Pháp niệm Phật quý ở chỗ đóng cửa tiềm tu, chẳng luận là ngồi xếp bằng hay kinh hành mà niệm, niệm thầm hay niệm ra tiếng, cốt sao một dạ dựa chắc vào câu Phật hiệu, từng chữ phân minh.
Vừa biết mình hồ đồ liền gấp đề khởi giác chiếu; hoặc là thấy mình vừa lạc vào vô ký hoặc rơi vào vọng tưởng, vừa biết là liền đề cao câu niệm, đem một câu Phật hiệu này xông ép ý căn, lấp mất hai nẻo vọng niệm và hôn trầm. Ðấy là đường lối chánh để niệm Phật.
Chẳng nên niệm quá gấp vì gấp gáp thì khó niệm lâu được. Chẳng nên niệm quá thong thả, thong thả dễ tán loạn. Lại chẳng nên mong cầu nhập định, trọn chẳng tác ý. Nếu buông xuôi mà niệm theo miệng thì dễ bị rớt vào cảnh giới hôn trầm nhẹ.
Niệm Phật chú trọng ở chỗ Nhất Tâm Bất Loạn, lúc sắp dứt mạng sẽ nhờ vào cái niệm ấy để chóng nhập vào thai sen. Ðạt đến mức cùng cực của Nhất Tâm thì chẳng mong Thiền Ðịnh hiện tiền nó vẫn tự hiện. Như vậy, lúc công phu đã thuần thục và buông xuôi theo miệng mà niệm dễ bị hôn trầm nhẹ, rõ ràng chẳng giống nhau.
Thể cứu đến cùng tột thì niệm chính là vô niệm, chẳng phương ngại gì đến vô niệm mà niệm. Nhất niệm này chính là Tam Ðế: Không, Giả, Trung; chính là bốn Lý Sự Pháp Giới, chính là hai Quán: Duy Thức và Duy Tâm, chính là Thật Tướng, Vô Tướng, Niết Bàn, Diệu Tâm.
Ðấy chính là pháp niệm Lý Nhất Tâm của bậc thượng căn, nhưng pháp này cũng chẳng ra ngoài cách dựa chắc vào câu Phật hiệu, từng chữ phân minh mà niệm. Ðó chính là khuôn phép của chánh hạnh Trì Danh vậy.
- Nhận định:
Tu luyện trong chỗ ồn ào chẳng bằng đóng cửa tiềm tu. Tuy có thể ngồi xếp bằng thầm niệm, nhưng chẳng được mong cầu nhập định, cứ buông xuôi theo miệng mà niệm rất dễ nhập cảnh giới hôn trầm nhẹ.
Cần phải nên đề khởi giác chiếu: dùng một câu Phật hiệu để xông ép ý căn, lấp mất hai nẻo hôn trầm và tạp niệm. Ðến lúc công phu thuần thục thì chẳng cầu Ðịnh mà Ðịnh tự hiện.
Trích Niệm Phật Pháp Yếu
Trích yếu sách Khuyến Tu Tịnh Ðộ Thiết Yếu của cư sĩ Phục Trai Trần Hy Nguyện đời Thanh
MƯỜI CÔNG ĐỨC HỌA VẼ HÌNH CHƯ PHẬT – BỒ TÁT.
(Tác giả: Minh Chính)
1. Đời đời kiếp kiếp có đôi mắt sáng suốt thấy rõ.
2. Vĩnh viễn không sinh vào nơi đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu sinh làm người thì bạn bè và láng giềng đều là người tốt, không gặp người ác hay thú dữ.
3. Luôn sinh vào nhà giàu sang, được tôn kính.
4. Thành tựu thân kim sắc.
5. Đời sống giàu sang phú quý.
6. Tái sinh vào nhà hiền lành, đức độ.
7. Có thể được sinh làm vua.
8. Được tái sinh thành một vị Chuyển luân Thánh vương.
9. Có thể sinh về cõi trời Phạm thiên và sống lâu đến một kiếp.
10. Đời đời kiếp kiếp vị lai đều tôn kính Tam Bảo, Quy y Tam Bảo, chẳng phải đọa lạc.
Lạm bàn:
Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phẩm thứ hai có một đoạn kệ dạy về công đức họa vẽ hình tượng Phật dù vô tình hay hữu ý như sau:
“Vẽ tượng Phật rực rỡ
Trăm tướng phước trang nghiêm
Tự làm hoặc bảo người
Đều đã thành Phật đạo.
Nhẫn đến trẻ em chơi
Dùng cỏ cây hoặc bút
Hoặc lấy móng tay mình
Mà vẽ nên tượng Phật
Những hạng người như thế
Lần lần chứa công đức
Đầy đủ tâm đại bi
Đều đã thành Phật đạo
Giáo hóa các Bồ Tát
Độ thoát vô lượng chúng”.
Mặc dầu đoạn Kinh văn ở trên nói dùng keo sơn vải để tạo tượng Phật, nhưng ở trong giới luật không đề xướng dùng vải sơn keo để tạo tượng Phật vì sơn keo có mùi hôi. Giới luật cũng nói, nếu là tượng Phật đứng thì chúng ta người học Phật không thể ngồi ở trước tượng Phật đứng. Nếu là tượng Phật ngồi, thì chúng ta không thể nằm ở trước tượng Phật ngồi.
Thuở xưa, tại Tứ Xuyên có một người chuyên tụng Kinh Kim Cang, và khi tụng thì dùng tay viết Kinh Kim Cang trong hư không. Mỗi ngày ông ta đều đứng cùng một chỗ và dùng tay “viết ra” trong hư không. Về sau, mỗi khi trời mưa, xung quanh chỗ ông ta viết Kinh Kim Cang không có mưa rơi xuống đất, điều này xảy ra thường xuyên như vậy.
Những người đã khai mở Phật nhãn mới thấy được rằng tuy ông ta dùng tay viết Kinh Kim Cang ở trong hư không, nhưng Thiên long bát bộ cũng đều đến đó bảo hộ bộ Kinh này, làm cho nước mưa chẳng rơi vào khoảng không nơi ông vẽ. Về sau, một ngôi chùa được xây dựng lên tại chỗ này. Do đó, bạn có thế thấy rằng người đàn ông chỉ dùng tay viết trong hư không mà có cảm ứng to lớn như thế thì công đức họa vẽ hình tượng Phật thật không thể nghĩ bàn.
(Câu chuyện này được ghi lại trong sách “Kim Cang Kinh Linh Dị Ký”).
Bởi lẽ đó, lời kệ trong Kinh mới dạy những hạng người họa vẽ hoặc tạo tượng Phật như vậy lần lần tích lũy công đức, đầy đủ tâm đại bi, đều đã giác ngộ vô thượng thành Phật.
Trong Kinh Địa Tạng Bồ tát bản nguyện: Phẩm Thứ Sáu “Như Lai Tán Thán”.
Đức Phật khai thị cho Bồ tát Phổ Quảng rằng:
– Này Phổ Quảng! Như có kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào vẽ hình tượng của Ngài Ðịa Tạng Bồ tát rồi chừng một lần chiêm ngưỡng, một lần đỉnh lễ, người đó sẽ được sinh lên cõi trời Ðao Lợi một trăm lần, không còn phải bị sa đọa vào ác đạo nữa. Người thiện nam, thiện nữ nào tự mình hoặc bảo người đắp vẽ hình tượng của Bồ tát, người đó khi thọ quả báo chắc đặng nhiều lợi lớn”… Như có người nữ nào nhàm chán thân gái, hết lòng cúng dường tượng vẽ của Địa-Tạng Bồ Tát, và những tượng cất bằng đất, đá, keo, sơn, đồng, sắt, v.v… Ngày ngày thường đem hoa, hương, đồ ăn, đồ uống, y phục, gấm lụa, tràng phan, tiền bạc, vật báu, v.v… cúng dường như thế mãi không thôi….Huống nữa là người thiện nam, người thiện nữ nào tự mình biên chép kinh này, hoặc bảo người biên chép, hoặc tự mình đắp vẽ hình tượng của Bồ Tát, cho đến bảo người khác vẽ đắp, người đó khi thọ quả báo chắc đặng nhiều lợi lớn…
Phẩm Thứ Mười Hai: “Thấy Nghe Được Lợi Ích”.
5) Người bệnh được lợi:
– Lại vầy nữa này Quán Thế Âm! Trong các thế giới về thuở hiện tại nay và vị lai sau, những hàng chúng sinh trong sáu đường, như có kẻ sắp mệnh chung mà đặng nghe một tiếng danh hiệu của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát thoáng qua lỗ tai, thì kẻ mệnh chung đó không còn bị đọa vào chốn khổ ba ác đạo.
Huống chi là lúc sắp mệnh chung, cha mẹ cùng hàng thân quyến đem của cải nhà cửa, vật báu, y phục v.v… của người sắp mệnh chung đó mà làm của chi phí để tô đắp hay họa vẽ hình tượng của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát.
Rồi làm cho người bệnh lúc chưa chết, hoặc mắt thấy tai nghe biết rằng hàng thân quyến đem nhà cửa vật báu v.v… vì mình mà tô vẽ hình tượng của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát.
6) Tiên vong được phúc:
– Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ Tát! Về đời sau, nếu có kẻ nam tử, người nữ nhân nào, hoặc lúc còn bú mớm, hoặc lúc lên ba tuổi, hoặc lúc lên năm tuổi, mười tuổi trở xuống mà chết mất anh chị em.
Đến khi người đó khôn lớn nhớ tưởng đến cha mẹ cùng hàng thân quyến không rõ đọa lạc vào chốn nào, hay sinh về thế giới nào, hoặc sinh lên cõi trời nào?
Người đó như có thể tô vẽ hình tượng của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát, nhẫn đến nghe danh hiệu của Ngài rồi một lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ, từ một ngày cho đến bảy ngày đừng thoái thất tâm ban đầu, nghe danh hiệu thấy hình tượng chiêm lễ cúng dàng.
Thời quyến thuộc đã sớm khuất của người đó nếu do ác nghiệp mà bị đọa vào ác đạo tính ra phải chịu đến số kiếp, nay nhờ công đức tô vẽ hình tượng của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát và chiêm lễ cúng dàng của con cái, hay của anh em chị em, nên liền được giải thoát, được sinh lên cõi trời cõi người hưởng quả vui thù thắng vi diệu.
(Nguồn: Phật Giáo)
10 vị Long Vương tới Quy Y HT Tuyên Hoá🙏
Trong các vị đệ tử của Hòa Thượng, Quả Thuấn là vị tu hạnh Đầu Đà đệ nhất, cũng là vị đệ tử Hòa Thượng ưng ý nhất. Sau khi xuất gia Quả Thuấn tu hành rất tinh tấn …
Hòa Thượng kể:
1) Nghịch tới thuận thọ, tu nhẫn nhục
Khi trở về chùa, tôi mới biết trước đó chú ta đã tới chùa rồi. Những người trong chùa thấy chú nghèo đến thế, đều không muốn nhận chú. Mọi người đều nói những chuyện không tốt của chú cho tôi nghe. Nói là chú không tốt ra sao, con người xấu như thế nào, nói: “Thầy làm sao mà thâu người này làm đệ tử cho được? Chú là người không có cơm ăn đó, vậy làm sao mà xuất gia cho được?”
Tôi nói: “Con người dù xấu đến đâu cũng có thể học làm người tốt, để coi hành vi của chú ta sau này ra sao, rồi hẵng nói!”
Quả Thuấn lãnh việc nấu cơm trong bếp, nhưng mỗi ngày đều có người đến la mắng chú ta. Chú ta làm việc rất cẩn thận, lại biết dụng công tu hành, nhưng các huynh đệ đều không có duyên với chú, mọi người thường ăn hiếp chú ấy. Bất cứ chuyện gì cũng vậy, chú làm đúng cũng bị mắng, làm không đúng cũng bị la. Chú chỉ biết chuốc lấy những sự mắng nhiếc cũng như sự đánh đập đó vào mình.
Chú theo tôi xuất gia cũng nhiều năm, nhưng chỉ mặc có một bộ đồ, không có may áo ấm, cũng không có may giày đệm ấm, cái gì chú cũng không có. Chú còn giữ giới “không giữ tiền”, ngày ăn một bữa ngọ, thường ngồi không nằm, tu hạnh Đầu Đà. Trong số các đệ tử của tôi, chú ta đứng nhất về tu hạnh Đầu Đà.
Quả Thuấn tinh tấn tu đạo, chuyên tâm nhất ý tu tập thiền định, trải qua khoảng hơn nửa năm, chú đã khai mở được chút trí huệ. Chú thường nhập định và mỗi lần nhập định đến một ngày một đêm mới xuất định. Trong định chú biết được tất cả các nhân quả ở quá khứ, hiện tại và vị lai. Chú thường có cảm giác bên cạnh cái chòi chú tự cất là một ngôi miếu của Long Vương và ông ta đang dụng công tu hành ở đó.
Ngày 15 tháng 7, năm Dân Quốc thứ 34 (1945) nhân mùa lễ hội Vu Lan, tôi hướng dẫn các đệ tử đốt liều (nhang) trên thân trước bàn thờ Phật, phát nguyện: “Nếu có thể sống tới 100 tuổi, tức sẽ đốt thân cúng dường Phật, cầu vô thượng đạo!” Lúc đó mỗi một đệ tử đều phát tâm nguyện này.
Quả Thuấn cũng phát nguyện: “Đệ tử Quả Thuấn! Nếu gặp cơ duyên đúng lúc, con nguyện noi theo gương Bồ Tát Dược Vương đốt thân cúng Phật, không đợi tới 100 tuổi!” Tôi quán sát biết rằng từ kiếp trước chú ta đã có nguyện này rồi, cho nên tôi mới chấp thuận cho chú phát lời nguyện đó.
2) Dồi mài công phu nơi chòi tranh
Có một ngày kia chú Quả Thuấn hết nhẫn nổi mà khóc với tôi, nói: “Sư Phụ, con ở đó thiệt không chịu nổi nữa rồi, sư huynh sư đệ cứ vô cớ mắng con, vậy con phải làm sao đây?”
“Thật là khó cho chú quá, chú ở đó phải hứng lấy sự giận dữ của họ, chú bái ông Sư Phụ chẳng có bản lãnh gì, mà Sư Phụ chú cũng thường bị người ta dằn vặt, la mắng, cũng bị đánh và chịu đủ mọi thứ oan ức khác.”
Chú ta nói: “Con chịu hết nổi rồi!” Tôi nói: “Chú thật là chịu không nổi rồi hả, ta cũng không miễn cưỡng chú, vậy chú thử tu một mình ở ngoài xem sao!”
Vào tháng 9, năm Dân Quốc thứ 34 (1945), dưới núi phía Tây đồn Đại Nam Câu, bên khoảng đất trống của miếu Long Vương, Quả Thuấn tự cất một căn chòi và chú ta ngồi thiền suốt ngày trong đó. Có một ngày “tôi” đến chỗ ở của chú ta bảo chú ta tới gặp tôi.
Ngày sau chú vội vã tới chùa. Lần này tôi cố ý dọa chú ta, nói: “Sao chú không lo tu hành mà chạy về đây để làm gì?” Chú nói: “Sư Phụ, Sư Phụ kêu con về mà!”
Tôi nói: “Tôi kêu chú tới hồi nào vậy? Chú thấy ma rồi đấy!” Chú nói: “Con thật là thấy Sư Phụ kêu con tới mà.” Tôi nói: “Tôi mặc kệ chú, chú tới làm gì đây?” “Con cũng không biết Sư Phụ kêu con tới làm gì nữa.” Tôi nói: “Chú hiện tu hành, công phu ra thể nào rồi?” Chú ta nói: “Con lúc nào cũng thấy Sư Phụ, Sư Phụ luôn chỉ dạy con cách dụng công.”
Tôi nói: “Chú không được nói toàn là chuyện giả dối không đâu vậy, chú phải nói lời chân thật mới được.” “Đây không phải là giả, con nói thật hết mà.” Tôi nói: “Bây giờ chú đi về đi, sau này tôi sẽ tới chỗ của chú để coi ra sao!” Sau đó chú ta ra về!
Quả Thuấn tu trì giới luật rốt ráo, chú trì giới luật lại tu pháp đại thừa. Chú dụng công tu đạo còn thành tâm hơn tôi, có công phu hơn tôi. Chú là vị đệ tử mà tôi ưa thích nhất. Khi cất chòi xong, chú thỉnh tôi tới khai quang. Ngày đó tôi từ Harbin trở về, khi đi ngang qua đồn Đại Nam Câu, tôi bèn dẫn theo bốn chú đệ tử đi đến chỗ chú ở.
Trừ Quả Năng hơn 30 tuổi, còn ba chú đồng tử kia khoảng 13, 14 tuổi là Quả Tá, Quả Chí các chú và chúng tôi lưu lại chòi đó qua đêm. Lúc bấy giờ chòi này còn chưa có tên, vì tôi vẫn chưa nghĩ ra được một cái tên nào thích hợp.
3) Mười Rồng quy y giáng mưa rào
Vào buổi tối, ngay lúc tôi nói chuyện với Quả Thuấn, kỳ quái thay đã xảy ra một sự việc, hốt nhiên có 10 người tới. Lúc đó bên cạnh tôi có bốn chú đệ tử, trong đó có hai chú đắc Phật nhãn, thiên nhãn thông nên hai chú ngồi thiền nhập định cũng có thể quán sát được mọi việc. Xem kỹ ra thì 10 vị đó không phải là người mà là 10 con rồng hóa ra người từ ngôi miếu Long Vương tới.
Tôi hỏi họ: “Các vị tới đây làm gì?”
Họ đáp: “Vì biết Thầy tới đây nên chúng con muốn quy y Tam Bảo.”
Đang lúc thời tiết vô cùng khô hạn đều không có mưa nên tôi nói với 10 tên rồng này: “Các vị muốn quy y à! Thật hay giả đây? Nếu thật các vị là rồng, hiện ở đây cả nửa năm trời rồi không có mưa, các nhà nông đã gần chết vì nạn hạn hán này rồi, nếu lại không có mưa nữa, người ta chắc sẽ bị chết đói hết quá. Phận là rồng, các vị nên để ý mà cho mưa xuống chớ. Tại sao lại lười biếng không cho chút mưa nào hết vậy! Các vị làm biếng thế, chắc sẽ biến thành ‘rồng lười’ mất!”
Vì chúng rồng này cốt muốn quy y tôi, cho nên dù có bị tôi la mắng sao đi nữa, chúng họ cũng không giận hờn.
Chúng rồng nói: “Sư Phụ! Tại Sư Phụ không biết đó thôi!”
Tôi nói: “Tôi không biết cái gì?”
Họ nói: “Chúng con không có quyền, nhất định phải có lệnh của Ngọc Hoàng Đại Đế thì chúng con mới có thể làm mưa được. Nếu Ngọc Hoàng không cho phép, thì chúng con không thể nào tự ý làm mưa được?”
“Chuyện này dễ thôi! Các vị hãy đến chỗ Ngọc Hoàng đó tâu rằng: ‘Ở thế gian có người tên vậy vậy, là người xuất gia, vì thành phố Harbin hạn hán, dân chúng không thể sống được nên Thầy ấy hiện muốn cầu cho có mưa!’ Các vị nói với Ngài vậy đó. Thật ra, tôi không cầu gì nhiều, chỉ muốn có mưa ở chung quanh khu vực Harbin này khoảng 40 dặm là được rồi!’
Nếu ngày mai các vị được phép của Ngọc Hoàng để làm mưa thì ngày mốt tôi mới quy y cho các vị. Còn như mà không có mưa, tôi cũng không muốn nhận các vị làm đệ tử làm gì và các vị cũng khỏi cần phải quy y Tam Bảo luôn.”
Thật rất thần kỳ! Quả nhiên ngày hôm sau trời đổ mưa. Trận mưa này cũng rất kỳ lạ là chỉ mưa trong vòng 40 dặm trở lại, còn ngoài 40 dặm đó ra thì không có mưa. Cho nên qua ngày sau, tôi bèn quy y cho họ, đặt pháp danh là Cấp Tu (Tu Gấp) tự Khoái Độ (Mau Độ) ý bảo họ hãy mau tu hành, tích cực mà tu hành đi, để sớm ngày hóa độ cho tất cả chủng tộc rồng của họ. Tôi hỏi họ: “Tại sao các vị muốn quy y tôi? Có rất nhiều người xuất gia như vậy mà sao các vị lại không quy y?” Chúng họ nói: “Bởi chúng con biết được nguyện lực của Sư Phụ nên mới tới quy y.” Vì lúc trước có rất nhiều sự việc xảy ra cho nên tôi mới phát Mười Tám Đại Nguyện đó mà không lúc nào tôi dám quên.
Nghe qua sự kiện này, chắc các vị thấy có vẻ hoang đường thần thoại quá phải không, nhưng là chuyện tôi đã đích thân trải qua. Tôi biết, tôi kể ra thì số người không tin nhiều hơn là số người tin. Đợi đến khi nào các vị tin rồi, tức các vị mới biết được những lời tôi nói đây là sự thật. Khoa học hiện tại nói mưa là do hơi nóng bốc lên mà thành nhưng họ nào biết rằng đó là do Long Thần âm thầm chi phối. Các vị không thấy rồng, nhưng thật tại có rồng đấy. Hơn nữa kiếp trước của rồng là người tu hành, bởi vì họ “thừa cấp giới hoãn,” nghĩa là gấp tu Đại-thừa mà trì hoãn với Giới-luật cho nên mới bị đọa lạc.
Để kỷ niệm sự kiện này, tôi đặt tên cho chòi của Quả Thuấn là “Long vũ mao bồng” tức chòi tranh rồng phun mưa. Vào ngày 18 tháng 4 năm Dân Quốc thứ 38, Quả Thuấn tự thiêu cúng dường Phật và chòi tranh cũng cháy rụi luôn .
Nguồn : Cuộc Đời và Đạo Nghiệp Hòa Thượng Tuyên Hóa
https://www.mediafire.com/file/sly0vt2hgfxsinr/CuocDoi%2526DaoNghiepCuaHTTH.pdf/file?fbclid=IwAR23EdKlbEuqQ7DQ63gkTHX9ih7qiEOENx8RKfFP7rFEBKeB7fSXkwTHcZA
Muốn cải vận mệnh thì hãy sửa lại cách nói chuyện của chính mình
Phật dạy, một người có vận mệnh tốt chính là người ăn nói có chừng mực. Mỗi lời nói đều thể hiện mình là người có đạo đức. Họ tuyệt đối không bao giờ dùng những lời phê phán, chê bai bất kỳ ai cả.
Lời nói của họ ngược lại lúc nào chân thành, với tâm ý động viên và khích lệ người khác.
1. Đừng bàn luận nhiều về cách hành xử của người khác, vì có thể họ chính là chiếc gương của bạn, nhờ tấm gương đó mà bạn nhận ra những thiếu sót của bản thân.
2. Đừng bao giờ nói nhiều về tính xấu của người khác vì những điều đó không ảnh hưởng đến kinh tế nhà bạn và vì bạn chưa chắc đã tốt hơn họ nhiều.
3. Đừng bao giờ có lời nói làm tổn thương người khác vì luật nhân quả luôn tồn tại.
4. Đừng tùy tiện nổi giận với người khác, không phải họ đang nợ bạn mà có lẽ chính là bạn đang nợ họ, và giờ đến lúc bạn phải trả cái nợ đó.
5. Đừng bình phẩm xấu về ai đó vì có thể người nào đó cũng đang nói về bạn.
6. Đừng giải thích nhiều về một sự việc nào đó vì có thể càng giải thích thì vấn đề lại càng trở nên rắc rối hơn.
Mặt khác thì những người có vận mệnh tốt lúc nào họ cũng giỏi lắng nghe, họ thường không cắt ngang câu chuyện của người khác. Khi nghe những lời khó nghe, họ vẫn giữ được cho mình một thái độ vô cùng điềm đạm và ôn hòa.
Lời nói vốn dĩ không mất tiền mua thế nên đừng nói ra những lời khiến người khác đau lòng. Bạn nói không suy nghĩ nhưng vô tình lại khiến người khác tổn thương.
Theo kinh Phật thì con người ta có vận mệnh tốt và giàu có ở kiếp này là vì người đó là tích được nhiều đức ở các kiếp sống khác. Trong cuộc đời mỗi con người, không phải ai cũng sẵn lòng làm việc tốt cho người khác. Nhưng họ lại dễ nói ra những lời khó nghe cho người xung quanh. Như vậy thì càng khiến cuộc sống của họ đau đớn hơn mà thôi.
Người xưa đã dạy họa từ miệng mà ra, bệnh cũng từ miệng mà ra. Dù của cái có nhiều thì cái miệng ăn lâu ngày cũng hết, phúc đức dù tích bao nhiêu nhưng do cái miệng tạp nghiệp thì phúc đức cũng tiêu tan đi hết.
Theo Khoevadep
Hỏi: Người lâm chung là vãng sanh rồi mới tắt thở hay là dứt hơi thở mới vãng sanh? Nếu như thế thì quá trình tắt thở rất đau đớn phải không?
Đáp: Cái chết của con người, Phật có vài phán đoán, không những chỉ là hơi thở, tim ngừng đập theo y học, nếu tim ngừng đập liền phán đoán là chết: nhưng trong Phật giáo thì vẫn chưa, bởi vì thân thể còn có hơi ấm, còn hơi ấm thì chưa chết, thần thức sẽ rời khỏi sau cùng, mới nhận định đã chết, đây gọi là mạng chung.
Thông thường, chúng ta trợ niệm hoặc bản thân lâm chung niệm Phật đều là vãng sanh trước khi mạng chung. Mọi người có thể đọc Cửu phẩm vãng sanh trong Quán kinh, nói rất rõ ràng, người này sắp mạng chung (lúc này mạng sống vẫn chưa chấm dứt) thì có vài quá trình.
Quá trình vãng sanh là như vầy: Lúc sắp chết, đầu tiên thấy Phật đến, thứ hai là thấy Bồ-tát mang đài sen đến, thứ ba là Phật, Bồ-tát đứng trước mặt, sẽ phóng ánh sáng thuyết pháp, khen ngợi họ, an ủi họ, nói vài lời an ủi, khích lệ, khen ngợi, sau đó sẽ phóng ra ánh sáng, rồi duỗi tay báu ra nghinh tiếp họ; tình cảnh này họ sẽ vui vẻ ra đi. Cho nên, đều là một chuỗi liên tục, sau đó bản thân họ thấy chính mình ngồi trên tòa sen báu, theo Phật vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Trong quá trình này, họ thấy Phật đến cầm hoa sen, khen ngợi, phóng quang, gia trì, trao tay, đây đều là trước lúc chết, sau khi nhìn thấy Phật như thế thì sẽ ra đi. Nhưng trong quá rình này không thấy bản thân chết, mà là rất tự nhiên, tiếp tục nhìn thấy mình ngồi trên hoa sen, theo Phật vãng sanh, hơn nữa đều là rất vui vẻ. Bởi lẽ nhìn thấy Phật phóng quang, khen ngợi, trao tay, nên tâm sanh đại hoan hỷ, tự thấy thân mình ngồi trên hoa sen báu, không có buồn rầu khổ lụy; khi đó khổ não oán cừu chắc chắn rơi rụng hết rồi.
Tình trạng vãng sanh của mỗi người không giống nhau. Có người trước khi mạng chung thấy Phật đến nghinh đón, có người sau khi tắt thở, trợ niệm vãng sanh, đó tức là thân trung ấm vãng sanh, như thế thì khác nhau.
Chúng ta là những người chuyên tâm niệm Phật thì thuộc vào bình sanh nghiệp thành. Bình sanh nghiệp thành thì không rơi vào loại này, nhất định là trước khi lâm chung sẽ thấy Phật đến nghinh tiếp, đây là trạng thái chủ động, trước khi lâm chung sẽ thấy Phật, Bồ-tát đến đón.
Người chuyên tu niệm Phật thì mỗi ngày đều nghĩ đến cái chết như là sự trở về, bất cứ lúc nào bỏ được sắc thân này thì cũng như cởi bỏ y phục, càng sớm thì càng nhẹ nhàng. Vì thế, nếu có quan niệm chính xác về cái chết, có sự gia trì của Phật lực, có sự sưởi ấm của ánh sáng như thế sẽ ra đi an lành, lúc ra đi rất tự tại.
Nam Mô A Di Đà Phật
Pháp sư Tịnh Tông
(Trích: HỎI ĐÁP VỀ PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ, trang 570)