Triệu Hùng từ lúc sinh ra đã chất phác phúc hậu, nhưng không được thông minh lanh lợi. Cha mẹ ông cho rằng người như ông chắc chỉ biết một ít chữ nghĩa mà thôi. Đối với những điển cố mà các vị tiên sinh giảng nói, Triệu Hùng không nhớ bao nhiêu, chỉ nhớ rõ ràng một câu chuyện thôi.
Chuyện kể rằng Vương Tằng có một người cha cả đời rất kính trọng con chữ, thường xuyên tích Đức làm việc thiện, một ngày nằm mộng thấy Khổng Tử nói với ông: “Ông cả đời kính trọng con chữ, tích đức làm việc thiện, âm đức to lớn, nay ban cho ông một đứa quý tử”. Quả nhiên chẳng bao lâu sau sinh ra Vương Tằng, lớn lên thi đỗ Tam Nguyên (đỗ đầu 3 kỳ thi liên tiếp trong chế độ khoa cử thời xưa).
Triệu Hùng nghĩ thầm: “Mình cả đời ngu dốt, hơn nữa cha mẹ mình cũng không quý trọng con chữ, không làm việc thiện tích Đức. Từ nay về sau mình nhất định cần phải làm nhiều việc thiện”. Quả nhiên thiện niệm thành kính sẽ có báo ứng, văn chương của ông càng lúc càng hay, hoàn toàn khác hẳn trước kia. Một ngày, Triệu Hùng muốn tới Lâm An thi cử, xung quanh có người cười nhạo, ông cũng không tranh luận gì.
Trên đường đi thi, một ngày nọ ông gặp trong rừng một bộ hài cốt nằm phơi trên mặt đất. Ông nghĩ đến chuyện Văn Vương thời Tây Chu gặp bộ xương khô liền mai táng. Thế là gọi người hầu mượn một cái cuốc, 2 người chủ tớ chôn cất bộ hài cốt ấy.
Sau khi thi xong, lúc yết bảng, Triệu Hùng đỗ cử nhân. Đến lúc thi Hội, thí sinh khắp cả nước ùn ùn kéo đến, Triệu Hùng nghĩ: “Trình độ của mình như thế đỗ cử nhân đã là may rồi, tham gia thi Hội làm gì?”. Không muốn tới trường thi, nhờ có người hầu một lòng khuyến khích mới miễn cưỡng đi thi. Đang trong lúc thi, bất ngờ người thí sinh ở sát vách đột nhiên phát bệnh, không ngừng kêu lớn, nhưng chỉ có Triệu Hùng vội vàng tới trấn an và chăm sóc. Xong rồi vội vã trở về làm bài, không ngờ vị quan giám khảo lại cho rằng bài thi rất có phong thái, vào ngày yết bảng thì kết quả đỗ khá cao. Vào ngày thi Đình, Triệu Hùng tự nhiên nhớ lại mấy bài văn sách trước kia từng đọc, văn chương cũng tuôn trào lai láng, cuối cùng thi đỗ thứ 5.
Tin tức truyền về tới quê nhà, cha mẹ và đồng hương đều giật mình, mọi người bàn luận với nhau, bảo rằng: “Xem ra văn chương của Triệu Hùng vốn là hay, chúng ta đều không nhận thấy. Ngày hôm nay đến đất kinh thành mới gặp người nhận ra tài năng đó”. Mọi người đều biết quan coi thi đều tuyển chọn người làm bài tốt, nhưng chẳng biết âm thầm đã có Thần linh quyết định, đó đều là do vận mệnh và Đức hạnh của người thí sinh mà ra.
Triệu Hùng đầu tiên nhậm chức Huyện úy, sau này thăng lên tới Thái thú Tây Thục. Biết quan tước của mình đều là từ Đức mà có được, ông chẳng hề dám làm một việc xấu ác nào, mà khiêm tốn xin người tài giỏi chỉ dạy, chọn dùng người hiền tài, không ăn hối lộ, dẫn người đi xây dựng đê điều, khiến cho trăm họ được an vui.
Ông ở quận Thục 5 năm, làm không biết bao nhiêu việc tốt cho trăm họ. Khi đó Hoàng đế Hiếu Tông trị vì rất nghiêm khắc, Tây Thục cách kinh thành không xa, muốn gọi Triệu Hùng tới gặp. Hiếu Tông trọng người có đức có tài, nhưng bất kể là người nhờ khoa cử hay nhờ Đức hạnh mà được tiến cử, Hiếu Tông đều muốn thử tài đối đáp, hoặc là hỏi chuyện Thánh hiền, hoặc hỏi những sự việc về học vấn từ cổ chí kim, nếu trả lời được mới cho nhậm chức.
Thời đó có một người tài hoa nổi tiếng tên là Chân Long Hữu được người ta tiến cử. Hiếu Tông cho gọi vào, hỏi: “Khanh tên là Long Hữu, có nghĩa như thế nào?”. Chân Long Hữu ngày thường thông minh hơn người, rất giỏi ăn nói, văn chương lai láng, nhưng lúc ấy tại điện Kim Loan không đáp được một câu nào. Hiếu Tông thấy ông ta không nói nửa lời, đành phải hỏi lại: “Khanh tên Long Hữu, chắc chắn là có ý nghĩa riêng, có thể trình bày ra”.
Chân Long Hữu làm thế nào cũng nghĩ không ra, cổ họng dường như cũng tắc nghẹn không nói được nên lời. Hiếu Tông hỏi cả 2 lần đều không hề thấy trả lời. Quan hầu 2 bên đồng loạt thúc giục, Chân Long Hữu vẫn không nói được. Hiếu Tông thấy một câu cũng không đáp nổi, bèn lệnh cho quan hầu đưa ông ta ra ngoài cửa.
Vừa mới bước ra khỏi cửa, Chân Long Hữu lập tức bừng tỉnh nghĩ ra ngay, miệng cũng không tắc nữa, chán nản hối hận nói: “Thần mong bệ hạ làm một vị minh quân như Nghiêu Thuấn, thần sẽ được cùng Quỳ, Long làm bạn hữu” (Quỳ là một con vật theo truyền thuyết, hình dạng giống như con rồng, chỉ có một chân). Một câu như thế có gì khó đáp đâu? Thật khiến cho người ta xấu hổ”. Không thể không tin là do vận mệnh xui khiến.
Triệu Hùng nhậm chức mãn hạn về kinh đô, thấy chuyện Chân Long Hữu đối đáp không thành, nghĩ thầm: “Chân Long Hữu là người tài hoa bậc nhất, hỏi 1 đáp 10, vậy mà trước mặt Hoàng đế một tiếng cũng nói không nên lời, còn mình ít học kém tài, ăn nói lại không linh lợi, bây giờ làm sao trả lời đây?”.
Mặc xong y phục chỉnh tề, thấy còn sớm quá, thế là nằm gục trên bàn ngủ thiếp đi. Trong cơn mơ một vị Thần hạ xuống, trên người choàng long bào, dây lưng bằng bạch ngọc, eo mang ngọc ấn, còn có hai tùy tùng theo sau, Triệu Hùng vội vàng vái chào. Vị Thần xưng là Văn Xương Đế Quân, nói: “Thượng Đế thấy ngươi kính trọng chữ viết, làm việc thiện tích Đức, làm quan thương dân, từ bi với loài vật, ngày hôm nay đặc biệt phù hộ cho ngươi. Ngươi vào triều, Hoàng đế sẽ hỏi: “Khanh từ Hiệp Trung đến ư? Phong cảnh như thế nào?”, ngươi chỉ cần đáp: “Lưỡng biên sơn mộc hợp,chung nhật tử quy đề” (Tạm dịch: Cây cối hai bên núi chụm lại, chim cuốc kêu hót suốt ngày).
Nói xong, cùng với 2 đồng tử cưỡi mây bay đi. Triệu Hùng bừng tỉnh, nhìn trời bái lạy, mơ hồ tưởng như là thật. Lúc vào triều, Triệu Hùng bái kiến, Hiếu Tông quả nhiên hỏi: “Khanh từ Hiệp Trung đến ư? Phong cảnh như thế nào?”. Triệu Hùng vội vàng đáp: “Lưỡng biên sơn mộc hợp,chung nhật tử quy đề”. Hiếu Tông nghe xong rất vui, gật đầu hài lòng mãi.
Sau đó, Hiếu Tông nói với Tể tướng Giang Ngọc Sơn: “Hôm qua Trưởng quận Thục tên là Triệu Hùng vào triều đối đáp, Trẫm hỏi xem Hiệp Trung phong cảnh như thế nào, ông ta tụng 2 câu thơ thể Đỗ mà đối, cảnh đẹp Tam Hiệp tựa như hiện ra trước mắt, có thể nói là giỏi ngôn từ thơ văn. Có thể cho nhậm chức quan Tự thừa, Tự bộ được”.
Uông Ngọc Sơn ra khỏi triều đến nói với Triệu Hùng: “Ông đối 2 câu thơ Đỗ ấy thật là hay, thật sự là tài trí thông minh linh lợi”. Triệu Hùng thế là đem chuyện vì mình trân trọng dân chúng, tích Đức làm việc thiện khiến Văn Xương Đế Quân cảm động và phù hộ nói hết cả ra.
Uông Ngọc Sơn nói: “Thì ra sự việc là như thế! Hôm nay Thánh thượng muốn cho ông làm quan Tự thừa, Tự bộ. Nếu ông làm chức quan ấy, thỉnh thoảng được triệu vào gặp Vua, nếu lại bị hỏi đối đáp, ông làm sao đối lại được. Hay là trở về quận Thục vậy”.
Triệu Hùng đồng ý. Ngày hôm sau, Uông Ngọc Sơn vào triều tâu: “Thần hôm qua đã truyền lời của Hoàng thượng, ông ta không muốn ở lại triều đình”. Hiếu Tông nói: “Người này điềm đạm từ chối như thế, chắc chắn là người có khả năng. Có thể cho ông ta làm quan Tiết hiến sứ”.
Thế là hạ lệnh phê chuẩn cho Triệu Hùng làm Tiết hiến sứ. Vài năm sau ông dần dần được thăng đến chức Tể tướng, Triệu Hùng vẫn nghĩ mình ít học kém tài, cứ liên tục từ chức Tể tướng. Hiếu Tông thấy thế càng không cho ông ta từ chức.
Một ngày, Triệu Hùng đang trên đường vào triều, gặp một vị Thái thú đang nói chuyện với các quan trông coi cửa thành. Các quan trông cửa thành hỏi vị Thái thú: “Ông làm sao lại mang cái họ kỳ quái như thế?”. Tức Thái thú đáp: “Thời Xuân Thu có người tên là Tức Quy, thời Hán có người tên là Tức Phu Cung, luôn luôn tồn tại họ Tức này, sao lại nói là kỳ quái?”.
Triệu Hùng ngẫu nhiên nghe được, bèn ghi nhớ trong lòng. Khi Tức Thái thú vào triều sau đó, ngay lúc Triệu Hùng đang tấu trình chính sự. Hiếu Tông hỏi: “Vừa mới có một quan Thái thú họ Tức vào triều, trên đời sao lại có họ quái dị này?”
Triệu Hùng liền tâu: “Thời Xuân Thu có người tên là Tức Quy, thời Hán có người tên là Tức Phu Cung, họ này đã có từ xưa tới nay, cũng không quái dị”. Hiếu Tông rất vui vẻ, nói: “Khanh học vấn uyên bác như thế, thật đúng là “Phong làm Tể tướng cần phải chọn dùng người chuyên đọc sách”.
Triệu Hùng bèn nói rõ chính mình cũng vừa mới nghe được, Hiếu Tông càng thích đức tính thành thật của ông. Từ đó về sau, những khi đối đáp, hoặc là có điều gì quan trọng, thì đều có những sự việc báo trước, không hề sai lệch. Triệu Hùng nhậm chức Tể tướng, thường xuyên nhắc nhở Hiếu Tông chớ quên chuyện nhục Tĩnh Khang. Ông đối xử khoan dung nhân hậu, rất hay tiến cử người tài đức, được người đời ngợi ca. Sau này lúc về già, từ quan rồi lâm chung, mọi người luôn cho rằng ông là người may mắn và hạnh phúc nhất thế gian.
Từ xưa tới nay những người hiểu rõ luật nhân quả, nhận thức được chân lý của mọi sự, luôn tin tưởng xem trọng hàng đầu Đức hạnh và việc Thiện, điều chỉnh cách hành xử của mình cho phù hợp với Đạo Trời. Vì thế cho nên, từ xưa tới nay việc người ta khuyên nhau làm việc thiện,coi trọng nghĩa mà xem thường lợi ích, khi người khác cần giúp đỡ thì giúp đỡ họ, dùng lòng từ bi mà đối đãi với tất cả sự vật, kết quả được đền bù, phúc đức quảng đại, người lương thiện được Trời phù hộ, Thần luôn giúp đỡ vậy.
Chân Tâm
Kính xin chư vị liên hữu hãy niệm Phật hồi hướng cho ni sư Hạnh Đoan được vãng sanh Tịnh Độ như ước nguyện của ni sư.
=============================================
VIẾT CHO NHAU LẦN CUỐI
(NI SƯ HẠNH ĐOAN VIẾT 3/3/2023)
Nghĩ tức cười, hồi nhỏ tới giờ tôi đọc kinh Phật nhiều, hiểu sát sinh là tội lớn, ăn mặn là không hay.
Cho nên càng hiểu càng tin thì con kiến cũng không dám giết.
Sợ ở ngoài đời, sợ lớn lên kết hôn khổ, dù mình không muốn sát sinh, nhưng nếu làm dâu sẽ bị nhà chồng ép giết chóc phục vụ giỗ quảy và phục vụ họ. Vậy thì đâu có gì sung sướng, sống mà tạo tội chồng tội. Thôi thì đi tu cho khoẻ, giải thoát nhiều cái khổ không đáng có.
Mười sáu tuổi tôi vào chùa tu, những tưởng vào chùa thoả mộng bình an không sát sinh.
Nhưng còn sát sinh hơn lúc ở đời.
Đang tu yên bình thì sau 75 tất cả người trẻ trong tu viện phải rời núi Chân Không ở Vũng Tàu để xuống khu rừng Viên Chiếu cách Long Thành 12 cây số để phá rừng khai hoang, trồng lúa tự túc kinh tế sống…
Khi phảng cỏ cuốc ruộng, côn trùng, rắn rít, ếch, nhái… chết đầy.
Ruộng gì mà phải mang giày binh mới bước đi được, vì đầy gai mây và cứng không thể tả.
Thời mùa màng thất thu sáng ăn khoai mì chiều khoai lang, trưa ăn độn với vài hạt cơm quý giá dính quanh củ khoai.
Tới lúc ăn cơm được ngày hai bữa, thì sáng ăn cơm với rau.
Rau quanh vườn quanh bờ đê đều được nhổ sạch để cung cấp cho 17 cái miệng hạm ăn tu sĩ trẻ. Mà người lớn nhất chỉ 28-29 và nhỏ nhất thì 16-17 tuổi cỡ tôi.
Ngày nào cũng phá rừng khai hoang, nhìn côn trùng chết vô số.
Tự dưng tôi hết còn yêu đời thiết sống, mặt lúc nào cũng buồn thỉu buồn thiu.
Chị Thuỷ thấy tội, mượn cái cốc đất cho tôi nhập thất, cho ở không tu tối ngày, chỉ có toạ thiền, lễ Phật, ăn một ngày một bữa, mỗi bữa một chén, cho đỡ tốn kém. Và thiên đường của tôi bắt đầu: Vì không còn chứng kiến cảnh các con vật phơi thây. Ngày ăn một chén cũng không sao, tuổi 25-26 còn trẻ nên kham được. Có điều tôi ốm nhom như bộ xương, bà con ai nhìn thấy cũng khóc, cứ sợ tôi chết. Trong khi lúc đó tôi cảm nhận mình thật khoẻ và sống dai nhách.
Buổi tối tiết kiệm nên không thắp đèn, một lít rưỡi dầu hôi xài cả năm chưa hết vẫn còn đầy, vì mồi nhang đốt cây đèn hột vịt xong là tắt. Cũng chẳng thấy mình khổ, cũng chẳng dám mơ ước thèm món gì ngon, do hiểu chị mình phải đu xe than đi giảng pháp, đoạn nào chạy bộ được thì ráng chạy bộ để té ra tiền xe ra mà mua gạo cho mình ăn.
Dẫn theo đứa em đi tu cực là vậy, nhưng chị cứ nguyện đời đời xin gặp nhau, hướng dẫn tôi cùng tu.
Còn tôi thì khổ quá cứ “nằm vạ” khiến chị phải lo toan mọi thứ. Vì từ lúc mẹ tôi mất, chị chỉ mới 13, chị lớn hơn tôi 9 tuổi, nhưng chị trở thành bà mẹ tí hon của tôi, chị bỏ tôi đâu có đành.
Dù tu nhưng tuổi 15-16 kinh nghiệm khổ chưa thấm nhiều, đến bây giờ thì tuổi tôi đã 64-65, chị cũng đã mất, kinh nghiệm khổ tôi cũng thấm tận xương tuỷ (nhờ từ bản thân tiếp thu và chứng kiến cảnh sống của người chung quanh).
Đức Phật của chúng ta thật thông minh, trí tuệ uyên bác, tuy còn trẻ mà ngài đã biết nhân gian luôn bị bốn cái khổ “Sinh, lão, bệnh, tử” hành, và ngài chủ trương xuất gia để giải thoát các khổ ấy.
Người không hiểu thì cho là ngài bi quan.
Tôi kiểm tra mình từ nhỏ tới giờ, không hề dám sát sinh, cũng chả từng liếc mắt đưa tình bóp nát tim ai.
Vậy mà về già khổ ập tới, không biết đường mà đỡ.
Giây phút cuối đời đối diện với bệnh khổ: Tim thì luôn bị bóp nghẹt khó thở, bước đi cảm giác như suýt té, sắp đột quỵ tới nơi, ăn gì vô cũng ói ra toàn máu lõng, ói cả nửa lít, miệng thì ói, mông thì máu lõng cũng tuôn ra theo đồng bộ.
Người ta nói là hội chứng xuất huyết bao tử, ung thư bao tử, ung thư ruột. Tim phổi gan thận gì cũng bịnh nặng ráo. Tay chân thì co rút, giở lên giở xuống cử động khó khăn. Danh giai nhân người ta thường gán cho tôi giờ đổi thành “con cò ma” hay “con quỷ già” thì đúng hơn.
Nhiều đêm nằm, tức mình ngẫm nghĩ: Mình từ nhỏ tới lớn không làm gì ác, rất kiêng cử sát sinh, còn viết dịch sách khuyên người tin sâu nhân quả, siêng tu theo Phật kiêng cử tạo ác.
Vậy mà sao cuối đời bị trả báo thảm dữ vậy?
Bây giờ, sống mà húp nước lã nước cháo cầu được bình an cũng là khó. Hễ ho một chập là ói tuôn máu ra. Do vậy ăn uống phải dè chừng, dù húp nước lã cũng dè chừng, chỉ cầu được bình an, thầm hiểu ngày tàn của mình đã tới: chờ hết dương thọ thì ly trần.
Bạn nhìn mặt tôi đi, trông xinh xắn hen, dịu hiền hen, ngay hiện đời cũng đâu tạo ác nhiều? Vậy mà sao cuối đời thọ báo thê thảm quá?
Tôi nhớ bài “THÁNG SÁU TUYẾT RƠI” mình dịch, bà Trương hiện đời là con hiếu thảo, là người cực tốt, nhưng kiếp trước là tham quan, giết oan người vô tội, nên oan gia đời đời theo báo không tha.
Còn chuyện “CÔNG CHÚA THĂNG HOA”, kiếp làm con vua nàng giựt chồng người, giết tình địch, giết luôn mười mấy cung nữ để bịt miệng.
Vậy mà sang kiếp sau làm con thường dân, nàng hiền thiện và rất kiêng cử sát sinh, thấy chồng định giết cua ăn, nàng hết lòng cầu Phật trời gia hộ cho con cua không bị giết, cuối cùng tâm lành đó cũng cảm hoá được chồng.
Tôi là người rất có gu ẩm thực, dù ăn rau nước chấm cũng phải làm thật ngon. Thật tuyệt đỉnh.
Chúng tôi thừa hưởng tài nấu bếp của mẹ ruột.
Ba tôi thường ca ngợi tài nấu nướng của mẹ tôi, rằng bà nấu chay rất khéo, vỏ bí vỏ bầu mà qua tay bà chế biến, cũng trở thành món ăn ngon thượng hạng, lạ miệng, ăn một lần là nhớ hoài.
Mẹ tôi rất kiêng cử sát sinh, nhưng bà vẫn chết trong đau đớn, toàn bộ nội tạng đều tổn thương vô phương cứu.
Bà lìa đời ở tuổi 39, rất trẻ, điều an ủi nhất là các con đều biết bà về cõi lành, chị Thuỷ tụng kinh Địa Tạng cầu cho mẹ suốt 49 ngày và được báo mộng bà đã sinh về cõi Tứ Thiên Vương.
Còn tôi, hiện đời luôn kiêng cử không giết con gì, nhưng ai biết được quá khứ ác nghiệp tôi đã tạo thế nào? Chắc là bằng non? Nên bây giờ đến lúc oan gia báo thì chỉ có kham nhẫn, chịu đựng để chuộc tội.
Oan gia thuộc âm nên họ báo giờ âm. Tức là từ giờ âm trở đi, tim tôi luôn bị bóp nghẹt không thở được, cảm giác như sắp dừng thở. Còn bao tử ruột thì cảm giác như bị ai cầm dao lóc nạo, đau tột cùng.
Đây là ác nghiệp tiền kiếp đang trổ, đây là lúc oan gia báo thù, chỉ có đành chịu, cho họ vui và mình được chuộc lỗi.
Dù trước khi bịnh đổ, tôi có phóng sinh nhiều, sám hối, tụng kinh trì chú nhiều, nhưng hiện thời trả quả vậy, tôi nghĩ là vẫn nhẹ.
Hồi còn khoẻ thỉnh thoảng tôi hay lên YouTube xem mục ẩm thực, thấy cảnh vợ chồng khoe họ sống hạnh phúc, đãi nhau cua hoàng đế, tôm hùm, vi cá, bào ngư, bít tết… cùng thưởng thức ẩm thực thượng đẳng, cùng đút nhau ăn, cười tươi hạnh phúc rạng rỡ…
Hoặc khi tôi xem sơ các vua bếp, chủ tiệm nhà hàng, quảng cáo cách giết vật để ăn, khoe món ngon vật lạ ở tiệm mình, cổ suý, mời mọc khách ghé ăn…
Những YouTube này khiến tôi đau lòng nhiều.
Trong hiện đời, tôi chưa từng cắt cổ đập đầu, đâm họng con gì, chưa từng thảm sát vật để ăn, vậy mà giờ phút cuối đời, đêm nghe tim mình như bị bóp nghẹt không cho thở. Nội tạng như bị nạo bị cào, thống khổ oằn oại… Tất cả đều là ác nghiệp tiền khiên tôi từng tạo, nên giờ phải thọ báo…
Bà Trương, Công chúa Thăng Hoa, dù hiện kiếp hiền, nhưng tiền kiếp sống đại ác nên vẫn phải trả ác quả.
Viết bài này tôi muốn nói điều gì? Tôi muốn nhắn nhủ bạn đọc HÃY CẨN THẬN ĐỪNG TẠO ÁC MÀ HÃY CHUYÊN HÀNH THIỆN.
Nếu bây giờ tôi được diễm phúc ra đi bình an, tôi chỉ cầu được sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc, Phẩm thấp nhất cũng được, tôi sẽ ráng tu cho thành rồi quay trở lại Ta bà hoá độ chúng sinh. (Độ những người mình từng có lỗi để chuộc tội, độ những người ân nghĩa để đền đáp và nguyện đem hết thân tâm này hoằng pháp, cứu độ tất cả chúng sinh để họ được thoát khổ.
Tôn chỉ của tôi là: hướng dẫn người hiểu nhân quả, tuân hành pháp Phật, dứt ác hành thiện, cầu sinh Tây Phương, tinh tấn tu để thoát khổ đau.
Dù trở lại thế gian này, tôi có sướng như tiên, có được hưởng ngũ dục thế gian thoả thích tôi cũng không màng. Tôichỉ mong độ được chúng sinh thoát khổ mà thôi.
Nếu bạn thương tôi, thấu hiểu lòng tôi, thì xin hãy ban cho tôi lời chúc lành.
Xin đồng cầu nguyện cho tôi sớm xả thân bình an, sinh về Tây Phương tu thành, rồi hoàn phục ta bà cứu độ hết chúng sinh.
Tôi sẽ vô vàn mang ân bạn. Mong chư vị thiện hữu từng thương tôi sẽ gởi cho tôi lời cầu nguyện lành mà tôi đang khát khao này!
Xin đầu thành kính lễ và chân thành cảm ơn chư vị!
Hạnh Đoan kính bút
Fb (Luu Lần Cuối) 3/3/2023
———————————
Con cũng đồng kính xin chư vị 🙏🙇🏻♂️🙏🙇🏻♂️🙏🙇🏻♂️ cùng : cầu nguyện cho Đức Ni Sư Hạnh Đoan .
Thế danh : Nguyễn Tú Loan sinh năm : 1959 ,tuổi kỷ hợi 65 tuổi.
Cầu Ni Sư hết dương thọ thì ra đi an lành,sinh về Tây Phương Cực Lạc tu hành,rồi hoàn phục ta bà cứu độ hết chúng sinh 🙏🙇🏻♂️🙏🙇🏻♂️🙏🙇🏻♂️ ạ
Kính xin quý vị một lần đồng cùng chia sẻ ạ
———————————
Nam Mô A Di Đà Phật 🙏🙏🙏
Ni Sư Hạnh Đoan có công rất lớn trong dịch thuật sách chuyện nhân quả cho người đọc. Nhờ Ni Sư mà rất nhiều người tin sâu nhân quả, có duyên với Phật pháp, công đức của Ni Sư báo ơn Phật, gieo duyên với chúng sanh không thể nghĩ bàn qua 7 tập sách Báo Ứng Hiện Đời và nhiều bộ sách khác. Ni Sư không chuyên viết nhạc nhưng Ni Sư đã viết hơn 40 tác phẩm nhạc Phật rất hay và ý nghĩa. Hy vọng quý vị cùng tri ân cầu nguyện Ni Sư được an lành vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Với công đức của Ni Sư phẩm vị sẽ lớn, Ni Sư chỉ nói mong phẩm vị thấp nhất cũng được là Ni Sư khiêm nhường mà thôi.
Trích từ FB Ngọc Dung: https://www.facebook.com/groups/1476695055779815/user/100006231373931/
Ni sư Thích nữ Hạnh Đoan thuận tịch
Theo thông tin Báo Giác Ngộ, Ni sư Thích nữ Hạnh Đoan, Ni chúng thiền viện Viên Chiếu, dịch giả của nhiều tác phẩm Phật giáo được xuất bản trong nước, từng cộng tác với toà soạn, do bệnh duyên đã thuận tịch ngày 22-5-2023.
Ni sư Thích nữ Hạnh Đoan, thế danh Nguyễn Tú Loan, sinh năm 1959, thuận tịch vào lúc 18 giờ 15 phút ngày 22-5 (4-4-Quý Mão); trụ thế: 65 năm, 42 hạ lạp.
Lễ nhập kim quan được cử hành vào lúc 3 giờ ngày 23-5-2023 (5-4-Quý Mão). Kim quan được an trí tại thiền viện Viên Chiếu (Ấp 2, xã Phước Bình, H.Long Thành, Đồng Nai).
Lễ viếng bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày 23-5-2023 (5-4-Quý Mão).
Lễ di quan được cử hành vào lúc 7 giờ ngày 25-5-2023 (7-4-Quý Mão), sau đó trà-tỳ tại Nhà hỏa táng Hòa Lạc Viên (Ấp 1, xã Tân Hiệp, H.Long Thành, tỉnh Đồng Nai).
Sinh thời, Ni sư Thích nữ Hạnh Đoan đã biên dịch các sách như: Chuyện người xưa (Nguyên tác: Cổ sự đồ thuyết); Nghĩa tình trân quý, Cho người niềm vui, Tâm tình chia sẻ của Đại sư Tinh Vân; Báo ứng hiện đời (nhiều tác giả), và là tác giả của nhiều tuyển tập truyện ngắn: Trên đỉnh thái sơn, Chút hương ngày cũ, Kể cho nhau nghe,…
T.Trúc/Báo Giác Ngộ