Vào năm Ung Chính thứ mười đời nhà Thanh, tại huyện Quỳ Hưng, có một người họ Ngụy nọ. Ông ta vốn là di dân thất nghiệp, lại thích dùng súng để bắn chim. Số chim mà ông ta bắn nhiều vô số kể, có đôi lúc ông đem ra chợ bán lại, có đôi khi lại làm thịt nhắm rượu. Ông còn thích đào hang bắt lươn cá, ếch, ba ba và rùa, thậm chí dùng thuốc nổ để đánh cá, có đôi khi bắt được gần chục ký lô, hoặc có khi ông ta phá tổ chim, nói chung không có tội ác nào là ông không làm.
Có người khuyên ông:
– Này ông Ngụy, không nên làm nghề sát sinh nữa mà ông nên làm ruộng, hay tìm cho mình một cái nghề nào tốt hơn đi.
Ông Ngụy chẳng những không nghe lời khuyên răn mà còn hận người đó, lại cho rằng người này nhàn rỗi mà ngồi lê đôi mách.
Thời gian êm đềm trôi qua, tội lỗi sát sinh của ông ngày càng chồng chất nặng nề. Kết quả ông bị mang bệnh hiểm nghèo, toàn thân nhọt độc bằng trứng chim bồ câu nổi đầy. Mỗi mụt nhọt chứa trong đó những viên như ngọc trai. Chẳng bao lâu da tiêu thịt rữa, thân nằm trên giường mà miệng ông la hét như ma kêu quỷ rống. Vật vã đau khổ mấy ngày ông mới mất. Sau khi ông mất, có vô số rùa, ếch, chim sẻ… xâm nhập vào nhà tranh nhau ăn thịt ông. Gia quyến biết rằng đây là oan gia báo oán nên không dám làm hại chúng, trong chốc lát thi thể của ông chỉ còn trơ lại bộ xương. Về sau, dòng dõi của ông cũng bị tuyệt tự không có ai nối dõi.
Trích THƯƠNG YÊU SỰ SỐNG (THE LOVE of LIFE)
Tác giả: G.B. Talovick
Người dịch: Thích Tâm An
NIỆM PHẬT VÔ CÙNG LINH ỨNG, VÔ CÙNG KÌ DIỆU!
Vào ngày mùng 3 tháng 5 năm 1997, tôi nhận được một lá thư của ông bạn già gần 70 tuổi.
Ông báo cho biết, ông bị sỏi bàng quang vài ngày nữa sẽ nhập bệnh viện để phẫu thuật, lập tức tôi gửi thư nhanh hồi đáp cho ông, và nhắc nhở rằng, trước khi và đang khi phẫu thuật, ngay cả bây giờ, nên thành tâm niệm Phật không gián đoạn, và chuẩn bị tư tưởng đối diện với cái c.h.ế.t, và c.h.ế.t thì sẽ được vãng sanh.
Vào ngày mùng 06 tháng 5, ông ấy vào viện chuẩn bị phẫu thuật.
Trước khi phẫu thuật, các bác sĩ kiểm tra lần cuối cùng, họ rất ngạc nhiên vì không thấy các viên sỏi nữa. Cả hội đồng bác sĩ đều thắc mắc rằng: Mấy ngày trước siêu âm thì thấy rõ hai viên sỏi màu vàng lớn như hạt đậu, hiện tại không có là bởi lý do gì! Chỉ có ông lão ấy thì biết rất minh bạch, bởi lẽ, mấy chục năm về trước, ông đã bị sưng gan, ông phát tâm niệm Phật suốt ba năm, khi tái khám thì gan đã trở lại bình thường, chức năng gan hoạt động tốt như xưa.
(Cư sĩ Bi Phước ghi đúng sự thật ngày 28 tháng 2 năm 2001).
___________________
Lúc bấy giờ, tôi (Pháp sư Đạo Chứng khi chưa xuất gia) đang thực tập tại khoa sản, một hôm gặp một phụ nữ vì thai nhi đã c.h.ế.t nên nhập khoa để phẫu thuật. Bà vốn đang buồn khổ vì đứa con đã c.h.ế.t, nay phải đối diện với sự mổ xẻ lại càng lo lắng đau khổ gấp bội, tinh thần rất rối loạn…
Tôi đến thăm và khuyên bà niệm Phật, rồi nói:
– Đức Phật là đấng Đại Từ Đại Bi, nên không nhẫn tâm bỏ sót bất cứ một chúng sanh nào đang bị khổ đau, nhất định Ngài sẽ bảo hộ bà.
Bà nghe lời, nhất tâm niệm Nam mô A Di Đà Phật và dần dần lịm đi do ảnh hưởng của thuốc gây mê.
Sau khi phẫu thuật xong, bà tỉnh lại. Tôi đến thăm thấy sắc diện của bà rất tươi vui, bà nói:
– Niệm Phật thật sự vô cùng kỳ diệu, vô cùng tốt đẹp!.
Bà kể :
– Trong khi phẫu thuật, tôi mộng thấy một vị nữ Bồ Tát với hào quang rực rỡ, Ngài phóng hào quang dẫn tôi đến du ngoạn ở một cảnh giới rất trang nghiêm tráng lệ. Ở đó rất nhiều, rất nhiều hoa sen đủ thứ màu sắc, chiếu sáng đan xen lẫn nhau vô cùng lộng lẫy… Sau đó, bỗng tôi nghe: “Thời gian đã hết, con hãy trở về đi!”
Và tôi từ từ tỉnh lại.
(Pháp sư Đạo Chứng, thuật lại khi giảng).
__________________
Ở tỉnh Thiểm Tây, huyện Quý Dương có bà Lưu Diệu Quả, vốn là người bị mù bẩm sinh. Vào khoảng tháng 3 năm 1996, bà đến hồ để tắm rửa, bỗng nhiên lo sợ bất an, liền bảo người con gái là Dương Hội Cầm dìu về nhà để nghỉ.
Dương Hội Cầm thấy thân thể của mẹ dần dần co rút lại, da thịt căng cứng, móng tay móng chân lớn dần lên. Dương Hội Cầm quá sợ khóc to, kêu réo mẹ, nhưng bà chẳng nghe thấy gì. Tuy nhiên, thần thức của bà Quả vẫn tỉnh táo, bà cảm nhận da thịt của bà càng lúc càng co rút lại, khô cứng như da trâu; lại thêm, lông dài mọc đầy thân, móng tay móng chân cũng trở thành móng chân trâu.
Trong thâm tâm, bà Quả rất lo sợ mình biến thành trâu. Đang khi sống trong hoàn cảnh rối loạn ấy, đột nhiên bà nghĩ đến đức Phật A Di Đà và nhiếp tâm xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật, cứ niệm một câu thì lông trâu trên thân ngắn đi một ít, niệm liên tục như thế thì lông trâu và móng tay – chân như trâu đều biến mất, trở lại hình dáng như cũ. Bấy giờ, bà cảm thấy nhẹ nhàng, hắt hơi, thở một hơi dài và tỉnh lại.
Dương Hội Cầm thấy mẹ mình đã tỉnh, hình dáng bình thường thì rất vui mừng và cất tiếng niệm Nam mô A Di Đà Phật. Riêng bà Quả, từ đây trở về sau, nhất tâm nhất ý niệm Phật cầu vãng sanh thế giới Cực lạc, chứ không dám nghĩ đến một điều gì khác.
(Tại chùa Long Tuyền cạnh con sông của huyện Quý Dương, người bạn của bà Lưu Diệu Quả thuật lại – Lưu Diệu Âm ghi đúng theo lời thuật, ngày 19 tháng 3 năm 2001).
CÂU CHUYỆN TÂM LINH
Khi viết những dòng này, tôi thực sự rất đắn đo.. có nên viết hay không, vì đó là chuyện buồn của gia đình. Nhưng rồi tôi quyết định sẽ kể lại câu chuyện tâm linh này, tôi nghĩ ba má tôi sẽ không trách tôi vì đã kể những chuyện này.
MỤC ĐÍCH CỦA TÔI LÀ ĐỂ – NẾU AI ĐÓ CÓ NIỀM TIN VỀ THẾ GIỚI VÔ HÌNH- SẼ SỐNG SAO CHO THẬT LƯƠNG THIỆN NHÂN ÁI, ĐỂ ĐẾN PHÚT CUỐI CÙNG KHÔNG CÒN RAY RỨC VỀ NHỮNG ĐIỀU CHƯA TỐT CỦA MÌNH TRƯỚC KIA NỮA.
Ba tôi rất hiền, hồi trẻ ông khá đẹp trai, khi về già ông đẹp lão.. nhìn ông rất phúc hậu và điềm đạm. Với tôi ông là người cha hoàn hảo. Ba và má tôi đều ăn chay trường, thường xuyên đi chùa, đọc kinh, ngồi thiền.. là một phật tử gương mẫu.. đến nỗi gần như tiêu cho đến đồng tiền cuối cùng của mình cho việc cúng dường.
Nhưng quy luật già rồi bệnh không chừa một ai. Khi đến tuổi 80 thì ông nhập viện cấp cứu liên tục. Lần nào cũng nguy cấp tưởng không qua khỏi.
Có một lần sau khi xuất viện, ba tôi gọi các con lại và nói:
– Lần bệnh này lẽ ra ba đã “đi” rồi. Ba thấy cái chết từ chân lần lần đến ngực.. một ánh hào quang sáng ngời trước mắt. Ba biết Phật đến rước ba đi. Một cảm giác thật thanh thản an nhiên.. cái chết không có gì đáng sợ hết. Nhưng bỗng dưng ba nhớ đến những con ốc mà hồi chưa biết tu, ba đã mua về đập chết cho cá ăn. Nên ba cầu nguyện phật trời cho ba sống thêm vài tháng để ba làm tròn tâm nguyện phóng sinh. Vậy là tự nhiên ba dần khỏe lại rồi được xuất viện.Từ giờ, mỗi tháng tụi con cho ba tiền để ba mua ốc thả vô ao lớn của chùa.
Ba tôi hồi chưa tu tại gia, ông là người năng nổ làm đủ các nghề: nuôi heo, nuôi gà, nuôi cá.. nuôi con gì cũng thật “hoành tráng”, số lượng nhiều, chuồng trại lớn. Ông đào ao quanh nhà nuôi loại cá Trê Phi, nó ăn tạp và lớn rất nhanh. Hàng ngày có người giao những bao ốc thải loại, đa số là ốc chết nhưng cũng có những con còn sống. Ba tôi thuê kỹ sư thủy sản chích thuốc cho cá đẻ. Cá con nở nhiều vô kể nhưng rồi tụi nó đều chết queo hết. Ba nuôi con gì cũng bị trục trặc, từ lỗ lã cho tới khi dẹp chuồng, lấp ao. Sau này ba kinh doanh tranh sơn mài kinh tế mới khá hơn xưa.
KHÔNG HIỂU SAO LÚC SẮP MẤT BA CHỈ NHỚ ĐẾN MẤY BAO ỐC, CÒN HEO, GÀ CŨNG CHẾT QUÁ CHỪNG MÀ ÔNG QUÊN.
Ba phóng sinh ốc được vài tháng thì nhập viện trở lại và vĩnh viễn ra đi.
Đám tang của ông tổ chức tại nhà, ngôi nhà mà ba má dành cả đời dành dụm để cất lên. Nơi đó anh em chúng tôi cùng lớn lên cho đến khi dần dần tách ra từng gia đình nhỏ.
Lúc ba mất những đứa con đều đã có gia đình riêng. Chỉ riêng gia đình anh hai tôi đặc biệt ăn chay trường như ba má tôi vậy. CHỊ HAI LÀ VỢ ẢNH CÓ KHẢ NĂNG RẤT LẠ LÀ NHÌN THẤY NGƯỜI ÂM. CHỈ HAY BỊ NGƯỜI ÂM NHẬP VÀO, DÙ CHỈ NÓI RẤT SỢ BỊ NHƯ VẬY.
Phía trước là nhà lớn nơi đang làm đám cho ba tôi, các sư đang tụng kinh. Kế tiếp là gian nhà nhỏ có để bộ salon thường ngày ba tôi hay ngồi. Chị dâu gọi tôi lại nói nhỏ:
– Ba đang ngồi ở ghế đó, ba mặc bộ áo vàng lúc tẩn liệm. Có đứa cháu nó tới ngồi gần ba. Chị đuổi nó đi chổ khác, nhưng ba ra hiệu cho chị đừng nói gì. Sau đó ba đứng dậy, đi quanh nhà..
Nghe chị kể thì tôi cũng chỉ biết vậy thôi. Vì tôi xưa giờ chưa gặp chuyện tâm linh huyền bí như vậy.
Sau đó thì ba tôi được hỏa thiêu và gửi cốt ở chùa theo tâm nguyện của ông. Sư phụ của ba tôi cũng là sư phụ cả nhà vì gia đình tôi đều quy y ở chùa do sư trụ trì. Sư nói: THÂN XÁC NGƯỜI NHƯ CHIẾC XE ĐÃ HƯ CŨ, HỒN NGƯỜI RỜI KHỎI XÁC NHƯ RỜI KHỎI CHIẾC XE ĐÓ. KHI THIÊU “CHIẾC XE” THÌ HỒN NGƯỜI ĐỨNG BÊN CẠNH KHÔNG ẢNH HƯỞNG GÌ. NGHĨA LÀ KHÔNG BỊ NÓNG NHƯ NGƯỜI TA NGHĨ.
Sau khi ba tôi mất thì ba năm sau má tôi cũng bệnh và ra đi.
Nỗi đau nào cũng dần dần nguôi ngoai theo thời gian. Nhưng thời gian đầu khi ba má mất với tôi là một nỗi buồn dai dẳng, buồn âm ỉ mỗi ngày.. khi nhìn ngôi nhà nhỏ đó, thấy cái ghế ba tôi thường ngồi nay trống không. Thấy vườn rau nhỏ của má giờ không còn bóng dáng của bà ra vào chăm sóc nữa.
Sau khi má mất độ chừng hai tháng, thì anh hai tôi gọi điện thoại, nói tôi ngày mai khoảng 9 giờ đến chùa Ph.H là chùa quen của gia đình ba má hay ghé nghe kinh và cúng dường để má gặp các con.
Tôi trước giờ ít quan tâm tới chuyện cúng kiến, chùa chiền.. tôi không ăn chay cũng không biết tụng kinh là gì. Tôi cũng không tin lắm chuyện hồn người đã mất sẽ về như thế nào. Cho đến khi “gặp” và nói chuyện với má tôi tại ngôi chùa tôi đã nói trên.
Đúng giờ đã hẹn tôi đến chùa, anh chị hai tôi đã có mặt ở đó. Hôm qua, anh tôi kể má có “về” nhập vào chị hai, hẹn sẽ gặp các con ở chùa này.
Má tôi bắt đầu nhập vào chị dâu của tôi. Bà khóc thảm thiết. Sư trụ trì lấy một xấp khăn giấy cho má – đang mượn thân xác của chị – nước mắt bà tuôn như suối. Tôi cũng ôm “má” khóc theo. Bà còn ói ra một chút máu nữa, tôi sợ quá hỏi sư vì sao bị như vậy. Sư nói đó là “trược” trong người được trút ra.
Khi má bình tĩnh lại thì bà nói với sư cũng như với cả nhà, giọng bà điềm đạm, chi tiết, rõ ràng như cách nói lúc còn sống:
– Khi tôi mất, tại ngay ở lò thiêu, linh hồn được đưa đến nơi “người ta” phân loại ai tốt, ai xấu. Họ nói tôi trước giờ đã tu trên trần thế rồi, bây giờ nên tiếp tục tu như cũ.
Tôi hỏi:
– Vậy má có gặp ba con không
– Có chứ, ổng cũng đi tu mà ở bậc cao hơn. Má cũng gặp dì tư của con nữa
Dì tư là chị của má, mất cùng năm với má chỉ cách vài tháng.. bà ngoại chỉ có hai con gái là má với dì mà thôi.
Má nói tiếp với sư về tôi:
– Lúc tôi còn sống tôi không hợp với nó, bây giờ chết rồi mới biết thương nó. Má sẽ phù hộ cho con ..
Nghe những câu này tôi tủi thân càng khóc nhiều hơn, tại sao đến khi âm dương cách trở hai mẹ con mới cảm nhận được tình cảm thiêng liêng này. Thực sự tôi với má tôi khi bà còn sống có một khoảng cách rất lớn.. đến nổi trong nhà ai cũng nhận ra. Tôi luôn có mặc cảm hình như mình không phải con ruột của bà.
Má tôi còn kể những điều chỉ hai mẹ con biết. Dặn dò anh tôi một số điều.
Vì là chuyện riêng tư của gia đình nên tôi sẽ không kể ra ở đây. Rồi bà nói có người đang chờ đón bà đi không thể nói tiếp được nữa.
Rồi bà xuất hồn ra khỏi chị dâu tôi.
Chị dâu tôi trở lại thần sắc bình thường như chưa hề trải qua chuyện khóc lóc thảm thiết vừa rồi.
Và chị nói không nhớ, không biết điều gì vừa xảy ra.
Sau này thì anh tôi nói không thấy má “về” nữa, có lẽ bà đã thật sự buông bỏ mọi đau khổ của cỏi trần không vương vấn nữa.
Sau sự việc này thì tôi tin có một thế giới siêu hình bên cạnh cuộc sống thực của chúng ta. Có ông bà cha mẹ luôn dõi theo để phù hộ cho con cháu. Hãy sống sao cho xứng đáng với kỳ vọng và yêu thương của những người thân dù họ đã ra đi mãi mãi.
Và hãy sống sao cho tử tế tốt đẹp nhất có thể, để không bị phán xét ở thế giới bên kia.
Vân Huỳnh