Vào đời Thanh, tại Thượng Hải, phu nhân của một viên ngoại họ Trương mắc phải một chứng bệnh nan y, danh y trong vùng đều phải bó tay. Sau cùng, viên-ngoại mời được một lương y từ Giang-Nam đến. Lương y bắt mạch xong, liền ra một toa thuốc, trong đó phải dùng đến 100 cái lưỡi của chim bồ câu. Viên ngoại sai người ra chợ mua 100 con chim bồ câu về, đợi sáng hôm sau cắt lưỡi làm thuốc cho vợ mình. Trong đêm hôm đó, vợ của vị viên ngoại nằm trên giường bệnh, nghe thấy tiếng chim bồ câu kêu, rất lấy làm lạ, bèn hỏi nguyên do. Viên ngoại đáp rằng:
– Trong toa thuốc của vị danh y cần phải dùng đến 100 cái lưỡi chim bồ câu, như thế bệnh của phu nhân mới khỏi được, nên mua chim về nhà để ngày mai làm thuốc cho phu nhân uống.
Trương phu nhân nghe xong bèn chảy nước mắt và nói:
– Khi uống toa thuốc này, bệnh của thiếp có khỏi hay không cũng chưa được biết, nhưng sinh mệnh của 100 con bồ câu đều vì thiếp mà chết. Giá như thang thuốc này trị được bệnh của thiếp, thiếp cũng không nỡ, xin phu quân hãy thả chim đi, để chim được tự do.
Trương viên-ngoại nghe lời của người vợ, sai người nhà mang chim ra thả. Và lạ thay, vài ngày sau, cơn bệnh của Trương phu nhân không thuốc mà khỏi. Về sau sinh được hai người con trai.
Châu Văn-Vương là một chư hầu của nhà Thương, được phong ấp tại Kỳ-Sơn. Văn-Vương dùng lý để dạy người, dùng đức để cảm hóa dân. Kế Kỳ-Sơn là hai nước Ngu và Nhuế. Hai nước này thường tranh chấp về một miếng đất nhỏ ở vùng biên giới, hai bênh đánh nhau lâu năm mà vẫn không phân thắng bại, sau cùng vua Ngu và vua Nhuế đều đến Kỳ- Sơn nhờ Văn-Vương làm trọng tài để xét xử. Khi đặt chân vào đất Kỳ-Sơn thấy dân chúng nơi đây kẻ nhúng người nhường, giúp đỡ lẫn nhau trong việc canh tác, vua Ngu và vua Nhuế nhìn nhau, hai người đều cảm thấy hổ thẹn. Vua Ngu nói rằng:
– Hai ta là kẻ tiểu- nhân, không xứng đáng bước vào đất của người quân-tử, nông phu ở đây còn biết lễ nghĩa như vậy, hai ta là vua một nước chỉ vì một miếng đất nhỏ mà tranh chấp thấp hèn như thế, còn mặt mũi nào đi gặp Văn-Vương.
Vua Nhế cho lời nói của vua Ngu là đúng, sau cùng hai bên bèn đem mảnh đất tranh chấp lâu năm tặng cho Văn-Vương mà thôi việc đánh nhau. Vì bị đức của Văn-Vương cảm hóa, hai nước Ngu và Nhuế tránh được nạn đao binh và sống trong cảnh thanh bình. Đức của Văn-Vương lớn thay.
Trích Thái-Thượng Cảm-Ứng-Thiên
Thích nghĩa: Nên hành việc thiện để tích đức lũy công, phải thương yêu loài vật. Trung thành với tổ-quốc, hiếu thảo với cha mẹ, hòa mục với anh em, tu thân sửa mình để cảm hóa người.
Chú: “Tích” chỉ về sự góp nhặt từ ít đến nhiều, “lũy” là sự chồng chất từ thấp đến cao, “đức” là phần nội, là phần đức hạnh, tức là chánh-kỷ, “công” là phần ngoại tức là hóa-nhân. Công đức do sự tích lũy mà thành, chớ vì việc thiện nhỏ mà không làm, núi cao đều do cát đá chồng chất, tích tụ mà thành.
DUYÊN VỢ CHỒNG VÔ CÙNG NGẮN TẠM, XIN ĐỪNG LƯU LUYẾN.
Chúng ta sống trong thế gian này tỉ mỉ mà quan sát giữa con người với nhau, báo ân thì ít mà báo oán thì nhiều, cha con người nhà cũng không ngoại lệ, báo oán thì nhiều. Quan hệ vợ chồng hiện nay thử xem ở trong và ngoài nước nơi nơi đều thấy, bạn xem tỉ lệ ly hôn đó cao cỡ nào? Mới đầu chẳng phải rất tốt hay sao ? Qua vài ngày là trở mặt, liền biến thành oan gia đối đầu rồi, cho nên chúng ta phải luôn nhìn cho rõ ràng, là giả đấy chứ không phải thật, không nên quá coi trọng.
Con người sống trên thế gian này có mấy mươi năm cũng giống như người lữ khách vậy, ở vài ngày rồi ra đi, hà tất phải quá coi trọng với cái nơi này chứ? Kết oán thù với họ như vậy thật chẳng có ý nghĩa gì cả, đây là cái lỗi lầm lớn nhất. Thường luôn nghĩ rằng ta là lữ khách, ta là khách, chỉ mấy ngày rồi phải ra đi, cùng chung sống thật vui vẻ với mọi người vậy thì tốt biết bao? Bất kể việc gì không vừa ý thảy đều tha thứ cho họ, không nên để ở trong lòng như vậy mới tự tại.
“Nhân tại ái dục chi trung, độc sanh độc tử độc khứ độc lai, khổ lạc tự đương vô hữu đại giả”. Đây là chân tướng sự thật cần nên hiểu rõ. Một người sống trên thế gian này ở trong lục đạo, đều là tự mình tạo nghiệp tự mình thọ báo, có thể nói là bất kể chúng ta ở trong đời này là rất hạnh phúc hoặc giả là rất khổ não đều là tự làm tự chịu, dứt khoát không thể oán trời trách người là không nên, đều là tự mình tạo nghiệp tự mình đang thọ báo.
Cho nên, sanh tử một mình đến đi cô độc không có người làm bạn. Vợ chồng đằm thắm ân ái thế nào lúc mạng chung cũng đều chia biệt cả, cũng không còn biết nhau nữa, cũng không còn thấy nhau nữa, đây là sự thật nhất định phải biết. Tại sao vậy? Hai người họ tạo nghiệp khác nhau họ sao có thể đi đến một đường được? Cho nên khổ lạc tự đương, chữ “tự đương” này chính là tự mình làm tự mình chịu không ai có thể thay thế được.
“Thiện ác biến hóa, truy trục sở sanh, đạo lộ bất đồng, hội kiến vô kỳ”. Đây là nói một người sau khi chết rồi đi luân hồi, mỗi người đều đi theo nghiệp của riêng mình. “Thiện ác biến hóa”, thiện có quả thiện, ác có ác báo, truy trục cái nghiệp lực này đang chi phối bạn, khiến bạn đến nơi đó để đầu thai, “đạo lộ bất đồng hội kiến vô kỳ”.
Cho nên bạn hiểu rõi cái sự thật này bạn mới hiểu được thế giới Tây Phương là đáng quý. Thế giới Tây Phương đích thực là nơi mà đồng tu bạn tốt người thân chúng ta trong đời quá khứ đã niệm Phật vãng sanh. Chúng ta đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đây mới là nơi thường hay tụ hội với nhau, nếu như không sanh đến thế giới Tây Phương, muốn tương lai đời sau gặp được lại nhau đó là vọng tưởng của bạn chứ không phải sự thật, sự thật là “hội kiến vô kỳ” đây mới là sự thật.
Lão hòa thượng Tịnh Không
Nếu ăn uống không tiết độ sẽ hao tổn phước báo, Chủ Thực thần không hoan hỷ
Vị thứ mười sáu Chủ Thực Quỷ Vương, tập tục trong dân gian gọi là Thần Ngũ Cốc, hay là phần nhiều gọi là Táo Thần (ông Táo, thần bếp) chính là vị này, chuyên môn cai quản việc ăn uống trong dân gian, ông chuyên cai quản việc này. Cũng thuộc về những gì mà phần đông chúng ta gọi là phước báo, phước báo này nặng về việc ăn uống, đây là việc trong đời sống hằng ngày bất cứ người nào cũng chẳng thiếu. Sự ăn uống trong nhà Phật có lễ tiết. Trước khi ăn phải dùng tâm thanh tịnh, cung kính để cúng dường, đây là sự chí kính đối với loại quỷ thần, hy vọng họ có thể gia trì, bảo hựu.
Nếu chúng ta ăn uống chẳng điều độ, chẳng biết lễ tiết thì những vị Chủ Thực Thần này sẽ chẳng hoan hỷ. Nếu lại chà đạp lương thực thì tội lỗi này rất nặng. Phải biết trên thế gian này có rất nhiều địa phương bị đói khát, chúng ta có đồ ăn uống, có nghĩ đến những người bị đói khát hay không? Nếu mỗi khi ăn uống đều có thể nghĩ đến thì đó là tâm từ bi tỏ lộ, đây tức là tích lũy công đức. Có tâm niệm này rồi, khi gặp những tai nạn này thì bạn nhất định sẽ cứu giúp, giúp đỡ, đừng coi thường chuyện này. Thánh hiền thế gian và xuất thế gian đều nói với chúng ta, dạy chúng ta phải ngăn chặn sai lầm ngay từ đầu mới có thể tránh khỏi hết thảy tai họa. ‘Vi tiệm’, vi là nhỏ nhiệm, tiệm nghĩa là chậm chạp, những việc nhỏ này mà bạn chẳng phòng bị thì dần dần sẽ biến thành tai họa lớn.
Cho nên phải giữ tiểu lễ, phải phòng ngừa những lỗi nhỏ, nếu không phòng ngừa lỗi lầm nhỏ thì dần dần sẽ biến thành tai họa lớn, chúng ta phải hiểu đạo lý này. Cổ thánh tiền hiền nói về chữ ‘vi’ (tinh tế, mầu nhiệm, nhỏ, ẩn dấu), ‘vi’ nghĩa là khởi tâm động niệm, phải phòng ngừa từ chỗ này. Phàm những chuyện không lợi cho chúng sanh, chẳng lợi cho xã hội, thì một niệm (niệm đầu) ấy không được khởi, nếu khởi một niệm ấy thì tuyệt đối sẽ có hại cho mình. Niệm niệm đều có thể vì chúng sanh, vì xã hội thì nhất định sẽ có lợi ích.
Tuy trước mắt bạn chẳng nhìn thấy sự lợi ích này, quỷ thần đã nhìn thấy rất rõ ràng, đã ghi chép rất rành rẽ, tích tiểu thiện sẽ thành đại thiện, tích tiểu công thì thành đại công, tích lũy càng sâu dầy, tích lũy càng nhiều thì ngay đời này sẽ thọ báo, chẳng cần đợi đến đời sau. Trong Liễu Phàm Tứ Huấn chúng ta thấy, sau khi ông Viên Liễu Phàm hiểu rõ đạo lý, cả nhà đều tu tích công đức, ông được quả báo ngay hiện đời. Trong mạng ông chẳng có công danh, công danh lúc trước tức là thi đậu học vị tiến sĩ, học vị cao nhất này trong mạng ông vốn chẳng có, trong mạng ông chỉ có tú tài; sau này ông đậu cử nhân, đậu tiến sĩ đều do đời này tu được. Trong mạng chỉ sống tới năm mươi ba tuổi, ông sống đến bảy mươi mấy tuổi, ông chẳng cầu trường thọ; trong mạng chẳng có con cái, ông lại được hai người con trai ngoan. Ðây đều do mạng hiện đời chuyển trở lại, ông tu tích nhiều, đây là gương tốt, mô phạm cho chúng ta.
Cho nên người thế gian, thường thường người nghèo khốn còn có thể tu phước, còn vui làm phước, còn người giàu có lại sơ ý bỏ qua, chẳng biết tu phước, chúng tôi đã thấy rất nhiều. Người càng có tiền lại càng keo kiệt, càng chẳng dám xả, khi họ xài tiền thì nhất định phải có lợi cho họ, những gì chẳng đem lại lợi ích hiện tiền cho họ thì họ chẳng chịu xài, họ rất coi trọng danh lợi. Người như vậy hưởng phước hết rồi thì chẳng còn phước dư, đời sau phải chịu tai ương, trừng phạt.
(Trích: Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Giảng Ký, tập 28)
Khi chết chúng ta mang theo được gì?
Người chân chánh phát tâm niệm Phật, trong thời đại loạn động này, nhất định phải nhận thức rõ ràng. Nhà Phật thường nói: “Mọi thứ đều không thể mang theo, duy chỉ có nghiệp theo ta mà thôi”. Chúng ta phải suy ngẫm, hiểu rõ câu này. Sau đó mới biết làm thế nào để dụng công, làm cách nào để tu trì.
Phàm những thứ không mang theo được, quyết định không để nó trong lòng. Những gì có thể mang theo, quyết định phải tranh thủ từng giây từng phút, nhất quyết không để thời gian trôi qua một cách lãng phí.
Những gì có thể mang theo? Đoạn ác tu thiện, tích công lũy đức, đều có thể mang theo. Đây là việc thiện nhỏ của thế gian! Chư Phật Như-Lai còn kỳ vọng ở chúng ta đạt điều thiện lớn, đó là thành Phật, thành Bồ-tát. Thành Phật, thành Bồ-tát nhất định phải thâm tín Tịnh-Độ, niệm Phật vãng sanh.
Làm thế nào mới đạt đến chỗ “Lão Thật”? Nhất định phải buông xả vạn duyên. Trong mọi thời, mọi nơi, mọi cảnh, duy trì tâm chân thành, thanh tịnh, từ bi của mình. Câu “A-di-đà Phật” hãy thời thời khắc khắc giữ mãi trong tâm. Gặp chúng sanh nào hữu duyên, chúng ta hãy chân thành, cung kính, hoan hỉ đem pháp môn này giới thiệu cho họ, khuyên mời và khuyến khích họ tu. Đây chính là chân thật cúng dường. “Trong tất cả cúng dường, cúng dường pháp là tối thắng”.
Có như thế mới tương ưng với bổn nguyện của đức Phật A-di-đà, với chư Phật Như-Lai. Phải tu học như vậy thì thời gian trong một ngày của chúng ta mới không bị luống qua. Trong một ngày đó thân tâm của chúng ta chắc chắn được thanh tịnh, pháp hỉ sung mãn và được cảm ứng đạo giao với chư Phật Bồ-tát.
Lời khai thị của pháp sư Tịnh-Không
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Nhờ Người đến soi sáng thế gian này mà chúng con biết được con đường thoát khổ. Con xin kính lạy người đời này và mãi mãi về sau. Con xin sám hối những tội nghiệp đã gây ra nhiều đời nhiều kiếp làm đau khổ cho những người quanh con. Con xin làm nhiều việc phước thiện để bù đắp lại những nghiệp xấu mà con đã gây ra trong nhiều đời nhiều kiệp
NHỮNG ĐIỀU CẤM KỴ Chuyện cảnh giác (ai cần thì xem)
Tôi nhắc lại những điều cấm kỵ có vẻ như rất cũ, (xem như tôi nói dai, nói hoài) nhưng vì luôn có nạn nhân mới thường xuyên nên tôi buộc phải nhắc lại.
1 – Nếu bạn đi ngang mồ, bàn vong chùa mà thấy ảnh đẹp, người chết trẻ, thậm chí chết lúc mấy tháng, 1-2 tuổi, hay thanh niên, trung niên, bạn chớ dại dột khen họ đẹp, dễ thương, chết uổng. Vong sẽ theo bạn và ám suốt, đến mấy mươi năm hay cả đời, trừ phi bạn may mắn được cứu. Mà không phải ai cũng may mắn được cứu.
Gặp những trường hợp bị vong đeo ám, nạn nhân có thể tự ăn chay, trì chú đại bi, chú Lăng Nghiêm tự cứu, nhưng thông thường họ dễ bị phần âm làm cho suy yếu mất tự chủ khó tự cứu, vì vậy bạn nên giữ mồm miệng trước mồ mã, hình vong, nơi có tai nạn chết người.
Nếu bạn là người yếu vía, gặp nơi xảy ra đụng xe chết, vớt người chết đuối, cắt dây kẻ thắt cổ… bạn chớ bu lại xem, dù bạn không nói, chỉ nghĩ thôi… hoạ cũng có thể ập xuống đầu bạn.
Từng có một chàng trai vào chùa cúng cho người thân, vô tình buột miệng khen hình vong nữ: Đẹp quá mà chết uổng!
Thế là từ đó vong cô gái này theo ám anh ta suốt ba mươi năm, mà anh không hay, sau đó mới được cứu.
Từng có thanh niên vào chùa tập tu, lỡ buột miệng khen em bé gái hai tuổi trên bàn vong: Bé này đẽ thương mà chết uổng quá!
Nhưng bé đí trong cảnh âm đã lớn, nó biến thành thiếu nữ đêm nào cũng ngủ với anh thanh niên cả tuần, sau nhờ thầy Trụ trì biết chuyện dạy anh trì chuẩn đề trước khi ma đến ngủ, nhờ vậy mà anh thoát nạn.
2- DÙ Ở ĐÂU CŨNG PHẢI CẨN NGÔN
Từng có một thiếu nữ rất xinh đẹp mười sáu tuổi, ra công viên chơi tối cùng bạn. Khi nghe cô bạn nói vùng đất này xưa là nghĩa trang sĩ quan. Thiếu nữ liền nói: Vậy là có trai đẹp?
Nhưng khu này có con quỷ rất dữ, nghe thiếu nữ nói nó liền theo ám và hôn miệng cô khiến miệng cô sinh dòi và bốc mùi hôi thúi. Sau đó nửa tháng thì cô chết, không cứu được.
Khi cô thốt: ‘Vậy là có trai đẹp?”
Câu nói này phát xuất từ tà tâm, câu dẫn quỷ dục tới, chiêu hoạ sát thân cho cô bé
Từng có đám thanh niên đang ăn nhậu ở đầu làng, tình cờ thấy xe tang cô gái trẻ đi ngang. Họ thuận miệng bàn tán, phê bình người chết xấu, đẹp…
Tâm là người hiểu biết, gạt đi:
-Đừng nói về người chết, không hay đâu! Bàn chuyện khác đi!
Dũng phản đối: Mắc chi phải sợ? Con nhỏ chết đó tao lấy nó còn được.
Sau đó Dũng bị vong người chết nhát đến sợ quá trở nên điên khùng. Thành kẻ thần kinh ngây dại suốt đời.
3 – ĐI ĐƯỜNG KHUYA KHÔNG NÊN HÁT
Thắng chạy xe từ thành phố về Long An đêm giao thừa, còn hai cây số nữa thì tới nhà. Lúc này đã 2-3 giờ khuya. Buồn miệng, Thắng nghêu ngao hát:
Bằng lòng đi em, về với quê anh…
Bỗng nghe tiếng cười khúc khích vang lên, Thắng cảm giác lưng mình như bị ai ôm chặt.
Về nhà, từ đó Thắng bị vong nữ theo ngủ, ám suốt. Sau đó Thắng phải vào chùa, trì ĐẠI BI mấy tháng mới tự cứu mình thoát ma ám.
Tóm lại, khi đi đường gặp đám ma hay tai nạn, gặp xác chết… bạn chỉ thầm tụng chú Vãng sanh là ổn.
Nếu chạy xe trên đường, thay vì hát tình ca nghêu ngao, bạn nên niệm Phật hay tụng chú hộ thân, sẽ tốt hơn.
Nếu bạn tinh thần thể chất đều mạnh thì không bị vong âm quấy, nhưng nếu bạn yếu vía rất dễ bị họ làm phiền. Do vậy nên thường xuyên niệm Phật hay tụng chú để hộ thân, lâu ngày thần trí vững, định lực cao, sẽ rất tốt cho bạn.
Nguồn: Huu Duyen thì gặp
Phước Báo Hiện Tiền
Ngày xưa ở xứ Hòa Na, dân chúng phần nhiều tín ngưỡng Phật giáo. Có vợ chồng chàng Kế Sa La cũng nhờ ảnh hưởng tinh thần ấy, mà nổi tiếng đôi vợ chồng hiền đức.
Nhà Kế Sa La rất nghèo, hằng ngày phải vất vả hai sương một nắng, tranh đấu với bát cơm manh áo; nhưng vợ chồng vẫn vui vẻ thân mật, an phần trong cảnh thanh bần, không bao giờ vì tiền tài danh vọng, mà làm hoen ố được lòng trong sạch của đôi vợ chồng chàng. Ngoài ra, chàng lại không quên đem chánh pháp mà mình đã hiểu biết, khuyến khích mọi người trở về đường thiện; mà chàng có thể đảm đương.
Thuở ấy, miền ngoại ô xứ Hoà Na vừa bị mất mùa, lại thêm nạn tật dịch, nên dân chúng miền ấy đói và chết rất nhiều. Các nhà hảo tâm trong xứ hiện thời, hoặc chung hoặc riêng, đến chùa tổ chức nhiều cuộc bố thí. Trước nhờ các Tăng sĩ cầu nguyện cho những kẻ vừa bỏ mình vì tật dịch được siêu thoát và nạn tật dịch đương hoành hành mau chấm dứt; sau đem các phẩm vật phân phát cho các nạn nhân đói khổ.
Vì vất vả theo sinh kế, vả lại cũng ít lui tới các phương xa, nên nạn tật dịch đói kém hoành hành ở ngoại ô vợ chồng Kế Sa La không hay biết gì cả.
Theo lệ thường, sáng nào Kê Sa La cũng cùng vợ chia nhau đến các nhà điền chủ để làm mướn. Nhưng lạ thay, sáng nay Kế Sa La đi một đoạn đường lại gặp những vị trưởng giả, khăn áo chỉnh tề, theo sau những tên gia đinh hì hục mang gánh gạo cơm mền áo… gặp hai ba phen như thế, Kế Sa La khống ngớt ngạc nhiên, dừng lại hỏi: Chàng mới biết vùng ngoại ô đang bị nạn và những bậc trưởng giả này đem các phẩm vật đến chùa để mở cuộc bố thí. Bị kích thích bởi tình đồng loại, lại thêm tủi cho số phận nghèo nàn của mình; trong khi đồng bào đang lâm cơn đói khổ mà mình không có một quan tiền, một đấu gạo, một viên thuốc đỡ đần. Càng nghĩ chàng càng đau đớn sầu tủi! Trong trí chàng hiện ra nhiều dấu hỏi: làm thế nào có tiền để giúp đồng loại? Và chàng nguyện rằng: nếu làm cách nào có tiền gạo để bố thí dù thân bị đọa đày suốt đời chàng cũng vui lòng đổi lấy. Ðến đây, Kế Sa La không còn thiết gì đến ăn làm nữa, lủi thủi về nhà.
Tối đến vợ chàng về, thấy chồng mặt mày ủ rũ, ngồi một mình thở ngắn than dài hình như bất đắc chí vì một việc gì… Chị vợ lo sợ hỏi chồng, nhưng chàng tìm cơ thối thoát không trả lời, vì chàng biết trước rằng: nếu đem sự thật nói với vợ, đã không ích gì mà lại gieo thêm cho vợ mối sầu tủi như mình, nhưng sau hai ba phen thiết tha gạn hỏi của vợ, Kế Sa La không nở giấu giếm nữa mới đem đầu đuôi câu chuyện thuật lại vợ nghe. Vợ chàng không kém gì chàng, cũng sầu, cũng tủi, cũng thở than như chàng! Nhưng sau một hồi suy nghĩ, chị vợ hăng hái nói: nếu chàng bằng lòng chị ta sẽ đến giúp việc cho các nhà phú hộ, thế nào cũng nhận đặng một số tiền, để làm việc bố thí. Kế Sa La không tán thành, và chàng không nở để cho vợ: nữ nhi yếu ớt một mình đem thân thể làm tôi mọi người.
Chị vợ lại nói: Hay là cả chúng ta đều đến ở giúp việc cho một nhà đại phú, trước nhận được một số tiền lớn để bố thí, sau có thể giúp đỡ nhau trong những công cuộc nặng nề. Ý kiến này được Kê Sa La hoan hỷ tán đồng. Thế là sáng mai đôi vợ chồng Kế Sa La lên đường đến một nhà đại phú ở cạnh làng, xin giúp việc và nhận trước một số tiền.
Vốn nghe vợ chồng Kế Sa La là người hiền đức, nên nhà đại phú kia bằng lòng ngay và cho vợ chồng Kế Sa La mượn trước một năm quan tiền, lại được phép về nhà bảy ngày để sắp đặt công việc; và nếu trong bảy ngày ấy vợ chồng Kế Sa La đem đủ số tiền hoàn lại ông, ông cũng vui lòng trả quyền tự do cho vợ chồng chàng.
Tiền bạc giấy tờ, vợ chồng Kế Sa La hết sức vui mừng, đi vào chợ mua các phẩm vật… và đến chùa Ðàn Ba gần đấy, xin thiết lập cuộc bố thí ngay tại chùa, sau sáu ngày chú nguyện, đến ngày thứ bảy sẽ phân phát các phẩm vật.
Việc làm ấy rất thích hợp với hạnh Từ Bi, lại thấy lòng chí thành của vợ chồng Kế Sa La, nên các Tăng sĩ trong chùa đều tận tâm giúp đỡ, để cho cuộc bố thí này được thập phần viên mãn.
Chiều ngày ấy, Quốc vương bản xứ cũng cho người chuyên chở rất nhiều phẩm vật đến chùa Ðàn Ba mở hội và cũng định ngày thứ bảy bố thí. Vị Trú trì chùa Ðàn Ba tâu vua: ngày ấy đã có vợ chồng Kế Sa La định mở hội trước rồi, yên cầu nhà vua chung vào hội bố thí ấy, nếu không xin hoãn lại ngày sau. Nhà vua phán: Trẫm thiếu gì tiền bạc mà phải chung chạ với người khác và trẫm đây đường đường một vị quốc chủ, Kế Sa La nào đó lại không vì trẫm mà nhường cho trẫm được như nguyện, hay sao? Vị trú trì đem lời thuật lại với vợ chồng Kế Sa La.
Kế Sa La nhờ vị trú trì tậu lại nhà vua: Vợ chồng chàng xin chịu tội, chứ không thể thay đổi cuộc bố thí qua ngày khác.
Với ý định kiên quyết ấy, nhà vua hết sức ngạc nhiên, cho đòi vợ chồng Kế Sa La vào hỏi. Tiếp diện nhà vua, Kế Sa La đem hết cả sự tình tâu rõ là: Vợ chồng chàng đã bán mình cho một nhà địa chủ lấy tiền mở hội bố thí, đến ngày thứ tám đã chính thức làm tôi tớ cho người, không còn đi lại tự do nữa.
Nghe xong câu chuyện, nhà vua hết sức cảm phục cử chỉ của vợ chồng Kế Sa La. Ngài bùi ngùi than rằng: nếu trong quốc độ này mà được nhiều người có “tâm từ” như vợ chồng Kế Sa La, thì còn đâu những kẻ tham lam ích kỷ, lường gạt đồng bào và còn đâu những kẻ bơ vơ trong xó chợ đầu đình, lê mình khắp xứ, mà không đủ chén cơm lót dạ, manh áo che thân!
Tức thì nhà vua lại sai người đem vàng bạc ra ban thưởng và hạ chiếu cấp cho vợ chồng Kế Sa La được trọn đời hưởng quyền lợi trong mười xã. Ngài lại kêu vợ chồng Kế Sa La đến phán rằng: “Ðây là PHƯỚC BÁO HIỆN TIỀN” của hai người đó và trẫm vui lòng nhượng hai người mở cuộc bố thí vào ngày thứ bảy để cho hai người được toại nguyện”.
Vợ chồng Kế Sa La cảm động lạy tạ ơn vua. Và đôi vợ chồng ấy, không quên niệm hồng ân đức Phật đã tác thành cho vợ chồng chàng: “đức tánh Từ Bi, nâng cao Ðạo sống”. Nên nay mới gặp nhà vua đức độ, đem lại cho vợ chồng chàng đến cuộc đời sung sướng giàu sang.
Thuật giả: Thích Ðức Tâm
Trích: Truyện cổ Phật giáo
Dắt một người mù qua đường, cho người đứt tay miếng giẻ rách, lượm cây gai giữa đường, cho con kiến hạt cơm, đều gọi là bố thí.
Trường Kỳ Thủ Dâm Sẽ Tàn Phá Sự Nghiệp, Sức Khoẻ và Hạnh Phúc Gia Đình.
_()_
(Quý vị nào hoặc không thủ dâm, tà dâm hoặc đang phạm tà dâm, thủ dâm hoặc đang tu sửa hành vi thủ dâm, tà dâm, đều khuyên quý vị nên đọc qua một lần).
Tôi là một thanh niên hư tệ có tiền sử thủ dâm vô sỉ 21 năm. Thuở bé tâm rất tà, 7 tuổi phóng hỏa đốt cỏ khô trong trường trung học gây tổn thất lớn cho chính phủ địa phương. Thời tiểu học đã ưa ghép đôi các bạn. Trong một lần chơi đùa hạ thể bị thương, sinh tật tè dầm đến 12 tuổi.
Năm 1982 theo phụ thân đến Đông Bắc học trung học.
Năm 1985 tại trường chuyên khoa xem truyện tình dục, sex chép tay, từ đó nhiễm thói thủ dâm, tính đến nay đã 21 năm.
Việc học sa sút, chưa tốt nghiệp đã ra đời đi làm, chơi toàn bạn xấu, rủ nhau cùng xem nhiều tranh lõa thể, kích dục, khiến thân tâm càng bị ảnh hưởng nhiễm ô băng hoại tổn thương thêm.
Làm việc luôn gặp trở ngại bất lợi, chẳng giữ được tiền, vận rủi đeo đẳng liên miên, của hay bị lừa tiền, bị cướp giật, khi lái xe chở nông sản thì bị tông đụng, có lần xin được công tác tốt thì do đi khám bệnh phát hiện bị viêm gan, nên bị từ chối.
Tôi sinh ý bi quan chán đời nên đã nhiều lần tự sát như: (uống thuốc, cắt mạch máu tay) nhưng được cứu kịp thời. Mẫu thân bèn tìm thầy nhờ đoán mệnh. Thầy nói kiếp trước tôi từng xâm hại một nữ nhân, nên đời này bị ả đeo theo ám, báo thù đòi mạng…
Do tôi có tật trường kỳ thủ dâm, thêm việc uống thuốc tự tử nên thân thể càng lúc càng gầy. Hầu như ngày nào tôi cũng thủ dâm, vì ngày nào cũng tìm xem phim, truyện, ảnh sex khiêu dâm…Nên tôi sống u mê như loài súc sinh! Bởi tật thủ dâm càng lúc càng nặng.
Tiền của ông bà cha mẹ để lại đều bị tôi phá tán, do tôi làm gì cũng thua lỗ, về công tác luôn thất bại, lại còn phải ly hôn. Thân tâm đều khổ như rơi vào vực thẳm.
May là vào năm 1999 tôi có phúc duyên được biết đến Phật giáo nên theo các bạn đạo tham dự niệm Phật mỗi tuần, trong thời gian này tôi được chứng kiến cảnh tượng Phật phóng quang, nên xúc động bật khóc to, lệ rơi đầm đìa. Thầm cảm thấy Phật A Di Đà giống như từ mẫu, vô cùng từ bi thân thiết, liền phát tâm qui y Tam bảo.
Sau đó về nhà tôi lập bàn thờ Phật, hằng ngày tụng kinh niệm Phật không ngừng. Phát nguyện làm Phật sự để báo ân Phật và tôi cầu Bồ tát Quan Thế Âm gia trì mình bỏ hút thuốc, bỏ rượu, bỏ ăn mặn.
Tôi xin được công tác mới rồi tái hôn. Sau đó mọi chuyện diễn ra đều như nguyện, nhưng tôi bắt đầu sinh tật phóng túng buông lung, không chịu thực hành tiếp đúng như những gì đã thệ nguyện. Bởi tôi thấy đời sống mình đã chuyển tốt, nên sinh tâm ỷ y. Dù biết thủ dâm là đại tội, nhưng thói quen xấu này chỉ giảm chứ tôi chưa thực sự từ bỏ hẳn. Có lần tôi đi sắm máy vi tính về, lúc lên net tôi không cưỡng lại được sự cám dỗ từ các trang web kích dục khiêu dâm, nên đã tìm vào nhìn xem rồi mê đắm khó thể rời xa, không thể viễn ly. Vì vậy mà chỉ trong ba ngày tôi đã tiêu tốn hơn 200 USD cho phí xem sex. Lúc này mới sực nhớ là mình đã chìm vào lưới tà, liền tự nhủ không xem nữa, nhưng điều tốt thực hiện chẳng bền, sau đó tôi lại săn lùng đi mua đĩa sex về xem, không những tự mình xem mà còn dẫn dụ cô vợ thuần khiết của tôi cùng xem, ác hạnh ngày càng thêm lớn (quên hết ân đức của chư Phật, Bồ tát đã cứu giúp).
Thế là báo ứng ập đến, một tối nọ sau khi thủ dâm xong, tôi cảm thấy mệt nên ngủ thiếp đi, bỗng cảm giác như có một bóng đen đang lao tới… Tôi kinh hoảng toàn thân phát run, bật khóc to và rối rít niệm Phật xin lỗi, luôn miệng nói là sẽ không dám tái phạm nữa.
Sáng dậy, tinh thần tôi hoảng loạn, tâm tư rất khó chịu, vì cảm thấy như có ai đó đang đeo theo ám… vì vậy mà ban ngày tôi không dám ở một mình trong nhà. Tối đến tôi tụng kinh Vô Lượng Thọ Phật, tụng đến phẩm 37 thì đột nhiên cảm thấy thân bị khống chế, có cảm giác lạnh run và bật khóc to khiến vợ tôi phải kinh hoảng. Ngay lúc đó miệng tôi tự nói ra những lời mà tôi hoàn toàn không hay biết, sau đó chỉ nghe người nhà thuật lại mà tôi biết được như sau:
Kẻ hiện theo ám chính là oan gia trái chủ nhiều đời của tôi, lẽ ra họ không tìm đến, nhưng do tôi đã biết Phật pháp mà còn phạm, lại không cương quyết từ bỏ thói thủ dâm, còn dám cả gan lấy tiền chư bạn đạo đóng góp cho tôi hoằng pháp, đem tiêu hết vào việc xem trang web khiêu dâm, lại còn đi mua đĩa sex về xem, làm ô uế bầu không khí trong lành. Do tôi tà dâm phá giới, xúc phạm thiên địa quỷ thần, còn quảng bá sex độc hại cho mình lẫn người, nên thiên lý khó dung, vì vậy mà tôi phải thọ lấy ác báo này.
Một sáng nọ, lúc đi trên đường tôi còn nhìn thấy rõ hình dáng nữ nhân (tôi đã hại trong kiếp trước), cô ta xỏa tóc thân thể không áo quần, (do kiếp nọ tôi đã cưỡng hiếp nữ nhân này đến chết, để cô phơi thây nơi hoang dã), mãi đến sau này khi cô ta nhập vào hành hạ và nói rõ mọi chuyện ra thì tôi mới biết.
Tôi liên tục bị cô ta nhập xác dày vò hành hạ, khiến sức khỏe càng thêm suy kiệt, đến nổi hình dạng tướng mạo nhìn chẳng còn giống người. Mặc dù lúc bị phần âm theo ám, dù tôi thủ dâm trong vô thức, nhưng thân thể vẫn bị hao tổn nghiêm trọng, đêm luôn bị quỷ ức hiếp, bị loài quỷ hấp tinh hành hạ suốt ngày đêm, khiến tôi bị mộng tinh, di tinh đến nửa năm, sống không bằng chết. Những thống khổ này dù có kể cũng khó mà tưởng tượng ra được. Sau đó nhờ chư bạn đạo xúm nhau tụng kinh hỗ trợ cầu cho nên tình cảnh tôi mới dần chuyển tốt.
Nhưng tôi là một kẻ không biết liêm sĩ, thuộc phần tử suy đồi làm bại hoại Phật môn. Bởi trước chư Phật, Bồ tát tôi đã nhiều lần phát thệ, hứa cải tà quy chính, thế nhưng lại cứ tái phạm, phản bội lại chư Phật, Bồ tát, thiên địa quỷ thần và luôn tự dối mình. Do không thủ tín, không biết giữ lời hứa, nên thân thể tôi bắt đầu biến đổi, mặt mày và toàn thân đều nổi mụn cóc, bắp thịt run giựt, tay chân lột da, tâm thần bất an, luôn sợ hãi, trí nhớ cực tệ, bên tai thường nghe tiếng nói, lại còn phát bệnh trĩ, đêm không ngủ an, hay bị quỷ đè, tóc rụng nhiều, lưng khòm xuống, da đầu đóng cứt trâu lớp lớp…
Tôi tốn rất nhiều tiền để khám, chữa bệnh… đối với bản thân cũng sinh chán ghét, thầm hiểu rõ nếu cứ tiếp tục thế này thì mạng sống sẽ không giữ được, mà đời này nếu không sinh Tịnh độ thì kiếp sau chắc chắn sẽ đọa vô gián địa ngục, nhưng vẫn còn u mê chưa bỏ được thói xấu.
Một lần, trong lúc lên mạng kiếm tìm các trang sex, khiêu dâm, tình cờ tôi nhìn thấy trang web GIỚI TÀ DÂM, miêu tả có rất nhiều người bị bệnh giống như tôi, như thảy đều đã cải sửa, thu được kết quả tốt. Tôi còn tìm thấy có nhiều trang web hướng dẫn cách GIỚI DÂM, chỉ cách tu hành, khiến tôi phát lòng tin, quyết tâm thực hành theo.
Thế là tôi chân thành sám hối, phát lộ phơi bày hết tất cả hành vi xấu xa của mình từng làm, không chút giấu giếm. Kể từ ngày đó tôi thệ hoán cải, từ bỏ lỗi trước, hướng chư Phật Bồ tát tha thiết sám hối và hướng về cô gái bị tôi xâm hại trong kiếp trước, thốt lời ăn năn sám hối, khẩn thiết cầu xin tha thứ…
Tôi chỉ kể sơ lược, song chuyện của tôi tất cả đều có thực. Ngay đây xin khuyên các bạn đồng bệnh như tôi hãy dừng cương trước vực thẳm, ai không có bệnh cũng nên cẩn trọng cảnh giác. Xin các bạn hãy khéo tự bảo vệ mình bằng cách CỰC LỰC TRÁNH XA CÁC TRANG WEB, TRUYỆN PHIM, ẢNH SEX ĐỒI TRỤY… NẾU GẶP NHỮNG TRANG WEB CÓ PHIM ẢNH HAY BÀI VIẾT CHỨA NỘI DUNG KHIÊU DÂM KÍCH DỤC, CHUYÊN HƯỚNG DẪN HAY MÔ TẢ CHUYỆN PHÒNG THE, BẠN HÃY TUYỆT ĐỐI LÁNH XA, DÙ LÀ LIẾC SƠ XEM THỬ, CŨNG KHÔNG NÊN. Vì đây là lưới ma khiến bạn đọa vào nẻo ác, muôn kiếp khó ngoi lên!
Xin cảm ơn các trang web Phật giáo quý giá đã giúp tôi phục hồi phẩm cách đạo đức, tôi hi vọng ngày càng có nhiều người vào xem để biết tu sửa, phục hồi nhân thân phẩm cách Thánh hiền.
Tất cả dụng cụ kích dâm thỏa dục như: Búp bê tình dục, đồ chơi tình dục, bạn đừng tưởng là vô hại, không gây tai ách gì?… Thực chất chúng rất nguy hiểm, làm sức khỏe bạn tiêu hao, chiêu vời hấp tinh quỷ tìm đến, điều khiển xúi giục tâm dâm bạn phát mạnh thêm. Thực tế đã có rất nhiều người mắc bệnh sùi mào gà, bị viêm nhiễm phụ khoa, nam khoa nặng, vì tự tìm thỏa mãn bằng búp bê hay đồ chơi tình dục. Tà dâm dù song phương hay đơn phương, thì bệnh trạng chắc chắn sẽ ập đến không khác chi nhau, VÌ ĐÂY LÀ ÁC BÁO CỦA TÀ DÂM. Người háo dâm, túng dục sẽ tự hủy hoại phúc, lộc, quyền và thọ mệnh của chính họ. Các bệnh hoạn tôi đã từng nếm trải là bằng chứng hiển nhiên nhất. May mà tôi đã biết hối lỗi hồi đầu.
Sau khi ăn chay niệm Phật, thệ tu sửa triệt để, cuộc sống tôi đã chuyển biến tốt.
Trước khi biết Phật pháp, tôi là một kẻ ích kỷ, bất hiếu, cứng đầu khó dạy, thuộc phần tử lưu manh trong xã hội, chỉ thích hưởng thụ khoái lạc. Tôi phá tan tiền của ông bà cha mẹ, còn ép cha mẹ bán nhà để tôi mua xe đầu tư kinh doanh, nhưng tôi không kiếm được tiền mà còn làm tiêu tan sản nghiệp, đã vậy khi lái xe còn gặp tai nạn. Người ta kinh doanh thì luôn thu lợi, còn tôi toàn là bị thất bại thua lỗ. Lúc đó tôi không hề biết chính ác hạnh của mình đã chiêu vời ác báo đến, nên tôi còn đi uống rượu say rồi thốt lời rủa trời đất bất công.
Năm 1999 nhờ Phật giáo mà tôi cải hối và thay đổi vận mệnh cả đời, đích thân nếm trải những điều kỳ diệu không thể kể xiết.
Hiện tại tôi kinh doanh rất tốt, đã có gia đình mới và sống vô cùng hạnh phúc. Người chung quanh đều tán thán tôi thay đổi hay ngoài sức tưởng. Ba mẹ luôn khen tôi là người con hiếu…
Tất cả là nhờ ân chư Phật, Bồ tát, các pháp hữu… đã cứu tôi. Cảm ơn Phật A Di Đà đã ban cho tôi mạng sống lần thứ hai.
Đương nhiên tôi còn nhiều thói xấu chưa sửa hết, nhưng tôi luôn cố gắng tận lực, nguyện giờ giờ phút phút, triệt để dứt ác hành thiện.
Bài văn này tôi viết ra không dễ dàng, bởi thật khó khi phơi bày những xấu xa tệ ác của mình ra trước quần chúng. Nhưng lòng ăn năn sám hối chân thành đã giúp tôi có đủ can đảm nói ra sự thật, tự thú nhận tội lỗi.
Tôi cũng rất muốn cảnh báo, khuyên nhắc nhưng ai có tính đa dục giống tôi: Bản tâm chúng ta vốn thanh tịnh thuần khiết, kỳ diệu. Thế nên nếu bạn chịu huân bồi điều thiện lành thánh khiết mãi mãi và kiên quyết thục hành theo đó, thì bạn sẽ trở thành đóa sen thơm vô nhiễm, vượt khỏi bùn nhơ!
Mong ánh sáng trí tuệ luôn chiếu soi tâm bạn.
Xin các vị xem những đổi thay trước và sau khi học Phật của tôi.
Trích trong GIAI NHÂN ÁO PHƯỢNG – Báo ứng hiện đời tập 6
– Ni sư Hạnh Đoan dịch việt
***
HOAN HỶ CÔNG ĐỨC CHIA SẺ CỦA QUÝ VỊ ĐỒNG TU !
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Liên Hoa Tôn Phong Phật
Nam mô Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Phật
Nam mô Diệu Sắc Thân Phật
https://www.facebook.com/888955911145214/posts/7797977670242969/
Vì sao không được gõ đũa vào bát trong bữa ăn?
Nhiều người thắc mắc, vì sao không được gõ đũa vào bát trong bữa ăn? Có phải làm hành động này sẽ kêu gọi ma đói lang thang vào nhà?
Thực ra không phải vậy, hành động này được cho là một trong những quy tắc có liên quan đến sự tích của Phật Giáo. Đức Phật dạy rằng: ‘Chúng sanh sau khi mất sẽ trôi lăn trong sáu cõi luân hồi’. Theo đó như sau:
– Cõi trời (tiếng Phạn – Deva);
– Cõi thần (tiếng Phạn – Asura);
– Cõi người (tiếng Phạn – Manussa);
– Cõi súc sinh (tiếng Phạn – Tiracchãnayoni);
– Cõi ngã quỷ (tiếng Phạn – Petta);
– Cõi địa ngục (tiếng Phạn – Niraya).
Đặc điểm chung của sáu cõi luân hồi là vô thường, chúng sinh sau khi mất sẽ được tái sinh vào một trong sáu cõi này. Trong đó, có ba cõi ác là súc sinh, ngã quỷ và địa ngục.
Do tâm tham lam, keo kiệt, bủn xỉn mà khi mất đi chiêu cảm thành ngã quỷ. Hình dạng của ngã quỷ là miệng nhả ra lửa, cổ họng nhỏ như lỗ kim, bụng phình to như cái trống. Mang hình dạng như vậy mà cõi này đau đớn muôn phần, muốn ăn nhưng không được còn tự thiêu cháy chính miệng của mình.
Bên cạnh đó, Đức Phật dạy thêm: ‘Chư Thiên Tảo thực, Phật ngọ thực, sức sanh ngọ hậu thực’. Tức, Chư Thiên ăn buổi sáng, Phật ăn giờ ngọ, sau giờ ngọ mới là giờ ăn của súc sanh. Thế nên, bạn sẽ thấy, các chư Tăng khi đi khất thực đến giờ ngọ phải quay về tịnh xá. Cũng như quá giờ ngọ không được ăn và cả ngày chỉ được ăn một bữa là do lời răn dạy này.
Sau đó, đến giờ chiều, giờ của người con người (ngày ăn 3 bữa) và Ngã quỷ bụng đói cồn cào. Khi con người ăn uống và rửa chén bát, vô tình nhiều lúc dùng đũa gõ vào bát hay chén bát va vào nhau tạo ra những tiếng lanh canh. Ngã quỷ khi nghe thấy những tiếng này bụng dạ càng thêm đói mà cổ họ bé bằng lỗ kim không thể ăn, tâm sinh hận miệng muốn la hét mà la hét sẽ phát ra lửa, thân thể vì thế đau đớn, thống khổ như hàng ngàn hàng vạn nhát dao xuyên qua.
Vì lẽ đó, một điện thờ nhỏ thập loại chúng đẳng để chư Tăng thí thực (cháo loãng) cho các loại cô hồn lang thang, trước giờ ăn cơm của con người. Đồng thời, ông bà ta cũng dạy bảo con cháu không được gõ (khua) đũa vào bát khi ăn cơm vì có thể gọi ma đói đến nhà, chén bát có thể để sáng hôm sau rồi rửa, chứ không nhất thiết phải rửa vào buổi tối.
Hiện nay, lời răn của Phật đã bị mai một nên việc rửa chén bát vào ban đêm rất ít gia đình còn giữ nhưng việc gõ đũa vào bát ăn cơm là điều tuyệt đối kiêng kị.
Ngoài ra, hành động gõ đũa vào bát cơm còn được ví như ăn xin, việc này được coi như thất lễ, xui xẻo cần tuyệt đối tránh.
Nguồn: Nguồn: Webtintuc
Tham ô tiền cứu trợ, chỉ trong mấy ngày cả gia đình nhiễm dịch tử vong
Hiện nay, việc tham ô tiền từ thiện hay cứu trợ nhiều nhan nhản, có người bị vạch trần cũng có người giấu kín không ai biết. Nhưng ‘mắt Thần như điện’, làm việc khuất tất thì ắt gặp điều không may. Cái chết của cả gia đình sau đây chính là bài học cảnh tỉnh.
Vào thời nhà Thanh, có người tên là Chu Bách Lư, cả đời hành thiện tích đức, phẩm hạnh đoan chính, không khinh khi lừa dối một ai. Mọi người rất khâm phục nhân phẩm của ông. Thần xem ông là một người chính trực, nên nhiều lần được Diêm Vương mới đến Âm Phủ giúp thẩm tra xử lý các vụ án.
Mỗi lần xử án Chu Bách Lư đều trong trạng thái mông lung thiếp đi. Sau đó ông thấy nhiều người mang kiệu đến trước cửa đón đi, đi đến một nha môn lớn, có đại sảnh nguy nga. Ông nhìn lại bản thân thì thấy lúc này đang mặc áo bào, 2 bên có sai dịch hầu hạ. Một vị quan trình lên hồ sơ các vụ án để ông thẩm tra xử lý. Sau khi tỉnh lại ông hiếm khi tiết lộ cho người khác biết.
Một buổi sáng, sau khi thức dậy, Chu Bách Lư liên tục gọi tên ai đó thật đáng thương, đó là một người mà ông đã quen biết từ trước. Học trò của ông hỏi: “Người đàn ông này bây giờ là một quan chức ở đâu đó, nghe nói rằng nơi đó đang xảy ra nạn đói, anh ta đã kiếm được rất nhiều tiền từ ngân sách triều đình hỗ trợ nạn đói, hiện tại đang rất đắc ý. Tại sao ngài lại nói anh ta đáng thương?” Chu Bách Lư nói: “Chính vì việc này nên không lâu nữa anh ta sẽ gặp họa diệt môn.”
Học trò thắc mắc: “Vì sao lại như vậy?” Chu Bách Lư đáp: “Ngươi nghĩ đi, trăm họ gặp điều bất hạnh, lênh đênh khốn khổ. Triều đình lệnh phát gạo cứu đói, quan địa phương thật tâm thi hành, một nhà mấy nhân khẩu được lãnh 1, 2 đấu gạo, như thế sẽ kéo dài mạng sống được 3 đến 5 ngày, không phải chết vì đói.
Bấy giờ anh ta làm trái lương tâm, chỉ biết đến bản thân, nên cho 2 đấu gạo thì anh ta khấu trừ đi chỉ còn 1 đấu; nên được nhận 1 thạch gạo thì bây giờ chỉ còn một nửa; Lập xưởng nấu cháo, bắt các gia đình giàu quyên góp gạo, tiền bạc để khỏi dùng phần của triều đình. Cháo được nấu bằng nước lạnh và vôi, giới hạn mỗi người một bát. Cũng có những người đến muộn, không ăn được, uổng công đến nơi rồi ra về vô ích, khiến người chết vô số. Quan phủ không hề quan tâm, chỉ mong người chết càng nhiều, thì số lương thực tiền bạc sẽ kiếm được càng nhiều.
Tội lỗi này làm sao mà không nghiêm trọng được chứ? Tối hôm qua ta đã nhìn thấy một hồ sơ vụ án trong giấc mơ, viên quan âm phủ yêu cầu ta phán định đồng ý để nộp lên Thiên Tào. Ta đọc kỹ hồ sơ thì đó chính là tội ‘quan lại cướp của cứu tế’. Mức độ nghiêm trọng của tội, tùy thuộc vào số tiền chiếm đoạt. Người tội nhẹ thì nổ chết, người tội nặng diệt môn, cách chức đọa vào địa ngục, đầu thai làm trâu bò, heo chó.
Tội của anh ta hôm nay rất nặng, dù người thân, bạn bè có gánh tội bớt cũng không thể miễn. Không lâu báo ứng sẽ đến, vì vậy ta mới thở dài. Ở Địa Phủ có một bộ câu đối, vế trước ghi: ‘Dương gian ba đời, thương thiên hại lý đều do ngươi’; vế sau ghi: ‘Âm tào địa phủ, từ cổ chí kim bỏ qua cho ai’; trên bức hoành phi ghi: ‘Ngươi đã tới rồi’. Ta e rằng gia đình của anh ta sẽ có việc chẳng lành.”
Quả nhiên, sau hơn 1 tháng, một bức thư đến, nói rằng gia đình của anh ta bị nhiễm bệnh dịch, chỉ trong mấy ngày từng thành viên trong gia đình lần lượt chết. Lúc này người học trò mới thở dài rằng những lời của Chu Bách Lư là sự thật.
Lý của thể gian là ‘có vay có trả’, người thường vì không thấy được chân tướng mới bất chấp làm việc xấu, làm nhiều ‘quen tay’ thời gian lâu xem đó như việc đương nhiên. Luật pháp của xã hội nhân loại có thể bỏ lọt người xấu, nhưng đạo Trời công bằng, ‘lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt’, muốn không hoàn trả cũng không được.
Tử Vi (Theo Secret China)