y, lập ban thờ Phật, hàng ngày đều chăm chỉ trì danh hiệu Phật, đọc Kinh Địa Tạng nên mảnh đất chúng tôi ở cũng dần trở nên yên ổn phần nào.
Em ấy chính là người gieo duyên cho tôi cùng học Phật, khiến tôi tạo được nhiều công đức như đúc tượng, ấn tống lưu hành Phật Pháp, mở niệm Phật đường…v.v… Và chính điều đó đã cảm được tới Đức Phật – giúp tôi được báo mộng để hóa giải oan nghiệp đã gây ra khi xưa. Thật là cảm động và biết ơn Đức Phật ngàn vạn lần.
Chuyện là tôi thường nằm mơ thấy con trai tôi nấu ăn, không cẩn thận làm nổ bình gas, cả nhà đều cháy hết, trong mơ, tôi biết rằng nạn này không thoát được nên chỉ bình tâm niệm Phật. Cuối cùng, ngôi nhà không sao, nhưng các vị oan gia trái chủ thì vẫn luôn tức giận khôn nguôi vì đã không thể báo thù được.
Giấc mơ đó cứ đi theo tôi, lặp lại rất nhiều lần, năm này qua năm kia. Khiến tôi hiểu rằng, đây là nghiệp chướng từ quá khứ của mình, không hẳn là kiếp này, mà là từ nhiều kiếp trước nữa.
Nên ngày đêm tôi sám hối, tạo thật nhiều phước lành, hồi hướng những công đức đó cho những vị oan gia trái chủ từ vô lượng kiếp, nguyện “tu tất cả thiện, bỏ tất cả ác” mà thành tâm làm.
Tôi đã phát tâm đúc 300 bức tượng Phật , cùng một bộ tượng Tam Thánh Tây Phương (Đức Phật A Di Đà – Quán Thế Âm Bồ Tát – Đại Thế Chí Bồ Tát), cúng dường đạo tràng Pháp sư Ngộ Thông.
Tôi cũng phát tâm mở pháp hội niệm Phật vào ngày hoàn thành 3 bức Tam Thánh Tây Phương đó. Phát động phong trào cho các bạn đạo, chép Kinh Vô Lượng Thọ và viết danh hiệu Phật.
Xong tôi vẫn mơ lại giấc mơ cháy nhà nhiều lần, có điều lần này trong giấc mơ, mọi thứ đều cháy sạch, chỉ còn lại bức tượng Phật A Di Đà vẫn còn nguyên vẹn trong đống tro tàn.
Trong giấc mơ, tôi đã khấn với Phật “Nếu duyên của con ở Ta Bà này không còn nữa, con xin buông xuống tất cả tài sản, vợ chồng con cái, để theo Phật về lại Tây phương. Vì Ta Bà này, tất cả là giả tạm.” Sau đó chỉ thấy Phật đẹp đẽ hiện lên rõ mồn một, còn chồng tôi thì được đưa đi cấp cứu, và tôi tỉnh giấc.
Rồi chuyện gì phải đến đã đến, nghiệp chướng cuối cùng đã tìm tới gõ cửa nhà tôi. Khi đó tôi vừa xây dựng xong căn nhà với ban thờ Tam Bảo trang nghiêm.
Hôm đó, đúng ngày mùng 1 đầu tháng, hai vợ chồng tôi đều cảm thấy trong người lạnh và mệt mỏi vô cùng sau một đêm không yên giấc. Chả là chồng tôi bỗng bị chứng nấc cụt tới suốt đêm – tiếng nấc nghe khác lạ, ai oán, nghẹn ngào liên hồi không dứt, khiến cho tôi không thể chợp mắt. Nhưng tôi vẫn đều đặn công phu, thậm chí công phu nhiều hơn ngày thường, và quyết tâm ra chợ mua được một mẻ cá cuối cùng, về nhà làm lễ niệm Phật, Quy Y cho chúng, xong mang đi thả rồi về nhà lên phòng nghỉ ngơi, dặn dò con trai lo cơm nước, dọn dẹp nhà cửa.
Khoảng 16h ngày hôm đó, khi con trai tôi vào bếp cặm cụi nấu ăn thì bỗng nhiên có bạn gọi, nó liền bỏ ra ngoài tán gẫu với bạn, vấn đề là nó quên không tắt bếp.
Đang ở trên gác, chợt tôi thấy khói bay mù mịt, linh cảm báo chẳng lành. Lập tức tôi vội vội vàng vàng chạy xuống bếp xem. Ôi không, lửa đang cháy phừng phừng trên chảo dầu. Bên dưới bếp gas đang mở lớn.
Cuống quá ! Tôi muốn kêu cứu, mà chỉ gọi ú ớ vài câu không ra hơi. Tay thì cuống cuồng múc nước tạt vào chảo dầu.
Nước vừa chạm vào dầu, không những không tắt, mà còn bùng lên dữ dội, văng lửa tung tóe, cháy lan ra khắp nơi. Lửa giận dữ, lửa hừng hực cháy khiến tôi hoảng loạn, chỉ nghĩ tới việc bỏ chạy thoát thân.
Nhưng nghĩ lại, nếu tôi bỏ chạy gọi người tới giúp sẽ không kịp, bình gas sẽ nổ trong ít phút nữa, lúc đó không chỉ gia đình tôi, mà cả hàng xóm xung quanh cũng sẽ chết cháy cùng nhà mình.
“Không được !” – lương tâm tôi cương quyết, tôi lấy hết can đảm quay lại, cúi thấp người, thò tay vào gầm bếp khóa cái van bình gas lại. Sau đó lại múc nước hắt vào (chứ cũng chẳng biết làm cách nào khác, liều vậy) … cứ liên tục như thế, trong đầu chỉ nghĩ tới Phật.
Cho tới khi lửa cháy tới chiếc máy hút mùi, thì cậu con trai “quý tử” kia mới hốt hoảng phát hiện ra, lập tức chạy về. Hai mẹ con hớt hải tạt nước bên này, dập lửa bên kia, mồ hôi nhễ nhại. Vật lộn cả buổi, cuối cùng cũng dập tắt được đám cháy.
Thành quả: một căn bếp cháy đen thui và mù mịt khói… Tới 19 giờ thì chồng tôi về nhà, sững sờ nhìn hiện trường. Nghe mẹ con tôi kể lại, anh hú hồn hú vía, vì chỉ chậm 2 phút nữa thôi, thì anh sẽ chẳng nhận ra khu vực này nữa, tất cả sẽ chỉ là một bãi tro tàn.
Nghiệp bị cháy nhà của tôi đã được hóa giải. Dù cũng cháy xong chỉ thiệt hại rất ít, chủ yếu là bị một phen hú vía. Ngày hôm đó giống như trong giấc mơ Đức Phật đã báo trước cho tôi. Cũng vì biết trước nên tôi mới lo sám hối, tạo phước rất nhiều trước đó mà hóa giải được, họa lớn hóa nhỏ.
Chia sẻ câu chuyện này, mong bạn đọc qua đó khởi tín tâm với Tam Bảo, nương theo lời Phật dạy tinh tấn tu học. Nghiệp chướng thì hầu hết ai cũng có, không nhiều thì ít, không nghiệp cháy nhà thì cũng có những nghiệp tai họa, bệnh tật khác luôn rình rập, chờ đến ngày đến tháng ập đến.
Nhưng nếu biết theo lời Phật mà thường xuyên sám hối, tạo thật nhiều công đức lành không mỏi mệt, thì ta sẽ hóa giải được nghiệp chướng, dễ dàng vượt qua những khó khăn, hoạn nạn. Không chỉ an lành trong hiện tại, mà còn hứa hẹn nhiều điều vi diệu tuyệt vời cho vô lượng kiếp về sau.
Hà Nội, ngày 26/03/2019
Hoa Tâm, viết lại từ lời kể của Nguyễn Hà
Hòa Thượng Ăn Thịt
Một hôm, có người khách tới chùa chơi và hỏi lão hòa thượng: “Hòa thượng, tôi muốn hỏi ngài một câu hỏi hơi “bất kính” một chút có được không ạ?”.
Lão hòa thượng ôn tồn, nhìn khách đáp: “Xin ông cứ nói!”.
Người khách lúc này mới chậm rãi: “Lúc ở nơi dân chúng đông đúc thì ngài ăn chay, vậy khi ở một mình trong phòng, ngài có ăn thịt không?”.
Lão hòa thượng ngừng lại một giây rồi hỏi lại người khách: “Ông là lái xe tới đây phải không?”.
Người khách gật đầu bảo “Vâng!”, trong lòng vẫn chưa hết thắc mắc tại sao vị hòa thượng không trực tiếp trả lời câu hỏi của mình mà lại hỏi lại một câu có vẻ như chẳng liên quan đến cuộc trò chuyện như vậy. Lúc này, lão hòa thượng mới từ tốn tiếp lời: “Khi lái xe phải thắt dây an toàn, xin hỏi ông là ông thắt vì sự an toàn của bản thân hay vì cảnh sát? Nếu như là vì bản thân mình thì có hay không có cảnh sát ông sẽ vẫn thắt thôi”.
Người khách: “Tôi hiểu rồi!”.
Sưu tầm
BỊ BẮT NHẦM XUỐNG ÂM PHỦ
Sử Sĩ Nghiêm còn gọi là Thủ Kinh ở xứ Phù Lương là một Phật tử tu hành rất tinh tấn, hàng ngày chuyên trì tụng Kinh Kim Cang và Kinh Phổ Môn. Trải qua hơn 20 năm, ngày nào cũng y như vậy không thiếu. Ông lại thường khuyên người khác trì tụng. Niên hiệu Đạo Quan, năm thứ 15, nhà Thanh, vào ngày 23 tháng 6, cháu của Thủ Kinh tên là Thoại Năng, trong lúc bị bệnh hôn mê bất tỉnh thì thấy một người đến bắt, dắt đến nơi một điện đường.
Thoại Năng đến đó, nhận ra đây là chốn Âm ty, đang hoảng sợ thì nghe có tiếng hoan hô: “Đại Bồ Tát giáng lâm.”
Hai vị minh quan lập tức rời chỗ ngồi, bước xuống nghinh tiếp.
Thoại Năng lúc ấy nhìn thấy Quan Thế Âm Đại Sĩ trên thân choàng khăn liên hoa màu đỏ sáng, phía sau có một ông già mặt đen theo hầu Bồ Tát. Hai vị Đại quan truyền lệnh cho bộ hạ thiết lập bảo tòa, thỉnh Bồ Tát ngồi.
Bồ Tát vừa an tọa thì ngó vị quan bên tả quở rằng:
“Các Ông làm việc không thuận theo trong sổ bộ. Thoại Năng này tuổi dương thế chưa hết tại sao lại bắt đem đến đây?”
Hai vị quan nghe nói giật mình, rời chổ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Bồ Tát xin thứ lỗi, đoạn kiểm tra lại, xong gọi người lính dịch đến quở trách và đánh cho 40 trượng phạt tội. Bồ Tát bèn nói: “Thoại Năng này sống trong gia đình đã ba đời không ăn thịt trâu, thịt chó, nam nữ cả nhà đều trì trai, tụng kinh Phổ Môn, hiện có ông già này ở nhà đó làm chứng.”
Lúc này Thoại Năng mới biết ông già mặt đen đi sau Bồ Tát chính là Thần Ty mạng.
Bồ Tát quở trách hai vị Đại quan xong thì dẩn Thoại Năng ra khỏi điện đường đi xem các ngục. Trước tiên là đến ngục giã cối, thấy quỉ tốt bắt người tội ném vào cối, mỗi khi giã chày xuống, máu phun ra như bình hoa tưới nước, thịt rã rời văng ra như bắn bông.
Đại Sĩ bảo Thoại Năng: “Ngươi chớ có đến gần vì sinh hồn của
ngươi không nên dính vật ấy.”
Thoại Năng vội lấy vạt áo che mặt. Kế tiếp Bồ Tát dẫn đi xem địa ngục kéo lưỡi, địa ngục xay sát, địa ngục chém chặt, địa ngục cưa xẻ, địa ngục ôm cột đồng nóng, địa ngục nằm giường sắt, v.v…
Sau khi xem xong thì Bồ Tát dẫn Thoại Năng ra về và căn dặn rằng: “Sau khi ngươi hồi dương phải khuyên bảo tất cả mọi người trong nhà cố gắng ăn chay niệm Phật. Với những việc này phải chí thành, đừng làm lấy có. Nếu trường trai không được thì cũng phải ăn theo trai kỳ, nhưng không được viện lý do đổi ngày này sang ngày khác hoặc bỏ quên.
Hôm nay là ngày trai kỳ nhưng nhà của ngươi đều quên hẳn, từ đây về sau phải gắng nhớ cho kỹ và nên nhớ khi trở về nhà thưa lại với bà Nội của ngươi rằng Kinh Kim Cang mà bấy lâu nay Bà đã trì tụng trong nhiều năm qua có công đức không thể nghĩ bàn, đừng nghe theo những người vô trí cho rằng tụng Kinh Kim Cang thì trong nhà sẽ xảy ra việc này việc nọ, có trước không sau là đều không tốt.
Còn về bệnh trạng của ngươi thì không hề gì đâu nên cố gắng tinh tiến hơn trước để thành người tốt.” Trong chốc lát đã thấy Bồ tát dẫn đến cửa sau, rồi Ngài vỗ đầu bảo: “Tỉnh dậy, ngươi về đến nhà rồi.”
Thoại Năng sau đó tỉnh lại, cảm thấy khỏe khoắn như thường. Sau khi tỉnh dậy thì thuật lại cho cả nhà nghe chuyện dưới Âm Ty. Bà nội của Thoại Năng và cả nhà từ trên xuống dưới, từ đó tụng Kinh niệm Phật rất tinh cần, những người không trường trai cũng đều giữ nghiêm ngày trai kỳ.
Trích Đặng Đạt Nguyên Tự thuật
Sau khi người đàn ông giết heo phải trả giá bằng mạng sống của mình
BẮC GIANGSau khi giết mổ một con lợn giúp người quen, người đàn ông sốt cao liên tục, rét run, nhập viện bác sĩ chẩn đoán nhiễm liên cầu khuẩn lợn.
Các bác sĩ Bệnh viện Đa khoa Bắc Giang ngày 30/9 thông tin, bệnh nhân sốt cao, nổi vân tím toàn thân, có vết xước ở chân phải, trụy mạch, kết quả xét nghiệm và cấy máu có dấu hiện suy thận, rối loạn đông máu, nhiễm trùng nặng.
Bệnh nhân được chẩn đoán là sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng do nhiễm liên cầu lợn. Các biện pháp lọc máu, điều trị hồi sức tích cực vẫn không cải thiện được tình trạng sốc, suy đa tạng, gia đình xin đưa bệnh nhân về.
Bệnh nhân nổi vân tím toàn thân do nhiễm liên cầu lợn. Ảnh: Bệnh viện cung cấp
Bệnh liên cầu khuẩn lợn (liên cầu lợn) là bệnh lây truyền từ động vật sang người nguy hiểm, gây ra bởi liên cầu khuẩn Streptococcus suis (S.suis). Bệnh có diễn biến nhanh và nặng, thời gian điều trị kéo dài và chi phí điều trị tốn hàng trăm triệu đồng mỗi ca. Nhiều trường hợp vẫn không thể qua khỏi hoặc có qua khỏi cũng để lại những di chứng nặng nề.
Dấu hiệu ban đầu của bệnh là sốt cao, đau đầu, ớn lạnh, đi ngoài… nên dễ nhầm lẫn với các bệnh khác. Khi nhập viện thì bệnh đã chuyển nặng, biểu hiện nguy kịch như suy hô hấp, suy đa tạng, sốc nhiễm khuẩn, nguy cơ tử vong rất cao.
Thúy Quỳnh
Theo Vnexpress
CÂU CHUYỆN NHÂN QUẢ CỦA ĐỨA BÉ BẮN CHIM VÀ BA NGƯỜI VUI THEO
câu chuyện trong bộ Kinh Pháp Cú Thí Dụ: khi đó đức Phật ở Tinh xá Kỳ Hòa. Lúc đó có một người trưởng giả giàu có, có quyền thế, có một đứa con trai 21 tuổi. Người con trai này mới cưới vợ chưa được bảy ngày. Hai vợ chồng trẻ dẫn nhau đi vào một khu vườn, đi chơi. Cô vợ nhìn thấy trên cây táo có một đóa hoa rất đẹp nên nói người chồng lên hái cho cô bông hoa táo. Người chồng trèo lên cây hái cho vợ hoa táo, khi đó không may cành cây đó bị gãy, người chồng té xuống và qua đời. Ông trưởng giả và mọi người khóc lóc rất thảm thương. Lúc đó đức Phật ở gần nơi ấy nên mọi người kéo tới hỏi đức Phật, vì sao lại khổ như thế. Lúc đó đức Phật thuyết bài pháp để giúp cho những người này hiểu được thế gian vô thường. Đây là do trong tiền kiếp có ba người lớn và một đứa bé. Đứa bé làm một cái cung để bắn chim. Trên cây lúc đó có một con chim, khi thấy đứa bé đi ngang qua, ba người lớn nói với đứa bé hãy bắn con chim đó đi, nếu bắn được thì bé rất là giỏi v.v… Đứa bé nghe khuyến khích như vậy, bèn bắn con chim và con chim đó chết. Đức Phật nói đứa bé đó đầu thai chính là con ông trưởng giả. Còn ba người tùy hỷ sát kia, tức là thấy người ta giết mà vui theo, một người đang ở trên cõi trời, một người chính là ông trưởng giả và một người đang làm Long Vương. Tức là trải qua bao nhiêu kiếp, ba người đó đang có phước báo. Một người ở cõi trời, một người ở cõi người mà giàu có là ông trưởng giả, một người giàu có ở cõi khác là Long Vương sống trong loài súc sanh. Còn đứa bé kia là chàng trai này. Trước khi anh ta chết ở nhân gian anh ta cũng là con của vị ở cõi trời, và cũng bị chết, vừa chết ở cõi trời sanh xuống nhân gian. Do cõi trời chênh lệnh với nhân gian về thời gian, ví dụ như cõi trời Tứ Thiên Vương, một ngày ở đó bằng 50 năm ở nhân gian. Cho nên mới chuyển từ trên đó xuống đây, mới có 21 năm, tức là chưa bằng nửa ngày ở cõi trời Tứ Thiên Vương. Cho nên trên đó người cha còn đang khóc, và xuống cõi người, người cha cũng đang khóc. Hiện tại đứa bé sanh xuống Long Cung làm con của Long Vương, vừa sanh ra đã bị con Đại-bàng Kim-sí-điểu bắt ăn thịt, cho nên Long Vương cũng đang khóc. Phật nói ba người đó đều đang khóc vì đứa bé này. Đứa bé này kiếp xưa tạo nhân đó nên bây giờ bị quả đó. Ba người kia cười vui khuyến khích đứa bé bắn được con chim đó, bây giờ họ bị khổ đau. Hồi xưa cười thì bây giờ khổ. Cho nên quý vị thấy nhân quả không thể nào tránh được, gọi là tơ hào không sai, một chút cũng không sai. Những đau khổ của chúng ta hiện nay là do nhân trong quá khứ, không biết được nên khổ. Trong Kinh Đại Bảo Tích, đoạn thứ 14 có một đoạn thường hay nhắc:
“Giả sử kinh bá kiếp
Sở tác nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả bào hoàn tự thọ”
Dịch nghĩa:
Giả sử qua trăm kiếp
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên gặp gỡ
Quả báo vẫn tự chịu.
Nghĩa là dù trải qua trăm ngàn kiếp, thì nghiệp đã tạo vẫn không mất, khi nhân duyên đã chín muồi, thì quả báo phải chịu mà thôi. Cho nên chúng ta đã tạo nhiều nghiệp báo trong quá khứ rồi. Bây giờ đến nhân gian này chắc chắn chúng ta không được như ý.
Trích từ bài chia sẻ Kinh Vô Lượng Thọ thứ 60 – Phẩm thứ 8 – Buổi 3 của thầy Thích Thiện Trang
Kính thưa chư vị tiền bối! Làm ơn cho con hỏi có cách nào trị viêm mũi dị ứng không ạ? Hầu như con bị quanh năm, lúc trước sống bên Việt Nam ở miền Nam khí hậu ấm thì chỉ bị hắt hơi nghẹt mũi những lúc trời mưa, vào mùa mưa là bị nhiều, lúc nhỏ con để ý thấy thời điểm mình phát bệnh vào mùa mưa nhiều nên nghĩ mình bệnh theo chu kì, nhưng giờ qua Hàn khí hậu 4 mùa càng khổ, buổi sáng thức sớm công phu mà cứ hắt hơi làm ồn cả nhà, có khi con đang lạy Phật, trì chú mà phải xá Phật chạy ra ngoài vì nước mũi…
Chư vị nào có kinh nghiệm chữa hết xin chia sẽ giúp con ạ
A Di Đà Phật
Chào Lê Kim Thúy!
MD xin giới thiệu vị bác sĩ Nam Bình cho Kim Thúy. Vị bác sĩ này chuyên giúp người ăn chay trị các loại bệnh nhờ phương pháp ăn chay một cách khoa học. MD thấy mọi người trong nhóm đều nhờ bác sĩ Nam Bình trị bệnh và các loại bệnh đều được trị khỏi. Lưu ý ở đây là bắt buột mọi người phải ăn chay và ăn theo thực đơn của bác sĩ, sáng- trưa- chiều ăn uống ra sao, bác sĩ đều ghi rất rõ.
MD biết Kim Thúy cũng ăn chay, nên chắc chắn thực đơn mà BS Nam Bình đưa ra sẽ không làm khó được Kim Thúy đâu. 🙂
Dưới đây là link vào nhóm. Kim Thúy hãy vào nhóm, xem kỹ nội quy khi viết bài để được BS hướng dẫn nhé!
https://facebook.com/groups/228516498495777/
Nam Mô A Di Đà Phật
Chào các liên hữu,
HM bị căn bệnh viêm mũi dị ứng đã trên 30 năm. HM đã thử nhiều loại thuốc Bắc, Nam lẫn thuốc Tây rất nhiều nhưng vẫn không hết. Theo bác sĩ Tây y thì căn bệnh này hiện chưa có thuốc trị dứt hẳn mà chỉ có thể khống chế mà thôi. Vì vậy người bệnh phải dùng thuốc cho đến cuối đời. Đặc biệt là bệnh sẽ tăng theo tuổi, từ 35 tuổi trở lên là bệnh cũng nặng hơn. Nghe vậy mà buồn. Cách đây 3 năm HM có thêm chứng bịnh bệnh đau bao tử nữa. Hễ HM ăn thức ăn vào là một lúc sau bị axit bên dưới ruột trào ngược lên trên cuống cổ gây ra đau đớn vùng ngực và hòm miệng khổ sở vô cùng. Vì ăn không được nên phải bỏ hết thức ăn vào máy xay thành sinh tố rồi uống từ từ, chứ uống liền một lúc cũng đau. Cộng thêm tự dưng từ một người đi đứng bình thường, cột sống lưng như bị cụp lại khiến cho việc đứng ngồi vô cùng khó khăn đau đớn. Đứng chỉ 5 phút mà HM cũng thấy đau, ngồi cũng vậy. Cho nên HM phải ngã lưng ở tư thế vừa ngồi vừa nằm mới đỡ đôi chút. Đi bác sĩ chỉnh hình chụp X-ray thì bác sĩ nói cột sống của HM bị vẹo một cách không bình thường. Xem như bấy giờ Diêm La vương đã gửi cho HM 3 tấm thiệp mời (nói theo đạo Phật mình thì HM đang ở vào giai đoạn 3 trong quá trình SANH – LÃO – BỆNH – TỬ rồi). Lúc ấy HM nghĩ có lẽ mạng mình đã đến đây rồi thì thôi vậy, cứ niệm Phật rồi bỏ xác này về Tây Phương cũng tốt chẳng sao. Cho nên HM đành gác lại các duyên rồi chú tâm niệm Phật, mọi chuyện giao lại cho các huynh đệ đồng tu khác vánh gác giùm.
Ấy vậy mà sau nửa năm tự dưng bệnh HM có vẻ đỡ hơn đôi chút chứ chưa thấy thần chết đến gõ cửa (có lẽ mạng HM cũng còn kéo lê thê thêm ít lâu nữa ở cõi Ta Bà này 🙂 ). Nghe trong dân gian nói dùng nghệ có thể trị được căn bệnh đau dạ dày nên HM mua tinh nghệ về dùng. Tinh nghệ là loại chiếc xuất ra từ tinh của nghệ nên có màu cam chứ không giống như màu vàng của bột nghệ thường. Cho nên loại này có phần đắc hơn bột nghệ chút xíu. Thiệt không ngờ nghệ lại chính là cứu tinh của HM. Căn bệnh đau dạ dày gần như lành hẳn, ăn uống đến nay gần như bình thường. Mỗi ngày tập thể dục đều đặn nên cột sống chắc cũng “thẳng” lại nên đi đứng linh hoạt hơn. Và điều HM mừng nhất là căn bệnh viêm mũi dị ứng hơn 30 năm qua hầu như không còn nữa. Đọc đến đây có lẽ mọi người nghĩ rằng chỉ nhờ tinh nghệ nên HM lành hết bệnh, nhưng HM tin rằng nếu không nhờ năng lực gia trì của Tam bảo do công năng niệm Phật và chân thành sám hối, chưa chắc HM đã trở lại bình thường như ngày hôm nay. Cho nên có thể nói nhờ ơn trên gia hộ, thông qua tinh nghệ mà HM từ một người gần như tàn phế nay đã đi đứng sinh hoạt bình thường như xưa.
HM chia sẻ câu chuyện của mình hôm nay, các huynh đệ nào đọc được những dòng này tức là cũng đã có duyên với Tịnh độ hay đã từng niệm Phật trước kia, xin hãy tin tưởng vào câu hồng danh A Di Đà Phật, vừa niệm Phật vừa dùng thêm tinh nghệ thì bệnh sẽ thuyên giảm rất nhiều (và cũng đừng quên sám hối nghiệp chướng của mình). Nếu như có thể ăn chay được thì càng tốt vì các bệnh trên thân chúng ta đều do nghiệp sát mà tạo thành. Ăn chay chính là dừng nghiệp sát sanh và không tạo thêm oan gia trái chủ về sau đến đòi nợ mình dưới hình thức gây ra các căn bệnh trầm kha trên thân thể chúng ta.
Dưới đây là loại tinh nghệ HM đã và đang dùng các huynh đệ có thể tham khảo. Có điều huynh đệ lưu ý là nếu loại nào ghi 100% tinh nghệ thì đừng nên mua. Vì theo nghiên cứu thì cơ thể con người không thể hấp thụ hoàn toàn hết tinh nghệ nguyên chất, mà phải pha thêm một lượng rất nhỏ tiêu đen theo tỉ lệ 1% vào chung với tinh nghệ thì mới được. Tương tự như tiêu đen là chất xúc tác vậy.
Vài dòng chia sẻ đến các huynh đệ hữu duyên. Hy vọng “phước chủ lộc thầy” và ơn Tam bảo sẽ giúp các bạn vượt qua những bất tiện trên thân để có thể an tâm tu tập.
A Di Đà Phật.
Dạ! Em cảm ơn chị Diệp, lúc trước em coi trên facebook có thấy vị bác sĩ này và có thấy nhiều người phản hồi có hiệu quả điều trị bệnh khi theo hướng dẫn của bác sĩ. Em sẽ liên hệ với bác sĩ khi nào có hiệu quả em sẽ cho mọi người hay ạ🙏🙏🙏🙇🙇🙇
Chị Diệp ơi! Tối qua em có nhắn tin với bác sĩ thì bác sĩ bảo là hãy đăng kí khóa học trên zoom vào thứ 3 và thứ 5, bắt đầu vào 19giờ 30 phút, học 1 tiếng rồi sau đó sẽ hướng dẫn điều chỉnh cho từng người. Nhưng giờ đó là bên em 9 giờ 30 tối, phải lo cho hai con học và chơi, chúng nó lại hay cãi nhau, em không bỏ mặc hai con mà vào học được. Có lẽ chưa đủ phước duyên vậy chị ạ!
Cảm ơn chị Mỹ Diệp
Tôi ăn chay cũng lâu. nay có bệnh ko muốn xài thuốc Tây
May có chị giới thiệu
Tôi sẽ liên hệ bác sĩ
Cảm ơn chị
A Di Đà Phật
MỘT SỐ CĂN BỆNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NGHIỆP BÁO.
1. Bệnh Đau Bao Tử: thường liên quan đến sát sinh ăn thịt, bệnh ruột cũng vậy. Hòa Thương Tuyên Hóa từng bảo: “Người bị bướu ruột là do hay ăn thịt”.
2. Bệnh Phụ Khoa: ngoại trừ một số ít do nhân duyên khác ra thì đa số thuộc về lỗi Dâm. Vì vậy các phụ nữ khi vướng bệnh nên tự suy nghĩ và tự kiểm điểm kỹ lại xem: “Về lỗi Dâm mình có phạm qua điểm nào chăng? Phần các ông cũng vậy, nếu như có bệnh liên quan đến chứng viêm Tiền Liệt Tuyến thì hãy mau mau tự kiểm lỗi và lo sám hối…”
3. Các bệnh Suyễn, Ho… thường do ăn Hải sản mà chiêu cảm lấy. Xin dẫn chứng: Đặng Lệ Quân là nữ ca sĩ người Đài Loan rất nổi tiếng, từng được mệnh danh là “Đệ nhất danh ca Châu Á”. Vào năm 1995, cô đến thành phố Chiang Mai (Thái Lan) du lịch, đến ngày 8 tháng 5 thì cô lên cơn hen suyễn, thở khò khè… rồi đột tử tại khách sạn Chiang Mai. Sự ra đi của Đặng Lệ Quân khiến bao người hâm mộ thương tiếc, làm dấy lên làn sóng thắc mắc nghi ngờ quanh cái chết của cô. Để lý giải chuyện này, cư sĩ Quả Lâm đã quán sát và thấy rõ như sau: “Trong phổi Đặng Lệ Quân khi đó chứa đầy các loài hải sản!”.
Quý vị phải hiểu là Khi mình ăn “Thủy, hải sản” – do linh thức con vật không còn chỗ cư ngụ, chúng liền bám vào trú đóng nơi phổi của người làm hại chúng. Mới đầu chỉ tích tụ ít, lâu ngày thành nhiều, đến thời điểm chín muồi thì ác báo hiện ra.
4. Một phụ nữ bị Lang ben: hơn hai mươi năm, má trái còn nổi một vùng mẩn đỏ to lớn. Ngoài nguyên nhân do sát sinh ăn thịt ra, cô này còn phạm lỗi hay nói xấu và rao truyền khuyết điểm của người khác, khiến cho người khó chịu, nên bản thân cô phải bị quả báo khó kham.
5. Một người thường bị Nhức đầu hỏi nguyên nhân do đâu? Quả Khanh đáp: “Bởi vì bạn bất hiếu với cha mẹ, luôn khiến song thân phải nhức đầu, âu lo nên chiêu cảm quả báo mình bị đau đầu. Hễ bạn làm người khác bị gì thì chính mình cũng bị thế ấy”.
6. Có cô gái hỏi: “Cha mẹ tôi không tin Phật, thì phải làm sao? Quả Khanh đáp: “Mẹ tôi cũng không tin Phật. Năm ngoái bà tạ thế, tôi quỳ tụng 100 bộ kinh Địa Tạng cầu cho mẹ và hướng dẫn mẹ đến cảnh giới rất cao. Nếu song thân mình đến phút lâm chung vẫn chưa tin Phật, thì hãy vì cha mẹ mà thành tâm tụng kinh niệm Phật hồi hướng”.
7. Một bà mẹ hỏi: “Con trai tôi học đến lớp 4 rồi mà ngay cả phép cộng trừ đơn giản cũng không làm được. Nguyên nhân do đâu?
Quả Khanh bảo: “Do lúc mang thai bà hay ăn hải sản, gà vịt… thường hại não chúng, cho nên con bà bị quả báo không được thông minh. Muốn cứu vãn, giúp con sáng trí, cha mẹ cần tụng kinh, niệm Phật, ăn chay, hàng ngày gia trì vào nước từ 7-10 biến Chú Đại Bi đem cho con uống. Bản thân thằng bé mỗi ngày trước khi đi học nên lạy Phật ba lạy, dâng cúng hương hoa cho Phật, dần dần sẽ thông minh lại.
8. Xin hỏi: “Vì sao có người ăn dù chỉ một con gà, hay một miếng thịt nhỏ thôi mà cũng bị bệnh? Trong khi có người ăn cả trăm con, nhưng họ vẫn mạnh khỏe không hề hấn gì, thậm chí cũng chưa từng bị bệnh, nguyên nhân do đâu?”
Đáp: “Người ăn gà dù có tí xíu mà bệnh là do trước đây họ không có bất kỳ ân oán gì với gà, cho nên vừa ăn một miếng thì bị bệnh. Còn người ăn cả trăm con mà thấy không sao, là do quá khứ họ từng làm trăm kiếp gà, bị người giết ăn. Nên đời này họ ăn lại những con gà (Là những kẻ kiếp xưa từng ăn thịt họ, giờ đang bị đọa làm gà và phải đền trả nợ mạng đã thiếu trước đây). Phải biết rằng: “Nhân quả báo ứng không hề sai chạy dù là mảy may.
(Trích từ quyển Nhân Quả Phụ Giải Lương Hoàng Sám- Quả Khanh – Hạnh Đoan tuyển dịch).