Chúng ta biết được lỗi lầm của chính mình, phát hiện lỗi lầm của chính mình, đây chính là khai ngộ. Người giác ngộ, sau khi ngộ rồi, đáng quý nhất là phải tu hành. “Tu hành” là gì? Chính là cải lỗi, đem lỗi lầm của chính mình cải đổi lại, đây gọi là tu hành.
Cho nên, tu hành là tu sửa lỗi lầm của chính mình, tu sửa hành vi sai lầm của chính mình. Do đây có thể biết, tu hành không chỉ là niệm Phật tụng kinh, không phải vậy. Việc tụng kinh niệm Phật là phương pháp của tu hành. Người chân thật tu hành phải hiểu được là đem hành vi sai lầm của mình cải đổi lại. Tu từ chỗ nào? Tổ sư đại đức dạy bảo chúng ta “tu từ căn bản”.
Cái gì là căn bản? “Khởi tâm động niệm” là căn bản. Đây là phương pháp tu hành cao minh nhất. Ta nói chuyện sai rồi, lần sau ta cải đổi; ta làm sự việc này sai rồi, lần sau ta không dám làm nữa. Đây là tu từ trên sự, tu từ trên thân, không phải từ căn bản. Căn bản là từ khởi tâm động niệm, từ chỗ này mà cải sửa thì thân khẩu của bạn tự nhiên liền không có lỗi lầm. Cho nên, phải hiểu được ý niệm mới khởi thì có thể quán sát được.
Trích Thập Thiện Nghiệp Đạo (tập 80)
Lão pháp sư Tịnh Không giảng
Kính gửi: các thầy, các cư sỹ và các liên hữu!
TTB chúc các thầy, các cư sỹ và các liên hữu luôn tinh tấn và đạt được thành quả trên con đường tu tập.
Thời gian trước, TTB khi niệm Phật có hiện tượng bi trại giọng hoặc mất (không nghe rõ) 1 chữ trong câu Phật hiệu. Đến giờ đã cải thiện được chút ít rồi ạ. Chân thành cảm ơn tất cả ạ.
Thời gian gần đây (khoảng 1 tuần nay), TTB lại gặp chút vấn đề mong các liên hữu giúp đỡ.
Đó là: trước khi ngủ, TTB có niệm thầm đến khi ngủ, nhưng sau khi ngủ một lúc thường hay bị tỉnh dậy và giấc ngủ thường gián đoạn. Cảm giác như bị nghẹt thở do câu phật hiệu (đúng hơn là âm điệu của câu phật hiệu) đẩy mình, thôi thúc làm mình không ngủ được, cảm giác khá là khó chịu. khi tỉnh dậy như vậy, TTB có cố niệm thầm để niệm theo câu phật hiệu nhưng mà nó nhanh quá không bắt kịp, chỉ nghe thì nó không rõ ràng, nó chỉ có âm điệu thôi, các chữ thì khá lờ mờ… việc như vậy làm TTB thức giấc 1 đến 2 lần/1đêm và lâu sau mới dịu và ngủ lại được, sáng dậy đi làm mắt hay bị mỏi khi làm việc với máy tính, tinh thần tuy có tỉnh táo nhưng người vẫn uể oải (trong khi đó, trước đây TTB niệm phật xong thì ngủ rất ngon 🙁
TTB rất lo là mình đã dụng công sai ở đâu?
Rất mong nhận được góp ý của các thầy, các cư sỹ và các liên hữu.
TTB chân thành cảm ơn!
A DI ĐÀ PHẬT,
Gửi bạn TTB,
Vướng kẹt của bạn hiện nay không phải do bạn bị mất ngủ mả do bạn mang theo ý niệm bị trại giọng khi niệm Phật vào giấc ngủ. Tu là sửa sai, sửa rồi thì không phạm nữa. Bạn đã sửa trại giọng lúc tỉnh nhưng khi ngủ niệm lo âu lại khởi, vì vậy giấc ngủ của bạn là không an lạc, vì lẽ đó nên bạn hay bị tỉnh giấc.
Khắc chế: trước khi ngủ phát nguyện vãng sanh kế đó hoan hỉ niệm Phật, niệm tới khi ngủ thì thôi, chợt tỉnh lại hoan hỉ niệm. Hoan hỉ là niệm giác=không để tâm kẹt vảo bất kỳ ý niệm nào, nếu còn kẹt= phiền não sẽ khởi. Khi làm việc cũng vậy, sở sĩ bị hôn trầm là do tâm không chánh niệm. Chỉ cần bạn buông xả một chút thôi, tâm an lạc sẽ hiện tiền.
Chúc bạn tỉnh híac và thinh tấn.
TN
A Di Đà Phật,
Cám ơn cư sỹ Thiện Nhân. TTB xin tiếp thu để tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.
bạn TTB thân mến, bạn đừng nên quá coi trọng vấn đề đó,hãy xem nhẹ nó đi ạ. mỗi lần thức giấc bạn hãy nhẹ nhàng niệm Phật, biết rõ từng từ từng câu niệm Phật. bạn có mở máy niệm Phật trong lúc ngủ không ạ? nếu có thì bạn nên để âm lượng vừa phải, êm dịu thôi, đừng to quá, khi bạn mở máy niệm Phật trong lúc ngủ thì chọn loại nào có giai điệu du dương chậm rãi nhẹ nhàng như ru, chứ không nên chọn giai điệu niệm Phật nhanh như lúc mình thức.
Qúy Đạo Hữu thân mến !
chúng ta nên tập ăn chay trường. bởi vì việc ăn thịt động vật làm tâm tham, sân, si, tham dục trong chúng ta mạnh thêm. bởi vì tâm của các loài động vật là tham, sân, si, tham dục. tâm và thân thật sự là một thể thống nhất.
ví dụ mỗi khi thân ta khỏe thì tâm ta khá an vui, còn những khi thân mệt mỏi, đau nhức thì tâm không an lạc được.
trên đây là thiển ý của mình. mong các Đạo Hữu chỉ bảo thêm ạ!
A Di Đà Phật…
Xin chào sư huynh Thiện Nhân:
Xin chân thành cảm ơn sư huynh đã phúc đáp cho đệ.
Lý giải dùm cho đệ câu:
“duy tâm sở hiện, duy thức sở biến???”. Xin chân thành cảm ơn sư huynh.
A Di Đà Phật………
A di đà phật
Chào bạn Tịnh Độ
Mình đọc Duy Tâm Sở Hiện, Duy Thức Sở Biến trên website này hy vọng giúp bạn hiểu thêm:
http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?427470-Duy-T%C3%A2m-S%E1%BB%9F-Hi%E1%BB%87n-Duy-Th%E1%BB%A9c-S%E1%BB%9F-Bi%E1%BA%BFn
Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật nói cho chúng ta biết, hư không pháp giới tất cả chúng sanh là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. “Tâm” này là chân tâm, còn “thức” là vọng tâm, chân tâm và vọng tâm là một tâm. Sao gọi là chân tâm, là vọng tâm vậy? Hoàn toàn giác ngộ gọi là chân tâm, kèm theo có mê hoặc là vọng tâm. Mê hoặc là sao? Chúng ta ở trong các buổi giảng thường nói vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, trong tâm bạn chỉ cần có ba thứ này chưa loại bỏ sạch sẽ thì đây chính là vọng tâm, chân tâm không thể hiện tiền. Nếu các thứ này thảy đều gạn lọc hết rồi, hoàn toàn không còn nữa, thì chân tâm liền hiện tiền. Quyết không phải nói, ở ngoài vọng tâm còn có chân tâm, thế là không tìm ra rồi, vậy là chân tâm cũng không có. Cho nên nói “chân vọng không hai” chính là đạo lý này. Chỉ cần đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước buông xả thì chân tâm liền hiện tiền. Chân tâm là năng hiện, năng hiện vũ trụ hư không. Trong Phật pháp nói mười pháp giới y chánh trang nghiêm, ngay cả nhất chân pháp giới đều do chân tâm hiện ra.
Ở trong cảnh giới sở hiện này sinh ra thay đổi, khởi đầu nó hiện là nhất chân, gọi là nhất chân pháp giới, đó là hoàn toàn không có vọng tâm, chân tâm hiện ra! Thế giới Hoa Tạng ở trong kinh Hoa Nghiêm, Tây Phương Tịnh-độ nói là thế giới Cực-lạc đều do chân tâm hiện ra, cho nên nó không có thay đổi. Người sinh về nơi đó ai nấy đều là thọ vô lượng, ai nấy năm nào cũng tuổi 18, họ không già, vĩnh viễn không suy, không già, không bệnh! Tại sao vậy? Họ là do chân tâm hiện ra. Từ đó cho thấy, chúng ta bị già, bị bệnh, bị chết là do vọng tâm tạo nên. Vọng tâm chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Giả như đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều đoạn hết, thì chúng ta và chư Phật Như Lai giống nhau, cũng là bất sanh bất diệt, không già, không suy, không bệnh. Đạo lý lớn này ở trong tất cả kinh luận đại thừa, Phật đều nhắc đến cho chúng ta, đây là cái mà chúng ta cầu! Cho nên, Phật và chúng sanh là bình đẳng, quyết định bình đẳng, không có cao thấp!
Hòa Thượng Tịnh Không
A DI ĐÀ PHẬT
TN xin lỗi đạo Huynh TĐ vì mấy tuần này bận nhiều việc quá nên không tiện trao đổi.
„duy tâm sở hiện, duy thức sở biến???” TN xin mạo muội chia sẻ đôi dòng:
*Duy tâm sở hiện: đây là câu mang ý nghĩa rất trừu tượng vì thế để chúng ta cùng hiểu được tại sao mọi chuyện đều khởi lên từ tâm, TN xin trích một đoạn kinh trong Kinh Kim Cang Luận Phật nói như sau: „Tâm này người người vẫn có không kẻ nào không, nên cái tâm bình đẳng của chúng sanh này tự biết lấy, tự hiểu lấy. Vì sao? Hết thảy việc lành, việc dữ đều tại tâm mình sanh ra. Tâm mình tu việc lành, thân mình được an vui. Tâm mình tạo việc dữ thân mình chịu khốn khổ. Tâm là chủ của thân; thân là dụng của tâm. Tại sao vậy? Bởi vì đức Phật cũng do tâm thành, đạo do tâm học, đức do tâm chứa, công do tâm tu, phước do tâm ra, họa do tâm tạo. Tâm làm ra thiên đường, tâm làm ra địa ngục. Tâm làm ra Phật, tâm làm ra chúng sanh; nếu tâm chánh thì thành Phật, tâm tà thì thành ma. Tâm từ là người của Trời, tâm ác là người của La Sát, nên cái tâm là hột giống cho hết thảy sự tội phước. Nếu người giác ngộ được tâm mình, làm chủ giữ cho chắc chắn, không tạo các sự dữ, thường làm các việc lành, hành trì hạnh nguyện đều y theo Phật. Phật nói: Người này không bao lâu sẽ được thành Phật; nếu có người trai lành, gái tín muốn cầu Phật đạo, mà không rõ được tâm của mình thì không thể thành Phật”.
Đoạn kinh văn này Phật dạy chúng ta điều gì? Người người (trong đó có Phật-chúng sanh) tâm đều giống nhau – cái tâm ấy là bình đẳng và chỉ chúng sanh chúng ta mới tự biết, tự hiểu.
Ví thử: ông A và B cùng ngồi niệm Phật trong một đạo tràng. Ông A thì thân đoan chánh-miệng niệm hồng danh-tai nghe rõ từng câu chữ-tâm nhớ rõ không sai, chệch; nhưng ông B thì lại khác: thân thì ngả nghiêng; miệng cũng niệm hồng danh nhưng lúc nhanh lúc chậm, lúc đúng lúc chệch-tai nghe câu được câu mất-tâm lại đang nghĩ tưởng đến những việc ngoài chùa.
Như vậy tâm ông A-B theo đúng lý Phật nói là tương đồng, đều thanh tịnh, nhưng vì người mê, người ngộ nên khi ngồi niệm Phật bỗng (thấy) trở nên bất tương đồng. Phật gọi người mê là chúng sanh; người ngộ tức là Phật. Chư Tổ cũng ví: một niệm mê=phàm phu; một niệm trí=Phật.
„Hết thảy việc lành, việc dữ đều tại tâm mình sanh ra. Tâm mình tu việc lành, thân mình được an vui. Tâm mình tạo việc dữ thân mình chịu khốn khổ. Tâm là chủ của thân; thân là dụng của tâm“.
Việc lành là gì? Chắc hẳn ai cũng nghĩ: làm thiện ắt hẳn là việc lành? Chưa hẳn, bởi trong thiện có ác, trong ác, có thiện. Ví thử: Ông A ra đường thấy ông B cặp bồ với một người khác mặc dù đã có vợ, con. Ngay lúc đó ông A bèn thông báo cho vợ ông B biết chồng bà đang ngoại tình. Ông A sai hay đúng? Đúng nhưng là cái đúng quá cứng nhắc, không phương tiện nên sẽ dẫn đến sự đổ vỡ, mất hạnh phúc cho gia đình ông B, thậm chí dẫn đến sự ly tán; Cũng là sự việc trên, ông A vốn rất ghét ông B vì ông B luôn vượt trội hơn ông A, vì thế khi thấy ông B ngoại tình, lập tức ông A thông báo cho vợ ông B hay, kế đó lại đem tin đó loan báo khắp nơi cho mọi người cùng biết. Trong đạo gọi đó là ác chồng lên ác. Khi biết tin, vợ ông B là người hiểu đạo, bèn ôn nói với ông A: Ông nói cái sai của chồng tôi là điều tốt, nhưng nói xong còn đồn đại khắp nơi với cái tâm vui sướng, vậy là tâm đó trở thành ác tâm. Ngay lúc được góp ý ông A thấy mình quá sai lầm bèn sám hối trước vợ ông B, nguyện từ nay về sau quyết sửa đổi=ngay trong ác tâm thiện đã hiện tiền. Do vậy tâm sở hiện là ý nói cái vọng tâm vốn thường khởi lên khi các căn tiếp xúc với cảnh trần.
*Duy thức sở biến: Trong nhà thiền có câu này: „Tri kiến lập tri tức vô minh bổn. Tri kiến vô kiến tư tức niết bàn“. Nghĩa là: nếu dùng sự hiểu biết của mình để thiết lập nên một sự hiểu biết khác=đó là gốc của sự vô minh; nhưng nếu biết đó là tri kiến mà không nương chấp vào nó, tất là cảnh giới niết bàn. Niết bàn được hiểu ở một niệm không còn sự sanh-diệt.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm có đoạn Phật khai thị cho Ngài A Nan như sau: „A Nan! Thầy nên biết, diệu tánh Chân-như vốn tròn đầy sáng chiếu, xa lìa mọi danh tướng, bản lai không từng có thế giới và chúng sinh. Nhân một niệm tối sơ vô minh vọng động mà thấy có sinh, rồi nhân sinh mà thấy có diệt, cho nên cả sinh và diệt đều gọi là vọng; diệt vọng gọi là chân. Đó tức là Vô Thượng Bồ Đề và Đại Niết Bàn“.
Ý Phật dạy chúng ta: Chân như tự tánh của chúng ta vốn xa lìa mọi danh tướng. Vạn vật nếu không có danh tướng vỗn sẽ trở nên hỗn độn, khó mà phân biệt. Ví như người chức giám đốc, người là công nhân; người là cha, người là con; người đẹp, người xấu, người cao, người thấp… tất cả đều là danh tướng lập nên để cho chúng sanh thấy rõ mà phân biệt được, nhưng: đừng nương chấp vào sự phân biệt đó, bởi hễ chấp là có vọng tưởng sanh, hễ có sanh ắt có diệt. Niệm sanh-diệt khởi lên không ngưng nghỉ Phật ví đó là „một niệm tối sơ vô minh vọng động“ và cũng vì thế mà thấy có sanh, có diệt.
Điều này khi đối người, tiếp vật chúng ta dễ dàng nhận thấy. Ví thử trong 6 căn, mắt (nhãn căn) chư Tổ nói: Mắt ưa xem huyễn cảnh hàng ngày! Ý nói hễ ra đường mắt chúng ta đều muốn dõi theo những huyễn cảnh. Huyễn là gì? Là sự hư giả, chẳng thật. Ví như ông A ra đường gặp một thiếu nữ C sinh đẹp, khả ái. Khi cái đẹp đập vào mắt ông A thôi thì 5 căn còn lại đã lập tức hoạt động hết công xuất rồi. Hoạt động gì vậy? Muốn thoả mãn cái đẹp vừa hiện ra đó. Cái đẹp đó có thực không? Có thực, nhưng đó là cái đẹp của sự giả tạm, nhất thời, nói như Phật dạy: cái đẹp ẩn chứa đằng sau lớp da với những máu, mủ tanh hôi… và nó mau chóng tàn phai theo năm tháng và sự vô thường. Người giác đạo ngay khi đối cảnh sẽ phải khởi quán hình ảnh C là thường. Thường nghĩa chẳng có đẹp, chẳng có xấu. Khi đẹp xấu không khởi, tất mắt sẽ không bám chấp vào hình ảnh C, đương nhiên các căn còn lại cũng sẽ không phải hoạt động một cách vô bổ. Đó chính là dùng tri kiến = khởi thức phân biệt khi căn tiếp trần nhưng không kiến lập thêm một tri kiến khác (tức có đẹp đang hiện tồn), vì thế vô minh (vọng thức đã không khởi) nên lúc đó tuy có niệm khởi lên nhưng ông A không bị kẹt trong vọng, trong vô minh=không bị phiền não làm loạn tâm.
Để hiểu rõ được tâm-thức của chính mình là khó, vì vậy đòi hỏi mỗi chúng ta phải học thật chuyên sâu giáo lý của Phật, từng ngày, từng giờ, mỗi thời khắc đều phải luôn đem ra thực hành, quán chiếu thì mới có thể giúp cho tâm-thức ấy trở thành trí huệ, tức ngay lúc vọng khởi – giác được – đồng đã thấy chân.
Xét cho cùng Tâm-Thức tuy hai nhưng cũng chỉ là một, bởi cái gốc của nó đều khởi lên từ tự tánh. Nhưng vì bất giác vô minh khởi, rồi không kịp thời quán chiếu để chuyển hoá chúng mà thấy có mê, có ngộ, có Phật, có chúng sanh.
Mong các bạn Sen ráng cùng nhau thường quán chiếu để có nhiều lợi lạc.
TN
Chào bạn Cong
Bạn có thể lên trên website https://www.niemphatduonganduong.org coi thêm sách của thầy Thích Minh Tuệ có nhiều câu vấn đáp rất hay, hy vọng sẽ trả lời cho nhiều câu hỏi của bạn. Còn một phần câu hỏi của bạn mình đã đọc được trong các cuốn sách bên dưới.
Niệm phật thì đừng có trụ tâm vào đâu hết, vì trụ lên đầu sẽ bị nhức đầu khó ngủ, lâu ngày sanh bệnh. (Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm) Tâm bệnh đa số mọi người ai cũng có hết, mình cũng vậy thôi. Hy vọng chia sẽ phần nào các cách niệm phật trong các sách mình đã đọc.
https://www.niemphatduonganduong.org/files/PDF/BNTN-2011.pdf
b. Tiếng niệm Phật
1- Tiếng niệm Phật phải rành rẽ (không lộn lạo), rõ ràng (không trại giọng), chắc thiệt (tâm tiếng khắn nhau). Trong bốn chữ nên nhấn mạnh chữ đầu (A) hoặc chữ cuối (Phật). Kinh nghiệm cho thấy, nếu niệm không rành rẽ, rõ ràng thì khi nhập tâm sẽ không rành rẽ, rõ ràng. Khi niệm nhấn mạnh chữ nào, sẽ nhập tâm chữ đó trước, tiếp theo những chữ kế tiếp. Ví dụ, nhấn mạnh chữ A khi nhập tâm, sẽ ra A Di Đà Phật. Nhấn mạnh chữ Phật, khi nhập tâm nó sẽ ra Phật A Di Đà. Nhấn mạnh chữ Đà, khi nhập tâm nó sẽ ra Đà Phật A Di. Muốn điều chỉnh lại cũng được nhưng mất thời gian khá lâu.
2- Niệm không quá mau, vì mau quá, tâm không bắt kịp tiếng (không chắc thiệt), dễ mệt, không niệm được lâu. Niệm quá chậm thì sẽ rời rạc, lơi lỏng, có kẽ hở, vọng niệm dễ chen vào. Không niệm quá mau, không niệm quá chậm, tốc độ nên vừa phải.
3- Tiếng niệm Phật phải xuất phát từ tâm, lên miệng ra tiếng, đến tai nghe, ý ghi nhận tiếng ấy vào tâm. Như vậy tâm khởi, miệng niệm, tai nghe, tâm ghi nhận, được vậy thân, khẩu, ý (tâm) đều niệm Phật, xoay vần liên tục như vậy không có kẽ hở thì nhất định không còn vọng niệm, vọng tưởng nữa. Niệm như vậy là tiếng hiệp với tâm, chắc thiệt, hay nói tâm tiếng là một, hoặc nói tiếng ở đâu tâm ở đó. Được vậy khi niệm Phật nhất định tâm đã có Phật. Không thể nói gì khác hơn được.
https://www.niemphatduonganduong.org/files/PDF/LaThuCucLac.pdf
Câu hỏi 7:
Những hiện tượng xảy ra khi niệm Phật giữa mình niệm và tự tánh niệm; cách giải quyết. Bạch Thầy, con xin thưa hỏi mấy ngày nay con đã nghe tiếng niệm Phật từ tự tánh của con cũng khá nhiều rồi, nhưng còn rất nhỏ nhưng con vẫn nghe rõ, nhưng có điều vì sao con niệm chậm nhưng tự tánh niệm có khi rất nhanh, có khi con niệm thầm theo không kịp, nên con để cho ý tiếp nhận, nhưng có khi những câu A Di Đà Phật có khi con chỉ nghe là A Di A Di hoặc là A Di Đà và có khi là A Di Đà
Phat (không có dấu chấm chữ “Phật”). Con rất cẩn thận khi
niệm Phật, từng tiếng từng chữ rõ ràng, như vậy có sao không thầy, nếu con lắng nghe thì chủng tử A Di hoặc A Di
Đa có vào tạng thức con không thầy? Nên con ngại không dám nghe nữa mà tiếp tục niệm Phật, vậy nếu tiếp tục niệm Phật thì tự tánh tiếng niệm Phật có bị chìm không thầy, mà trong sách thầy có ghi Chư Tổ nếu mà niệm Phật được đầy đủ thì tự tánh tự niệm không phải dụng công hay tác ý. Xin thầy hoan hỉ hướng dẫn cho con phương pháp nào để đến bất niệm tự niệm hiệu quả tốt nhất. Con thành kính tri ân thầy chỉ giáo cho con.
Con nguyện hồng ân Tam Bảo và Chư Phật Bồ Tát 10
phương luôn gia hộ thầy để ánh sáng Phật Pháp, Pháp môn niệm Phật, Tịnh Độ được truyền rộng khắp mọi nơi cho tất cả hàng Phật Tử chúng con nương tựa.
Đáp:
1. Mình niệm chậm, mà tự tánh niệm nhanh hơn là có tiến
bộ, càng ngày càng nhanh hơn, vì nhanh nên tiếng nhỏ hơn,
rồi đến giai đoạn “nuốt chữ”, nghĩa là thay vì 4 chữ mà chỉ
còn 3, rồi 2 chữ…
2. Tự tánh niệm nhanh, cứ để nó niệm, không bắt buộc phải
niệm theo nó. Mình lắng nghe không thôi vẫn huân tập
được chủng tử, Cổ đức dạy: “Chủng tử khởi hiện hành,
hiện hành huân chủng tử”. Nếu có đủ sức, mình TỰ DO niệm thêm sẽ được huân tập chủng tử nhiều hơn hầu sớm đạt Bất Niệm Tự Niệm.
3. Tự tánh niệm nhanh, muốn nó niệm chậm lại thì mình
niệm chậm rãi ba hay năm phút, nó sẽ niệm chậm lại theo ý
mình. Tuy nhiên nên để nó tiến hành một cách tự nhiên vẫn
tốt hơn.
4. Nghe trại giọng vì tiếng niệm nhanh, nhỏ, mặt khác vì
mình nghe nhiều quá, mỏi mệt không còn nghe chính xác nữa. Trường hợp này chỉ cần định thần, lắng lòng, chuyên
chú nghe từng chữ một hoặc nghỉ xả hơi đôi phút.
5. Bát Tổ Liên Trì đại sư dạy: “Bí quyết của pháp niệm
Phật là NIỆM NHIỀU”, Nhiều ở đây là nhiều câu và nhiều thời gian. Niệm phải rành rẽ, rõ ràng, tâm tiếng khắn nhau, tiếng ở đâu tâm ở đó. Kinh Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương dạy:” Nhiếp trọn sáu căn,tịnh niệm nối
tiếp, đắc Tam Ma Địa (Nhất Tâm Bất Loạn) bậc nhất”.
Pháp “Niệm Phật theo máy” nhằm thực hiện lời dạy nói
trên. Đạo hữu nên đọc câu đáp 31 Phần thực hành, sách
Tịnh Độ Thực Hành Vấn Đáp.
A di đà phật
Nam Mô A Di Đà Phật!
Cảm ơn góp ý của các liên hữu. TTB tiếp tục học tập và dụng công thêm. Do tự mình tìm hiểu nên TTB lo rằng sẽ lầm lạc hoặc không có sự tiến bộ. Rất may là TTB tìm được trang web này và có sự góp ý chân thành của các đạo hữu. Cám ơn ban quản trị trang web.
Kính chào các bạn
Mình cẩm thấy thời gian trôi nhanh quá mà minh cũng lại ko tu tập được gì đáng kể, nên mình mún tham gia khóa niệm phật miên mật 1 ngày, ( vào chủ nhật ạ) vì mình đang đi làm
Quý đạo hữu biết niệm phật đường nào như thế ở thành phố hồ chí minh ko ạ
Mình dự tính tu niệm miên mật 1 ngày rồi dần dần tiến đến phật thất vì mình niệm 1 mình ở nhà hiện h giải đãi lắm ạ
Cám ơn quý bạn đạo rất nhiều
Xin chào mọi người ạ. Con năm nay còn nhỏ nhưng có thể mạn phép cho con nói vài dòng suy nghĩ của mình, nếu có sai hay động chạm tới ai thì thực sự cho con xin lỗi trước được không a?
Khá hay cho tựa đề ” chúng ta tu hành nên bắt đầu từ đâu?”
Thử đặt câu hỏi trước “chúng ta là ai và chúng ta đến từ đâu nhỉ”?
Thân chúng ta do tứ đại mà thành và khi chết cũng sẽ trả về cho tứ đại nhưng tâm tức phật tánh chúng ta đã ở với phật từ thời vô thủy nên tâm này sẽ không mất đi mà sẽ còn mãi. Ai ai cũng có tâm phật này cả chỉ có điều vì chúng ta đã gây nghiệp nhiều quá nên đã đánh mất rồi.
Vậy làm sao để loại bỏ hết nghiệp xấu và tạo những nghiệp lành cho mình để cái phật tánh đó quay lại?
Trong sách Phật giáo cũng như các Thầy ni trong chùa chắc hẳn nói rất nhiều rồi ạ, nhưng con xin nói theo cách nhìn của con được không ạ?
Thời này là thời mạt pháp tức là thời cuối cùng hành pháp kể từ khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng bài Pháp đầu tiên. Thời này Ma Vương đã rất mạnh, chúng không sợ chúng khuất phục, chúng chỉ thua Đức Phật duy nhất đó tính Từ Bi. Vậy nên đọc sách Phật pháp thời này không còn tác dụng nhiều nữa, ngồi thiền thì phải có người pháp hộ cao cường giữ linh hồn cho mình nếu không dễ bị tẩu hỏa nhập ma…chỉ còn duy nhất là niệm phật “NAM MO A DI DA PHAT”.
“Nam mo”: Nghĩa là quay về sửa đổi chính mình, quán xét và loại bỏ các tính xấu
“A DI”: Nghĩa là sự tĩnh lặng, tĩnh tâm không dao động
“DA PHAT”: Nghĩa là trí huệ , không phải trí tuệ. Trí tuệ thấp hơn trí Huệ nhiều
Nhưng niệm nammoadidaphat phải đi đôi với loại bỏ những tính xấu nữa. Bỏ bằng cách nào đây, nói bỏ là bỏ được sao? khó lắm, ta phải hiếu căn nguyên của cái xấu đó và tìm cái khác để khắc trị nó.
Tham, sân, si, ngã mạn…ai ai cũng có, ta phải dùng nhẫn nhịn, buông bỏ… để trị nó. Nhẫn nhịn không những là sự chịu đựng mà còn là sự dám hy sinh bản thân mình, dám đứng lên vì lẽ phải,dám đi ngược lại dòng đời này, ai thích ta không thích, ai cần ta không cần…để tìm con đường trở về giống như chiếc bát trôi ngược dòng sông của đức Phật vậy. Cụ thể:
+ Những người xuất gia tu hành trong chùa: con không dám nói là các thầy sai hay đúng nhưng các thầy ni thử nghĩ xem, đi tu bây giờ còn giống như thời đức Phật không? mình làm từ thiện, giảng đạo đó là tạo phước, không phải tu tâm, cái cục sắt muốn thành con dao thì phải mồi với lửa, rồi mài dũa nó mới sắc bén và mới có ích nhất, ta cũng vậy, phải va chạm với cuộc đời, không sợ khổ, lấy vợ sinh con cũng được( ngày xưa đức phật cũng vậy thôi) phải trải qua gian khổ mà lòng vẫn bình an thì đó mới là tu. Tu trong chính sự khó khăn chứ không phải tu trong sự sung sướng cung phụng. Tu thì cần gì chức tước vì tất cả mọi người đều bình đẳng đều là những người bạn chung đường đó thôi. có rất nhiều cảnh giới khác nhau nhưng khi tu tâm như vậy ta sẽ được cảnh giới cao hơn cả bậc thánh nhân và ngọc hoàng. Ah các thầy có nghĩ mình nên bớt các thủ tục cầu an, cầu siêu và một vài lễ nghĩa khác không ạ?
+ Tu tại nhà: quá hay cho những người tu tại nhà, người xưa có câu “khôn nhà dại chợ”. câu này phải ngược lại mới đúng.giữa người thân, anh chị em với nhau đó là những người ta cần phải tu nhất,vì ta ở với họ từ thuở nhỏ, đó là nơi ta không ngại bộc lộ những tính xấu nhất vậy nên ta phải tu nhẫn nhịn ở chính nơi đây.mỗi người có một nghiệp khác nhau vậy nên nếu gặp phải người vợ khó tính, đứa con khó bảo, hay anh chị em khó gần rồi cả bệnh tật nữa thì ta cũng cứ bình thản mà nhẫn thôi, đừng buồn hay cố gắng thay đổi ai khi họ không có duyên và không muốn thay đổi. nghiệp của ai người đó gánh, 2 thân xác này ở với nhau nhưng 2 linh hồn thì không hề biết nhau vậy nên hãy cố gắng nhẫn nhịn.mình tu cho mình chứ tu cho ai đâu. nhưng hãy sống cho đời. Nên bỏ coi bói toán, cúng kiếng , chú trọng bàn thờ trong ta, đừng chú trọng bàn thờ bên ngoài.
+ Những người nghèo khó, bệnh tật: đó là cái nghiệp của mình,mình biết tu thì nghiệp sẽ dần dần nhẹ hơn. ông trời thử thách những người nghèo khó xem họ có vượt qua được không, nên đừng sợ khổ, biết tu thì ắt sẽ có người độ cho mình.
Con nói những lời trên không có nghĩa là mình phải tự đi vào chỗ khổ để tu, ai cũng đều có nghiệp nặng nhẹ riêng mình, khi nghiệp tới, mình không sợ hãy “ bi trí dũng” tức là hùng tâm dũng khí mà đối diện, khi hoàn cảnh thuận lợi tới, cũng không vì thế mà thích thú hãy buông bỏ nó, một lòng niệm phật .
Có người nói với con “ tôi cứ sống an nhiên tự tại, đối diện mọi thứ với tâm an lành, không làm hại ai cả” cũng tốt thôi ạ, nếu làm được điều đó họ rồi cũng sẽ được giải thoát nhưng có thể ở cảnh giới thấp mà thôi và có thể sẽ bị tái sinh ở cõi này tiếp vì họ chưa trải qua đau khổ, chưa được thử thách, chưa được tôi luyện thì chưa thành Phật được.
Tu nhất kiếp ngộ nhất thời. Con mong mọi người ngộ được phần nào những gì con nói trên đây, vì đó là những gì con học được từ một người đã giác ngộ. Hãy gieo duyên ngày từ bây giờ, hãy dậy tâm để được khai tâm thì mới mong một kiếp sau tốt đẹp được.
Hãy niệm phật để thấy được ánh sáng, đó là thứ ánh sáng của Phật Tánh chiếu vào con mắt thứ ba của mình, nếu niệm đến NHẤT NIỆM VÔ MINH nhưng vẫn chưa thấy ánh sáng thì đừng vội mừng vì ai chưa thấy được ánh sáng này thì vẫn còn trong u mê, sợ chết, không đi được trong bóng tối của cõi ta bà này.
Chỉ cần một hạt giống tốt còn trong mình, ta sẽ phát quang mọi cỏ rậm, vun trồng nó từng ngày, cho nó thử thách với nắng , gió thì rồi một ngày nó cũng sẽ thành BÔNG SEN VÀNG thôi. Nếu ai có duyên và đồng cảm với những gì con nói trên thì hay đi thôi, có đi mới có đến, chúng ta cùng chung đường, hùng tâm dũng khí mà đi thì sợ chi mà không tới phải không a?
Cõi này sắp bị duyệt vong rồi, không còn lâu nữa đâu, ngài đang dọn dần và chỉ để lại những người biết tu. Mọi người có thể thấy các nước đang không ngừng thách thức nhau. Hãy tu ngay từ giờ phút này ạ.
Con xin cảm ơn mọi người rất nhiều!
A Di Đà Phật,
Có một vị từng nói về sư phụ của mình với tôi:
– […] có một lần sư phụ cứu một con rắn bị rớt xuống giếng sâu. Tối đến, con rắn đến liêu phòng của sư phụ và tặng một viên ngọc rắn để tạ ơn.
– Sư phụ cô cứu con rắn bằng cách nào?
Cô đưa hai bàn tay lật ngửa ra trước mặt, từ từ nâng đôi tay lên cao và nói:
– Sư phụ làm như thế này là con rắn được đưa ra khỏi giếng!
– Thế việc cứu con rắn ấy cô có được chứng kiến hay chỉ nghe kể lại?
– Chúng tôi nghe sư phụ kể lại và cho xem “viên ngọc rắn” (?!)
Trong lòng tôi trào dâng nhiều ý nghĩ khác chiều…tuy nhiên tôi vẫn im lặng!
Cô nói tiếp:
– Sư phụ tôi ngày nào cũng nhập định để về dự hội “Linh Sơn” để nghe Đức Bổn Sư Thích Ca giảng kinh. Vì Ngài vẫn còn giảng kinh thường xuyên ở Linh Sơn. Sư phụ nói kinh điển bây giờ trong đại tạng là sai hết nên ngày nào sư phụ cũng ngồi “chép lại và sửa lại” toàn bộ kinh điển hiện nay.
Có một điều đặc biệt là vị sư phụ này cực lực bài xích Pháp môn Tịnh Độ. Hiện tại ông ta đã chết cách đây vài năm nhưng nghe đâu cái chết rất dữ, không an lành. Đệ tử ông ta vẫn tin và rất tin là ông ta đã « giác ngộ và chứng đắc”.
Chúng ta là phàm phu không thể luận bàn điều này. Nhưng có lần tôi nghe qua máy, Ngài Tịnh Không kể chuyện có một người phụ nữ nọ đến gặp Ngài và yêu cầu Ngài ấn chứng rằng bà ta đã đắc A La Hán. Nhưng Ngài Tịnh Không khẳng định: “Bà chưa chứng gì cả, vì nếu là A La Hán, bà có thể đi xuyên tường, có thể nghe và đọc được ý nghĩ người khác dù ở xa khuất tầm mắt”. Ngài Tịnh Không bảo : “Tôi đang nghĩ gì bà có biết không?”. Không trả lời được, người phụ nữ nọ xấu hổ phải bỏ đi.
Do đó, những từ “giác ngộ hay chứng đắc”, chúng ta không nên chỉ “nghe nói hay tưởng rằng” mà có thể đặt niềm tin một cách dễ dàng. Người diễn thuyết hay, nói gì cũng thấy có lý, nhưng chúng ta là người “mù” chưa đọc hiểu được Kinh Phật, chưa biết Phật Thích Ca nói gì, thì làm sao biết được đúng sai. Thế là họ sẽ dẫn ta đi, nhưng đi đâu? Ôi đa phần là đọa lạc, là địa ngục mà nào có hay! Thôi chúng ta chỉ xin học với những thiện tri thức ở bên cạnh chúng ta – những người tận tâm đem từng lời của Đức Bổn Sư chỉ dạy, giảng giải từng chút một không nề mệt nhọc, khó khăn, luôn luôn khiêm tốn và ân cần.
Xin gởi theo đây lời cảm ân các vị liên hữu trên ĐVCT như Thiện Nhân, Trung Đạo, Phước Huệ, Tịnh Thái, Tịnh Tâm, Tâm Tịnh, Tâm Từ…đã hết lòng dìu dắt chúng tôi trên con đường sáng của Phật Pháp.
Hãy vì Huệ mạng của mình mà sống và tu một cách bình thường thì an toàn hơn.
Kính xin chư vị tha lỗi nếu tôi có viết điều gì làm chư vị không hài lòng.
A Di Đà Phật
——————————————————————-
Tôi xin mạn phép kể thêm về rắn. Đó là một linh vật càng sống lâu thì linh tánh rất nhạy bén và thường biết tu. Một con rắn nếu có ngọc thì ít nhất phải sống và tu vài trăm năm (điều này tôi cũng nghe ông bà xưa nói lại).
Tôi có gặp một pháp hữu, tự vào núi tu một mình, sau một lần đi biển đánh bắt trở về, bỏ thuyền, bỏ nhà để đi tu. Pháp hữu này chuyên trì Đại Bi, khoảng hơn trăm biến một ngày, và niệm A Di Đà Phật. Không xuất gia, nhưng tu hành rât thành khẩn và siêng năng. Đôi khi có cảm ứng nhưng ít nói.
Sau này khi đường xá được phóng gần chỗ núi cậu ta tu, có một vài cư sĩ trẻ nghe tiếng tăm đến xin cùng tu vào mỗi ngày chủ nhật, cũng trì Đại Bi và Niệm Phật. Cậu ta dặn: “Ở đây, rắn rất nhiều và khá lớn, nhưng không hề cắn ai, nên đừng sợ. Và “họ” cũng tu như chúng ta, cũng ít cho ai thấy. Người lên núi với tâm lành hay tu hành thì không sao. Nhưng nếu có ý không tốt hay phá phách, nói bậy… “họ” sẽ lộ thân ra và có khi rượt chạy để đuổi đi.”
Các cậu thanh niên trẻ nọ chưa tin lắm…cho đến một hôm, họ đến cùng tu, vừa nghe tiếng chuông, mọi người tập trung trong một cái chòi nhỏ che bằng tôn cũ, bốn bề trống trơn, mái tôn chỉ đủ che bàn thờ Phật. Đột nhiên nghe tiếng động lạ, một cậu nhìn ra chỗ bậc đá cách vài mét thì trông thấy hai con rắn thật to bò đến và nằm im không nhúc nhích. Toát mồ hôi lạnh, câu ta sợ đến nỗi mất cả tập trung. Khi buổi tụng niệm chấm dứt, cậu ta nhìn ra thì không thấy một con rắn nào cả. “Họ” đã đi từ lúc nào không biết. Lúc đến thì tạo tiếng động, nhưng lúc đi chẳng ai hay biết gì.
Với linh tánh như thế, “họ” có để cho bản thân tự mắc nạn không nhỉ?!
A Di Đà Phật
Không biết bạn bao nhiêu tuổi rồi. Bạn nói bạn còn nhỏ nên mình cũng góp ý. Vì mình cũng đã từng còn nhỏ như bạn. Bạn đừng bận tâm người ta tu hay không tu. Tu hành là để tự bản thân người đó thấy, không phải để bạn hay người khác xem. Bạn cũng nên tu để chính mình thấy. Chừng nào bạn thoát sinh tử rồi hãy mới học Phật Bồ Tát xem ai lười tu mà dẫn dắt họ. Tu hành như học tập(ví dụ dễ hiểu thôi chứ ko giống hệt vậy) . Khi đã tốt nghiệp thì mới có bằng, mới đi làm mấy việc người có bằng làm được. Bây giờ là giai đoạn mình đang tu học thì chỉ nên lo tu học, đừng quản chuyện người khác mà chậm trễ tốt nghiệp. Khi nào tốt nghiệp thì quản không muộn. Dù sao thì bây giờ bạn có đủ sức để thay đổi cả xả hội này không.
Tu hành quan trọng là phải làm mòn ái dục. Hễ còn phát sinh yêu thích với điều gì thì tức là mình còn sai ở đó. Ái mà được thì sẽ tham, ái mà không được thì sân, sợ …
Còn tu hành tịnh độ. Ví dụ như con đại bàng kể cho con kiến nghe cái nó thấy khi bay lên. Con kiến lại bảo toàn là chuyện bịa đặt. Lắm khi có những điều vi diệu quá tầm hiểu biết của mình thì ta sẽ cảm thấy nó giống hệt mấy chuyện tưởng tượng, trong khi nó rõ ràng có thật, chỉ là tầm mắt ta không đủ cao để thấy thôi. Như thế thì chỉ nên tin theo là được.
Cứ bỏ tham ái mà niệm Phật A Di Đà, Phật Dược Sư, Quán Tự Tại Bồ Tát. Tùy bạn, Phật Pháp là tự nguyện tu. Chỗ tốt đẹp thì để tự bạn cảm nhận. Đôi khi một hai điều là quá dư đủ. Còn ba bốn chục điều mà học thuộc lòng như con vẹt nhưng vẫn không cảm nhận được thì vẫn là thiếu thốn rất nhiều đấy. Chúc bạn an lạc
A Di Đà Phật…
Xin chào các vị đồng tu:
Xin lý giải dùm: “tam giới là gì???”
Xin chân thành cảm ơn các liên hữu. Xin cám ơn Tìm Lại Nhà Xưa đã phúc đáp cho mình.
A Di Đà Phật………
A di đà Phật…
Chào bạn tịnh độ
Cám ơn bạn đã đặt câu hỏi cho mọi người cùng tìm hiểu. Mình cũng chỉ đi bước đầu trên con đường thực tập mà thôi. Nhưng mà bạn cứ niệm Phật cho nhiều vào với tín nguyện hành cho đến khi nào tâm khai trí mở bạn sẽ hiểu rõ tam giới do đâu mà hình thành. Nhưng bạn phải lìa bỏ tâm nhị biên, đúng sai, phải trái, thương ghét, hơn thua, hay dở… để vượt ra ngoài sanh tử. Thấy chỉ biết thấy, nghe chỉ biết nghe, biết chỉ biết luôn để tâm trong chánh niệm đó là điều quan trọng hơn. Học mà không hành chỉ là đãy đựng sách, tu mà không học là tu mù. Hành mà không đúng sẽ đi sai đường, về nhà sẽ không tới. Cứ giữ mãi tham sân si, mạn nghi, tà kiến, nhị biên trong tâm thì sẽ còn mãi trong tam giới. Buông tất cả được tất cả, buông ở đây là buông cái tâm tham sân si mạn nghi tà kiến của mình, chứ không phải bảo cho hết nhà cửa tiền tài đi mới là buông. Tiền tài vật chất chỉ là phương tiện giúp mình trên con đường về nhà mà thôi, biết đủ là đủ. Các pháp của Phật cũng vậy cũng chỉ là phương tiện, khi tới bờ thì thuyền cũng phải bỏ thì mới đi sang bờ bên kia được. Chứ ai mà còn vác cả cái thuyền theo, sao mà đi nổi. Lời Phật dạy không sai, hãy tin vào Phật dạy mà thoát khỏi tam giới. Đừng nên chạy theo tà kiến, tu thì phải tu trong chánh kiến. Một câu niệm Phật niệm tới cùng rồi bạn sẽ hiểu tất cả thôi. Tất cả các pháp môn Phật dạy đều dẫn về nhà nhưng sao đường dễ không di, há đi đường khó. Bổn lai vô nhất vật (lục tổ Huệ Năng)
Đây là website mình đọc Tam giới là gì.
https://www.facebook.com/thienthanhtinh/posts/1789490564644194:0
Thiền Tông Tân Diệu
TAM GIỚI LÀ GÌ?
TRONG 1 TAM GIỚI CÓ BAO NHIÊU HÀNH TINH?
Tam Giới, một vùng rất nhỏ trong Càn khôn Vũ trụ phải hiểu như sau:
Một Thái dương hệ gọi là 1 Tam giới, gồm có:
– Một ngàn Thái dương hệ gọi là 1 Tiểu thiên thế giới.
– Một Tiểu thiên thế giới nhân cho 1 ngàn nữa, số ra này là 1 tỷ Tam giới, gọi là 1 Trung thiên thế giới.
Trung thiên thế giới nhân cho 1 ngàn nữa, số ra này là 1 ngàn tỷ Tam giới, gọi là Đại thiên thế giới.
Mà Như Lai nhìn thấy trong Càn khôn Vũ trụ này có Hằng hà sa số Tam thiên Đại thiên thế giới. Đồng nghĩa, đem số cát của mấy tỷ sông Hằng ra đếm, thì số cát của mấy tỷ sông Hằng cũng không bằng số Tam thiên Đại thiên thế giới nữa, mà Tam thiên Đại thiên thế giới nó nằm trong Càn khôn Vũ trụ.
Trong 1 Tam giới có 45 hành tinh chia ra như sau:
Một: Có 11 hành tinh, cấu tạo bằng điện từ Âm Dương không màu sắc, gọi là “Cõi Trời Vô Sắc”.
Hai/A: Có 11 hành tinh, cấu tạo bằng 12 màu sắc rực rỡ của điện từ Âm Dương, gọi là “Cõi Trời Hữu Sắc”.
Hai/B: Trong cõi trời Hữu Sắc rực rỡ này, có 6 hành tinh rất thanh tịnh, gọi là “Lục Quốc Tịnh Độ”.
Ba: Có 11 hành tinh, cấu tạo bằng 5 màu sắc điện từ Âm Dương thật đậm, cường lực rất mạnh, nên gọi là “Cõi Trời Dục Giới”.
Bốn: Có 6 hành tinh, cấu tạo bằng “Tứ đại”: Đất – Nước – Gió – Lửa. Nơi 5 loài sống chung, tức “Ngũ thú tạp cư”, gọi là Địa cầu.
Một Tam giới mà đã có nhiều hành tinh như vậy. Ai đó bảo: Càn khôn Vũ trụ này là do họ làm ra, là không đúng sự thật.
TRÍCH QUYỂN “SÁCH TRẮNG THIỀN TÔNG”.
Chào huynh Tịnh Độ,
Tam giới gồm có ba cõi, đó là cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Lục đạo chúng ta là thuộc về cõi Dục giới. Tam giới bắt nguồn từ vô minh, theo Thập nhị nhân duyên mà hình thành. Vì có nguồn gốc từ vô minh nên tam giới cũng không ngoài tâm của chúng ta, hay nói cách khác, chính là vọng tâm của chúng sanh tạo ra Tam giới. PH cho rằng chúng sanh nào còn chấp, dính mắc vào Dục, Sắc và vô Sắc thì sẽ tái sanh ở cõi tương ưng. Các cảnh giới Thiền 1,2,3,4 đều thuộc về cõi Sắc giới. Những vị tu Thiền không theo Phật giáo thì họ tu lên đến cõi Vô Sắc giới, nhưng rồi cũng theo nghiệp mà tái sanh luân hồi. Còn bên Phật giáo chúng ta thì khi đắc sơ, nhị, tam, tứ thiền, tâm được thanh tịnh thì hành giả xoay vào quán các pháp như Phật đã dạy, sẽ chứng được quả Thánh, rồi theo đó mà vượt ra khỏi Tam giới (chứng quả A La Hán), vĩnh viễn không luân hồi trở lại, ngoại trừ do bi nguyện độ sanh.
Chúc huynh tu tập tinh tấn.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật…
Xin chào các vị đồng tu:
– Nhờ các liên hữu lý giải dùm cho câu: “PHẬT GIÁO LÀ SƯ ĐẠO, KHÔNG PHẢI LÀ TÔN GIÁO”?
Xin chân thành cảm ơn Tìm Về Nhà Xưa, Phước đã phúc đáp cho đệ, hai bạn là nam hay nữ?
Xin chân thành cảm ơn…
A Di Đà Phật………
A Di Đà Phật. Gần đây đệ xem mẫu video này bằng tiếng Hoa thấy có một người đang “đứng vãng sanh” có lồng nhạc niệm Phật bằng tiếng Hoa phụ họa. Video được đăng bằng tiếng Hoa nên đệ cũng chẳng hiểu thật hư ra sao. Huynh đệ nào rõ hơn xin hoan hỉ chia sẻ chuyện này ra sao, có thật đây là trường hợp “đứng vãng sanh” hay chỉ là “chết đứng”? Video thấy lạ là nhân vật chính đứng như trời trồng, tay còn nắm chặt đồ shopping mà mặt thì nhìn thẳng lên không trung như đang nhìn thấy điều gì ở trên đó.
Nếu mà đạo hữu đó thấy Phật thì chắc hẳn là sẽ buông túi xách xuống ( buông xả vạn duyên ) sau đó chắp tay lại chí thành xưng niệm thánh hiệu A Di Đà Phật thì mình tin chắc 100% là đạo hữu đó đã vãng sanh. Còn ở tư thế này thì hơi khó tin nhưng mình không dám lạm bàn. A Di Đà Phật
Xin kính chào toàn thể liên hữu. Nhân lời hỏi của huynh Tịnh Độ, NP cũng xin có đôi dòng mong toàn thể liên hữu cùng chia sẻ để giúp nhau tu tập tốt hơn.
Thế nào là khổ? Vạn vật ở cõi ta bà là thường hay vô thường, tại sao lại khiến chúng ta đau khổ,làm cách nào để thoát khỏi đau khổ, làm cách nào để sống an lạc ngay hiện tại, làm cách nào để chắc phần sanh về Tây Phương, làm sao để tu ko mơ hồ, làm sao để biết mình tu đúng hay sai. Kính mong các bạn đồng tu giải đáp những thắc mắc trên. NP xin chân thành cảm ơn và tri ân công đức các bạn.
A Di Đà Phật…
Kính gởi sư đệ NguyenPhu:
Đã mấy ngày qua rồi chưa có liên hữu nào phúc đáp cho đệ, huynh (53T) có vài lời lý giải cho đệ, biết bao nhiêu thì nói bấy nhiêu có gì thiếu xót xin các liên hữu bổ xung thêm. Vì huynh ích phúc đáp, có gì sai xót xin tha thứ cho mình.
-Thế nào là khổ?
Sanh, lão, bệnh, tử. Cầu bất đắc khổ, ái biệt ly khổ… Còn nhiều thứ khổ như con trâu, ngựa kéo cày, như những người thọ tội trong địa ngục đều rất khổ. Nhưng cái khổ trên cũng chưa là khổ lắm. Cái khổ nhứt trên đời là không học Phật, để thoát khỏi luân hồi, vãng sanh Tây phương cực lạc. Vì học Phật là hưởng thụ tối cao của đời người.
Ta đau khổ vì là cái ta, nên tập XÃ bớt từ từ cái ta.
Niệm Phật, cầu vãng sanh Tây phương cực lạc là thoát khổ.
Lời nói của cố lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam: ” người không niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương cực lạc là người cuồng vọng.”
Làm thế nào chắc phần vãng sanh? Câu này hơi khó đó đệ.
Niệm Phật đến nhất tâm bất loạn (rất cao), tam muội, thành phiến (khối) có thể tự tại vãng sanh.
Lúc lâm chung đứng, ngồi tự tại vãng sanh không bệnh mà ra đi là vui vẻ của tất cả chúng ta niệm Phật, nguyện vãng sanh Tây phương cực lạc.
NguyenPhu đã tu đúng rồi về Tịnh Độ, Đức Bổn Sư Thích Ca nói thời mạng pháp là tu Tịnh Độ thành tụ.
Dù bất cứ ai nói pháp nầy hay mau giải thoát cho dù Phật, Bồ Tát có nói đi nửa mình cũng cảm ơn họ, con chỉ tu Tịnh Độ (niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương cực lạc), đó là lòng TÍN của mình.
Hồi lúc trước huynh niệm Phật, cầu được niệm Phật thành một phiến (khối). Nhưng về sau thì xem lời khai thị của các thầy thì mình đã sai. Nên bây giờ huynh chỉ niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương cực lạc thôi.
Vài lời chia sẽ với sư đệ, có gì thiếu sót xin các liên hữu ý kiến thêm cảm ơn.
A Di Đà Phật……….
Thế nào là khổ?
https://youtu.be/gS_FNCy1zIE
Mình thấy clip này nói rất rõ.
Tu về tu hành tịnh độ thì mình không giỏi. Theo mình là phải bỏ đi tham ái những thứ trong cõi đời này mà siêng niệm Phật thì sẽ không lầm đường. Nếu thấy mình hãy còn tham ái điều gì thì biết mình còn sai chỗ đó. Tu hành khó lắm, hãy nên thường cầu Tam Bảo gia bị bạn nhé. Chúc bạn an lạc và được thành tựu ước nguyện lành.
Chào bạn NguyenPhu,
Tiếp lời huynh Tịnh Độ, PH xin được chia sẻ vài ý.
– Thường là vĩnh viễn, vô thường là có đó rồi mất đó. Nên cõi Ta bà vốn là vô thường.
– Chúng ta khổ vì mong nó “thường”, mong nó vĩnh viễn. Ví dụ: mong không chết, không bệnh, không già, không buồn, không xa lìa người thân,.. Là do ta cố chấp, muốn bắt sự việc, con người phải theo ý mình, mà điều đó là không thể, vì không toại ý nên khổ.
– Để thoát khổ thì phải thay đổi chính mình, sống được như lẽ vô thường, không cố chấp nữa. Rồi xoay tâm sống cho được với chân tâm thì ngay đó liền rốt ráo an lạc (là quả Phật, A La Hán).
– Đức A Di Đà rất từ bi, thuận theo cái ý thích muốn “thường” của chúng sanh mà tạo ra cõi Cực Lạc, để chúng ta sanh tâm ưa thích nguyện sanh về đó.
– Ngoài cách niệm Phật nhất tâm bất loạn như trong kinh A Di Đà đã dạy, theo nguyện thứ 18 trong kinh Vô Lượng Thọ, vị nào có thật Tín, thật Nguyện, nếu chắc chắn lâm chung niệm được 10 niệm thì nắm chắc phần sanh về Cực Lạc.
– Để tu không mơ hồ và biết mình tu đúng, sai thì phải ngay trên tâm mình mà xét rồi y theo kinh Phật dạy mà đối chiếu. Ví dụ, mình niệm Phật nhiều lắm, mà khi có chuyện, nổi sân si quá chừng thì biết mình đang thiếu nhiếp tâm, còn nếu đụng việc, vẫn còn sân si, nhưng ít hơn hồi chưa tu, tự thấy hổ thẹn, vậy là tu đúng, có tiến bộ.
Chúc tất cả bạn sen đồng tinh tấn, an lạc.
Nam Mô A Di Đà Phật.