Người xưng niệm ‘Nam-mô A-di-đà Phật’ thì người này đã được trăm nghìn lớp ánh sáng của Phật A-di-đà vây quanh bảo hộ. Vì thế, người niệm Phật đều có quang minh của Phật A-di-đà. Đã được quang minh của Phật A-di-đà đến bảo hộ, che chở chúng ta, thì nội tâm chúng ta cũng phát ra ánh sáng rực rỡ của Phật A-di-đà.
Câu chuyện niệm Phật phóng quang 1:
Trong đoạn văn này, tôi xin trích dẫn hai thí dụ để chứng minh.
Quyển Tịnh tông giảng nghĩa này tổng cộng phân thành mười chương, trong đó chương thứ 10 chính là ‘Niệm Phật phóng quang’ (Chú: Đã được đưa vào Niệm Phật cảm ứng lục, tập 1), cũng chính là nói, chỉ cần người xưng niệm danh hiệu, trên thân sẽ phóng ra ánh sáng của Phật A-di-đà. Chương thứ 10 phân làm mấy đoạn, trong đó ‘tâm niệm Di-đà, thân có ánh sáng’, người thực hành là Đại sư Liên Trì cuối triều đại nhà Minh, Tổ sư tông Tịnh Độ rất nổi tiếng. Ngài soạn Trúc song tùy bút (tác phẩm, 3 quyển, do ngài Châu Hoằng soạn vào năm 1615 đời Minh, Trung Quốc. Nội dung sách này có hơn 400 điều mục, phần lớn nói về sự lý của tông Thiên Thai, Thiền, Tịnh Độ) có một đoạn ghi chép như sau:
Thôn Hải Xương có một bà cụ chết, tuy thể xác chết nhưng linh hồn không chết. Linh hồn của cụ bà này có thể nương vào thân thể của người tại gia mà giảng nói một vài chuyện về báo ứng âm phủ, chịu những thống khổ cực hình ở địa ngục, mỗi lần như thế bà cụ nói rất rõ ràng và rất linh nghiệm. Vì thế, khi bà cụ gá vào thân nói chuyện thì không những người nhà mà ngay cả người hàng xóm cũng đều đến tò mò để nghe.
Có một lần, nghe trong chúng có người bỗng nhiên chuyên tâm niệm Nam-mô A -di-đà Phật. Bởi vì trong tâm người ấy niệm chứ không phải miệng niệm, nên người khác đương nhiên đều không biết, nhưng linh hồn thì biết, lập tức nói: “Anh gì đó ơi, nếu như anh thường xuyên niệm như vậy thì lo gì không thành Phật chứ!”.
Người đó hỏi lại bà ấy: “Ôi! Sao bà nói như vậy?”.
Linh hồn nói: “Bởi vì trong tâm của anh niệm Nam-mô A-di-đà Phật ạ!”.
Người đó hỏi vặn lại: “Trong tâm tôi niệm Phật, bà làm thế nào biết được?”.
Linh hồn nói: “Ái chà, biết rất rõ, bởi vì trên thân bạn có ánh sáng!”.
Đại sư Liên Trì nói: Người thôn này mù chữ, không biết chữ. Người trong thôn không biết chữ, nhưng ngay lúc đó chuyên tâm niệm Phật, có thể khiến cho hồn ma hướng về người ấy mà cung kính và khen ngợi như vậy, huống gì là người tu trì niệm Phật đã lâu! Đại sư Liên Trì nói: “Thế nên, công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn”.
Người này một chữ cũng không biết, có thể nói là người ngu si, nhưng chỉ cần trong tâm chuyên tâm niệm Phật thì có ánh sáng. Quỷ thần không những không dám hại người ấy mà còn kính trọng người ấy, thậm chí còn bảo hộ người ấy nữa.
Cần phải niệm Phật nhiều thì chuyển ánh sáng không tốt trở thành ánh sáng của Phật
Kỳ thật, trên thân chúng ta đều có ánh sáng (quyển sách này cũng có nêu ra), người thiện có ánh sáng thiện, người ác có ánh sáng ác, hiện tại khởi niệm nào thì có ánh sáng đó, trí huệ, phước báo lớn hay nhỏ, ánh sáng đều khác nhau.
Bất kể trí huệ, phước báo lớn hay nhỏ, chúng ta chỉ cần niệm Phật thì đều có ánh sáng của Phật. Nếu không như thế, nếu nói về ánh sáng của tự thân chúng ta thì có thể hiểu được là ánh sáng của chúng ta không thể khiến cho quỷ thần kính trọng, bởi vì chúng ta loạn tưởng vọng niệm, tự tư tự lợi, tham sân si sâu nặng, đâu có loại ánh sáng nào có thể được cung kính? Cho nên rất hổ thẹn. Vì thế, chúng ta cần phải niệm Phật nhiều, chuyển ánh sáng không tốt thành ánh sáng của Phật.
Niệm vọng tưởng cũng là niệm, niệm Phật cũng là niệm, nhưng vọng tưởng không tốt, chỉ tạo tội tạo nghiệp, quỷ thần xem thấy chán ghét. Như thế thì tại sao không dùng niệm vọng tưởng đó mà niệm Phật?
Cũng là niệm mà không niệm Phật thì nhất định sẽ niệm vọng tưởng.
Trên thân chúng ta đều có ánh sáng, dùng mắt thịt xem thì không thấy, người có mắt âm dương sẽ nhìn thấy, quỷ thần cũng nhìn thấy. Mắt âm dương và quỷ thần đều là phàm phu, nhưng có thể thấy được. Chư Phật, Bồ-tát, Hộ pháp long thiên dĩ nhiên nhìn thấy được.
Vì thế, chúng ta chỉ cần trong tâm niệm Phật, thì Hộ pháp Long thiên sẽ đến hộ trì, chư Phật, Bồ-tát xếp thành trăm lớp, nghìn lớp vây quanh bên thân bảo vệ chúng ta, khen ngợi chúng ta, đây là kinh A-di-đà nói.
‘Trong ánh sáng Hóa Phật vô số ức’ của Phật A-di-đà là Hóa Phật vô số ức; đồng thời ‘Hóa chúng Bồ-tát cũng vô biên’ là Bồ-tát vô biên. Hóa Phật, Hóa Bồ-tát cũng như nhau xếp thành trăm lớp, nghìn lớp vây quanh để bảo hộ chúng ta.
Trong mười hai thời, chúng ta đều được Phật A-di-đà, chư Phật, Bồ -tát, Hộ pháp long thiên ủng hộ, điều này quả thật làm cho chúng ta cảm thấy an ổn, an toàn và vui vẻ!
Câu chuyện niệm Phật phóng quang 2:
Lại nói một bài trong sách Niệm Phật cảm ứng lục, tập thứ nhất, trang 70. Đây là lời trích dẫn trong Khả hứa tắc hứa của cư sĩ Trần Hải Lượng soạn.
Trần Hải Lượng là vị cư sĩ tại gia tiếng tăm lừng lẫy thời cận đại, gia đình anh ấy là gia đình Phật hóa, và chuyên tu Tịnh Độ. Trong quyển sách này, Trần Hải Lượng nói: “Lúc tôi 29 tuổi (1937), vợ tôi tên là Viễn Tín, ở núi Xích Thành. Lúc này Viễn Tín mới 25 tuổi, sáng sớm một hôm nọ, cô ấy xuống núi, đi giữa đồng ruộng, dọc đường chuyên tâm niệm Phật. Lúc này, mặt trời vừa ló dạng nhô lên trên núi thì ánh sáng của mặt trời buổi sáng chiếu khắp đại địa. Cô ấy tình cờ thấy bóng dáng của mình, nên phát hiện trên đỉnh đầu có vầng sáng hình tròn, đường kính khoảng hai thước (o,66m), rộng bằng bả vai. Vầng sáng này tỏa sáng rực rỡ, giống như ánh sáng vòng tròn tuyệt đẹp trên tượng Phật, không thể hình dung (chúng ta xem trên đầu tượng Phật đều vẽ có vòng ánh sáng, có màu sắc, chỉ có điều vòng ánh sáng trên đầu tượng Phật mà chúng ta thấy, không thể so với ánh sáng chân thật mà Viễn Tín thấy, bởi vì đích thân cô ấy nhìn thấy). Trong tâm cô ấy cảm thấy kỳ lạ, vẫn tiếp tục vừa đi vừa niệm Phật, hơn nữa luôn chú ý đến bóng dáng của cô ấy. Vầng ánh sáng hình tròn này vẫn tỏa ra ánh sáng rực rỡ đẹp tuyệt vời. Cô ấy biết đây là cảnh tượng do niệm Phật mà được, do đó để thử xem, cô ấy dừng niệm Phật, chuyển qua niệm chuyện tạp nhạp của thế gian, đồng thời lại xem thử cái bóng ấy! Vầng ánh sáng đã biến mất”.
Ở đây, Trần Hải Lượng nói: “Vì thế, có thể biết niệm Phật có thể phát sinh ra ánh sáng vốn có của chúng ta, tiêu trừ được nghiệp chướng đen tối”. Viễn Tín là vợ của Trần Hải Lượng, cô mới 25 tuổi. Nói về tuổi tác thì cô còn rất trẻ, chẳng phải là sư thầy, cũng chẳng phải là người tu hành lâu, nhưng bởi vì cô ấy niệm Phật nên có vầng ánh sáng xuất hiện; không niệm Phật thì vầng ánh sáng tiêu mất. Có thể thấy, người niệm Phật tuy không biết, không cầu khẩn nhưng vẫn có ánh sáng. Nếu niệm việc khác, tuy cũng là niệm, nhưng không có vầng ánh sáng. Như vậy thì có thể biết, ánh sáng này chẳng phải từ bản tâm của cô ấy phát ra mà là ánh sáng từ bên ngoài đến.
Chỗ nào có danh hiệu thì chỗ đó có ánh sáng
Câu danh hiệu này chính là danh hiệu quang minh, chỗ nào có câu danh hiệu này thì chỗ đó có ánh sáng. Ở Đài Loan, câu danh hiệu sáu chữ này được dán trên cột điện, tường vách, dán nơi bờ ao và bờ biển từng có người chết đuối, hoặc đoạn đường nguy hiểm từng xảy ra những vụ tại nạn xe cộ. Sau khi dán sáu chữ danh hiệu lên, thì nơi đó tai nạn xe cộ giảm ít, thậm chí không còn nữa; có những vùng nước hằng ngày thường có người chết đuối, kết quả sau khi dán sáu chữ danh hiệu lên bên bờ, thì không có người chết đuối nữa. Câu danh hiệu này phóng quang ngay trong đó, tiêu trừ được nghiệp chướng của chúng sanh bị tai nạn nơi đó, khiến cho họ lìa khỏi, không làm trở ngại người đi đường, thậm chí tìm người thay thế (người chết oan sẽ tìm người thay thế).
Chúng ta không nên nói: “Ô kìa! Người ta là Viễn Tín, mới có vòng ánh sáng trên đầu”. Không chỉ Viễn Tín có mà mỗi người chúng ta đều có, nếu ai niệm một câu Phật thì đều có ánh sáng. Bởi vì tâm của chúng ta rất hẹp hòi, ngu si, có tạp niệm, có phiền não, không thanh tịnh, chúng ta cũng không có trí huệ cao sâu, cho rằng ‘giống như tôi đây, dù niệm Phật cũng chẳng được gì cả! Người được phóng ánh sáng, tâm phải rất thanh tịnh, vào sâu kinh tạng, tu hành nghiêm mật’, mọi người đều nghĩ như vậy sao? Thật ra không phải như thế!
Một niệm tâm của chúng ta tuy nhỏ, nhưng cũng trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới. Chúng ta khởi một niệm hoặc nói ra một câu đều có mặt khắp cả vũ trụ, lại quay về bên thân chúng ta, lúc nào cũng là thời gian nhân quả hưởng ứng. Bóng của chúng ta lúc bình thường nhìn không thấy có ánh sáng, nhưng nếu thời gian và không gian phối hợp tốt, tình hình trong tâm cũng dần dần tốt, sẽ xuất hiện hiện tượng này. Nhân như vậy, quả như vậy, tất cả đều là nhân duyên hòa hợp, muốn có vầng ánh sáng đó, cũng cần nhân duyên hòa hợp. Có thể biết loài người, thậm chí loài súc sanh (bởi vì trong tâm loài ấy cũng có tâm niệm), chỉ cần tâm niệm chuyển thành niệm Phật thì tự nhiên sẽ phát sinh hiện tượng đó. Vì thế, không chỉ Viễn Tín có mà bất kể người nào cũng có, nhân như vậy, quả như vậy. Giống như đài truyền hình chuyển đến kênh nào thì tiết mục của kênh đó tự nhiên hiện ra trên màn hình. Nếu bạn không chuyển đến thì nhân duyên không đầy đủ, quả đó không thể phát ra, cho nên ánh sáng thì mỗi người niệm Phật chúng ta đều có.
Phật quang soi sáng, lợi ích căn bản nhất là tiêu trừ nghiệp chướng lúc lâm chung
Quang minh của Đức Phật A-di-đà soi sáng chúng sanh niệm Phật, có công đức lợi ích rất lớn. Công đức lợi ích này rất nhiều, trong đó căn bản nhất là tiêu trừ được nghiệp chướng của chúng ta khi lâm chung. Bởi vì đương lúc chúng ta lâm chung thì thân thể phải chịu các thứ bệnh đau đớn dằn vặt, tâm chịu các sự dày vò bất an, có thể nói cả trong lẫn ngoài đều bị hành hạ, vừa đau đớn lại vừa chấp trước.
Trích: Đại Ý Ba Kinh Một Luận Tịnh Độ
Nguyên tác: Pháp sư Huệ Tịnh
Người dịch: Nhuận Hà
Hiệu đính: Định Huệ
LI KÌ CHUYỆN RẮN NHẬP HỒN BÁO THÙ
Vào khoảng năm 1978, chùa chúng tôi xảy ra một biến cố làm cho tất cả mọi người có thêm kinh nghiệm rùng rợn về tái sinh và nghiệp báo. Nếu biến cố này xảy ra trước năm 75 thì chắc chắn những tờ nhật báo tha hồ khai thác để làm tiền thiên hạ, và chùa chúng tôi cũng sẽ bị ảnh hưởng không ít vì cái cảnh dập dìu tài tử giai nhân đua nhau tới chùa tìm hiểu sự vụ hòng kiểm chứng những lời tường thuật của báo chí.
Nhưng vì sự cố đã xảy ra vào một thời rất căng cho các chùa chiền, thêm nữa chùa chúng tôi ở nơi thật hẻo lánh trên núi thì còn ai biết được một sự cố hi hữu đã xảy đến. Đương sự hiện nay là một ni cô đã ngoài ba mươi, tốt nghiệp đại học và đang ở Sài Gòn để theo cao học.
Một hôm về thăm chốn tổ – chùa Trúc Lâm nằm trên đường đi lăng Khải Định – chúng tôi gặp nhau và nhân lúc cao hứng cô đã kể lại chuyện đời của cô cho tôi nghe.
Tâm Tưởng – pháp danh cô bé lúc mới vào chùa – trước kia vào khoảng 1978, là một nữ sinh viên đại học Sư phạm Huế sắp ra trường. Cả gia đình cô không ai biết đạo Phật là cái gì cả. cô đang lưu trú trong cư xá của đại học vì nhà ở tận dưới quê xa. Một hôm cô về thăm nhà, ở lại trong căn phòng nhỏ, thức đêm ôn bài cho kỳ thi tốt nghiệp sắp tới. Giữa khuya, thình lình có một con rắn lớn bò qua cửa sổ vào phòng.
Cô hét lên, đánh thức cả nhà. Cha cô đang ngủ nhỏm dậy, cầm cây then cửa phóng về hướng con rắn và lập tức đập nó chết.
Không lâu sau đó, ông tự nhiên bỏ ăn bỏ uống, nằm dài suốt ngày này qua tháng khác, thân hình mỗi lúc một tiều tụy. Chở đi bệnh viện thì bác sĩ không khám phá ra được bệnh gì, đành về nhà nằm tiếp.
Cô gái trở lại đại học xá, đang học thi thì bỗng được tin cha chết. Cô chạy như bay về nhà, vào lúc giữa trưa đứng bóng. Cô chạy ngay giữa đường xe hơi nhưng kỳ lạ thay, không bị một chướng ngại gì suốt cả quãng đường dài gần 20 cây số.
Người cha đã được khâm liệm bỏ vào quan tài, khằn kín mít chỉ chờ cô về để đưa ma vì phải làm theo giờ giấc mà ông thầy coi lịch số đã định.
Cô gái hùng hổ từ ngoài chạy vào nhà, gạt tất cả mọi người ra mà đâm bổ vào nơi đặt quan tài cha.
Đến nơi, cô dùng hai tay trần bứt tất cả giây nịt quan tài, mở tung cái nắp hòm, moi vứt ra mọi vật dụng tẩm liệm rườm rà phủ trên xác chết cho đến khi lộ gương mặt thây ma.
Rồi cô dùng 10 ngón tay cào cấu gương mặt ấy cho rách nát xong chạy ra giữa đường cười ha hả la lên: “Ta đã trả được mối thù! Ta đã trả được cả hai mối thù!”
Mọi người quá bất ngờ không kịp phản ứng vì cứ ngỡ cô gái thương cha muốn tới gần quan tài để khóc lóc cho hả. Đến khi cô làm mọi sự nói trên một cách chớp nhoáng, họ không kịp trở tay và vô cùng kinh ngạc trước sức mạnh phi thường của cô gái đang bị quỷ nhập.
Nhiều người đàn ông lực lưỡng xông vào can ngăn nhưng đều bị gạt cho té nhào. Sau đó hồn ma ứng vào miệng cô để đọc lên một bài thơ dài, theo đó người ta được biết câu chuyện đại khái như sau:
“Nguyên kiếp trước cô là một người đàn ông có vợ; người đàn ông này ngoại tình và lại còn về giết vợ. Người vợ chết trong tâm trạng uất hận nên đã tái sinh làm con rắn, còn người đàn ông (có lẽ do nghiệp ngoại tình) tái sinh làm cô gái trong đời hiện tại. (Thảo nào gương mặt cô bé do ấn tượng tiền kiếp vừa qua, không mang vẻ nữ tính cho lắm).
Con rắn bò vào nhà toan cắn chết cô gái để trả mối thù xưa, thì lại bị cha cô đánh chết. Thần thức của người đàn bà bị tình phụ kiếp trước – tức của con rắn bị giết kiếp này – đã nhập vào cô con gái, bắt cô phải cào nát mặt cha cô.
Khi tỉnh dậy nghe thuật lại những gì mình đã làm, cô gái vô cùng đau khổ. Gia đình cô cũng từ đấy càng ngày càng sa sút.
Hồn ma báo oán không những nhập vào cô gái làm cô khi tỉnh khi say mà còn khiến tất cả các thành viên trong gia đình cũng trở nên dở dở ương ương từ ngày cha cô chết.
Đôi khi vào những ngày “thất thất trai tuần” của người cha, vị thầy đang tụng kinh phải rởn ốc vì tiếng cười rùng rợn của tất cả mọi người trong gia đình đang quỳ sau lưng.
Cô gái bỏ học, về nhà thức suốt ba đêm thắp hương giữa trời cầu khẩn vị nào có phép thần thông ( cô chưa hề biết Phật) xin hãy giải mối oan khiên nghiệp chướng cho cô.
Lời cầu nguyện của cô đã cảm đến một vị thiền sư trong cõi vô sắc. Vị ấy nhập vào xác cô gái bắt người anh phải đưa cô lên chùa Trúc Lâm xin Hòa thượng thế phát quy y.
Trong nhà không ai biết đến chùa và Hòa thượng, nhưng cô gái cương quyết bảo người anh cứ theo cô là được. Nói xong cô gái lôi người anh chạy như bay giữa đường trường gần 20 cây số lên tới chùa Trúc Lâm.
Tới nơi trong khi người anh sụp lạy Hòa thượng trụ trì như tế sao, xin Hòa thượng cứu cho em gái, thì cô gái cứ đứng sừng sững ngang nhiên nhìn Hòa thượng mà mỉm cười. Hòa thượng quắc mắt nhìn cô gái, quát lên: “Quỳ xuống”.
Hồn ma trong xác cô vẫn không quy phục, cứ nhìn chằm chặp vào Hòa thượng mà cười ngạo nghễ. Khi Hòa thượng rút con roi bằng gỗ dâu sắp giáng lên người cô gái và quát lần thứ hai “quỳ xuống” thì cô gái mới từ từ quỳ xuống, nhưng vẫn nhìn Hòa thượng mà mỉm cười nói: “Vì muốn độ cho nữ này mà tôi phải quỳ trước sư đệ”.
Theo những gì xác cô gái nói, thì đấy là một thiền sư ( Mang một cái tên bằng tiếng Phạn) đã viên tịch 200 năm, hiện trú cõi vô sắc, vì cảm lời cầu khẩn của cô gái nên muốn giúp cô ta đi tu để giải thoát oan nghiệp nhiều đời giữa cô và con rắn.
Theo vị thiền sư thì giữa đôi bên đã có oan nghiệp từ 500 năm chứ không phải mới đời trước và đời này. Thiền sư yêu cầu Hòa thượng độ cho cô gái xuất gia. Hòa thượng bèn gửi cô gái qua chùa ni bên cạnh cho sư trưởng tôi dạy bảo.
Khi tỉnh cô gái sinh hoạt rất bình thường và tuyệt nhiên không nhớ được điều gì đã xảy ra trong khi vị thiền sư mượn xác cô để nói chuyện với Hòa thượng.
Cũng do áp lực vô hình của vị thiền sư, cô lên trường đại học Sư phạm nhiều lần xin nghỉ học để xuất gia, nhưng nhà trường không chấp thuận. Cuối cùng một chuyện kỳ lạ xảy đến làm cho bạn bè và nhà trường phải chấp thuận cho cô nghỉ học vì lý do bệnh thần kinh.
Mỗi lần bước vào cổng trường là cô tự nhiên bị câm không thể nói một tiếng nào cho đến khi ra khỏi cổng. Nhiều lần như vậy trước sự chứng kiến của những nhân viên trong trường, nên họ phải làm chứng cho cô được nghỉ học vì bệnh điên.
Trở về chùa, cô gái hành điệu như tất cả những người tập sự xuất gia khác, nhưng thỉnh thoảng cô lại bị oan hồn con rắn ( mà cũng là bạn đời trong kiếp trước) nhập vào xác để quấy nhiễu, trách móc về chuyện không lo tu hành, có tư tưởng xấu, muốn bỏ về nhà.
Mỗi lần như vậy xác cô gái lại bị một trận đòn nhừ tử của sư trưởng tôi. Một hôm sau khi bị đòn, cô gái khóc lóc đến quỳ trước sư trưởng mà bạch:
– Bạch sư trưởng, sư trưởng đánh con oan ức lắm. cô có ý nghĩ thối lui về nhà không muốn tu, nên con mới phá y. Con chỉ muốn cho cô tu hành để giải oan nghiệp giữa con và cô mà thôi.
Sư trưởng tôi bảo hồn ma:
– Bây giờ ta quy cô cho ngươi. Hãy theo Phật, đừng theo nó nữa, ngươi chịu không?
– Dạ, dạ, thế thì tốt lắm, bạch sư trưởng. (Hồn ma có vẻ mừng rỡ, mượn xác cô gái để bày tỏ sự cám ơn). Xin sư trưởng quy cô cho con luôn.
Sư trưởng tôi làm phép thọ tam quy cô cho cả cô gái lẫn hồn ma đang mượn xác cô. Hồn ma được pháp danh Tâm Tín, còn cô gái pháp danh là Tâm Tưởng. Từ đấy cô gái được yên ổn tu hành không bị quấy nhiễu.
Bẵng đi một dạo khá lâu, bỗng một đêm kia, sau giờ “chỉ tịnh” (khoảng 9 giờ tối, giờ mà tất cả tu sĩ trong chùa đều leo lên bồ đoàn để tọa thiền niệm Phật trước khi nằm xuống ngủ), cô gái xồng xộc chạy vào “liêu” của sư trưởng trong khi người đang nhập thiền. Người quát hỏi:
– Ai đó? Tâm Tín hay Tâm Tưởng?
Cô gái trả lời ngay:
–Dạ con là Tâm Tín.
Cô bé thị giả đang hầu quạt cho sư trưởng (vì lúc đó vào mùa an cư khí trời khá nóng nực) nghe mà ớn lạnh toàn thân, cả mình rởn ốc. Sư trưởng bình tĩnh dạy:
– Ta đã bảo ngươi hãy để yên cho nó tu, sao cứ theo nó hoài? Ngươi còn muốn theo nó tới bao giờ nữa? Có phải như vậy là cả ngươi lẫn nó cùng khổ cả không?
Hồn ma tỏ lộ sự vui vẻ, nói qua xác cô gái:
– Dạ, dạ bạch sư trưởng, con không theo nó nữa! Con chỉ muốn đến báo cho sư trưởng một tin mừng là con đã tìm được chốn đầu thai. Xin cảm tạ sư trưởng!
Nói xong cô gái chạy về chỗ ở dành cho chúng điệu, và từ đấy hồn ma không bao giờ trở lại.
Nghe xong chuyện ni cô kể ( khi kể chuyện này thì cô gái đã là một tỷ kheo ni trong đạo) tôi củng cố được vài kinh nghiệm bổ ích cho việc tu hành.
Trước hết là tính cách giả dối tạm thời của giới tính như nam hoặc nữ và của sinh vật như người hay súc sinh. Khi bị vô minh làm mờ ám thì người nam si mê người nữ và ngược lại, mà không ý thức được rằng hai yếu tố nam, nữ không có gì là chắc thực cố định.
Mỗi người qua quá trình luân chuyển, ai cũng đã vô số lần khi mang thân người nam, khi khoác lốt người nữ, cho nên hai thứ mặc cảm tự tôn ( khi mang thân nam nhi) và tự ti ( khi khoác hình hài nữ nhân) đều vô lối;
Lại nữa bản chất mỗi người đều có đủ cả hai yếu tố nam nữ không ai thiếu. Chính cái cảm giác thiếu thốn tưởng tượng ấy đã đẻ ra vô số vấn đề xã hội và tâm lý.
Thứ hai, chẳng những nam nữ là huyễn hóa mà người và súc sinh cũng thay nhau như bỡn. Ta không thể quyết chắc mình sẽ được mãi mãi làm người.
Nếu vô tình nổi một niệm sân si trước khi chết là ta có thể thác sinh làm rắn rết như chơi. Tỉ như người đàn bà bị phụ tình đời trước, vì chết trong cơn tức tối mà đã tái sinh làm thân rắn trong đời này, bất kể oan hay ưng. Vậy thì điều cốt yếu là đừng nên thù hiềm bất cứ ai, vì sẽ rất nguy hiểm cho chính bản thân mình.
Nên trong kinh Di Giáo đức Phật có dạy: “Nếu ai cắt xẻ thân thể ngươi ra từng mảng từng đoạn, cũng đừng vì thế mà ôm lòng giận dữ.” Lạy Phật! Mong sao cho tất cả mọi người đều ý thức được hạnh phúc hiếm có mình đang hưởng ( là được tái sinh làm thân người) để lo tu học theo chánh Pháp, không bỏ lỡ dịp may hiếm có này.
Ni Sư Trí Hải kể lại câu chuyện có thật tại chùa Trúc Lâm, Đà Lạt
Nguồn: FB Quang Tử