Trong Phật pháp, sự lựa chọn pháp môn tu học rất quan trọng, nếu chọn pháp môn không phù hợp với căn cơ, ắt sẽ rất khó khăn trong việc hành trì, không những không mang lại kết quả như ý nguyện mà có khi còn khiến cho thân tâm sanh ra chướng ngại.
Đối với những Phật tử tại gia, nhất thời đã chọn cho mình một pháp môn, nhưng chưa thông hiểu nghĩa lý sâu xa của pháp môn mình đang tu học, nhận thức về tông chỉ pháp môn cũng như phương cách hành trì một cách hời hợt, hoặc tu theo sở thích, tu theo cảm tính, tu trong tư kiến cố chấp với tầm nhìn giới hạn… Chính vì vậy mà sự tu học không mang lại kết quả, dẫn đến sự chây lười, chán nản.
Khi đã khẳng định cho mình một pháp môn tu phù hợp và thích nghi với điều kiện sống của bản thân, điều quan trọng trước tiên là Phật tử phải để tâm học tập sao cho thực sự thâm nhập yếu chỉ pháp môn một cách tường tận, rốt ráo. Vì đây là chiếc chìa khóa để mở toang cánh cửa hành trì, để thảnh thơi bước vào ngôi nhà Phật pháp, khoan thai bước lên nấc thang giác ngộ, ung dung tự tin tự cởi trói mọi ràng buộc khổ đau, tiến đến vượt thốt khỏi luân hồi sanh tử. Sự học tập này rất là cần thiết vì nó phá tan mọi cố chấp theo tư kiến hẹp hòi vốn tiềm ẩn trong mỗi chúng ta, hơn nữa sự thâm nhập pháp môn tu là vô cùng quan trọng cho cả cuộc đời học đạo.
Đức Phật ra đời như một lương y tài ba, tùy bệnh chúng sanh mà cho thuốc. Chúng ta phải biết bệnh trạng của chính mình mà chọn phương thuốc sao cho phù hợp. Phật pháp mênh mông vô tận, chúng ta nên chọn cho mình một pháp môn tu sao cho hợp với căn cơ và thích nghi với điều kiện và hồn cảnh sống của mình. Thật ra không có thuốc nào quí hơn thuốc nào, cũng như không có pháp môn nào cao hơn pháp môn nào cả. Tám vạn bốn ngàn pháp môn của Phật đề ra đều là phương tiện nhằm chữa trị tâm bệnh của chúng sanh. Mục đích chính là giúp chúng sanh nhận ra bổn tâm thanh tịnh của chính mình. Nếu chúng sanh thâm tín, nương theo tinh tấn tu hành, kiên định nơi một pháp vẫn có thể nhân đó giải thốt luân hồi sanh tử. Tuy nhiên có người lại nghĩ, tất cả pháp môn của Phật chỉ dạy đều vi diệu như nhau, đều thiết thực và mang lại lợi ích lớn cho chúng sanh, nên đều có thể sử dụng làm phương tiện tu học được cả. Lại nhận định, không phương tiện nào quí hơn phương tiện nào, tất cả đều cùng mục đích là giải thốt luân hồi sanh tử, nên tranh thủ tìm hiểu nhiều pháp môn càng tốt.
Do nhận thức sai lầm như vậy nên cùng một lúc tu nhiều pháp môn, điều này dẫn đến việc loạn tâm loạn niệm, trong nhà Thiền gọi trường hợp này là “tẩu hoả”. Đây là điều tối kỵ đối với những ai hướng về chánh pháp tu hành giải thốt. Vì sao vậy? Thật ra việc sử dụng một lúc nhiều phương tiện hay hành trì một lúc nhiều pháp môn, nó cũng giống như ăn cùng một lúc quá nhiều đồ ăn, điều này sẽ dẫn đến tình trạng bội thực, khó tiêu, no hơi, sình bụng.
Điều đặc biệt quan trọng cho việc tu tập của chúng ta là nên chọn một pháp môn, phải thông hiểu pháp môn mình đang hành trì và nương theo khả năng cũng như sức lực cho phép để việc hành trì được lâu dài kiên cố. Chúng ta đừng nên ăn quá nhiều đồ ăn mà chúng ta chưa từng hiểu cặn kẽ những món mà chúng ta sắp sữa cho vào bao tử, chúng ta cũng không nên ăn vội, ăn ẩu, không nên đụng đâu ăn đó, vì ăn như vậy nó sẽ trở nên vô bổ, phản tác dụng. Cũng vậy, chúng ta đừng thấy ai đó tu Thiền rồi bắt chước tu Thiền, đừng thấy người khác tu Tịnh Độ cũng quay sang tu theo Tịnh Độ mà không biết căn cơ mình phù hợp, thích ứng với pháp môn nào?
Trên thực tế đời sống hằng ngày, đối với thân xác, đối với lục phủ ngũ tạng của mình, ít ra chúng ta phải hiểu rõ nó thích ứng với điều kiện nhiệt độ nào để mặc thêm áo ấm, hay phải đi tắm để giải nhiệt. Tại sao cơ địa chúng ta chỉ thèm ăn cơm mà không chịu ăn bánh mì thường xuyên như người phương Tây? Chúng ta phải ý thức rằng, đó là vì bộ phận tiêu hóa của chúng ta chỉ dễ dàng tiêu hóa cơm mà không dễ thích ứng thường xuyên với các món ăn được chế biến từ các loại tinh bột. Tinh thần hoặc tánh khí chúng ta cũng vậy, có người kiên trì nhẫn nại, có người nóng nảy, vội vàng, có người nhanh, kẻ chậm. Thế thì việc chọn pháp môn tu học cũng vậy, chúng ta chỉ có thể chọn cho mình một pháp môn phù hợp với căn cơ của mình, vì nếu chọn sai, hẳn nhiên là dẫn đến việc tu tập nhiều năm mà không đem lại kết quả. Trên sự tìm hiểu, nghiên cứu, học tập có thể chúng ta đã tiếp thu nhiều, nhưng chưa chắc chúng ta đã hiểu nhiều, nếu đã hiểu cả rồi cũng chưa hẳn chúng ta đã nhận thức đúng và dễ dàng thực hiện được (dù rất muốn). Hiểu và làm đúng như điều mình hiểu là hai vấn đề khác nhau. Cũng như chúng ta ăn nhiều, uống nhiều nhưng chúng ta có tiêu hóa được hay không rõ ràng là hai vấn đề khác nhau. Trong việc tu hành, chúng ta cần phải lưu ý vấn đề này.
Đức Phật như đại lương y kê toa thuốc theo từng con bệnh. Đức Phật có nhiều loại thuốc và trong tam tạng kinh điển đức Phật luôn nói rõ tác dụng của từng phương tiện, phần chúng ta là con bệnh, trước hết chúng ta phải biết mình bệnh tình ra sao, sau đó mới tuỳ bệnh mà nhận thuốc, việc này không ai có thể làm thay chúng ta được.
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thử nhận định, củ nhân sâm quý hay cái lá mùn quý? Trên thương trường rõ ràng là củ nhân sâm đắt giá hơn gấp trăm ngàn lần so với mấy cái lá mùn. Dù chênh lệch về giá cả như vậy, thế nhưng khi sử dụng thì không có loại nào quý hơn loại nào cả? Vì sao vậy? Vì một người trai trẻ sung sức đang bị táo bón mà dùng củ nhân sâm quả là không phù hợp, nếu không muốn nói là vô bổ, thậm chí nguy hiểm vì nhân sâm tuy bổ nhưng rất nóng (không hợp với người đang táo bón). Trong trường hợp này, thì mấy cái lá mùn tuy rẽ tlền kia lại vô cùng đắc dụng đối với chàng trai trẻ. Như vậy, rõ ràng là củ nhân sâm đại bổ và mấy cái lá mùn trị táo bón đều cùng giá trị như nhau trong việc duy trì sức khỏe của con người. Điều quan trọng là chúng ta phải biết cơ địa mình đang cần thiết đến loại thuốc nào chứ không phải nhắm vào loại quí giá hơn để chọn.
Trích từ sách Chân Thật Niệm Phật Cực Lạc Hiện Tiền
Thích Thiện Phụng
Có vị thầy dạy con phương pháp tu tâm là dứt trừ lòng tham. Hễ tâm động là do lòng tham, ngôn ngữ thường đứt đoạn. Con không có khả năng hiểu rõ, xin thầy khai thị cho chúng con với 1 ví dụ cũng được.
A Di Đà Phật
Đời ngũ trược ác thế, con người có 5 tham: tham tài, tham sắc, tham danh, tham thực, tham thùy.
Thấy cô gái đẹp đi qua, mắt vội liếc nhìn theo. Rõ ràng tâm động vì tham sắc.
Hay được người ta cho 200 ngàn, tự nhiên thấy vui mừng, lúc này tâm động vì tham tiền vậy.
A Di Đà Phật
A Di Đà Phật.
Tham danh & tham sắc = người tu hành khó vượt qua hai cái cửa ái này. Dứt trừ lòng tham thì chắc là không dễ gì đâu.
Mỹ Diệp: “Thấy cô gái đẹp đi qua, mắt vội liếc nhìn theo. Rõ ràng tâm động vì tham sắc.”
Không liếc nhìn theo mà tâm vẫn lưu luyến thấy hình ảnh cô gái đẹp đi qua mới chết đó chứ. Thật ra tâm động gốc là ở chỗ còn tập khí kiết sử phân biệt nam và nữ đó thôi.
Một cô gái xinh đẹp đi lướt qua tâm mình có thể không động liếc theo (thô), nhưng chưa chắc sẽ không lay động khi có duyên đứng gần nhìn nhau nói chuyện qua lại. Chủng tử vi tế phân biệt đủ duyên nó sẽ khởi lên lúc đó chỉ có hành giả tu hành mới biết. Chỉ có các vị Đại Sĩ Bồ Tát chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn mới thật sự không bị pháp trần lay động tâm.
——————————-
KINH DUY-MA-CẬT
PHẨM QUÁN CHÚNG SANH (7)
Bấy giờ trong nhà ông Duy Ma Cật có một Thiên nữ thấy các vị trời, người đến nghe pháp, liền hiện thân ra tung rải hoa trời trên mình các vị Bồ Tát và Đại đệ tử. Khi hoa đến mình các vị Bồ Tát đều rơi hết, đến các vị Đại đệ tử đều mắc lại. Các vị Đại đệ tử dùng hết thần lực phủi hoa mà hoa cũng không rớt.
Lúc ấy, Thiên nữ hỏi Ngài Xá Lợi Phất :
– Tự sao mà phủi hoa ?
Xá Lợi Phất nói :
– Hoa này không như pháp nên phủi.
– Chớ bảo hoa này là không như pháp. Vì sao ? Hoa này nó không có phân biệt, tự Nhân giả phân biệt đó thôi ! Nếu người xuất gia ở trong Phật pháp có phân biệt là không như pháp, nếu không phân biệt là như pháp. Đấy, xem các vị Bồ Tát, hoa có dính đâu ? Vì đã đoạn hết tưởng phân biệt. Ví như người lúc hồi hộp sợ, thời phi nhơn mới thừa cơ hại đặng. Như thế, các vị Đại đệ tử vì sợ sanh tử nên sắc thinh, hương, vị, xúc mới thừa cơ được, còn người đã lìa được sự sợ sệt thì tất cả năm món dục không làm chi đặng. Do tập khí kiết sử chưa dứt hết nên hoa mới mắc nơi thân thôi, còn người kiết tập[15] hết rồi, hoa không mắc được.
[15] Kiết tập : Tập khí phiền não kiết sử.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật
Thời Tượng Pháp đã qua gần 3000 năm, không còn tập khí kiết sử là đã đoạn hết các tướng hải vi trần, nhìn thấy được bản thể của vũ trụ. Thời mạt Pháp nhắc đến không khác chi là đem hạt giống gieo ở sa mạc, chỉ là xả ly, xả ly được ngũ dục lục trần mà một lòng chuyên niệm.
Cũng nên tùy hoàn cảnh mà lấy tỉ dụ hòng giúp cho người hiểu vấn đề căn bản, thiết thực.
A Di Đà Phật
Nhưng làm sao biết đc mình có căn tu Thiền hay tu Tịnh ạ ?
Để chọn cho mình một pháp môn tu phù hợp với căn cơ.
Nam mô A DI ĐÀ PHẬT.
A Di Đà Phật
Mục đích chính tu hành là phải có thành tựu,ít nhất cũng phải thoát khỏi tam giới,thoát khỏi sanh tử mới gọi là có thành tựu.Cho dù có sanh lên trời đi nữa thì vẫn là phàm phu,chỉ khác chúng ta là họ có phước báo hơn chúng ta,họ được gọi là phàm phu cao cấp,rốt ráo là họ vẫn trôi lăn trong sanh tử,nên chẳng gọi đó là thành tựu được.
-Cho nên tu hành phải chọn môn tu dễ thành tựu nhất,chứ không nhất thiết là phải chọn theo căn tu.
-Cho dù bạn có căn tu thiền đi chăng nữa thì vẫn chưa đủ,bởi vì tu thiền rất khó,muốn thành tựu thì cái căn tu ấy phải ở mức thượng mà phải là thượng thượng căn mới thành tựu được,thượng trung căn,thượng hạ căn trong 1 đời chẳng thành tựu được,còn trung căn,hạ căn thì tuyệt phần,chẳng có phần thành tựu.Nếu không tin,bạn có thể đọc phần 50 ngũ ấm ma phần cuối kinh lăng nghiêm,toàn là những vị tu hành cao mà cuối cùng vẫn bị ngũ ấm ma mê hoặc,cuối cùng vẫn là trôi lăn trong sanh tử
-Còn tu Tịnh Độ thì không kén chọn như tu thiền,nói thật ra cho dù bạn chẳng có căn tu thì vẫn tu được chỉ cần bạn tin Phật,niệm Phật là được.Thượng,trung,hạ đều tu được đều thành tựu.Cho nên bất cứ ai cũng có căn tu Tịnh nhưng thiền thì không phải như vậy.Căn tu Tịnh ai cũng có,vấn đề là có chịu tin hay không.
-Chúng ta không biết chọn pháp môn nào.Phật Thích Ca thật từ bi đã chọn hộ cho chúng ta.Trong kinh Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng Phật có nói rằng:Thời Mạt Pháp ức ức người tu hành hiếm có người đắc đạo. Duy chỉ có pháp môn Niệm Phật A Di Đà mà ra khỏi luân hồi.
-Chúng ta phải học Phật thì phải tin Phật.Phật đã nói như thế rồi,thì chúng ta hãy chọn tu Tịnh đi.
Bạn đọc thêm lời khai thị của hòa thượng Tịnh Không nhé.
5. Vấn đề thứ năm, câu hỏi “Trong xã hội hiện đại, mật tông, thiền tông đều rất thịnh hành. Mật tông thì nói ‘tức thân thành Phật’, thiền tông lại nói ‘minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật’, vậy rốt cuộc việc thành Phật là như thế nào”?
Chữ “Phật” là từ âm tiếng Phạn Ấn Độ mà dịch ra, kỳ thật chữ này có thể đem dịch sang Trung văn, nhưng tại sao lại không dịch? Vì trong trung tâm dịch kinh thời xưa quan niệm có năm loại không dịch. Từ này thuộc về lòng tôn kính nên không dịch. Chỉ có thể dịch âm, ý nghĩa là trí tuệ, giác ngộ. Tuy nhiên hàm ý trong danh từ “Phật” vượt ra ngoài lý giải của chúng ta. Trí tuệ của ngài là trí tuệ viên mãn, giác ngộ của ngài là triệt để giác ngộ. Nói cách khác, đối với cả vũ trụ nhân sinh, thậm chí đến quá khứ vị lai, chân thật không gì không biết, không gì không giác. Phải đạt đến cảnh giới như vậy mới gọi là thành Phật.
Nếu các vị hiểu rõ hàm ý của chữ Phật này thì liền biết “tức thân thành Phật” của mật tông có thể thành được hay không? Ngay trong đời hiện tại, hoặc trong thời gian tu học ngắn ngủi của bạn, bạn có thể tường tận thông suốt được chân tướng của vũ trụ nhân sinh hay không? không hề tường tận là không thể thành Phật. Lời nói của thiền tông so với “tức thân thành Phật” của mật tông, tôi cảm thấy ý nói tiến bộ thêm một chút. Vì nó có điều kiện, điều kiện là minh tâm kiến tánh, kiến tánh mới thành Phật. Ai có thể đạt đến được minh tâm? . Do đây mà biết, tâm chúng ta không minh, hiện tại tâm này bị mê hoặc. Yêu cầu tu học của thiền tông là phá trừ mê hoặc, hồi phục tự tánh. Khi mê, Phật pháp gọi là “tâm”, khi giác ngộ thì gọi là “tánh”. Các vị phải biết “tâm” cùng “tánh” là một thể. Nếu tâm sáng suốt thì gọi là bổn tánh, nhà Phật gọi là “chân như”. Lúc nào bạn đã kiến tánh, minh tâm thì lúc đó gọi bạn là Phật, bạn không còn là phàm phu nữa. Khác biệt giữa phàm phu và Phật ở chỗ này. Phàm phu chúng ta phải mặc áo ăn cơm, Phật Bồ tát cũng mặc áo ăn cơm; phàm phu chúng ta có công việc, Phật Bồ tát mỗi ngày cũng làm việc, trên sự tướng thì không hề khác nhau, khác biệt chính là cảnh giới. Họ có trí tuệ chân thật, chân thật không gì không biết, không gì không thể. Nếu chúng ta hiểu rõ thì liền hiểu được hai câu nói này.
Tuy trong kinh luận, trong chú sớ của đại đức xưa có, nhưng trên thực tế thì tuyệt đối không phải người thông thường có thể làm được. Nói đến “tức thân thành Phật” của mật tông, trong Văn Sao của Ấn Quang đại sư đã nói rất rõ ràng, chúng ta không cần phải bàn nhiều. Trước khi lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ vãng sanh không lâu, tôi có gặp ông, ông cũng là truyền nhân của mật tông, bản thân ông là Kim Cang Thượng sư. Ông rất thành thật nói với tôi: “vào thời đại này, căn cơ để học mật đã không còn nữa”, nói cách khác, học mật nếu muốn ngay đời này thành tựu thì không thể tìm ra. Mật tông không thể thành tựu, thiền tông cũng rất khó tương tự. Kinh Đại Tập, Phật nói: “Thời kỳ mạt pháp chỉ có pháp môn tịnh độ đới nghiệp vãng sanh”, pháp này dễ dàng thành tựu, hơn nữa còn thành tựu ổn định. Chúng ta tuân theo lời giáo huấn của Phật Thích Ca Mâu Ni chính là học sinh tốt của Phật, chăm chỉ nỗ lực niệm Phật, y theo ba kinh một luận của tịnh độ mà tu tập, tương lai nhất định có kết quả tốt đẹp.
Từ xưa đến nay, niệm Phật vãng sanh đã có rất nhiều tướng lạ không thể nghĩ bàn. Những người này biểu hiện rõ ràng để chúng ta xem. Mật tông “tức thân thành Phật”, chúng ta chưa hề thấy qua, cũng không hề nghe nói. Lão cư sĩ Hòang Niệm Tổ cũng không dám nói mình “tức thân thành Phật”. Lão pháp sư Đàm Hư sống đến hơn chín mươi tuổi mới vãng sanh. Sinh tiền ông nói với người rằng ông gặp qua rất nhiều vị thiện tri thức của thiền tông, gặp qua người có được thiền định, nhưng chưa gặp qua người khai ngộ, cũng chính là người “minh tâm kiến tánh”. Không những không thấy qua mà còn không hề nghe nói. Do đây có thể biết, mật và thiền rất khó, tuyệt đối không phải người thông thường có thể thành tựu.
Đại sư tổ thứ sáu thiền tông nói rất hay, đối tượng mà ngài tiếp dẫn là người thượng thượng căn. Chúng ta tự nghĩ xem mình có căn khí thượng thượng căn hay không?. Thế nào gọi là thượng thượng căn? phiền não nhẹ, trí tuệ lớn. Nói cách khác, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước rất ít; sáu căn thông lợi, mắt vừa thấy, tai vừa nghe, thân vừa tiếp xúc liền thông đạt, liền thông suốt, hơn nữa không có sai lầm. Căn tánh như vậy mới xem là người thượng thượng căn, bạn mới có duyên phận tiếp nhận tu học pháp môn này.
Điều kiện của mật tông thì cao hơn. Trong kinh đại thừa, mật tông nói “tức thân thành Phật”, lời nói này cũng không phải giả, học Phật không học mật nhất định không thể thành Phật, có thể thấy được mật rất quan trọng. Mật không phải là bí mật, Phật pháp không có bí mật. Phàm có bí mật, thì đó không phải là việc tốt, tại sao? vì không thể nói với người thì sao là việc tốt được. Phật pháp nói cái mật này là thâm mật, không phải thiển trí, không phải người huệ ít mà có thể lãnh ngộ, cho nên gọi nó là mật. Vậy lúc nào mới có thể chính thức bắt đầu học mật?, pháp đại thừa nói, khi thành Bát Địa Bồ Tát. Liệu bạn đang là Bồ tát địa thứ mấy? Bồ Tát Bát Địa chính thức học mật vì họ đã chứng được bất động địa.
Thông thường chúng ta nói tu hành thành Phật cần phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp, người hiện đại gọi con số này là con số thiên văn, không phải tính từ hiện tại, cũng không tính từ đời đời kiếp kiếp trong quá khứ của chúng ta, mà tính từ ngày bạn phá được nhất phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh. Rõ ràng hơn, nếu bạn đoạn kiến tư phiền não, siêu việt sáu cõi luân hồi, chứng được quả A La Hán, đã là rất tốt, vậy cũng không tính. Bạn có thể tiến thêm một bước, phá trần sa vô minh siêu việt mười pháp giới, vẫn chưa tính. Cần phải tiến thêm một bước nữa, phá nhất phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân, lúc đó bắt đầu tính từ ngày này, thực tế chính là bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ mà kinh Hoa Nghiêm đã nói. Ba a tăng kỳ kiếp là nói đối với họ, không phải nói với chúng ta, chúng ta không có phần.
Một a tăng kỳ kiếp tu mãn ba mươi ngôi thứ, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, đây là Viên Giáo. A tăng kỳ kiếp thứ hai tu mãn bảy ngôi thứ, từ sơ địa đến thất địa. A tăng kỳ kiếp thứ ba tu mãn ba ngôi thứ, bát địa, cửu địa, thập địa, càng lên cao, càng khó khăn. Vậy Bồ tát Bát Địa, việc tu hành của họ đã tiến vào thời kỳ đầu của ba a tăng kỳ kiếp, lúc này họ mới chính thức học mật, làm gì có phần của chúng ta. Không thể nói truyền cho bạn mấy câu chú, ngày ngày trì chú, học vài thủ ấn thì gọi là học mật. Đó chỉ là hình thức của mật, không phải thật. Những thường thức này chúng ta nhất định phải hiểu, về sau mới không sanh ra quan niệm sai lầm.
A Di Đà Phật
A Di Đà Phật.
Thánh Đạo Môn – Tịnh Độ Môn
Ngài Đạo Xước thiền sư thiết lập hai môn Thánh Đạo và Tịnh Độ, sau đó đã xả bỏ Thánh Đạo Môn mà quay về Tịnh Độ Môn.
An Lạc Tập quyển thượng nói: “Hỏi: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, từ xưa đến nay, ắt đã gặp nhiều Đức Phật, thế nhưng tại sao vẫn luân hồi sinh tử, chưa được ra khỏi nhà lửa? Trả lời: Y vào thánh giáo Đại thừa mà nói, lý do là vì chúng sinh không được hai pháp thù thắng để diệt trừ sinh tử, cho nên không thể ra khỏi nhà lửa. Hai pháp này là gì? Một là Thánh đạo, hai là Vãng sinh Tịnh độ. Pháp tu Thánh đạo, hiện nay rất khó chứng đắc, điều này có hai lý do, một là vì thời đại đã cách Phật rất lâu xa, hai là do nghĩa lý Đại thừa sâu xa khó hiểu. Đại Tập Nhật Tạng Kinh có nói: “Trong thời mạt pháp, có ức ức chúng sinh phát tâm tu hành, nhưng có rất ít người đắc đạo.”
Đời mạt pháp hiện nay là đời ác ngũ trược, chỉ có pháp môn Tịnh Độ là con đường để vào đạo. Bởi thế, Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Nếu có chúng sinh, dù là cả đời tạo ác, giả sử lúc lâm chung, niệm danh hiệu của ta mười lần liên tiếp, nếu như không được vãng sinh, ta thệ không giữ ngôi Chánh Giác.”
Lại nữa, tất cả chúng sinh đều không tự lượng sức mình, nếu luận về chân như thực tướng, đệ nhất nghĩa không của Đại thừa, bọn họ đều chưa từng để tâm đến, còn nếu luận về sự tu tập kiến đế tu đạo, nhẫn đến chứng quả A na hàm, A la hán, đoạn trừ năm phiền não lợi sử, năm phiền não độn sử, thì tất cả người đạo, kẻ tục đều không có phần. Giả sử có được quả báo trời người, đều là do sự hành trì ngũ giới thập thiện chiêu cảm, thế nhưng ít có người trì giới đến chỗ viên mãn; còn nếu luận về sự làm ác tạo nghiệp, thì thế lực chẳng khác gì mưa to gió lớn. Bởi lý do này, chư Phật đều đại từ đại bi, khuyên nhắc chúng sinh vãng sinh Tịnh Độ. Cho dù cả đời tạo ác, chỉ cần buộc tâm chuyên cần tinh tấn, thường thường Niệm Phật, thì tất cả chướng ngại, tự nhiên sẽ được tiêu trừ, quyết định sẽ được vãng sinh. Tại sao tất cả không chịu suy ngẫm, mà phát tâm cầu vãng sinh!
Lời bàn: Phép lập giáo nhiều ít, lập trường của các tông phái không giống nhau, ví như Hữu Tướng Tông thiết lập ba thời giáo là hữu tông, không tông và trung đạo tông để phán định thánh giáo của Đức Thế Tôn; Vô Tướng Tông thiết lập hai thời giáo là Bồ tát giáo và Thanh văn giáo để phán định; Hoa Nghiêm Tông thiết lập năm thời giáo: tiểu thừa giáo, đại thừa thỉ giáo, chung giáo, đốn giáo và viên giáo, để thống nhiếp tất cả Phật giáo; Pháp Hoa Tông thiết lập bốn thời giáo: tạng giáo, thông giáo, biệt giáo, viên giáo, và năm mùi vị: nhũ, lạc, sinh tô, thục tô và đề hồ, để thống nhiếp tất cả Phật giáo; lại còn có Chân Ngôn Tông cũng thiết lập hai thời giáo, hiển giáo và mật giáo, để thống nhiếp tất cả Phật giáo. Hiện nay, Tịnh Độ Tông, nếu y theo bổn ý của Đạo Xước Thiền Sư, sẽ thiết lập hai môn: Thánh Đạo Môn và Tịnh Độ Môn, để thống nhiếp tất cả.
Hỏi: Việc thiết lập tên gọi của các tông phái, vốn là do tám tông, chín tông như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, v.v…, phán định, chưa từng nghe qua các nhà tu Tịnh độ thiết lập tên gọi của chính tông phái mình. Việc đặt tên gọi này có chứng cứ gì không?
Trả lời: Tên gọi Tịnh Độ Tông, chứng cứ không phải ít, như ngài Nguyên Hiểu trong Du Tâm An Lạc Đạo nói: “Bổn ý của Tịnh Độ Tông là vốn vì phàm phu, kiêm vì thánh nhân”, lại như ngài Từ Ân trong Tây Phương Yếu Quyết nói: “Y vào tông này”, hơn nữa, ngài Ca Tài trong Tịnh Độ Luận cũng nói: “Tông này, theo ý của tôi, là con đường trọng yếu”. Những chứng cứ như vậy, thật không còn nghi ngờ gì nữa. Thế nhưng, ý chính ở đây, không phải là bàn luận về sự phán lập giáo nghĩa của các tông phái, mà là muốn nói sơ lược về hai môn của Tịnh Độ Tông, tức là Thánh đạo môn và Tịnh độ môn.
A/ Thánh Đạo Môn: ở đây có hai phần, một là Tiểu thừa, hai là Đại thừa. Trong Đại thừa, tuy có Hiển, Mật, Quyền, Thực, khác nhau, thế nhưng bổn ý của tập sách này chỉ là muốn hiển minh hạnh nguyện của Đại thừa và Quyền Đại thừa là ở trong sinh tử dài lâu để tu tập cứu độ chúng sinh. Nếu như y vào điều này mà suy ngẫm, phải nên bảo tồn Đại thừa Mật giáo và Đại thừa Hiển giáo. Nên biết rằng tám tông phái như Chân Ngôn, Phật Tâm (Thiền), Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Tam Luận, Pháp Tướng, Địa Luận, Nhiếp Luận đều có chung quan điểm này. Còn trong Tiểu Thừa, tất cả các kinh luật luận của họ đều nói về con đường tu tập để đoạn trừ phiền não, thấu rõ chân lý, chứng đắc thánh quả. Y cứ vào đây, giáo lý Tiểu Thừa chỉ bao hàm các tông phái như Luật Tông, Câu Xá và Thành Thực. Nói một cách khái quát, bổn ý của Thánh Đạo Môn, bất luận là Đại thừa hay Tiểu thừa, đều là ở trong thế giới Ta Bà này tu tập chứng đắc đạo quả của bốn Thừa. Bốn Thừa, nghĩa là ngoài ba Thừa, còn thêm Phật Thừa.
B/ Vãng Sinh Tịnh Độ Môn, trong đây có hai: (1) hiển minh chính thức giáo nghĩa Vãng Sinh Tịnh Độ, (2) hiển minh không chính thức giáo nghĩa Vãng Sinh Tịnh Độ.
1/ Hiển minh chính thức giáo nghĩa Vãng Sinh Tịnh Độ, gồm có ba bộ kinh và một bộ luận. Ba bộ kinh là Vô Lượng Thọ Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh, và A Di Đà Kinh, còn một bộ luận là Vãng Sinh Luận của ngài Thế Thân. Có người gọi ba bộ kinh này là “Ba bộ kinh Tịnh Độ”.
Hỏi: Gọi Ba bộ kinh, còn có trường hợp nào khác không?
Trả lời: Gọi Ba bộ kinh, có nhiều trường hợp: (a) Ba bộ kinh Pháp Hoa, tức là Vô Lượng Nghĩa Kinh, Pháp Hoa Kinh và Phổ Hiền Quán Kinh; (2) Ba bộ kinh Đại Nhật, tức là Đại Nhật Kinh, Kim Cang Đỉnh Kinh và Tô Tất Địa Kinh; (3) Ba bộ kinh trấn thủ bảo hộ quốc gia, tức là Pháp Hoa Kinh, Nhân Vương Kinh và Kim Quang Minh Kinh; (4) Ba bộ kinh Di Lặc, tức là Di Lặc Thượng Sinh Kinh, Di Lặc Hạ Sinh Kinh và Di Lặc Đại Thành Phật Kinh. Hiện nay ba bộ kinh A Di Đà gọi là ba bộ kinh Tịnh Độ, tức là ba bộ kinh chính yếu của Tịnh Độ Tông.
2/ Hiển minh không chính thức giáo nghĩa Tịnh Độ: những bộ kinh như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Tùy Cầu (Phật Thuyết Tùy Cầu Tức Đắc Đại Tự Tại Đà La Ni Thần Chú Kinh), v.v…, đều có thuyết minh các công hạnh vãng sinh Tịnh Độ; lại còn có các bộ luận như Khởi Tín Luận, Bảo Tính Luận, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận, v.v…, cũng đều thuyết minh các công hạnh vãng sinh Tịnh Độ.
Trong tập sách này, bổn ý của sự thiết lập hai môn Thánh Đạo và Tịnh Độ là muốn khiến cho chúng sinh xả bỏ Thánh Đạo Môn, quy hướng Tịnh Độ Môn. Điều này có hai lý do: (1) do vì cách xa đời Phật, (2) do vì giáo lý thâm sâu khó hiểu. Trong Tịnh Độ Tông, thiết lập hai môn, không những chỉ có ngài Đạo Xước, mà các ngài như Đàm Loan, Thiên Thai, Ca Tài, Từ Ân, v.v…, cũng có cùng chung quan điểm. Hơn nữa, ngài Đàm Loan Pháp Sư, trong Vãng Sinh Luận Chú có nói:
“Như Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận của ngài Long Thọ nói: “Bồ tát cầu A bệ bạt trí, có hai con đường, một là Đường khó đi (Hán: nan hành đạo), hai là Đường dễ đi (Hán: dị hành đạo).
Đường khó đi, nghĩa là ở trong đời ác năm trược, lúc không có Phật, cầu A bệ bạt trí là khó, sự khó khăn này có nhiều phương diện, một là pháp thiện của ngoại đạo làm loạn pháp tu của Bồ tát, hai là sự tự lợi của hàng Thanh văn làm chướng ngại tâm đại từ bi, ba là những kẻ ác vô cớ phá hoại thắng đức của người khác, bốn là quả báo thiện điên đảo, có thể phá hoại phạm hạnh, năm là chỉ có tự lực, không có tha lực hộ trì. Những việc như vậy, chỗ nào cũng có, ví như đường lộ, lội bộ ắt là khổ nhọc.
Đường dễ đi, nghĩa là chỉ cần nhờ nhân duyên Niệm Phật, nguyện sinh Tịnh Độ, nhờ nguyện lực của Phật, sẽ được vãng sinh cõi Phật thanh tịnh. Nhờ Phật lực gia trì, sẽ tiến nhập vào giai bậc chính định tụ, chính định tức là A bệ bạt trí, ví như đường thủy, đi thuyền ắt là vui sướng.”
Ở đây, Đường khó đi, tức là Thánh Đạo Môn, còn Đường dễ đi, tức là Tịnh Độ Môn. Khó đi Dễ đi, Thánh Đạo Tịnh Độ, tên gọi tuy khác, nhưng ý thú giống nhau. Nên biết, hai ngài Thiên Thai và Ca Tài cũng có cùng quan điểm. Lại nữa, Tây Phương Yếu Quyết nói:
“Nghĩ đến Đức Thích Ca khai sáng Phật giáo, hoằng dương lợi ích chúng sinh, tùy mỗi xứ mà xiển dương giáo nghĩa, rưới nước pháp mầu, làm cho chúng sinh được độ hóa, chứng ngộ ba Thừa, đối với những người ít phước mỏng duyên, thì khuyên họ vãng sinh Tịnh Độ. Người tu Tịnh Độ phải chuyên niệm A Di Đà, tất cả những thiện căn, đều phải hồi hướng về Tịnh Độ. Bổn nguyện của Đức A Di Đà là thệ độ tất cả chúng sinh cõi Ta Bà, từ người chuyên tâm tu tập cả đời, nhẫn đến người lúc lâm chung chỉ niệm mười danh hiệu, đều được quyết định vãng sinh Tịnh Độ.” Hơn nữa, bài bạt của cùng quyển sách trên nói: “Do vì sinh vào đời tượng pháp, cách xa đời Phật, nếu tu tập hạnh của ba Thừa, khó mà khế ngộ. Hai cõi trời người xao động bất an, chỉ có những bậc Bồ tát đại trí đại từ mới có thể ở lâu trong sinh tử. Nếu như kiến giải mê ám, công hạnh nông cạn, e rằng sẽ bị đọa lạc ba đường ác, bởi thế, phải nên lìa bỏ Ta Bà, cầu sinh Tịnh Độ.”
Ở đây nói ba Thừa, ý muốn chỉ Thánh Đạo Môn, còn nói Tịnh Độ, là muốn chỉ Tịnh Độ Môn. Ba Thừa Tịnh Độ, Thánh Đạo Tịnh Độ, tên gọi tuy khác, ý thú tương đồng. Các học giả Tịnh Độ, trước tiên phải nên biết ý chỉ này, giả sử trước đó tuy đã học Thánh Đạo Môn, nếu như có chí hướng cầu sinh Tịnh Độ, phải nên xả bỏ Thánh Đạo, cầu sinh Tịnh Độ; chẳng hạn, như ngài Đàm Loan Pháp Sư xả bỏ sự giảng thuyết bốn bộ luận (Trung Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận và Đại Trí Độ Luận) mà chuyên tâm Tịnh Độ; lại như ngài Đạo Xước Thiền Sư gác bỏ việc giảng giải Kinh Niết Bàn mà chuyên tâm hoằng dương Tịnh Độ. Các bậc hiền triết khi xưa đã từng như thế, chẳng lẽ những người ngu độn thô thiển mà lại không chịu tuân hành!
(Trích Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật – Pháp Nhiên Thượng Nhân)
http://www.chuaphuochue.com/01TuyenTrachBonNguyenNiemPhat.pdf
Niệm Phật Tông Yếu – Pháp Nhiên Thượng Nhân
http://www.khanhanh.fr/phathoc/baiviet/niemphat.htm
Lá Thư Tịnh Độ – Ấn Quang Đại Sư
http://www.tinhdo.net/sachdao/160-lathutinhdo.html
————————————
Nếu trong lòng còn nghi ngờ không biết chọn một pháp môn nào phù hợp với căn cơ thì bạn nên kính nguyện xin mười phương Tam Bảo từ bi gia hộ cho là yên ổn nhất. Trước sự chứng minh mười phương Tam Bảo bạn bốc thăm “Thánh Đạo Môn” hay “Tịnh Độ Môn 3 lần rồi sẽ biết nên chọn pháp môn nào.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Chân thành cảm ơn 2 liên hữu Hãy niệm A DI ĐÀ PHẬT & liên hữu Huệ Tịnh đã viết phúc đáp !
Đọc xong,quán xét lại bản thân,con thấy mình nên hướng theo pháp môn Tịnh Độ là phù hợp nhất.
Con xin cảm ơn rất nhiều ạ!
Mình sẽ hành trì thế này.mình sẽ niệm danh hiệu ĐỊA TẠNG BỒ TÁT.QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT trong công việc .nhà mình không hoà ai cũng căng như dây đàn vậy.muốn có tiền…tiền.không biết sau này mình thế nào nhưng hiện tại tâm trạng mình như vậy .nóng rát như vậy …có lẽ nhân duyên sau này không biết thế nào.có cải biến được không ?mình muốn xem cái kết này thế nào?
Thầy HUỆ TỊNH là cư sĩ hay bậc SA MÔN vậy?
A Di Đà Phật.
Huệ Tịnh là cư sĩ.
A di đà phật.
xin cho con bài nghi thức cúng chúng sinh tại nhà ạ.
con xin chân thành cảm ơn.
Thời nay thật hiếm người hoằng pháp lợi sanh. Con kiếp này gặp PHẬT PHÁP mà không thể thọ trì, chắc là do quả báo.
A Di Đà Phật.
Bạn có nhiều suy nghĩ Vọng Động quá. Sao bạn khong nghĩ là Dù chỉ một chút xíu như hạt cát, hiện tại bạn đã là đang có ” chủng tử Phật ” trong tâm , bạn cũng là có duyên với Phật Pháp.
Bạn nghĩ thoáng, và đơn giản một chút. Tất cả chúng ta đều đang ở tren cùng một Con đường. Có quyết tâm đi, voi mot niềm tin là ” Phải đến dích ” Đây khong phải là cuộc thi, cũng khong phải cuộc đua, xem ai nhanh, ai giỏi hơn ai. Mà đơn giản là Về Đích. Đơn giản là Vứng vàng , kiên trì , bền Bỉ tiến về phía trước, với một niềm tin khong gì lay chuyển được . Khong cần nhìn lại phía sau, cũng khong cần so sánh bản than.với người khác…
Bạn biết khong, khi biết toi lụa chọn con đường tu Tịnh độ , một người bạn của toi đã nói. Đây là con đường khó khan, hàng ngàn người mới có một vài người Đạt Được. Tôi mỉm cười, ” nếu Kiếp này khong Đạt, kiếp sau tôi Tu tiếp ” ( tôi thầm nghĩ : Bởi Hạt giống Tịnh độ đã gieo xuống , nếu thường Chăm Bón, sẽ có ngày thành Quả ).
Hãy vững Niềm Tin bạn nhé !
A DI ĐÀ PHẬT!
Tôi đã ăn chay ,trì giới để học Phật đến nay đã tròn một năm .Về lý thì tôi đã phát tâm nguyện quy y tam bảo ( Phật A DI ĐÀ , Kinh vô lượng thọ,Bồ Tát Quán Thế Âm )còn về sự tôi vẫn đang tìm vị minh sư làm chứng cho tôi quy y,giả sử nếu không tìm được minh sư tôi vẫn cứ hằng ngày sáng niệm Phật 30 phúc trước khi đi làm ,tối về nghe thuyết pháp học chú giải kinh vô lượng thọ của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ như thế việc tu học có bị thiệt thòi không? có thật cần thiết trên giới đàn thọ tam quy y mới được vãng sanh ? xin các vị từ bi chỉ dạy cho.
Có câu “Là Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy, Ngũ giới, tức là nương tựa vào Tam bảo và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.” gửi bạn tham khảo.
Nam Mô A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật
Mình góp ý thế này.Đối với người niệm Phật thì
Phật Bảo là A Di Đà Phật,bởi vì A Di Đà Phật là pháp giới tạng thân, Quy Y với A Di Đà Phật đồng nghĩa với Quy Y mười phương ba đời chư Phật.Chúng ta niệm A Di Đà Phật là chúng ta đang Quy Y với A Di Đà Phật
Pháp Bảo là bộ kinh Vô Lượng Thọ,bộ kinh này được ví như là bộ trung bản Hoa Nghiêm,mà Hoa Nghiêm được ví như vua của các kinh,nên tụng kinh Vô Lượng Thọ cũng ví như là đang tụng hết thảy kinh điển.Tụng kinh Vô Lượng Thọ là ta đang Quy Y Pháp Bảo.
Tăng Bảo đại diện là Quan Thế Âm và Đại Thế Chí bồ tát. Quan Thế Âm là đại biểu cho tâm thanh tịnh đại bi của chúng sanh. Đại Thế Chí là là đại biểu cho tâm thanh tịnh đại trí,đại hùng,đại lực,đại lượng của chúng sanh.
-Mình xin trích dẫn một số lời của hòa thượng Tịnh Không về Tam Quy Y
(Sớ: Lại nữa, Tam Bảo lại chia thành Sự và Lý, có khác biệt, có tương đồng).
Điều này cũng chớ nên không biết. Đoạn này nêu lên một đạo lý rất quan trọng trong Tam Quy Y. Tiếp nhận Tam Quy Y cũng chẳng phải là chuyện dễ dàng. Quy y chẳng đúng pháp thì cũng là phá hòa hợp Tăng! Hễ thọ Tam Quy [không đúng pháp] bèn giống như báo danh nơi địa ngục vậy, ghi tên vào sổ bộ rồi! Phát cho quý vị một bằng chứng nhận đã quy y, bằng chứng nhận quy y là gì? Là bằng chứng để trong tương lai quý vị vào địa ngục A Tỳ. Chuyện này rất phiền toái! Cớ sao nói “quy y là phá hòa hợp Tăng?” Quý vị nói: “Tôi quy y pháp sư này nọ, vị pháp sư này nọ là thầy quy y của tôi”, vậy là xong! Ghi cố định cái tên trong địa ngục rồi! Quý vị quy y Tam Bảo, làm sao có thể quy y vị pháp sư nào đó? Tam Bảo là nhất thể, quý vị dấy lên sự phân hóa trong ấy: Vị này là thầy quy y của tôi, vị kia chẳng phải. Như vậy là không được! Quý vị thấy đó: Liên Trì đại sư quy y mười phương ba đời hết thảy Tam Bảo, quyết định chẳng phải là quy y một cá nhân nào. [Nếu nghĩ quy y Tam Bảo là quy y với một vị thầy nào đó] thì chính là phá hoại Tăng đoàn! Ngày nay Phật pháp suy vi, suy đến mức này, là do Tam Quy Y bị phá hoại. Người ta không quy y Tam Bảo, mà quy y một người nào đó. Mỗi người tạo một đảng phái, mỗi người lập một đoàn thể nhỏ, khiến cho Phật pháp mất tăm mất tích, rối lung tung xèng! “Người này nọ là đồ đệ quy y của tôi”, người đồ đệ quy y ấy nói: “Vị thầy này nọ là sư phụ quy y của tôi”, nói rất đắc ý, tương lai đều vào trong địa ngục A Tỳ!
Quý vị quy y Tam Bảo, vị xuất gia ấy chứng minh cho quý vị, chứng minh quý vị đã quy y, chứ quý vị chẳng thể quy y với người ấy, nhất định phải hiểu đạo lý này! Giống như vào đảng (Trung Hoa Quốc Dân Đảng) vậy, khi quý vị vào đảng, đảng bộ cấp trên phái người đến giám sát sự phát thệ, nhưng quý vị làm trật, quy y với người ấy, đi theo bè phái của người ấy.
Xong rồi! Người ta phái mười người đến giám sát lễ phát thệ bèn trở thành đảng nhỏ của mười người, cử một trăm người đến giám sát bèn thành một đảng nhỏ gồm một trăm người. Đảng ấy bị chia năm xẻ bảy, ngay lập tức suy vi! Do vậy, người ta đến yêu cầu tôi truyền trao quy y, tôi giảng đạo lýnày rất rõ rệt, vì sao? Trong tương lai, quý vị tự đọa trong địa ngục A Tỳ, tôi không chịu trách nhiệm, tôi đã nói rõ rồi. Nếu quý vị nghĩ như thế này: “Tôi là thầy quy y của quý vị”, tôi chẳng thừa nhận. Quý vị đến thọ quy y, tôi đại diện Tam Bảo chứng minh cho quý vị. Quý vị quy y Tam Bảo, xưng là Tam Bảo đệ tử, lại còn quy y chỉ có một lần, chẳng quy y lần thứ hai. Ví như quý vị đã vào đảng, chỉ cần vào đảng một lần, chẳng thể nói tôi gia nhập đảng bộ ở Đài Bắc, chạy đến đảng bộ Cơ Long lại vào đảng lần nữa, không có đạo lý ấy! Các chi bộ đảng các nơi trong ngoài nước, nếu quý vị là đảng viên thì là người một nhà, quý vị phải hiểu đạo lý này. Nếu quý vị không hiểu những điều này, quý vị phá hòa hợp Tăng.
(Diễn: “Sự giống nhau và khác nhau giữa Sự và Lý”: Trụ Trì Tam Bảo là Sự, Nhất Thể Tam Bảo là Lý).
Trước tiên nói rõ Sự là gì, Lý là gì, Trụ Trì Tam Bảo là gì? Trụ Trì Tam Bảo là nghi thức, hình tượng, Nay Phật chẳng còn ở trên đời, tượng Phật là Phật Bảo, bất luận là khắc, đắp hay tô vẽ, chúng ta thờ bức tượng này bằng sứ, nhằm tượng trưng cho Phật Bảo, đại diện cho Phật Bảo. Chúng ta lễ kính Phật, dùng tượng này để thay thế, khiến cho chúng ta có đối tượng lễ kính. Pháp Bảo là kinh điển, những kinh điển trong Đại Tạng Kinh là Pháp Bảo; nhưng quý vị phải nhớ: Đại Tạng Kinh do con người hiện thời biên tập tôi không đọc, tôi vẫn xem những bản được biên tập vào thời cổ. Vì sao? Kinh quyết định không có vấn đề, quan trọng nhất là các bản chú giải.
Tăng Bảo là người xuất gia, đây là nói về phàm phu Tăng. Họ tượng trưng cho một ngôi trong Tam Bảo. Trụ trì Tam Bảo duy trì, bảo vệ truyền thống Phật pháp. Nếu chẳng có trụ trì Tam Bảo, hình tượng Phật pháp sẽ không còn nữa, không có gì đại diện cho Phật giáo. Do vậy, trụ trì Tam Bảo công đức vô lượng vô biên.
Người tu hành chúng ta trông thấy Tam Bảo, nếu có thể quy về Nhất Thể Tam Bảo thì sẽ là tu hành chân chánh. Nhất Thể Tam Bảo là gì? Nhất Thể Tam Bảo là Tự Tánh Tam Bảo, Phật, Pháp, Tăng là chính mình. Phật tượng trưng cho Giác, giác chứ không mê. Giác tánh của chúng ta là Phật Bảo. Tri kiến của chúng ta là Pháp Bảo. Kinh Pháp Hoa nói “nhập Phật tri kiến”, tri kiến của Phật là chánh tri chánh kiến. Do vậy, tri kiến là Pháp Bảo.
Hiện thời, chánh tri kiến của chúng ta biến thành tà tri kiến, biến thành như thế nào? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói rất rõ ràng: “Tri kiến lập tri, thị vô minh bổn” (từ trên sự tri kiến chân thật (chánh tri kiến), lập ra một cái thấy biết [hư vọng]; đó là cái gốc của vô minh). “Tri kiến” là tốt, tri kiến là Phật tri Phật kiến, là Bổn Giác, đáng tiếc là trên chánh tri chánh kiến, quý vị lại lập ra một cái tri kiến của chính mình, tri kiến ấy là tà tri tà kiến, đó là vô minh.
Đạo lý này rất sâu, sự tướng này hết sức rộng lớn, chẳng phải là bằng mấy câu mà hòng giảng rõ ràng, đều phải nói lan qua các bộ kinh to, luận lớn. Tri kiến nơi bổn tánh là Pháp Bảo chân thật, hết thảy Phật pháp đều lưu xuất từ tri kiến này. Tâm thanh tịnh là Tăng Bảo. Khi Lục Tổ khai ngộ đã nói: “Hà kỳ tự tánh, bổn tự thanh tịnh” (nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh). Từ phương diện thanh tịnh mà nói thì là Tăng Bảo, từ giác không mê mà nói thì là Phật Bảo, từ chánh tri chánh kiến mà nói thì là Pháp Bảo.
Vì vậy, chúng ta trông thấy tượng Phật, phải nghĩ đến tự tánh giác, phải giống như Phật. Trong hết thảy mối quan hệ với con người, trong hết thảy thuận cảnh và nghịch cảnh, chúng ta đừng mê hoặc. Chẳng mê hoặc là luôn có thể giác chứ không mê. Đấy là “tự tánh Phật Bảo”. Vì thế, tượng Phật có tác dụng rất lớn, thời thời khắc khắc nhắc nhở chúng ta, trong hết thảy quan hệ giữa con người với nhau và trong các hoàn cảnh phải giác ngộ, đừng mê hoặc, tác dụng của nó là như vậy. Kinh điển bày ra ở chỗ này, bất luận quý vị đọc hay không, hễ thấy kinh điển, phải nghĩ: Chúng ta phảichánh tri chánh kiến, xa lìa tà tri tà kiến. Từ chỗ này mà quy về tự tánh, đấy là “tự tánh Pháp Bảo” tỏa sáng ra ngoài. Thấy người xuất gia, bất luận trì giới hay phá giới, là Phật tử hay ma tử, chẳng cần biết, chẳng cần quan tâm tới, hễ thấy người xuất gia, liền nghĩ tới sự thanh tịnh của chính mình tức là “tự tánh Tăng Bảo”. Như vậy thì Trụ Trì Tam Bảo sẽ khởi tác dụng rất lớn đối với chúng ta, nhờ vào Trụ Trì Tam Bảo để khơi gợi Nhất Thể Tam Bảo nơi tự tánh. Sự Lý này mới là bất nhị, Sự Lý này mới là “nhất như” (giống hệt như nhau).
Liên Trì đại sư ra đời vào thời ấy, nhằm đúng lúc thời kỳ tranh đấu kiên cố bắt đầu. Tranh đấu bắt đầu từ đâu? Thưa quý vị, bắt đầu từ quy y. Do vậy, quý vị học Phật liền tham gia vào đường lối tranh đấu kiên cố. Đây là sư phụ, là môn phái của tôi, kia chẳng phải là sư phụ, chẳng phải là môn phái của tôi, hễ vạch giới hạn trong ấy, bèn có tranh đấu. Do vì Ngẫu Ích đại sư trông thấy hiện tượng ấy, Hoằng Nhất đại sư khi biên tập cuốn Ngũ Giới Tướng Kinh Thiển Yếu đã trích yếu ngữ lục của Ngẫu Ích đại sư ghép vào sách ấy, [đọc thiên pháp ngữ ấy], chúng ta thấy Ngẫu Ích đại sư hết sức cảm thán! Ngài cho rằng đấy là sự sai lầm to lớn nhất!
Người học Phật trước kia là giác chứ không mê, quy y Tam Bảo là quy y Giác – Chánh – Tịnh. Chương Truyền Hương Sám Hối trong Lục Tổ Đàn Kinh dạy về phương pháp tu hành, chia thành năm quá trình theo thứ tự, giảng hết sức rõ ràng. Khi truyền trao Tam Quy, Ngài nói: “Quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh”, hoàn toàn dịch sang nghĩa tiếng Hán, vì sợ nói “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, quý vị nghe xong sẽ mê hoặc, chẳng hiểu Phật, Pháp, Tăng, nghĩ Tăng là một người, quy y vị xuất gia ấy, đó là sai lầm! Quy y Phật, trông thấy tượng Phật bèn nghĩ là Phật, đó cũng là sai lầm!
Phật là Giác, giác chứ không mê. Vì thế, Lục Tổ nói “quy y Giác, quy y Chánh”, Chánh là chánh tri chánh kiến, từ tà tri tà kiến quay về nương tựa chánh tri chánh kiến. Quy y Tăng, Tăng tượng trưng thanh tịnh, sáu căn thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, từ nhiễm ô mà quay trở lại, nương vàothanh tịnh. Tăng còn tượng trưng cho hòa hợp, Tăng đoàn Lục Hòa Kính. Từ chẳng hòa hợp quay về nương tựa hòa hợp. Nay chúng ta nói đến “đoàn kết” thì hòa hợp chính là ý nghĩa đoàn kết, đừng nên phân hóa một đoàn thể!
Vào đời Minh của Liên Trì đại sư, hiện tượng quái lạ ấy bắt đầu phát sanh, tức là phân chia xé lẻ, vấn đề này khá nghiêm trọng. Nếu chẳng nghiêm trọng, tổ sư chẳng nói lời này. Vì thế, Tăng đoàn bị phá hoại, đó là tranh đấu, tạo mầm tội to lớn. Vì thế, học Phật thọ Tam Quy nếu chẳng đúng pháp thì thọ Tam Quy bèn ghi danh trong sổ bộ của địa ngục A Tỳ, vì sao? Quý vị tham gia tranh đấu kiên cố, tham gia tiêu diệt Phật pháp. Diệt Phật pháp, phá hòa hợp Tăng là tội Ngũ Nghịch. Quả báo của tội Ngũ Nghịch là địa ngục A Tỳ. Vì thế, quý vị nhất định phải có tâm cảnh giác. Chúng ta học Phật, phát cái tâm tốt lành, tương lai học vào địa ngục, quả thật chẳng đáng tí nào! Làm thế nào đây? Vẫn là không biết chi cả, cứ hồ đồ đi theo. Vì thế, nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn, thường là chính mình tạo nghiệp mà chính mình chẳng biết!
Khi Tam Quy, phải biết quý vị quy y Tam Bảo, nhất là trông thấy Trụ Trì Tam Bảo, ngay lập tức phải trở về Tự Tánh Tam Bảo thì công đức Tam Quy vô lượng vô biên. Quý vị thấy Trụ Trì Tam Bảo, tức là thấy hình tướngcủa Tam Bảo, lập tức hồi quang phản chiếu trở về Tự Tánh Tam Bảo, quý vị sẽ được ba mươi sáu vị thần hộ pháp bảo vệ, vì sao? Quý vị thật sự là đệ tử Phật. Nếu quý vị nói “vị pháp sự nọ, vị đại đức kia là sư phụ của tôi” thì thưa quý vị, chẳng có vị thần hộ pháp nào ngó tới quý vị! Ai đến tìm quý vị?
Yêu ma quỷ quái, vì sao? Quý vị mạo nhận là đệ tử Phật, chẳng phải là đệ tử chân chánh của Phật. Vì thế, khi Tam Quy, người xuất gia đại diện Tăng đoàn, đại diện Tam Bảo chứng minh cho quý vị, tuyệt đối chẳng phải là quy y với người đó! Nhất định phải hiểu ý nghĩa này! Ngàn vạn phần chớ nên hiểu lầm! Vì thế, tranh đấu kiên cố bắt đầu từ Tam Quy. Truyền thọ Tam Quy Ngũ Giới chẳng đúng pháp, nên Phật pháp mới suy vi, bại hoại. Nếu trao truyền Tam Quy Ngũ Giới đúng pháp, Phật pháp quyết định hưng vượng.
“Kim đương đấu tránh kiên cố chi thời, cánh vi khả mẫn” (nay đang thời tranh đấu kiên cố, càng đáng thương): Chúng sanh càng đáng thương hơn, vì sao? Cơ hội đọa lạc ác đạo quá nhiều, hết sức khổ! Một người trong một đời, khởi tâm động niệm, nói năng mà chẳng đọa trong ác đạo gần như là chuyện không thể nào xảy ra. Quý vị bất tri bất giác hủy diệt Phật giáo, còn tưởng là chính mình đang làm chuyện tốt đẹp trong cửa Phật, quả thật đáng thương!
A Di Đà Phật
rất hoan hỷ lời chia sẽ của các vị, thật ra tôi biết học Phật là dụng thực chất không nên câu nệ hình thức càng không nên lựa chọn vị thầy nào để quy y nhưng nhân ngã thị phi nên mới có ý này ,mặt khác nghĩ đem giấy chứng nhận quy y để nơi dễ thấy để ngày ngày nhắc nhở mình phải thọ trì tam bảo và tin tấn tu học vậy.A DI ĐÀ PHẬT
A Di Đà Phật
Cảm niệm công đức của Hãy niệm A Di Đà Phật. Kính chúc đạo hữu sen thính pháp an lạc, buông xả vạn duyên, một lòng chuyên niệm.
Nam mô A Di Đà Phật
A Di Đà Phật.
Xin gửi bạn Long tham khảo qua.
100 Câu Hỏi Phật Pháp
http://www.quangminh.org.au/index.php?option=com_content&view=category&id=125&Itemid=21
Hỏi: Kính thưa thầy, mặc dù con chưa chánh thức quy y Tam bảo để trở thành người Phật tử, nhưng hằng ngày con vẫn lo tu niệm không làm điều gì sái quấy tội lỗi. Hơn nữa, con tuy ở nhà không có đi chùa, nhưng vẫn thường niệm Phật. Như vậy, không biết khi lâm chung con có được vãng sanh về Cực lạc hay không? Xin thầy vui lòng giải đáp cho con biết.
Ðáp: Việc niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc, không luận là quy y hay không quy y. Và cũng không luận là ở chùa hay ở nhà. Bất cứ dưới hình thức nào và bất cứ ở nơi đâu cũng có thể tu hành niệm Phật được cả. Ðiều quan trọng là chúng ta có thật tâm chí thành tu hành và niệm Phật hay không mà thôi. Tuy nhiên, dù sao quy y Tam bảo cũng vẫn là điều tốt hơn. Vì sao? Vì chúng ta có chỗ quy hướng để nương tựa tu học. Nhờ có quy y phát nguyện giữ giới đúng theo lời Phật dạy, nên chúng ta ít gây ra những điều tội lỗi sái quấy. Ðó cũng là một trợ duyên tăng thượng rất tốt làm tăng thêm sức định tâm trong khi chúng ta hành trì niệm Phật. Quy y là để chúng ta nương tựa vào Tam bảo để học hỏi biết rõ đường lối tu hành, chớ không phải quy y cốt để cho mình trở nên một người Phật tử mang danh nghĩa rỗng suông. Nếu hiểu nghĩa quy y theo quan niệm như thế, thì thật là trái với ý nghĩa quy y và không xứng danh là người Phật tử.
Nam Mô A Di Đà Phật.
cảm ân cư sĩ HUỆ TỊNH , biển tri thức thật bao la kẻ hậu học chưa thể lãnh hội hết được mai ra còn các bậc tri thức như vầy thật là phước báo , tại hạ sẽ y giáo phụng hành .
A Di Đà Phật
Tri ân đạo hữu Mỹ Diệp đã khuyến tấn mình niệm Phật.Chúc đạo hữu và tất cả mọi người thân tâm an lạc,niệm Phật vãng sanh.Rất mừng khi liên hữu CÁ HÓA LONG đã tháo gỡ được thắc mắc phiền muộn.
A Di Đà Phật
A Di Đà Phật.
Tất cả tuỳ duyên thôi bạn Long. Nếu trong kiếp trước chúng ta không gieo duyên lành với nhau thì chúng ta chẳng thể nào gặp nhau trên trang Đường Về Tịnh Độ này.
Hãy cố gắng đừng nghi Bổn Nguyện của Phật A Di Đà mà yên tâm tuỳ duyên căn cơ theo thiên tính mà nhớ niệm Phật. Chính vì thế mà chúng ta sẽ tự nhiên sống bớt nghi ngờ, lo lắng phiền não hơn trong cuộc sống khi cái “chết” trong tâm đã có phần bắt đầu phó thác vào Bổn Nguyện Tha Lực không thể nghĩ bàn rồi.
—————————————-
Niệm Phật Tông Yếu – Pháp Nhiên Thượng Nhân
http://www.khanhanh.fr/phathoc/baiviet/niemphat.htm
“Và khi tu Niệm Phật thì phần nhiều đều mang tâm niệm tự lực, vẫn cứ trông cậy vào sức mình để được vãng sinh. Đó là Tự Lực Niệm Phật. Bởi thế, tu rất nhọc nhằn mà cũng không chắc là mình có được vãng sinh hay không. Những ngộ nhận nầy chính dịch giả cũng mắc phải. Hơn một năm trước đây, may mắn thay, gặp được tác phẩm Pháp Nhiên Ngữ Đăng Lục. Như kẻ mù được sáng, người sắp chết đuối gặp phao. Hốt nhiên tín tâm phát khởi, nhận ra lý Tha Lực Niệm Phật. Từ đây, Niệm Phật trở thành một niềm vui không thể nghĩ bàn, vãng sinh Cực Lạc là điều chắc chắn chứ không cần đến lúc lâm chung. Do đó, xin chọn những pháp ngữ tinh yếu của Ngài để dâng tặng người hữu duyên….”
Nam Mô A Di Đà Phật.
Cám ơn diệu tiến
Nam mô a di đà phật.
Hy Vọng chào tất cả mọi người,con có đôi lời muốn tâm sự với cả nhà ạ.
Mọi người hãy cố gắng cố gắng tu tập thật tinh tấn nhé để lúc đi về Tây Phương sẽ được nhẹ nhàng vui vẻ,tự tại vãng sanh.
Bên cạnh đó,mọi người hãy cố gắng ăn uống thật thật tốt,chăm sóc sức khỏe thật tốt để thân tâm luôn luôn an lạc.??????
Con chúc mọi người luôn mạnh khỏe,thật khỏe mạnh nhé.
A di đà phật
A di đà phật
A di đà phật.
Nam mô A Di Đà Phật ,
Xin chào các bạn.
Mình đã thực hành pháp môn Niệm phật đã mấy năm rồi nhưng sao có lúc tinh tấn có lúc lại buông lung chán nản. Mình thật rất buồn vì điều đó.
Gần đây gia đình mình xảy ra nhiều chuyện, bản thân lại bị rất nhiều bệnh mình không còn tập trung niệm phật nhiều được. mình biết như vậy là không nên nhưng thật khó chiến thắng được bản thân mình.
Mình rất tin vào Phật pháp, cũng hiểu nhân quả, thiện ác và mỗi thời khóa niệm phật mình thường cầu xin chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ cho mình không mất tín tâm nhưng cách hành trì của mình vẫn vậy (2 thời sáng, tối) thời gian còn lại mình hay quên niệm phật.
Mình cầu xin các vị hãy giúp mình lời khuyên và mình phải làm thế nào để luôn giử câu Phật hiệu không quên. Xin cám ơn các thiện tri thức và thành thật cám ơn Đường về cõi tịnh.
Nam mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật
Mình có chút chia sẻ với bạn
1.Về cảm giác vui-buồn
-Đây chỉ là hai loại cảm giác đối đãi thuộc tính nhị nguyên do vọng tâm khởi lên.Lúc đầu khi bạn niệm Phật khá tinh tấn thì vọng sanh ra cảm giác vui phấn chấn.Nếu chỉ 1 lúc thì không sao nhưng lại để tâm dính mắc vào lâu,cuối cùng là bị ảo tưởng của cái vui vùi lấp đi danh hiệu Phật,bạn không còn tinh tấn nữa.Nhưng cái vui ấy cũng chẳng có thật,nó chỉ nương vào sự tinh tấn mà khởi hiện,nay sự tinh tấn mất đi thì nó cũng mất dần đi.Khi nó mất đi rồi,sự vắng mặt cái vui làm bạn trống rỗng vọng sanh ra cái buồn.Cái buồn nó cũng chỉ nương sự vắng mặt của cái vui mà hiện khởi.Cả hai đều là giả dối không có thật thể.Lâu dần sẽ rơi vào tình trạng vui cũng không phải,buồn cũng không phải,vui buồn lẫn lộn.Trường hợp này gọi là tiến lên tìm cái mới thì không có,trở về tìm cái cũ thì cái cũ đã mất tiêu.Vì cả mới-cũ đều là pháp sanh diệt,đáng lẽ ra ta phải bám vào pháp bất sanh diệt là câu A Di Đà Phật thì mới đúng.Người niệm Phật phải biết lìa bỏ cái cảm giác vui-buồn mà niệm Phật,nếu không chúng ta sẽ rơi vào cái bẫy ảo tưởng vui-buồn.Tất nhiên là khó nhưng ít ra về mặt lý thuyết cũng phải biết thì mới thực hành được.
2.Về thời gian niệm Phật
-Niệm Phật thì phải biết tùy duyên,nếu không tùy duyên ắt sẽ sanh ra phiền não.Chẳng hạn định ra thời khóa là tốt nhưng nếu hôm đó mình có việc bận thì mình có thể niệm khác thời khóa đi.
-Bạn vẫn giữ được hai thời khóa sáng tối như vậy là rất tốt.Bạn có thể áp dụng dụng thêm phương pháp thập niệm xen kẽ sáng tối,tức là bạn niệm nhanh 10 câu A Di Đà Phật-có thể ít hơn hoặc nhiều hơn,chỉ là tương đối thôi,không cần phải đếm,niệm chậm thì 10 s,niệm nhanh chỉ 5 s cho nên rất thuận tiện.Có thể niệm bất cứ chỗ nào không cần kén chọn,có thể là lúc dắt xe,lúc ăn cơm,lúc ngủ dậy,lúc lau nhà,lúc giải lao,…..
-Bạn đừng đánh giá thấp 10 niệm như vậy,đừng cho rằng 10 niệm là ít mà không niệm,nếu thành thói quen,bạn có thể niệm ít nhất được 50 lần 10 niệm như vậy xuyên suốt cả ngày.
-Mỗi một câu A Di Đà Phật,không phải là biệt lập với các câu A Di Đà Phật còn lại,mà các câu A Di Đà Phật vô ngại,tương tức tương nhập lẫn nhau,một câu A Di Đà Phật niệm thêm vào sẽ chứa đựng cả các câu A Di Đà Phật trước đó,thêm 1 hạt bụi là thêm cả thập pháp giới,nên đừng cho rằng 1 câu là ít mà không niệm.Tất nhiên tùy theo tâm thanh tịnh,công phu mỗi người mà sự vô ngại trong câu A Di Đà Phật khác nhau.Càng ít vọng tưởng,phân biệt,chấp trước thì sự vô ngại càng lớn.Tuy chúng ta chưa đạt đến cảnh giới này,nhưng dù sao cũng cứ nên nghĩ mỗi một câu A Di Đà Phật là chứa hết thảy các câu A Di Đà Phật còn lại,như thế ít nhiều cũng nâng cao được giá trị mỗi 1 câu A Di Đà Phật mà mình niệm.
-Niệm Phật thì đừng tự chướng ngại mình.Đừng để niệm xong A Di Đà Phật xong rồi lại khởi lên vọng tưởng mình niệm ít như thế này không biết có công đức gì không.Đáng lẽ ra bạn có 10 phần công đức nhưng vì có vọng tưởng này mà chỉ còn lại 3 phần.Thế nên nhất định phải tin tưởng vào mỗi câu A Di Đà Phật mình niệm
A Di Đà Phật
Xin cám ơn lời khuyên của bạn.
A DI ĐÀ PHẬT