Niệm Phật, được ly khổ đắc lạc. Nếu không cầu ra khỏi Ta bà, cầu sinh Tịnh độ thì trong biển khổ Ta bà chịu khổ muôn đời kiếp. Ta bà là thế giới cực khổ, khổ ấy vô lượng nói không cùng tận, nay chỉ lược nói tám khổ mà người đời không thể tránh khỏi.
1/ Sinh khổ: Người đời đều theo nghiệp chuyển mà thọ báo, do ba duyên hòa hợp: nghiệp duyên đời trước, duyên cha và duyên mẹ, thân trung ấm mới được đầu thai. Thấy cha mẹ giao cấu bỗng động dục niệm, do đó kết tưởng thành thai, bên dưới là Sinh tạng, trên là Thục tạng và giữa là bào thai. Lúc mẹ ăn thức nóng vào, bào thai phải bị chịu nóng rất dữ dội, tựa hồ như ở trong vạc dầu sôi. Khi mẹ ăn thức lạnh vào, bị thức lạnh áp bức không khác gì địa ngục hàn băng. Mười tháng ở nơi tối tăm, xung quanh chỗ nào cũng dơ uế, đó là Thai ngục. Lại lúc ra khỏi bào thai, phải chịu khổ của phong đao cắt thân (lạnh như dao cắt), cho nên đứa trẻ lúc mới sinh ra, khóc liền mấy tiếng: Khổ a! Khổ a! Phàm là người, không ai tránh khỏi cái khổ này.
2/ Già khổ: Ngày tháng trôi qua thì thân người cũng bị thời gian lão hóa, mắt mờ tai điếc, tóc bạc da nhăn, khí lực tiêu hao, thân thể khô gầy, chân run gối mỏi… việc gì cũng phải nhờ cậy người khác. Trên hội Lăng Nghiêm, Phật hỏi vua Ba Tư Nặc rằng: “Ðại vương cũng bị thời gian làm cho già nua sao?”. Vua đáp: “Nó thay đổi trong từng sát na nhỏ nhiệm, trẫm không nhận ra, Thu qua Ðông lại, đến nay trẫm đã thế này. Trẫm nhớ hồi còn trẻ, khí huyết sung mãn, nhưng nay răng hầu như sắp hết, tóc đốm bạc khá nhiều, chắc trẫm không còn trụ thế bao lâu nữa”. Như thế đủ thấy, tuy làm vua, quý như con trời, làm chủ cả bốn bể mà cũng không tránh khỏi lão khổ. Cổ nhân dạy rằng: “Giàu sang không thể mua tuổi trẻ, ngày tháng trôi qua tóc biến màu”.
3/ Bệnh khổ: Khi tứ đại bất hòa thì trăm bệnh phát sinh, thế gian ít có người suốt một đời không bệnh, cổ nhân dạy: “Bệnh đến mới biết thân là khổ, lúc mạnh hãy nên sống vì người”. Tạm không nói đến những căn bệnh trầm kha, khốc liệt, chỉ nhức răng chóng mặt thôi cũng đủ làm cho người ta đi đứng không yên, ăn ngủ sút giảm. Lấy đó để biết, hết thảy các bệnh không bệnh nào là không khổ. Thời Tam Quốc, Trương Phi là một người tính tình cương dũng, nói với Vũ Hầu rằng: “Trên đời này tôi chẳng sợ ai cả!”. Vũ Hầu viết một chữ “bệnh” đưa cho xem, hỏi: “Cái này chú có sợ không?”. Trương Phi ngước mắt nhìn Vũ Hầu, nói: “Ái chà! Cái này thì tôi đã đau khổ nhiều vì nó”. Ðủ thấy khi bệnh khổ đến thì anh hùng lực sĩ cũng không thể cưỡng chống lại chúng. Chúng ta lúc bệnh tật, nhất tâm niệm Phật, không vì bệnh khổ mà phiền não. Như vậy lúc mạng chung, trăm khổ hoành hành, chúng ta cũng được tự tại.
4/ Tử khổ: Kinh rằng: “Nhờ nhân duyên hòa hợp mà có thân này, khi nhân duyên tan rã thì thân hư dối này cũng diệt”. Ðã có sinh ra ắt có chết đi. Khi sinh thì giả mượn tứ đại làm thân, lúc chết thì tứ đại phân tán, dụ như con trâu sống bị lột da, đau đớn không cùng. Xương thịt gân cốt là Ðịa đại; máu mủ đàm dãi là Thủy đại; hơi ấm trong thân là Hỏa đại; hơi thở vào ra, tay chân động đậy là Phong đại. Lúc chết thì Phong đại đi trước nên hơi thở chấm dứt, tay chân không còn co quắp. Thứ đến là lửa rời khỏi thân nên thân thể lạnh ngắt. Ba là thủy đại, khi Thủy đại lưu xuất thì chỉ còn lại Ðịa đại là những gì thuộc về thân thể. Ngạn ngữ nói rằng: “Xương trắng đầu núi thành bùn đất”. Chết là một điều tất yếu mà đời người phải trải qua, không ai tránh khỏi. Chúng ta nay còn sống nên khéo quán sát, việc lớn của đời người là sinh tử chứ tiền muôn bạc vựa nào có ích gì, cho dù vợ con thương khóc cũng không cách gì cưỡng lại được. Giả như con đàn cháu đống, có ai thay cái chết cho mình.
Tôi thấy người khác chết
Lòng tôi như lửa thiêu
Chẳng phải xót cho người
Mà là tôi cũng chết.
Cổ nhân dạy:
Hồng hồng trắng trắng chớ dối nhau
Chẳng có ai thịt đỏ cả đâu
Chết đi không bằng trâu với chó
Nay thử nhìn lại tử thi xem.
Trâu dê chết đi, thịt của nó còn có người mua, con người chết thì ai cũng sợ.
5/ Thương yêu mà phải chia lìa là khổ (ái biệt ly khổ): Yêu tức yêu mến, con người yêu mến nhau bất quá là cha mẹ, anh em, vợ chồng, thân quyến, nếu phải xa nhau thì lòng như dao cắt. Gọi là: “Yêu nhau lắm hận nhau cũng lắm, vừa chia tay đã sẵn mối sầu”, không biết rằng đời người tụ tán vốn thuộc vô thường, có hợp tất có ly, có gì phải đau khổ. Xưa có lời dạy: “Cha mẹ ân sâu rồi cũng biệt, vợ chồng nghĩa nặng phải chia lìa; đời người tợ chim cùng trú ẩn, gặp đại hạn thời mỗi tự bay”.
6/ Ghét nhau mà phải sống chung là khổ (oán tắng hội khổ): Không thương yêu nhau mà phải sống chung là do chiêu cảm nghiệp đời trước; nặng thì kết oán cừu, nhẹ thời ghen ghét tật đố. Ghét nhau mà không xa nhau được, đó biết là do nghiệp lực sai sử, muốn xa nhưng lại sống cùng, hoặc là cha con, hoặc là anh em, hoặc là vợ chồng, hoặc là bè bạn… nặng thì thanh toán lẫn nhau, nhẹ thì chọc nhau gây gổ. Vì nhân duyên mà phải sống chung, không cách gì rời xa nhau được, cũng như người câm ăn Hoàng liên, đắng ngắt mà chỉ ấm ứ không thể nói ra. La trạng nguyên có thơ rằng: “Thị thị phi phi ngày nào rõ, phiền phiền não não lúc nào thôi”.
7/ Mong cầu không được như ý là khổ (cầu bất đắc khổ): Người đời ai cũng muốn toàn vẹn, nhưng vì bất túc nên sinh mong cầu. Nếu mong cầu được như ý thì hân hoan vui thích, ngược lại thì ưu sầu phiền não, cả ngày ủ rũ. Thế gian như vậy đều do si mê không tự tỉnh giác, phải biết được mất, giàu nghèo đều là nhân quả, há không nghe: “Thế sự luôn luôn như dòng chảy, chớ đem danh lợi quải trong lòng; cơm lạt áo thô tùy duyên độ, giàu sang vinh hiển chớ mong cầu”.
8/ Năm ấm không điều hòa là khổ (ngũ ấm xí thạnh khổ): Năm ấm tức năm loại lửa phiền não sắc, thọ, tưởng, hành, thức thiêu đốt tâm chúng sinh. Phiền não nếu nặng thì như ngọn lửa bốc mạnh. Hoặc theo nội căn ngoại trần mà khởi phiền não, thuộc sắc ấm; hoặc nương ngũ thức, lãnh nạp năm trần mà khởi phiền não, thuộc thọ ấm; hoặc theo ý thức, tưởng niệm pháp trần mà khởi phiền não, thuộc tưởng ấm; hoặc nương thức thứ bảy, luôn suy nghĩ đắn đo mà khởi phiền não, thuộc hành ấm; hoặc nương vào thức thứ tám, vi tế lưu chú mà khởi phiền não, thuộc thức ấm. Bảy loại trước là biệt khổ, nay chỉ nói một loại. Loại này là tổng khổ, tổng quát các khổ mà nói, thật là thế sự hết thảy đều là khổ, sao bằng sớm niệm Nam mô A Di Ðà Phật.
Trích Khuyên Tu Pháp Môn Niệm Phật
Biên soạn: Viên Anh Pháp Sư
Việt dịch: Thích Nguyên Anh
Mê nhiễm sắc dục phước báu liền tiêu
Ông Trần là người thông minh tài giỏi. Tướng mạo tuấn tú, con nhà phú quý, tính tình phóng khoáng, ăn nói rất có duyên, thu hút.
Lúc ông làm việc, người ta cả tháng mới bán được một hai sản phẩm, còn ông thì hằng ngày có thể bán tới bảy tám bộ sản phẩm. Ông rất có tài chào hàng, là bậc kỳ tài trong giới kinh doanh.
Thế nhưng ông lại có một tật xấu, là rất ưa chuyện mây mưa trăng gió, thường tìm kỹ nữ mua vui… ông kể đã truy hoan với rất nhiều cô.
Tôi là đồng nghiệp, thường cố gắng thuyết Phật pháp khuyên can ông.
Tôi nói: Người có phúc, lộc… nhiều mà đắm vào bao gái, ăn chơi sẽ làm suy phúc, còn người có phúc lộc mỏng ắt sẽ bị giảm thọ. Nhờ làm việc chung, ông cũng có chịu nghe lời tôi khuyên nên đối với nữ sắc có lưu tâm kềm chế.
Sau này ông dời đến nơi khác, cùng bạn bè hùn hạp mở tiệm, giao du toàn những người hiếu sắc, ăn chơi nên chẳng bao lâu lại đắm chìm trong sa đọa phóng túng.
Ông còn khoe là: Bạn bè luôn khuyên nên phá đời các thiếu nữ để tăng thêm may mắn. Do vậy mà các bé gái mới 12, 13 tuổi đã bị ông và đám bạn nhiễm nặng thuyết tàn nhẫn bất lương này xâm hại.
Tôi nghe xong rất buồn, vội khuyên ông dừng lại và giải thích rằng: Hành vi này không phải là việc xả xui giúp phát tài, hay tăng đại may mắn, mà chỉ càng hủy hoại phúc, lộc, quyền và khiến bản thân ông đoản thọ. Tuyệt đối chẳng nên tin theo tà thuyết này!
Nhưng ông vẫn cuồng tín không nghe, hăm hở bỏ tiền ra phá đời các thiếu nữ.
Sau đó khoảng chừng hai ba tháng, ông lái xe hơi mui trần đi ngao du cùng bạn tình thì bỗng bị xe tông, khiến ông văng lên cao mười mấy mét rồi té xuống, não dập nát bét, chết thảm đến kinh hồn.
Theo: Phụng Tây Ngô – Báo ứng hiện đời.
Cầu mong cho con và tất cả chúng sinh, đời đời kiếp kiếp, mãi mãi vĩnh viễn, hoàn toàn hết khổ.
Cầu mong cho con và tất cả chúng sinh, đời đời kiếp kiếp, mãi mãi vĩnh viễn, thành tựu được từ bi và trí tuệ như chư Phật chư Bồ Tát đã thành tựu.
Gắn danh hiệu Phật nơi nào có nhiều người chết bất đắc kỳ tử, nơi ấy sẽ bình an
Lấy miếng Sắt Tây trắng, gắn vào một cây cột , viết chữ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT bằng tâm cung kính, từ bi,sau đó đến chỗ cao ráo sạch sẽ trong vùng đất , dựng lên. Do nhờ tấm lòng từ bi, muốn cứu giúp chúng sanh oan hồn uổng tự không còn phải chịu cảnh thế mạng oan uổng , ngay nơi Tâm này đã tương ưng với Tâm của Đức Phật A DI ĐÀ, hơn nữa trong Danh Hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT này, vốn là ĐỨC HIỆU của Chân Tâm Bổn Tánh , của Quang Minh, Thọ Mạng vì thế luôn luôn phóng quang , mắt thường chẳng thể nhìn thấy. Từ đây về sau nhờ oai thần bổn nguyện của Đức A DI ĐÀ PHẬT, nơi này sẽ Vĩnh viễn không còn hiện tượng chết trùng lặp nữa.
Ấn Quang Đại Sư dạy: Nơi nào có tai nạn chết người,nên vẽ khắc chữ A DI ĐÀ PHẬT tại nơi đó nhờ oai thần nguyện lực của đức từ phụ sẽ hoá giải nghiệp chướng cho những vong hồn nơi đó.Nương nơi công đức đó mà họ được siêu thoát, nếu không nơi đó sẽ sẩy ra tai nạn hàng năm! Vì thế một câu A Di Đà Phật bất khả tư nghì, chúng sanh nào may mắn mới gặp được, vì một câu phật hiệu qua tai thì Bồ Đề muôn thủa. Tương lai nhất định vãng sanh cực lạc
ẤN QUANG ĐẠI SƯ
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nhờ Thế Tôn mà chúng con biết đường con đường này, con đường thoát khổ được vui. Chúng con xin đảnh lễ cảm tạ Thế Tôn, người mở ra đạo màu Vô Ngã. Con nguyện đời đời đi theo Chánh pháp của Thế tôn, nguyện trọn lòng tôn kính Thế Tôn và các Hiền Thánh Tăng.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Con xin cảm tạ Thế tôn, nhờ giáo pháp của Thế tôn mà chúng con biết được Pháp môn Niệm Phật thoát khổ được vui!
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô quán âm bồ tát
Xin thầy cô cho con hỏi là con đã trì danh hiệu quán âm bồ tát hơn 10 năm cũng xin quán âm hoá giải mọi oan gia trái chủ của đời con và 3 lần mộng thấy quan âm vậy sao con không quên được việc xấu hổ lúc con còn 7 đến 9 tuổi
A Di Đà Phật
Gửi bạn Nguyễn Đăng Kiêm,
*Quên sạch quá khứ, đặc biệt là quá vui, quá đau buồn là điều chẳng thể, trừ khi bạn đắc quả A La Hán. Còn phàm nhân chúng ta, đang trên đường tu đạo thì việc quán chiếu quá khứ để rút bài học cho hiện tại mà hướng tới tương lai là điều quan trọng.
*Tâm chúng ta luôn tồn tại hai đối cực: Vui=yêu thích; Buồn=chán ghét. Cả 2 tâm ưa, ghét đều là phiền não tâm. Muốn chuyển hoá phiền não không phải chờ phiền não khởi mới lập tức niệm Quán Thế Âm hay niệm Phật; trái lại, tâm luôn thường quán yêu-ghét đều đem đến đau khổ cả, vì thế muốn tâm không vướng kẹt vào đau khổ thì cả yêu và ghét đều không ngả theo.
VD: khi chuyện buồn quá khứ thường khởi, lẽ thường, tâm chúng ta sẽ phóng theo những ý niệm đó rồi suy diễn đủ mọi loại hình trạng. Nay tu đạo rồi, ngay khi nó khởi, lập tức niệm Quán Thế Âm hay niệm Phật để đánh bạt ý niệm đó. Muốn thế, thường ngày, mọi nơi chốn bạn đều phải thường niệm thì những phiền não niệm kia sẽ không có cơ hội dấy khởi.
HT Tịnh Không thường nhắc: Nếu quý vị thường nghĩ đến tội lỗi của mình thì quý vị không thể chuyển hoá được nghiệp. Tại sao? vì chúng ta găm chặt tội lỗi đó trong tâm, quyết không tháo giỡ khỏi tâm. Vì thế mỗi lần nhớ đến nó là thêm một lần gây tội.
*Hàng ngày bạn sám hối là để đoạn cũ, tạo mới, sửa ác, hành thiện. Nhưng sám hoài mà vẫn để cái ác, cũ tồn tại trong tâm thì đó thực không phải sám hối.
*Bạn hãy cho mình một cơ hội để sửa sai; 1 cơ hội để làm lại chính mình. Tại sao có thể khởi tâm từ bi hỉ xả đối với người khác, nhưng với chính mình thì không có=nghịch đạo.
Quán Thế Âm có nguyện thứ 6 là: Đại từ bi, năng hỉ xả và thường hành bình đẳng nguyện. Bạn niệm hồng danh Ngài 10 năm nay mà chưa phá được chút chuyện quá khứ=bạn chưa thực biết hành hạnh từ bi hỉ xả và chưa thực biết hành bình đẳng nguyện. Tâm chúng sanh trong bạn cũng rất cần được độ, chẳng phải chỉ năng độ chúng sanh bên ngoài mà quên mất, trong ta là vô lượng chúng sanh đều rất cần độ và bình đẳng độ.
Chúc bạn tỉnh giác và an lạc.
TN