Viên sinh Viên Liễu Phàm [1] tên húy là Hoàng, trước đây có tên tự là Học Hải. Thuở nhỏ có gặp một người họ Khổng ở Vân Nam, vốn được chân truyền phép toán số Hoàng cực của Thiệu Ung [2]. Ông này đoán số Viên Liễu Phàm rồi khuyên rằng năm sau đó nên ghi tên vào trường học, lại đoán sau này khi đi thi ở các kỳ huyện, phủ và tỉnh sẽ có kết quả thứ hạng mỗi nơi như thế nào. Cả ba kỳ thi ấy về sau quả nhiên đều ứng nghiệm như lời. Họ Khổng lại đoán vận hạn suốt đời cho Viên Liễu Phàm, nói rằng vào năm ấy sẽ nhận được học bổng [3], sang năm ấy sẽ được chọn làm cống sinh [4], sang năm ấy sẽ được chọn làm quan huyện lệnh ở phủ ấy, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, giữ chức được hai năm rưỡi [5] thì từ quan về quê, đến năm 53 tuổi, vào ngày 14 tháng 8 sẽ chết vào giờ sửu, đáng tiếc là không con nối dõi.
Viên Liễu Phàm ghi chép lại tất cả những lời dự đoán ấy, sau trải qua các kỳ thi đều thấy đúng như lời. Sau đó, Viên Liễu Phàm có dịp đến Nam Ung, tham bái thiền sư Vân Cốc ở núi Thê Hà, cùng ngồi an tĩnh đối diện với thiền sư suốt ba ngày đêm không hề nhắm mắt. Thiền sư nói: “Người đời sở dĩ không thể trở nên bậc thánh, đều chỉ do vọng niệm trói buộc. Ông có thể ngồi yên trong ba ngày đêm không khởi sinh vọng niệm là nhờ đâu vậy?” Liễu Phàm thưa: “Trước đây có Khổng tiên sinh đoán vận mệnh cho tôi, mọi việc đều đúng, nhân đó tôi thấy rằng những việc sống chết, vinh nhục của con người ta đều đã có định số, dù muốn thay đổi cũng không thể được, nên chẳng nghĩ đến làm gì.”
Thiền sư Vân Cốc bật cười nói: “Ta vốn tưởng ông là bậc hào kiệt xuất chúng, nào ngờ cũng chỉ là một kẻ tầm thường. Ông nên biết, xưa nay những bậc đại hiền thiện thì số mạng không thể trói buộc, mà những kẻ đại gian ác thì số mạng cũng không thể trói buộc. Từ 20 năm nay, ông bị những lời bói toán của người kia quy định đặt để, không có được một chút tự mình chuyển đổi, há chẳng phải là tầm thường lắm sao?”
Viên Liễu Phàm liền thưa hỏi: “Vậy ra vận số có thể thay đổi được sao?” Thiền sư đáp: “Số mệnh là do chính mình tạo ra, phước báo do chính mình cầu mà được. Trong sách vở của Nho gia có nhiều chỗ dạy rõ điều đó. Kinh Phật lại có nói: ‘Cầu công danh ắt được công danh, cầu sống lâu ắt được sống lâu, cầu con trai, con gái, ắt có con trai, con gái…’ Lẽ nào đức Phật lại nói dối để lừa gạt người đời sao? Từ nay về sau ông nên thường ngày làm việc tích đức, mọi việc đều nên khởi tâm bao dung tha thứ. Hết thảy những việc từng làm trước đây, xem như đã chết từ hôm qua. Hết thảy những việc từ nay về sau, xem như mới được sinh ra hôm nay. Đó chính là ý nghĩa của việc làm sống lại thân này. Sách Thượng thư, thiên Thái giáp có nói: ‘Tai họa do trời giáng xuống còn có thể tránh né, tai họa do chính mình tạo ra thì không còn đường sống.’ Khổng tiên sinh đoán rằng ông không đỗ đại khoa, không có con nối dõi, ấy là tai họa trời giáng xuống. Nay ông nỗ lực làm thiện, rộng tích âm đức, đó là tự mình tạo phúc. Kinh Dịch nói rằng: ‘Bậc quân tử hướng về điều lành, tránh đi điều dữ.’ Nếu nói mệnh trời là không thể thay đổi, vậy điều lành làm sao có thể hướng về, điều dữ làm sao có thể tránh đi? Lại cũng trong Kinh Dịch, quẻ Khôn, ngay nơi phần ý nghĩa mở đầu đã nói rằng: ‘Nhà làm việc thiện ắt có niềm vui, nhà làm việc ác ắt gặp tai ương.’ Nay ông đã có thể tin hiểu được chưa?”
Nhân đó lấy ra một bản sách Công quá cách, đưa cho xem. Liễu Phàm lễ bái nhận lấy. Sau đó, Viên Liễu Phàm liền tự thảo một bản sớ văn, lược kể hết thảy những việc sai lầm của mình từ trước đến nay, đối trước bàn Phật chí thành lễ bái cầu xin sám hối, phát nguyện làm đủ 3.000 việc thiện để cầu thi đỗ. Thiền sư Vân Cốc lại dạy ông trì tụng thần chú Chuẩn Đề, sau một thời gian ắt có linh nghiệm. Từ đó tiên sinh mới đổi tên tự là Học Hải thành Liễu Phàm, có ý không muốn rơi vào những khuôn khổ tầm thường của người phàm tục nữa.
Năm sau, Liễu Phàm tham gia kỳ khảo thí của bộ Lễ, Khổng tiên sinh trước đã đoán rằng ông khoa này đỗ hạng nhì, nhưng kết quả ông đỗ đầu, xem ra lời tiên đoán đã không còn ứng nghiệm. Đến mùa thu năm ấy lại tiếp tục đỗ cử nhân. Từ đó mỗi ngày đều nỗ lực tu sửa đức hạnh, gia tăng công phu hành trì miên mật, mỗi khi một mình ở nơi vắng vẻ không người vẫn thường luôn tự xét, không để có chỗ ám muội đắc tội với trời đất quỷ thần. Kể từ năm Kỷ Tỵ[1569] phát nguyện làm 3.000 việc thiện, đến năm Kỷ Mão[1579] vừa tròn 10 năm thì tiên sinh hoàn tất đủ số.
Bấy giờ, tiên sinh lại phát nguyện làm việc thiện, cầu sinh con trai, cũng nguyện làm đủ số 3.000 việc thiện như trước, lại nhờ người trong nhà hỗ trợ cho mình, khi làm được một điều thiện liền ghi thêm số vào, khi có điều lầm lỗi lập tức trừ bớt đi. Đến khi niệm lành dần thuần thục, con số 3.000 cũng vừa gần đủ thì hạ sinh trưởng nam.
Đến năm Quý Mùi [1583,] ngày 13 tháng 9 lại phát nguyện làm 10.000 điều thiện, cầu đỗ tiến sĩ. Sang năm Bính Tuất [1586] quả nhiên thi đỗ tiến sĩ, được bổ nhiệm làm tri huyện Bảo Để. Khi ấy, mỗi ngày gặp việc thiện đều làm, mỗi đêm đều thắp hương khấn cáo. Đang khi lo lắng hằng ngày không có đủ việc thiện để làm, thật khó đủ số 10.000 như đã nguyện, thì một đêm bỗng nằm mộng thấy có vị thần hiện đến nói: “Chỉ riêng việc ông giảm thuế ruộng cho dân, xem như con số 10.000 điều thiện đã hoàn thành rồi.”
Liễu Phàm liền nhớ lại quả đúng có việc ấy. Nguyên là khi mới về nhậm chức ở huyện Bảo Để, thấy mỗi mẫu ruộng phải nộp thuế đến 2 phân 3 ly 7 hào [6], Liễu Phàm cho là quá cao, liền thay dân xin với triều đình giảm số thuế phải nộp xuống còn 1 phân 4 ly 6 hào. Tuy nhiên, Liễu Phàm trong lòng vẫn còn nghi hoặc, không tin rằng chỉ một việc ấy mà có thể được xem như cả 10.000 điều thiện. Gặp lúc có thiền sư Huyễn Dư từ núi Ngũ Đài đến, Liễu Phàm liền kể lại giấc mộng. Thiền sư nói: “Nếu tâm thiện chân thành chí thiết, dù làm một điều thiện cũng có thể bằng như vạn điều thiện. Huống chi giảm thuế cho cả một huyện, có cả vạn người được hưởng phúc ấy.” Tiên sinh nghe vậy rất mừng, liền dùng tiền lương bổng của mình gửi nhờ thiền sư về núi Ngũ Đài thay mình thiết lễ trai tăng cúng dường một vạn vị tăng để hồi hướng công đức.
Khổng tiên sinh từng đoán rằng Liễu Phàm chỉ sống đến 53 tuổi, nhưng về sau tiên sinh thực sự sống khỏe đến hơn 80, con cháu đều đỗ đạt thành danh, nối nhau không dứt.
- Lời bàn:
Người đời thấy ai nỗ lực làm việc thiện liền chê bai rằng: “Làm việc thiện cần phải vô tâm, nếu có mảy may chấp trước thì sanh ra ý tưởng mong cầu phước báo.” Cách lập luận ấy chưa hẳn đã là không có chỗ cao minh, nhưng phần nhiều lại ngăn trở ý chí hướng thiện mạnh mẽ của người khác. Ví như người nông dân quanh năm cần cù lao động, lại bảo: “Ông không nên mong cầu lúc thu hoạch”, hoặc như người học trò mười năm khó nhọc, lại bảo: “Anh đừng nghĩ đến công danh”, liệu họ có vui vẻ nghe theo được chăng?
[1] Tiên sinh Viên Liễu Phàm (sinh 1533, mất năm 1606) là tác giả sách Liễu Phàm tứ huấn .
[2] Tức Thiệu Khang Tiết (sinh năm 1011, mất năm 1077) là một học giả uyên bác, nghiên cứu Chu Dịch lâu năm, có để lại nhiều tác phẩm như Mai hoa dịch số, Hoàng cực kinh thế, Quan vật nội thiên, Ngư tiều vấn đối, Nhượng Sơn tập, Tử Bá Ôn biệt truyện…
[3] Ngày xưa gọi là lẫm sinh, tức là các nho sinh được nhận sự chu cấp từ công quỹ để lo việc ăn học.
[4] Cống sinh: nho sinh giỏi, được chọn lên kinh đô theo học để chuẩn bị cho kỳ thi tại kinh đô.
[5] An Sĩ toàn thư chép là hai năm rưỡi (二年半), nhưng theo sách Liễu Phàm tứ huấn (了凡四訓) thì là ba năm rưỡi (三年半).
[6] Đơn vị tiền tệ khi ấy lấy tiền làm đơn vị. Cứ mỗi một tiền có 10 phân, mỗi một phân có 10 ly, mỗi một ly lại có 10 hào.
Trích An Sĩ Toàn Thư – Khuyên Người Tin Sâu Nhân Quả
Nguyên tác Hán văn: Âm Chất Văn Quảng Nghĩa
Tác Giả: Chu An Sĩ
Việt dịch và chú giải: Nguyễn Minh Tiến
Phước báo nhiều hay ít dựa vào số tiền đã bố thí hay số người đã cứu giúp? Cảm ơn.
A Di Đà Phật
Bạn Dương Phước Huệ à
Phước báo không căn cứ là phải bỏ nhiều tiền ra để giúp người khác thì phước báo sẽ được nhiều
mà thực tế nếu bạn bố thí chỉ 1 hạt gạo mà tâm lượng của bạn rộng lớn,mà không cần người ta đáp lại thì bạn sẽ được cái phước báu vô lượng.
Còn bố thí thật nhiều tiền nhưng tâm lại nhỏ hẹp, và mong cầu người ta đáp lại thì phước báu của việc bố thí đó rất nhỏ.
Thưa Thầy.
Con là một Phật tử, nhưng chưa Quy Y. Hằng ngày con thường nghe những Giảng sư, Thượng tọa, Đại đức giảng Phật pháp trên Youtube. Tâm con rất sáng.
Nhưng có một chỗ con chưa rõ là : Trong Lục đạo (6 đường) Trời, Người, A-Tu-La, Ngạ quỹ, Súc sanh, Địa ngục. Con không hiểu cõi A-Tu-La là cõi gì. Con mong Thầy giảng cho con hiểu.
Con xin cám ơn Thầy, và rất mong Thầy giúp cho con được rõ thêm.
Con xin cám ơn Thầy
Con Nguyễn văn Thanh
A Di Đà Phật
Bạn tham khảo thêm tại đây
http://voluongtho.club/luc-dao-luan-hoi-trong-lang-kinh-lang-nghiemthich-nu-gioi-huong
http://voluongtho.club/chin-phap-gioi-chung-sanh-dien-dao
Trích lời giảng hòa thượng Tuyên Hóa.
Pháp giới của A Tu La
Tu la tính bạo
Hữu phước vô quyền
Hiếu dũng đấu lang
Phù trầm nghiệp khiên.
Tạm dịch :
Tu la tính dữ
Có phước không quyền
Ưa thích đấu tranh
Trôi nổi theo nghiệp.
A tu la là tiếng Phạn dịch là “vô đoan chính”, vô đoan chính tức là xấu xí. Song le chỉ là nam A tu la tướng mạo xấu xí, ngược lại nữ A tu la tướng mạo rất xinh đẹp. Tính của nam A tu la rất thích đấu tranh, đấu tranh bên ngoài, tính của nữ A tu la cũng thích đấu tranh nhưng đấu tranh bên trong, chẳng phải đấu tranh bên ngoài. Thế nào là đấu tranh bên trong ? Tức là dùng vũ khí tâm để đấu tranh, đó là đố kị, chướng ngại, vô minh, phiền não.
Loài chúng sinh này có khi được liệt vào trong ba đường lành tức là trời, người, A tu la ; có khi liệt vào bốn đường ác đó là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la.
Ở trong loài súc sinh cũng có A tu la, trong loài người cũng có A tu la, trên trời cũng có A tu la ; loài ngạ quỷ cũng có A tu la. Riêng A tu la đã có một pháp giới, song vẫn thông với ba pháp giới khác, cho nên ở trong bốn loài này đều có A tu la. Nói tóm lại, bất cứ ở trong loài nào mà chúng thích đấu tranh, tính nóng giận lớn, muốn làm ông chủ, muốn làm chỉ huy người khác mà không muốn họ chỉ huy mình, muốn quản lý người mà không muốn người quản lý mình, đó đều là biểu hiện của A tu la. Nếu bạn chưa thấy A tu la thì tôi có thể nói cho bạn biết. A tu la gồm có A tu la thiện và A tu la ác. A tu la thiện tức là quân đội, binh, tướng của quốc gia, đó đều là A tu la. A tu la ác là đảng cướp, trộm cướp, giết người, đánh người, đó đều là A tu la. Ðó đều ở trong loài người chúng ta đều thấy.
Trên trời cũng có A tu la. A tu la trên trời thì đánh với binh trời tướng trời, suốt ngày đến tối cứ muốn chiếm ngôi vị trời Ðế Thích, muốn lật đổ trời Ðế Thích để cho y làm Ðế Thích. Nhưng đánh đi đánh lại chúng cũng đều thua. Tại sao ? Vì chúng có phước trời mà không có quyền lực ; chúng có thể ở trên trời hưởng phước trời nhưng chẳng có quyền lực, cho nên tuy đánh với binh trời tướng trời nhưng trước sau vẫn thua.
Trong loài súc sinh cũng có A tu la sao ? Phải đó ! Súc sinh A tu la như là cọp, sư tử, sói lang, đó đều là A tu la ở trong loài súc sinh. Loài A tu la này tự phụ những loài súc sinh khác. Sói, cọp, sư tử đều bắt những súc sinh khác ăn thịt. Tại sao chúng phải ăn loài súc sinh khác ? Vì chúng có tính A tu la. Ngoài ra rắn, chim ưng cũng là A tu la.
Nói tóm lại, A tu la tức là không nói về đạo lý, nóng giận hung hăng, bất cứ đối với ai cũng luôn luôn nổi nóng. Trong loài quỷ cũng có A tu la, thứ A tu la này cũng tự phụ những quỷ khác.
Trong loài quỷ cũng có quỷ thiện và quỷ ác. Quỷ ở trong quỷ ác cũng không nói đạo lý. Bổn lai quỷ thì không nói đạo lý, song quỷ A tu la càng không nói đạo lý ! Cho nên nói “Tu la tính dữ”, tính của chúng rất hung dữ tàn bạo.
“Có phước không quyền”. Chúng chỉ có phước trời mà chẳng có quyền lực. Chúng muốn tranh quyền đoạt lợi, song vẫn tranh không được.
“Chuyên thích đấu tranh”. Chúng thích đấu tranh với người. Bây giờ bạn thấy trên thế giới này đều là A tu la giới, đều nói về đấu tranh, đấu tranh về vấn đề này, đấu tranh về vấn đề kia, đánh giết với nhau.
Ông Lâm Bưu (kế thừa Mao Trạch Ðông) của Trung Quốc là sói lang tái sinh, cho nên ác vô cùng, y có thể chỉ huy trăm vạn đại quân, y có phương pháp khiến cho họ đều phục tùng vâng theo. Chu Ân Lai kiếp trước là người, y là người rất thông minh vô cùng, có thể thông minh hơn Gia Cát Lượng, cho nên thế giới suy sụp mà y vẫn lập vững lên được.
Tôi đã nói những bí mật này khoảng năm sáu năm về trước, nhưng các bạn không chú ý. Bây giờ có người hỏi :”Hòa Thượng biết ông Lâm Bân là sói lang, còn Chu Ðức (phó chủ tịch đảng cộng sản Trung Quốc khi Mao Trạch Ðông làm chủ tịch). Chu Ðức là sư tử. Lại có người hỏi: “Còn tôi là gì?” Bạn là bạn, tôi là tôi. Tôi chỉ nói những người nổi tiếng trên thế giới, người không nổi tiếng thì miễn nói.
Cho nên đó đều là A tu la, chúng chuyên thích đấu tranh, đấu tranh một trăm năm, hai trăm năm, ba trăm năm, năm trăm năm, một ngàn năm mà không biết mệt ! Cho nên Phật pháp đến thời kỳ đấu tranh kiên cố là thời đại mạt pháp này.
Song, chúng ta mọi người phải phát nguyện :”Chúng ta không muốn mạt pháp, chúng ta phải chánh pháp ! Chúng ta đi đến đâu thì nơi đó biến thành chánh pháp” ! Nếu chúng ta phát nguyện này thì dù thời mạt pháp, nhưng chúng ta đi đến đâu thì nơi đó sẽ biến thành chánh pháp. Nếu ai ai cũng phát nguyện này thì ai ai cũng đều thành tựu nguyện này. Ðến thời đại mạt pháp mà làm cho biến thành chánh pháp, đó gọi là trời đất đảo ngược, làm cho trời đất chuyển mình.
“Chìm nổi theo nghiệp”. A tu la hoặc sinh cõi trời, hoặc ở trong loài người, loài súc sinh, loài ngạ quỷ đều do nghiệp lực dắt dẫn, mới khởi hoặc tạo nghiệp, thọ báo, cho nên nói chìm nổi theo nghiệp, do nghiệp lực dẫn dắt. Người tu hành nên nhớ đừng tranh với ai, đừng có nóng giận thì lìa khỏi sự quan hệ với A tu la.
Nếu phân tích tỉ mỉ về A tu la thì trong chín pháp giới có năm pháp giới đều có A tu la. Ở trong pháp giới súc sinh, loài biết bay thì có A tu la biết bay, loài biết đi thì có A tu la biết đi, ở trong nước thì có A tu la ở trong nước như cá sấu. Ngựa cũng có A tu la, do đó “ngựa hại bầy”, có thứ ngựa này ở đâu thì bầy ngựa chẳng được yên, luôn luôn quấy nhiễu. Còn bò ? Bò đa số cũng là A tu la, bạn thấy trên đầu bò có hai cái sừng, đó là biểu thị tính ương ngạnh, dùng để chọi vật khác, đó là tính A tu la. Còn chó càng là A tu la ! Cho nên ai thích nuôi chó tức là gần gũi với A tu la ; bạn gần gũi A tu la thì tương lai sẽ gần gũi A tu la, gần gũi thì sẽ có nguy hiểm ; e rằng sẽ đi vào con đường A tu la. Các bạn phải đặc biệt chú ý, coi chừng đừng đi vào đường A tu la.
A Di Đà Phật
Thưa thầy,
Gia đình con hiện đang sống tại Tầng 3 của 1 khu chung cư, và gia đình con có thờ Bồ Tát Quan Thế Âm được 2 năm. Gần đây con có đọc được bài viết về việc không nên thờ Phật tại nhà chung cư nếu nhà đó không ở tầng cao nhất vì như vậy không tôn nghiêm. Con đọc xong thấy rất hoang mang, không biết con có làm đúng không? Nếu không được thờ tại nhà thì bây giờ con có thể rước tượng ra chùa để nhà chùa chăm nom có được không ạ? Con xin cảm ơn thầy. A Di Đà Phật.
Chào bạn. Bạn cứ thờ thoải mái không sao đâu. Vì điều kiện không cho phép mà. Theo mình miễn tâm bạn tôn kính là được. A Di Đà Phật.
Đường Về Cõi Tịnh: Xin đạo hữu hoan hỉ tập gõ tiếng Việt có dấu để độc giả tiện bề theo dõi và tránh hiểu lầm. A Di Đà Phật.
Bạn Tú Anh thân mến,
Mình cũng đồng quan điểm với bạn Tam Tinh là quan trọng ở lòng thành kính, và chọn nơi tốt nhất trong điều kiện hiện có để lập bàn thờ, chứ không nên chấp chặc là nơi thờ phải thế này, phải thế kia…,vô tình có thể cắt đứt thiện duyên của chúng sanh sơ cơ đến gần với Phật pháp. Mình cũng có nghe trong kinh Kim Cang có câu:”Dâm phòng tửu tứ vô phi thanh tịnh đạo tràng” thì hà tất gì mà nơi cư trú của mình chẳng thể thờ được!? Ngày nay có những chung cư cao cả trăm tầng, và mình không nghĩ là chỉ có những căn hộ trên cùng mới có thể lập bàn thờ! Xét cho cùng thì “trên dưới” cũng là tương đối thôi, vì khi nhìn quả đất đang quay từ xa thì thực sự đâu là trên đâu là dưới?
Nam Mô A Di Đà Phật!
Bạn Lựu thân mến, câu mà bạn trích dẫn không phải từ Kinh Kim Cang. Khi nói về Kinh điển với đại chúng phải rất cẩn trọng bạn nhé. A Di Đà Phật!
Bạn diệu Minh thân mến,
Cảm ơn bạn đã đính chánh. Mình nghe ông nội của mình nói trong kinh Kim Cang có câu này, chứ bản thân của mình chưa từng biết gốc gác của câu đó (có lẽ ông mình đã nhầm lẫn do tuổi già, nay 96 tuổi). Vừa rồi mình kiểm lại trên web thì thấy câu này nằm trong phần lược giải Chú Lăng Nghiêm của HT Thiện Hoa (trong bộ Phật Học Phổ Thông).
Nam Mô A Di Đà Phật!