Phàm người niệm Phật muốn sanh Tịnh Ðộ thì nên thường nghĩ thế gian hết thảy vô thường, đã thành ắt phải hoại, có sanh ắt có tử. Nếu chẳng được nghe Phật pháp thì xả thân, thọ thân, luân hồi ba cõi, tứ sanh, lục đạo, không ngày giải thoát. Nay ta hữu duyên được nghe chánh pháp, được tu Tịnh nghiệp, chỉ nghĩ đến Phật, bỏ báo thân này sẽ sanh Tịnh Ðộ, vào trong thai sen hưởng các khoái lạc, vĩnh viễn thoát sanh tử, Bồ Ðề bất thối. Ðấy chính là việc làm bình sinh của bậc đại trượng phu.
Vừa mới nhuốm bệnh cứ vẫn tinh tấn, lặng trong thân tâm, chớ sanh lo ngờ. Phải nên ngồi ngay ngắn hướng về Tây, chuyên tưởng A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí Bồ Tát và vô số hóa Phật hiện ra trước mặt, nhất tâm niệm Phật, tiếng tiếng chẳng dứt. Ðối với hết thảy sự việc thế gian chẳng được nghĩ nhớ tham luyến. Nếu như tâm niệm khởi lên, hãy gấp niệm Phật hiệu. Trong mỗi niệm trừ diệt tội chướng.
Nếu bệnh nhân hôn mê chẳng thể tự niệm thì người trông bệnh hãy nên phương tiện nhắc nhở, khuyên dụ. Dụng tâm như thế giúp cho người ấy đến hết mạng vẫn chỉ có một niệm này, quyết định vãng sanh Tịnh Ðộ. Nếu mạng chưa hết thì liền được an ninh, chớ vọng khởi tâm lưu luyến. Hễ còn sống sẽ tự sống, còn phải chết sẽ chết, chỉ lo việc vãng sanh, cần chi lo ngờ?
- Nhận định:
Sanh tử hữu mạng, trong lúc bệnh tật nên nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, chớ nên lưu luyến, ngờ lo đến nỗi mất chánh niệm phải đọa luân hồi!
Trích lục Lâm Chung Cảnh Sách của đại sư Ưu Ðàm
Trích NIỆM PHẬT PHÁP YẾU
Cư sĩ Dịch Viên Mao Lăng Vân sưu tập
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa chuyển ngữ
ĐƯỢC NGHE KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA (KINH PHÁP HOA) – NGỰA CHUYỂN SINH LÀM NGƯỜI.
Trước kia, có vị Hòa Thượng rất có địa vị tham chánh ở trong triều đình. Mỗi lần ông ta từ Chùa đến hoàng cung đều chẳng ngồi kiệu, ông ta cỡi ngựa.
Mỗi lần ông ta ngồi trên lưng ngựa, thì đọc thuộc lòng quyển thứ nhất của Kinh Pháp Hoa, đến hoàng cung thì vừa tụng xong quyển thứ nhất. Ngày nào cũng thế…
Một ngày nọ, con ngựa đột nhiên chết, mà có nhà cư sĩ đối diện trước Chùa của ông lại hạ sinh một bé trai. Trước khi hài nhi ra đời, thì mẹ của đứa bé mộng thấy, con ngựa của vị Hoà Thượng cưỡi chui vào bụng bà, chẳng bao lâu thì hài nhi ra đời. Bà cảm thấy kỳ lạ, mới kêu người đến Chùa hỏi xem, mới biết con ngựa đó vừa mới chết. Bà biết đứa bé này là con ngựa đó đến đầu thai, cho nên đem đứa bé đó vào Chùa, song đứa bé đó rất ngu si, tối tăm, bất cứ dạy y đọc, hoặc viết chữ, y chẳng làm được, cho nên một chữ cũng chẳng biết. Song, có một vị Hòa Thượng dạy y đọc Kinh Pháp Hoa, thì y nhớ quyển thứ nhất rất nhanh chóng, còn những quyển còn lại y chẳng nhớ được. Vì khi y làm ngựa thì mỗi ngày vị Hoà Thượng cưỡi, đều tụng thuộc lòng quyển thứ nhất, cho nên y nhớ được. Vì y nghe được Kinh Pháp Hoa, mà được đầu thai làm người, do đó đủ biết công đức của bộ Kinh Pháp Hoa này, thật là không thể nghĩ bàn.
(Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng)
Vào thời đại nhà Tấn, tại Vân Nam có vị cư sĩ tên là Trần Đông Viện, ông ta rất tin Bồ Tát Quán Thế Âm. Ông ta từng đến núi Phổ Đà, lễ bái đạo tràng của Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi ông ta lạy xong, thì thấy một vị Hòa Thượng đang tụng Kinh Pháp Hoa, bèn thỉnh vị Hòa Thượng đó thế ông ta tụng Kinh siêu độ hồn của mẹ, khiến cho được lìa khỏi cảnh khổ, sớm sinh lên cõi Trời. Khi công đức viên mãn thì con bò của nhà ông ta đột nhiên chết đi. Đêm đó, con bò báo mộng cho ông ta nói:
”Ta là mẹ của ngươi, vì khẩu nghiệp quá nặng, tội nghiệt quá sâu, cho nên đầu thai làm bò. Nay nhờ nhà ngươi thỉnh Pháp Sư tụng Kinh siêu độ ta, khiến cho ta lìa khỏi thân bò, nhưng vẫn chưa lìa khỏi khổ ở địa ngục, nhà ngươi hãy thỉnh vị Pháp Sư vì ta tụng Kinh siêu độ nữa”!
Trần Đông Viện lại đến núi Phổ Đà gặp vị Hòa Thượng đó, thỉnh Hòa Thượng siêu độ mẹ của ông ta nữa, vị Hòa Thượng đó tụng Kinh thì đương nhiên rất thành tâm, nhưng chứng nghiện rượu chưa bỏ được, đôi khi uống một hai ly rượu. Khi ông ta biết tình hình mẹ của Trần Đông Viện, thì rất thành tâm quỳ trước bàn Phật tụng Kinh Pháp Hoa, khi tụng đến quyển thứ tư, thì ông ta khát nước, muốn uống trà, nhưng bình trà chẳng có trà, song thấy trong ly rượu thường dùng hằng ngày lại có rượu, bèn uống hết ly rượu đó, rồi tiếp tục tụng hết bộ Kinh Pháp Hoa.
Trần Đông Viện lại nằm mộng thấy mẹ của ông ta nói:
”Số là ta có thể thoát khỏi địa ngục, khi Pháp Sư tụng Kinh Pháp Hoa, từ quyển một đến quyển bốn thì trong địa ngục đầy khắp kim quang, còn có hoa sen bằng vàng sinh ra, chính lúc đó ta phải đi đầu thai, thì hốt nhiên có mùi rượu đầy khắp địa ngục, từ quyển thứ năm đến quyển thứ bảy, thì chẳng có công hiệu là bao, ngươi hãy thỉnh vị Hoà Thượng đó vì ta tụng nữa!”.
Trần Đông Viện lại đem tình hình trên nói với vị Hòa Thượng đó. Trước kia, vị Hòa Thượng đó cho rằng uống một hai ly rượu chẳng có quan hệ gì, khi trải qua sự việc này thì ông ta hoàn toàn bỏ rượu.
Từ hai câu chuyện trên ta nhìn lại thì thấy sự vi diệu của Kinh Pháp Hoa quả không thể nghĩ bàn.
(Nguồn: Vô Lượng Thọ Phật)
A di đà phật. Kính thưa các cô chú, chỉ giúp cho con việc này. Ngày trước cất nhà, vì lúc đó chưa hiểu phật pháp nên nhà con xây trang thờ Phật cao đến hơn 2 mét, và bàn trang ông táo thì thấp hơn trang Phật khoảng 20 phân. Lúc trước để thắp hương cúng Phật hàng đêm mẹ con phải leo lên ghế cao mới thắp tới. Hiện giờ mẹ con già rồi, việc leo ghế cao rất nguy hiểm. Con có nói với mẹ là thỉnh Phật xuống tủ búp phê cho tiện việc thắp hương và lau chùi bàn Phật. Ban đầu mẹ con không chịu nhưng nói riết mẹ cũng nghe. Con đang băn khoăn là thờ Phật ở tủ búp phê dưới thấp, tủ cao khoảng 1 mét rưỡi, còn trang thờ ông táo vẫn ở trên cao thì có sao không ạ? Con rất muốn bảo mẹ là không thờ ông táo nữa, nhưng con biết mẹ sẽ không nghe con. Và trang Phật trên cao giờ không thờ Phật nữa, mình có thể dỡ bỏ được không ạ? Xin giúp con với.
A Di Đà Phật – Xin chào bạn Đức,
Đúng rồi đó bạn, trang thờ Phật ở trên cao bây giờ không dùng nữa muốn gở bỏ thì cũng được chứ không sao nhé! Ở phòng khách lẻ ra chỉ nên thờ Phật thôi, không nên thờ thêm ông Táo hay các vị thần khác. Bởi vì Phật là:” đấng pháp vương vô thuợng, ba cõi chẳng ai bằng, thầy dạy khắp trời người, cha lành chung bốn loài…” Tuy nhiên nếu muốn thờ thêm ông Táo thì vẫn được nhưng mình phải thờ bằng cái bàn nhỏ hơn và thấp hơn bàn Phật thì mới được.
Do vậy theo mình nghĩ thì bạn thử khuyên mẹ không nên thờ ông Táo ở phòng khách nữa vì ông Táo xưa nay chỉ ở trong bếp, muốn làm bàn thờ ông Táo thì nên đặt ở gần bếp. Đây là mình nói để mẹ nghe cho có lý nhằm khuyên mẹ dời ông Táo xuống thấp hoặc xuống nhà bếp thôi chứ nếu mẹ cương quyết không chịu thì mình phải chìu theo ý mẹ chứ không nên cãi. Bởi vì nếu bạn cãi lại thì mẹ bạn sẽ giận mà “một đốm lửa sân có thể thiêu rụi mười mẫu rừng công đức“, cổ nhân cũng đã nói:” nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai“. Chính vì thế cho nên bạn chỉ được khuyên và góp ý, khi nào mẹ đồng ý thì mới nên dời ông Táo, còn không thì tạm thời cứ để vậy rồi từ từ mình sẽ tính sau.
Nếu mẹ vẫn cương quyết muốn để ông Táo ở trên cao thì mỗi khi cần thắp huơng hay lau dọn bàn thờ ông Táo thì bạn nên giúp mẹ, tránh để mẹ tự làm kẻo té thì nguy hiểm. Đợi một thời gian sau mẹ bạn quên chuyện đó, giao cho bạn lau dọn bàn thờ ông Táo thì nhân lúc mẹ không để ý, bạn làm sao cho cái trang thờ ông Táo bị hư đi rồi dời xuống thấp. Nếu mẹ hỏi thì cứ nói là:” tại chỗ đó hư rồi mà con sửa không được nên tạm thời con dời xuống thấp, mà con thấy để như vầy cũng đẹp nè, mẹ xem thử, có được không?” Nếu mẹ đồng ý vậy là Ok. Còn nếu mẹ không đồng ý thì bạn nói :” Nếu vậy để con cố gắng sửa lại rồi dời lên cao như lúc trước nghen “.
Nói tóm lại, chuyện thờ Phật và thờ ông Táo là do mẹ bạn quyết định, bạn chỉ có thể khuyên lơn và góp ý chứ đừng nên tự làm theo ý mình. Bởi vì bổn phận của bạn là phải thờ mẹ như trong kinh Pháp Cú, Phật đã từng nói:
Vài dòng chia sẻ, hy vọng giúp ích phần nào cho bạn nhé!
Nam Mô A Di Đà Phật
A Di Đà Phật. Cảm ơn chú Viên Trí đã giải đáp cho con. Chắc mẹ con sẽ thờ ông táo trên cao đó ạ, vì bàn thờ làm bằng xi măng đúc nên không dễ gì hư. Vậy cho con hỏi nếu mẹ con đồng ý không thờ ông táo nữa thì cứ để yên như vậy, mình không thắm nhang cúng bái là được hay là phải dỡ bỏ ạ? Lâu giờ chỉ có mùng 1, 15 mới thắp hương trang ông táo thôi, ngày thường không thắp ạ.
A Di Đà Phật- Xin chào bạn Đức,
Nếu không gở bỏ được thì cứ để vậy, không sao cả. Tại vì trên thực tế thì nếu ông Táo thấy bàn thờ mình cao hơn bàn Phật thì ông Táo sợ tội bất kính với Phật nên ông Táo cũng không lên đó ngồi đâu. Tuy nhiên mình để sao cho mẹ vui là được. Bổn phận của mình là phải làm cho mẹ vui, đừng để mẹ buồn hay giận là được còn chuyện bàn thờ, Phật cũng không chấp nhất đâu. Phật có tâm từ bi thương yêu tất cả chúng sanh mà. Nếu bạn có thể thỉnh kinh Vô Lượng Thọ về cho mẹ đọc và khuyên được mẹ chịu niệm Phật cầu sanh Tây phuơng là cực kỳ tốt luôn đó.
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật.
Mình có một số thắc mắc mong các liên hữu có thể hoan hỉ giải đáp giúp mình được không ạ . Nếu có người chỉ thấy cõi Cực Lạc an vui , không khổ đau mà muốn sanh về đó chỉ để lìa khổ được vui, người đó niệm phật theo nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đà nhưng không phát Bồ Đề tâm không tương ứng với nguyện thứ 19 của Đức Phật thì người đó có đi được không .
Mỗi tối mình có niệm Phật và lạy Phật để sám hối những tội nghiệp mình đã gây ra , mình sợ đọa tam ác đạo , mình chưa thể phát Bồ Đề tâm , vậy mình lạy Phật và niệm Phật vậy có phải là đang tự tư tự lợi không ạ , mình có phải làm sai pháp rồi không , mình sợ mình sẽ mắc tội khinh nhờn Tam Bảo
Kính mong các vị liên hữu có thể hoan hỉ giải đáp giúp mình thắc mắc này ạ
Nam Mô A Di Đà Phật
A Di Đà Phật – Xin chào bạn Đức Huy,
Như vậy rỏ ràng là ở nguyện thứ 18 chỉ nói đến 10 niệm lúc lâm chung, không có nhắc đến chuyện phát bồ đề tâm. Do vậy nếu bạn chưa phát bồ đề tâm mà lâm chung bạn niệm được 10 niệm thì vẫn được vãng sanh nhé! Cứ yên tâm, đừng có lo. Để mình nêu 2 tấm gương vãng sanh điển hình để làm ví dụ minh họa cho bạn thấy rỏ:
Người thứ nhất là ông Trương Thiện Hòa, cả đời sát sanh, lâm chung thấy tướng địa ngục hiện ra, nhờ thiện tri thức khai thị khuyên niệm Phật, nhờ vậy mà được vãng sanh. Thiết nghĩ đây là thời giờ quá cấp bách không còn rảnh để nói đến chuyện phát tâm bồ đề.
Người thứ hai là ông Vương Đầu Ngốc, người này bản tánh si khờ nhưng thật thà chất phát, bảo sao nghe vậy, sáng lượm củi, tối thì niệm Phật cuối cùng cũng được vãng sanh. Người này bản tánh si khờ thì làm sao có thể giảng cho hiểu để phát tâm bồ đề được?
Tuy nhiên nếu bạn chưa phát tâm bồ đề thì có lẻ bạn sẽ phải giật mình khi nghe nói Không Phát Tâm Bồ Đề Không Thể Vãng Sanh Tại sao lại như vậy? Là bởi vì kinh Hoa Nghiêm nói:” Vong thất bồ đề tâm tu chư thiện pháp thị danh ma nghiệp ” (Nếu quên mất tâm bồ đề dù tu hết thảy thiện pháp cũng chỉ là ma nghiệp) Vả lại kinh Quán Vô Lượng Thọ ở phần Tịnh Nghiệp Tam Phước cũng đã có nói:
Phát bồ đề tâm nói đơn giản ngắn gọn là “thuợng cầu hạ hóa” tức là trên cầu thành Phật, dưới nguyện cứu độ chúng sanh. Sau khi về Cực Lạc rồi thì bạn sẽ có điều kiện dể dàng để tu tiếp cho tới ngày thành Phật, sau khi thành Phật rồi thì bạn mới cứu độ chúng sanh chứ không phải bắt bạn phải cứu độ chúng sanh ngay bây giờ. Vả lại khi bạn thành Phật rồi thì với năng lực của bạn sẽ cứu độ vô số chúng sanh rất dể dàng giống như trở bàn tay thôi chứ không có khó khăn gì cả. Chắc tại bạn hiểu lầm là phải cứu độ chúng sanh ngay bây giờ nên bạn thấy ngán ngẫm chứ gì, có phải không? Với năng lực hiện tại của mình chỉ có thể thả cá phóng sanh là cứu thân mạng con cá thôi chứ chưa phải đúng nghĩa của cứu độ chúng sanh đâu. Cứu độ chúng sanh là mình giúp cho chúng sanh đó ra khỏi bến mê quay về bờ giác ra khỏi tam giới lục đạo thì mới đúng nghĩa của cứu độ chúng sanh nhé.
Nói đến đây thì có lẻ bạn sẽ thắc mắc: thế thì chuyện cứu độ chúng sanh hay phát bồ đề tâm để về Cực Lạc rồi tính, bây giờ tại sao lại bảo phải phát bồ đề tâm? Mình ví dụ đơn giản cho bạn dể hiểu là như thế này: Ví như bây giờ bạn ra ứng cử làm tổng thống Mĩ chẳn hạn thì nếu bạn không có hứa gì với dân chúng thì chắc không ai bỏ phiếu bầu cho bạn đâu. Còn nếu như bạn có hứa với dân chúng là sau này tôi sẽ dùng ngân sách để cải thiện đời sống nhân dân chăm lo tốt cho bá tánh, cứu trợ thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh…thì người dân họ nghe thấy thích nên họ mới bỏ phiếu bầu cho bạn thật nhiều và cơ hội thành tổng thống của bạn sẽ dể dàng hơn, có phải không?
Nói tóm lại, nếu chiếu theo DUY NHẤT nguyện thứ 18 thì bạn chỉ cần 10 niệm lúc lâm chung là được vãng sanh, không cần phát bồ đề tâm. Tuy nhiên như bạn cũng biết là không phải ai đến giờ phút lâm chung cũng có thể niệm được 10 niệm vì có nhiều trường hợp như là bị tai nạn chết bất đắc kỳ tử hay bị hôn mê…thì không nhớ để niệm Phật. Do vậy nếu bạn có phát bồ đề tâm và tu các công đức hồi huớng về Cực Lạc thì khi lâm chung chiếu theo nguyện thứ 19 thì bạn vẫn được vãng sanh dù là không nhớ để niệm Phật. Do vậy để bảo đảm nắm chắc phần vãng sanh thì thiết nghĩ bạn nên phát bồ đề tâm tu thêm các công đức để hồi huớng về Cực Lạc nhằm có thêm nguyện thứ 19 làm bảo kê sẽ an toàn hơn. Điều này bạn có thể tham khảo thêm trong bài: Đại Nguyện Lực Thứ 18 & 19 Của Đức Phật A Di Đà
Vài dòng chia sẻ, hy vọng giúp ích phần nào cho bạn nhé! Rất mong nhận được ý kiến đóng góp bổ sung từ chư vị đồng đạo để chủ đề này càng minh bạch hơn.
Nam Mô A Di Đà Phật
Dạ mình xin cảm ơn bạn Viên Trí đã giải đáp thắc mắc cho mình ạ
A Di Đà Phật. Con cảm ơn chú Viên Trí đã giải đáp thắc mắc cho con.
Kính gửi các chư vị liên hữu đồng tu!
Con xin phép có 1 đôi lời, có gì sai sót mong các chư vị hoan hỉ bỏ qua cho con ạ:
Khi đọc được đoạn phúc đáp của cư sỹ Viên Trí: “Tuy nhiên như bạn cũng biết là không phải ai đến giờ phút lâm chung cũng có thể niệm được 10 niệm vì có nhiều trường hợp như là bị tai nạn chết bất đắc kỳ tử hay bị hôn mê…thì không nhớ để niệm Phật. Do vậy nếu bạn có phát bồ đề tâm và tu các công đức hồi huớng về Cực Lạc thì khi lâm chung chiếu theo nguyện thứ 19 thì bạn vẫn được vãng sanh dù là không nhớ để niệm Phật”, con chợt nhớ tới lời giảng giải của lão cư sỹ Diệu Âm trong chương trình Thế giới hộ niệm, đại ý là: Nguyện 19 chỉ dành cho hàng đại Bồ tát, Thượng căn thượng trí phát bồ đề tâm viên mãn (làm các việc thiện lành, không còn phân biệt, chấp trước….trọn vẹn cả cuộc đời đến khi xả bỏ thân mạng) và hồi hướng, nguyện vãng sinh về TPCL thì mới thành tựu đạo quả ngay trong 1 đời. Còn hàng phàm phu tội chướng sâu nặng (như con chẳng hạn – nằm trong đại đa số phàm phu thời mạt pháp này) thì thậm chí niệm Phật cả cuộc đời, làm nhiều việc phước thiện cỡ mấy (mà vẫn còn mảy may chút xíu những niệm trần thế của tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…) rồi đến lúc lâm chung không được hộ niệm, không có người ở bên nhắc nhở niệm Phật cầu vãng sinh cũng chưa chắc khởi lên được 1 niệm A Di Đà Phật (thay vào đó là nghiệp chướng, oan gia trái chủ…trùng trùng bủa vây), chứ đừng nói đến việc bị chết bất đắc kỳ tử. Cho nên con thiết nghĩ hàng phàm phu tội chướng quá sâu nặng như chúng ta nên phát tâm niệm Phật chí thành chí kính (chánh hạnh), phát tâm làm việc thiện lành (chỉ là trợ hạnh) và quan trọng là cần được hộ niệm như lý như pháp (mà lão cư sỹ Diệu Âm đã dày công nghiên cứu từ kinh điển mà chư Phật, chư Tổ sư, các bậc đại đức để lại) để có được phước phần vãng sinh về TPCL trong một báo thân này.
*** Nếu đủ duyên, chư vị có thể vào các đường zoom Thế giới hộ niệm vào các sáng thứ 2 (4h30~6h00), tối thứ 4 và thứ 6 (18h00~19h30) (có thể lên zoom trước 30′ để nghe các tọa đàm Để hiếu thấu, hành đúng pháp hộ niệm) để học hỏi cùng lão cư sỹ Diệu Âm, thật sự rất bổ ích (rõ ràng đường đi đích đến, đúng theo chánh pháp của Phật và đã có vô vàn người được thành tựu vãng sanh ngay trong 1 cơ duyên xả bỏ báo thân phàm phu tội nghiệp sâu dạy) ạ:
ID 1: 696 696 6789
ID 2: 336 336 3456
ID 3: 225 225 2345
Password (mật khẩu): 1234
Nam mô A DI ĐÀ PHẬT!
A Di Đà Phật
Xin chào các Liên hữu!
Trong Trùng Ðính Tây Phương Công Cứ có đoạn:
“Từ Vân Sám Chủ nói: Tam giới đại sư, vạn đức từ phụ, quy y Ngài thời tội diệt; kính Ngài thời phước sanh. Các kinh đã nói đủ. Nếu có thể quy y Tam Bảo, thọ trì danh hiệu một vị Phật thì hiện đời sẽ được mười điều lợi thù thắng:
1. Ngày đêm thường được hết thảy chư thiên, đại lực thần tướng ẩn hình thủ hộ.
2. Thường được hai mươi lăm vị Bồ Tát như Quán Thế Âm v.v… thủ hộ.
3. Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, A Di Ðà Phật thường phóng quang minh nhiếp thọ người ấy.
4. Hết thảy ác quỷ, dạ xoa, la sát đều chẳng hại được; rắn độc, thuốc độc thảy đều chẳng làm hại nổi.
5. Đều chẳng mắc nạn nước, lửa, oán tặc, đao, tên, gông cùm, tù ngục, chết ngang.
6. Những tội trước kia trót tạo đều sẽ tiêu diệt; mạng trót giết oan đều được giải thoát, chẳng còn đối chấp.
7. Đêm mộng điều tốt lành, thấy hình sắc tượng thắng diệu của Phật A Di Ðà.
8. Tâm thường hoan hỉ, nhan sắc tươi nhuận, khí lực sung mãn, việc làm tốt lành.
9. Thường được hết thảy thế gian, nhân dân cung kính, lễ bái giống như kính Phật.
10. Lúc mạng chung, tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện tiền, A Di Ðà Phật và các thánh chúng cầm đài kim cang tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc thế giới hưởng sự vui mầu nhiệm thù thắng đến cùng tột đời vị lai”.
-Dật Nhân pháp sư biên thuật
-Ấn Quang pháp sư giám định.
-Chuyển ngữ: Như Hòa
———
Nếu đọc kỹ 10 công đức niệm Phật ở trên, sao lại nghi ngờ bản thân có thể bị chết bất đắc kỳ tử (chết ngang) được. Giả chăng có sự lo sợ này, hẳn tự biết hằng ngày niệm Phật chỉ trên hình thức, miệng niệm mà tâm không có Phật.
Lại Ân sư Tịnh Không có lời dạy: “Việc chúng ta là lo niệm Phật, còn hết thảy hãy để A Di Đà Phật lo liệu”. Nếu ai tin vào sự lo liệu của A Di Đà Từ phụ thì chẳng nghĩ, chẳng lo mình chết bất đắc kỳ tử. Còn không tin, thì về căn bản tín nguyện chưa đủ, làm sao vãng sanh được.
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính thưa các chư vị liên hữu!
Con đọc được lá Thư Tịnh độ số 40 của Đại Sư Ấn Quang nên theo ngu ý của con thì vì mình là phàm phu nghiệp chướng lấp đầy hư không nên dù sao cũng nên ‘cẩn tắc vô áy náy’, dù có Tín-Nguyện-Hạnh vẫn cần học và được hộ niệm kỹ càng để có được phước phần vãng sinh TPCL ngay trong 1 đời, kính mong các chư vị chỉ dạy thêm ạ:
40/ Thơ Đáp Cư Sĩ Châu Tụng Nghiêu (Phụ Nguyên Thơ)
Nay đệ tử có một nghi vấn, cầu xin lão Pháp sư từ bi chỉ bảo:
Đệ tử ăn chay niệm Phật đã nhiều năm, nghe dạy rằng: Những người tin tưởng Phật, sẽ được chư Phật trong mười phương ba đời hộ niệm, các vị Thiên Long Bát Bộ, Đại Lực Thần Vương thường theo hộ trì, nghiệp ác đời trước lần lần tiêu trừ, dù có oan gia đối đầu cũng không thể làm hại. Mấy điều trên đây căn cứ trong Kinh Phật, quyết không phải là lời nói suông. Nhưng vào khoảng tháng ba này, nhân tiếp được tin tức của người bà con từ Thượng Hải gửi về, khiến đệ tử vô cùng ngạc nhiên! Theo tin ấy cho biết: Bà Trương Thái Thái là người rất tin Phật, ăn chay đã hơn hai mươi năm, thường đến Cư Sĩ Lâm nghe giảng kinh pháp. Bà ấy hiền hậu nhân đức, ưa làm lành, gặp ai cũng đều khuyên ăn chay niệm Phật. Không ngờ một hôm đang đi trên lộ để đem đồ ăn chay cho một vị sư huynh, bà bị xe cán chết. Lúc ấy vì không có ai nhìn, nên nhân viên tuần phòng chở đi, đến ba ngày sau con cháu hay được mới xin đem về chôn cất. Đệ tử nghe tin ấy trong lòng kinh ngạc phi thường, đến nay vẫn còn nghi ngờ chưa hiểu. Việc này nếu người trong Phật học hội nghe được, chắc cũng bàng hoàng không an. Cho nên đệ tử dâng lên bức thơ này, cầu xin lão Pháp sư chỉ dạy, nói rõ nguyên do vì sao bà họ Trương lại bị cái chết thảm khốc như thế. Và kết cuộc, bà có được vãng sanh về Tây phương hay chăng?
Xin lão Pháp sư mở lời minh huấn để cho nhiều người yên tâm niệm Phật. Ân đức ấy đệ tử cảm bội không cùng!
Tiếp được thơ, biết ngươi đối với đạo lý Phật pháp còn chưa hiểu rõ. Chúng ta từ vô thỉ đến nay, đã tạo nghiệp ác vô lượng vô biên! Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giả sử nghiệp ác có thể tướng, mười phương hư không chẳng dung chứa hết.” Nên biết sự tu trì của hành nhơn, nếu quả chí thành không dối, thì có thể chuyển trọng báo, hậu báo thành hiện báo, khinh báo. Người phàm mắt thịt chỉ thấy sự kiết hung trước mắt, đâu biết được việc nhân quả đời trước và đời sau.
Bà họ Trương ấy nhiều năm tinh tu, một sớm chết thảm, hoặc giả do sự khổ đó mà tiêu được ác báo tam đồ, sanh về cõi Thiên. Nếu trong hiện đời bà tin sâu nguyện thiết thì cũng có thể sanh về Tây phương. Nhưng chúng ta đã không có tha tâm đạo nhãn, nên không dám ức đoán quyết chắc bà có được vãng sanh cùng chăng? Việc có thể quyết định là: làm lành tất được quả lành, làm dữ phải mang ác báo. Nếu làm lành mà bị quả dữ, đó là quả báo của nghiệp ác đời trước, chẳng phải quả báo của nghiệp lành đời này. Các ngươi thấy bà lão bị sự chết khổ như thế, liền nghĩ lầm rằng việc lành không đáng làm, bởi làm lành không được phước, nên mới sợ hãi nghi ngờ. Sự nhận thức đó đâu có khác gì người chưa nghe hiểu Phật pháp? Nếu người đã tin chắc lời của Phật, quyết không vì việc ấy mà lộ ra vẻ sửng sốt kinh hoàng. Bởi việc nhân quả trùng điệp không cùng, có khi nhân này chưa trả, quả nọ đã chín mùi, ví như gieo giống sớm thì gặt sớm, lại như thiếu nợ, chủ nợ mạnh lôi kéo trước tiên.
Thuở xưa, có người một đời làm lành, khi lâm chung lại bị chết thảm để trả xong nghiệp trước, đời sau lại được phú quí vinh hoa. Như đời Tống một vị Tăng ở chùa A Dục Vương muốn trùng tu tòa điện tháp thờ Xá Lợi nghĩ rằng Cần Thân Vương có thế lực, mới đến quyên mộ. Chẳng dè kết quả số tiền quyên không được bao nhiêu, bổn nguyện không thành, vị Tăng buồn bã, lấy búa chặt tay trước đền Xá Lợi, máu ra nhiều liền chết. Cùng trong lúc ấy, Cần Thân Vương sanh ra một đứa con. Từ khi mới lọt lòng, đứa bé thường khóc mãi không thôi. Bà vú bế nó đi chơi, đến chỗ treo bản đồ xây tháp Xá Lợi thì đứa bé không khóc, bồng đi lại khóc to lên. Bà vú không biết làm sao, mới gỡ bản đồ xuống thường cầm để trước mặt nó, từ đó đứa bé không khóc nữa. Vương nghe chuyện ấy lấy làm lạ liền sai người đến chùa A Dục hỏi thăm vị Tăng khi trước, mới hay ông chặt tay chết đúng vào ngày sanh của con mình. Do nhân duyên đó, Thân Vương một mình đứng ra sửa lại điện Xá Lợi. Đến khi đứa bé ấy được hai mươi tuổi, nhằm lúc vua Ninh Tông băng, không có Thái tử kế vị, mới di chiếu lập con của Cần Thân Vương lên làm vua. Cậu bé về sau được làm Hoàng Đế bốn mươi mốt năm, tức là vua Lý Tông nhà Tống vậy.
Cái chết của vị Tăng cũng là cái chết thảm. Nếu không có sự khóc mãi chẳng thôi và khi thấy bản đồ tháp Xá Lợi liền nín lặng, thì đâu ai biết được đứa bé là thân sau của vị Tăng đã chết thảm kia? Việc này chép ở tập A Dục Vương Sơn Chí, mà trong năm Quang Tự thứ hai mươi mốt, tôi nhân đi lễ tháp Xá Lợi vài mươi ngày, đã được xem qua. Người rõ lý mặc dù cảnh ngộ thế nào, cũng quyết không nghi nhân quả sai lầm, lời Phật hư dối. Kẻ không rõ lý, chấp chặt một khuôn khổ, chẳng biết có nhân quả phức tạp, cho nên sanh lòng nghi nan, truy ra đều do không có chánh kiến. Như chỗ ngươi nói: người niệm Phật có Tam bảo gia bị, long thiên hộ trì, đó vẫn là lẽ nhất định không còn sai lầm. Nhưng đối với việc chuyển quả báo nặng đời sau thành quả báo nhẹ đời này, ngươi còn chưa rõ biết, nên không khỏi có sự nghi ngờ bàn bạc không hợp lý kia. Thuở xưa, ở Tây Vức, Giới Hiền Luận Sư là bậc đạo đức cao trong một thời, tiếng đồn vang khắp bốn xứ Thiên Trúc. Do vì túc nghiệp, Luận Sư mang chứng bệnh dữ, đau đớn vô cùng, chịu không kham, nên sắp muốn tự tận. Vừa trong đêm ấy, Luận Sư nằm mơ thấy ba vị Bồ tát: Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm giáng lâm bảo rằng: “Ngươi trong kiếp về trước, nhiều đời làm vị quốc vương, bởi não hại chúng sanh, nên sẽ phải bị lâu dài đọa vào ác đạo. Nhưng do đời nay ngươi có công hoằng dương Phật pháp nên chuyển lại chịu sự khổ nhỏ ở nhân gian để tiêu trừ sự khổ lớn nhiều kiếp nơi Địa ngục. Vậy ngươi gắng nhẫn chịu, chớ nên buồn rầu mà tính việc chi khác. Trong ba năm nữa, ở xứ Đại Đường có vị Tăng tên Huyền Trang, sẽ đến đây thọ pháp với ngươi.” Giới Hiền Luận Sư nghe rồi liền rán chịu khổ sám hối lâu ngày bệnh lần lần thuyên giảm. Qua ba năm sau, Huyền Trang đến chùa Na Lan Đà, Giới Công bảo đệ tử nói trạng thái bệnh khổ của mình, chính người thuật lại cũng nghẹn ngào rơi lệ. Bao nhiêu đó cũng đủ biết sự khổ ấy là dường nào rồi! Nếu ba vị Bồ tát không nói rõ nhân duyên kiếp trước, người đời sẽ bảo Ngài Giới Hiền chẳng phải là bậc đạo đức cao Tăng. Hoặc có kẻ lại cho rằng: một vị đại tu hành mà còn bị chứng bệnh thảm thế ấy, thì Phật pháp có chi là linh nghiệm?
Tóm lại, chỗ hiểu biết của các ngươi còn cạn, nên vừa thấy việc chi hơi khác liền sanh lòng kinh nghi. Hành vi ấy có thể khiến cho kẻ ít căn lành thối thất lòng đạo. Nếu thấy người làm ác mà hiện đời được phước báo, chắc các ngươi cũng khởi niệm hiểu lầm như thế. Nên biết đó chẳng qua là sự chuyển biến của những lớp tiền nhân hậu quả phức tạp không đồng, để đổi quả nặng đời sau làm quả nhẹ hiện tại, hay chuyển quả nhẹ hiện tại thành quả nặng đời sau mà thôi.
Nam mô A DI ĐÀ PHẬT!
A Di Đà Phật
Mến chào Liên hữu Tuệ Tâm!
Trong thư Ấn Quang Đại Sư đã từ bi chỉ dạy rõ ràng rồi. Bà Trương Thái Thái ăn chay, niệm Phật, làm lành- đấy là chúng ta thấy trên hình tướng, còn nơi bổn tâm của bà tu hành ra sao, mắt phàm chẳng thể thấy được. Xưa có vị quan- thiên hạ nhìn vào bảo ông là vị quan thanh liêm, mà cũng thật vì đối với việc nước việc dân ông không hề ngại khó; chỉ có điều vào năm nọ có một huyện thiếu đói, nhà vua giao cho ông việc cứu đói với những hòm vàng, hòm tiền; trước khối của cải khổng lồ đó ông khởi lòng tham, đã lén lút dấu đi, khiến cho rất nhiều người dân phải chết đói; về sau ông cũng thấy áy náy, liền làm nhiều việc thiện như xây cầu, giúp đỡ người nghèo… được dân chúng vô cùng ca thán ơn đức; nhưng không ai biết số tiền mà ông làm thiện chỉ là một phần rất nhỏ trong khối tài sản mà ông đã “cướp” kia; sau khi chết ông liền đọa vào địa ngục…
Vị quan ở câu chuyện trên, người đời có ai nghĩ ông đọa địa ngục- không ai nghĩ như vậy, vì tất nhiên mọi người đều nhìn thấy những việc bày ra trước mắt mà không thấy được những việc khuất tất bên trong. Không đào bới để tìm lỗi người và nghĩ thiện về người khác là một điều tốt, tuy nhiên cũng không vì lẽ này mà chúng ta tin người hơn tin Nhân quả. Những lời dạy của Phật, Tổ,… không ngoài Nhân quả, quyết không sai chạy; chỉ có điều hành giả chúng ta chưa thực sự y giáo phụng hành mà thôi.
Việc chuẩn bị một Ban hộ niệm đại đa số các hành giả niệm Phật đều nghĩ đến, song điều kiện cần và đủ là ba món tư lương Tín- Nguyện- Hạnh. Lão pháp sư Tịnh Không dạy rằng: “chí ít công phu niệm Phật đạt thành phiến mới đảm bảo vãng sanh, hộ niệm không chắc chắn”, vì thế đừng có tâm trông vào hộ niệm. Nói chung chúng ta cứ chuẩn bị Ban Hộ niệm, nếu Phật A Di Đà Phật đã đóng dấu visa- sự vãng sanh là chắc chắn thì việc hộ niệm giúp hành giả nâng cao phẩm vị.
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính gửi cô Mỹ Diệp!
Dạ con hiểu ý của cô ạ. Con cảm ơn cô nhiều vì đã chỉ dạy thêm cho con ạ.
Con nghe theo lời giảng từ lão cư sỹ Diệu Âm về hộ niệm là hãy hộ niệm càng sớm càng tốt chứ không phải trông chờ lúc sắp lâm chung hoặc xả bỏ báo thân được BHN đến niệm vài câu A Di Đà Phật là được vãng sanh, vì hộ niệm là 1 pháp tu: sửa đổi, bỏ đi những điều sai lầm, thiếu sót và giữ lại những gì cần giữ, mà quan trọng nhất là giữ được câu A Di Đà Phật càng nhiều trong tâm càng tốt, cùng kết nhóm tu hành, hộ niệm cho nhau để đến lúc xả thân phàm tục này được bạn đồng tu ở bên cạnh khuyến tấn, nhắc nhở niệm được câu Phật hiệu lúc lâm chung thì phần vãng sanh chắc hơn rất nhiều. Còn thời nay càng ngày mạt pháp càng nặng thì hầu hết đều niệm Phật với tâm tán loạn, thậm chí đến công phu nhỏ nhất là thành phiến cũng khó đạt được, nên mới cần học hỏi, nghiên cứu hộ niệm sớm nhất có thể là vì thế ạ. Và nhờ PHÁP TU HỘ NIỆM được lan truyền mà hơn 10 năm trở lại đây, có những người dù tu rất ít cũng được vãng sanh bất khả tư nghì (tất nhiên họ hẳn là những người có thiện căn sâu dày, tu hành vô lượng đời kiếp mới tin được câu A Di Đà Phật và nguyện vãng sanh về TPCL) hay ít ra là cũng thoát được tam ác đạo.
Con thật sự tin tưởng pháp HỘ NIỆM vì bản thân con cũng từng trực tiếp chứng kiến rất, rất nhiều TH được hộ niệm (có người thì từ lúc khỏe đến lúc xả bỏ thân vài năm, có người được vài tháng, có người vài ngày, thậm chí có người chỉ vài giờ) để lại thoại tướng bất khả tư nghì: chân tay mềm mại, da trắng sáng, môi đỏ (càng niệm Phật lâu càng đỏ)…(trong khi khoa học thì chứng minh là con người sau khi mất đạt độ cứng cực đại ở 12h sau khi chết) nên vô cùng mong mỏi sẽ ngày càng có nhiều người hữu duyên biết đến, học hỏi và được lợi ích từ sự vi diệu của pháp HỘ NIỆM NIỆM PHẬT CẦU VÃNG SINH TPCL trong thời mạt pháp này ạ.
Con không còn quá trẻ, cũng chưa phải quá già, mới là hàng sơ cơ học đạo và cũng chỉ biết học duy nhất pháp HỘ NIỆM NIỆM PHẬT cầu vãng sinh TPCL, cho nên chắc chắn hiểu biết còn nông cạn, ý kiến có nhiều thiếu sót; mong cô và các chư vị liên hữu hoan hỉ bỏ qua giúp con ạ.
Nguyện mong tất cả đều được vãng sinh Tây Phương Cực lạc, viên thành đạo quả ngay khi mãn báo thân này ạ!
Nam mô A DI ĐÀ PHẬT!
A Di Đà Phật
Liên hữu Tuệ Tâm thân mến!
Có hai vấn đề MD muốn chia sẻ thêm cùng bạn:
*Vấn đề hộ niệm: Nếu cho rằng hộ niệm là một pháp tu, ngay từ lúc này chúng ta không buông xả để dốc toàn tâm niệm Phật, chỉ đợi đến lúc cần hộ niệm thì hộ niệm sẽ được vãng sanh- đây là sự sai lầm quá lớn rồi. Hiện thời không tin sâu, nguyện thiết trì danh, lấy gì để đảm bảo đến lúc cần hộ niệm, được khai thị thì người đó sẽ buông xả, sẽ một lòng đi theo Phật? Người đời nay niệm Phật khó vãng sanh cái chính là không buông bỏ được. Vậy buông bằng cách nào vậy, trong đời sống hàng ngày buông mỗi ngày một ít, ý muốn mong về Tây tăng thêm một ít… cứ như vậy còn chưa chắc chắn; đợi đến lúc tu pháp hộ niệm, muốn buông là buông liền được sao, muốn về Tây Phương là về được sao. Nếu dễ như vậy, cần gì hành giả trốn đời, tu hành gian nan?
Có vị đại sư một đời tu hành, lúc Phật tiếp đón, thấy đài bạc, ông liền nói: cả đời con tu hành cực khổ, nguyện sao được đài vàng con mới về. Hai hôm sau Phật đem đài vàng đến ông mới chịu theo Phật.
Thế mới nói, thế gian này mọi sự đều có cái giá. Chúng ta cho rằng căn cơ người tu thời Mạt hạ liệt, không đủ sức đạt đến công phu nào, chỉ trông chờ vào việc hộ niệm để vãng sanh, song chưa có một vị Tổ Tịnh Tông chủ trương việc này cả. Các vị Tổ đều là Phật, Bồ Tát tái lai, các Ngài dạy chúng sanh niệm Phật không gì ngoài TÍN- NGUYỆN- HẠNH. TÍN là tin: tin có Tây Phương, tha lực tiếp dẫn của Phật A Di Đà và tin vào tự lực niệm Phật sẽ vãng sanh. NGUYỆN là thiết tha muốn được về, là buông bỏ việc thế gian. HẠNH: là đức trì danh không nghi ngại, không gián đoạn. Phật, Bồ Tát đã phân thân nhọc nhằn giáo hóa chúng sanh như vậy, chúng ta không nghe lời dạy mà làm khác đi, việc thành tựu là điều không thể có.
*Việc để lại thoại tướng đẹp: không chỉ có người niệm Phật mới có, cũng có rất nhiều người họ theo Thiên Chúa giáo, Cơ Đốc giáo…, khi chết gương mặt trắng hồng, toàn thân mềm mại, đỉnh đầu ấm… điều này chứng tỏ họ đã sanh Thiên. Thế nên Ân Sư Tịnh Không khẳng định: “Hộ niệm không chắc chắn vãng sanh”, vì nếu niệm Phật được sanh Thiên, người lâm chung cũng để lại tướng đẹp.
Tóm lại: Đối với người tu Tịnh nghiệp nói riêng, đừng trông chờ vào việc hộ niệm; chúng ta hãy đặt trong trường hợp không có Ban Hộ niệm đi, để từ bây giờ mà phấn đấu buông xả niệm Phật. Đại Đức Thích Giác Nhàn đã nói: “Hãy đặt mục tiêu ở bậc thượng phẩm thượng sanh mà hành, lỡ có sự xui rủi rớt xuống bậc Trung là vừa, mà xui quá rớt xuống bậc Hạ hoặc ở biên địa cõi Phật cũng chấp nhận được”. Còn đối với người lâm chung nói chung, mời được Ban Hộ niệm thì tốt rồi.
Vài dòng thẳng thắn, mong Tuệ Tâm hoan hỷ!
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính gửi cô Mỹ Diệp!
Dạ cháu cảm ơn cô đã chỉ dạy thêm ạ. Có lẽ do con nói không rõ nên khiến cô có chút hiểu lầm về pháp Hộ niệm niệm Phật vì chính pháp hộ niệm giúp người niệm Phật thực hiện những điều cô nói ạ: tăng trưởng Tín- Nguyện, tập buông xả vạn duyên…ngày ngày huân tu câu A Di Đà Phật. Pháp hộ niệm niệm Phật đã có từ thời đức Phật còn tại thế: Đức Phật hướng dẫn bà Vi Đề Hy, vua A Xà Thế… niệm Phật cầu vãng sanh TPCL, và các vị tổ sư (gần nhất là đại sư Ấn Quang) đều khuyến tấn, nhắc nhở các vị đồng tu nên kết nhóm cùng nhau tu hành, nhắc nhở nhau buông xả, tập làm người hiền, cùng niệm Phật cầu vãng sanh TPCL. Đó là hộ niệm ạ.
Vì đường tu của con non yếu, ngôn ngữ kém cỏi nên con không biết cách trình bày rõ ràng, mạch lạc, mong cô và các chư vị liên hữu hoan hỉ bỏ qua cho con ạ.
Nam mô A DI ĐÀ PHẬT!