Trong đời có những kẻ chuyên tu tham thiền, luôn nói rằng chỉ riêng tâm này là Tịnh độ, ngoài ra không còn Tịnh độ nào khác, tự tánh vốn là Di-đà, ngoài ra chẳng có Di-đà nào khác.
Nói như vậy đều là sai lầm. Vì sao vậy? Lời ấy rất cao siêu, chỉ e nói được mà chẳng dễ gì đạt tới. Cõi Tịnh độ bên phương tây, không còn tham, luyến, sân, si. Tâm chúng ta hiện nay, liệu có thể thật không tham, luyến, sân, si hay chăng? Cõi Tịnh độ bên phương tây, chuyện ăn mặc chỉ nghĩ đến là có, muốn tĩnh lặng thì tĩnh lặng, muốn đi thì đi. Chúng ta thì nghĩ đến chuyện mặc mà chẳng có áo, nên rét buốt làm cho khổ não; nghĩ đến chuyện ăn mà chẳng có cơm, nên đói khát làm cho khổ não; muốn tĩnh lặng mà chẳng được tĩnh lặng, nên sự xáo động làm cho khổ não; muốn đi mà chẳng đi được, nên những trói buộc làm cho khổ não. Như thế mà nói rằng chỉ riêng tâm này là Tịnh độ, thật chẳng dễ đạt tới.
Đức Phật A-di-đà, phước huệ gồm đủ, thần thông quảng đại, biến địa ngục làm hoa sen dễ như trở bàn tay, nhìn khắp các thế giới vô tận dường như trước mắt. Chúng ta nghiệp chướng nặng nề, tự thân còn lo phải đọa địa ngục, huống chi có thể biến ra hoa sen được sao? Chuyện xảy ra cách vách còn không thấy được, huống chi thấy khắp các thế giới vô tận hay sao? Như thế mà nói rằng tự tánh vốn là Di-đà, thật chẳng dễ đạt tới.
Người tu thiền đời nay, sao có thể quên Tịnh độ mà chẳng tu? Sao có thể bỏ Phật Di-đà mà chẳng muốn thấy? Kinh Đại A-di-đà dạy rằng: “Trong mười phương có vô số Bồ Tát vãng sanh về cõi Phật A-di-đà.” Các vị Bồ Tát còn muốn vãng sanh, chúng ta sao lại chẳng muốn? Liệu ta có thể hơn được các vị Bồ Tát hay sao? Theo như lời ấy thì cái lý “duy tâm Tịnh độ, tự tánh Di-đà” thật là rộng lớn nhưng không trọng yếu, cao siêu mà chẳng cần thiết. Những kẻ tu hành chưa chứng ngộ, lầm lạc rất nhiều.
Nay xin kể ra đôi chuyện để làm chứng cứ.
Thiền sư Thanh Thảo Đường tái sanh là Tăng Lỗ công, thiền sư Triết Lão tái sanh chịu nhiều lo âu, khổ não, Cổ Trưởng lão tái sanh sa vào phú quí, ni sư trì kinh Pháp Hoa lại sanh làm kỹ nữ nhà quan. Đó đều là những người chẳng tin Tây phương, nên phải trôi lăn trong luân hồi mà chịu khổ não. Nếu họ tu trì pháp môn Tịnh độ, chắc chắn đã được dự hàng Thượng phẩm thượng sanh! Chỉ tại chẳng tin, thành ra xấu tệ. Chi bằng đứng trên đất thật, trì tụng tu hành, ắt được thẳng sanh về Tịnh độ, thoát khỏi luân hồi. Như vậy, sánh với lời nói hư vọng chẳng thiệt kia, xa nhau như trời với đất!
Hoặc có kẻ hỏi rằng: “Tham thiền vẫn khó thấy tánh, còn học đạo tiên thì sao?”
Đáp rằng: “Chẳng tu Tịnh độ mà muốn học đạo tiên, đó là bỏ hòn ngọc đẹp trước mắt để đi tìm thứ đá giả ngọc mà chưa chắc có. Thật sai lầm lắm thay! Vì sao vậy? Kinh Lăng Nghiêm dạy rằng: Có mười hạng tiên, thảy đều sống được ngàn muôn tuổi. Nhưng khi tận số phải trở lại luân hồi, chưa từng hiểu được chân tánh, cho nên cũng đồng với sáu đường chúng sanh mà thành ra bảy đường, vẫn là trong vòng luân hồi vậy.
Người đời học đạo tiên, muôn người chẳng thành được một. Nhưng dù có thành, cũng chẳng thoát luân hồi. Vì lẽ bám chấp vào hình thần, nên chẳng bỏ được. Nhưng hình thần đó cũng là vọng tưởng do chân tánh hiện ra, chẳng phải chân thật. Cho nên thơ Hàn Sơn nói rằng:
Cho dù tu được thành tiên,
Khác nào như giữ xác chết.
Chẳng bằng người học Phật tự rõ lẽ sống chết, không gì trói buộc được.
Trong khoảng mấy trăm năm nay, người học đạo thành tiên duy chỉ có Chung Ly và Lữ công mà thôi. Nhưng người theo học Chung Ly và Lữ công, đâu phải chỉ có ngàn muôn người? Chỉ những người mà ta quen biết, số ấy cũng đã chẳng ít, nhưng rốt cuộc thảy đều chết mất, vùi thân dưới ba tấc đất! Đó là uổng phí tâm lực bình sanh, rốt lại chẳng ích gì cả. Há chẳng nghe chuyện Đồng Tân ném kiếm chém Hoàng Long, trở lại bị Hoàng Long hàng phục đó sao? Đến khi gặp được thiền sư Hoàng Long, Đồng Tân mới ngộ được chân tánh và hiểu đạo, đọc kệ rằng:
Bỏ bầu, bỏ túi, đập đàn bể,
Chẳng tham vàng bạc nhiều vô kể.
Từ gặp Hoàng Long được chỉ dạy,
Mới hay từ trước đã sai đường.
Lại chẳng nghe chuyện pháp sư Đàm Loan đời Hậu Ngụy hay sao? Trước nhận được mười quyển kinh tiên nơi Đào Ẩn Quân, tỏ ra hớn hở tự đắc, cho rằng có thể đạt tới địa vị thần tiên. Sau gặp ngài Bồ-đề Lưu-chi, thưa hỏi rằng: “Đạo Phật có thuật trường sanh chăng? Người tu có thể trừ bỏ sự già, chết được chăng?”
Ngài Bồ-đề Lưu-chi đáp rằng: “Sống hoài không chết là đạo Phật của ta.” Liền đưa cho bộ kinh Thập lục quán và nói rằng: “Ngươi nên tụng đọc kinh này, thì chẳng còn phải sanh trong ba cõi, chẳng còn đi vào sáu đường, những cuộc thăng trầm, họa phước, thành bại đều chẳng động tới mình, đời sống dài lâu không cùng. Cho nên, đó là thuật trường sanh của đạo ta vậy.”
Đàm Loan tin sâu lời dạy của thầy, bèn đốt kinh tiên mà chuyên tu kinh Thập lục quán, cả những khi thời tiết thay đổi hay thân có tật bệnh cũng không biếng trễ. Vua Ngụy cảm vì chí cao thượng của ông, lại khen ông tự mình tu hành và giáo hóa cho đời, lưu truyền rất rộng, nên ban hiệu là Thần Loan.
Ngày kia, pháp sư bảo đệ tử rằng: “Mọi cảnh khổ địa ngục phải biết sợ, chín phẩm vị tịnh nghiệp phải lo tu.” Rồi dạy đệ tử lớn tiếng niệm Phật A-di-đà. Ngài Thần Loan quay mặt về hướng tây, nhắm mắt, cúi đầu mà tịch. Lúc ấy, tăng chúng và cư sĩ đều nghe có tiếng nhạc vi diệu từ phương tây đến, giây lâu mới ngừng.
Theo đó mà xét thì pháp môn Tịnh độ rất là thẳng tắt. Như phép thần tiên, có được điều chi thì giấu kín mà chẳng truyền, bảo rằng tiết lậu thiên cơ có tội. Còn pháp môn nhà Phật thì chỉ e truyền ra chẳng được rộng, những muốn độ hết chúng sanh mới thôi. Đó là từ bi rộng lớn, chẳng dễ suy lường, chẳng phải đạo thần tiên có thể so sánh được.
Trích chương Long Thư Vương cư sĩ khuyên người tu pháp Tịnh độ thẳng tắt
Sách QUY NGUYÊN TRỰC CHỈ
Tác giả: ĐẠI SƯ TÔNG BỔN
NGUYỄN MINH TIẾN dịch và chú giải
NGUYỄN MINH HIỂN hiệu đính Hán văn
Mô Phật.
Nay con đã giác ngộ được thế gian ô trọc và ngộ ra rằng mong ước được vãng sanh ở cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà mới là mong ước cao quý nhất của chúng sanh. Con nguyện cố gắng tu tập để khi mạng chung được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, trả hết nghiệp báu, phổ độ chúng sanh, chấm dứt vòng luân hồi luẩn quẩn gắn liền với cõi trần đa mang.
Nam Mô A Di Đà Phật
con nay cố gắng giữ tâm thanh tịnh , sống đạm bạc ,tránh xa cảm xúc hỉ, nộ ,ái ,ố. Hiểu được lẽ tri túc ,mọi phiền não cố gắng tránh xa đói ăn, khát uống buồn nằm ngủ thì giờ trống nghe thuyết pháp, tụng kinh niệm phật con thấy cuộc sống hỉ lạc tại thế gian con chỉ tin khi đã được thấy, nghe . Con chưa từng nghe ai thấy cõi cực lạc , nếu đất ,cỏ ,cây đều là bảy báu thì bảy báu có gì quý nếu cõi cực vui thì có gì là hương vị đặc thù sống sung sướng quá thì cần gì tu tiếp A DI DA PHAT/
A Di Đà Phật
Thưa cô Trần Thị Bé Thanh
1) Người thế gian thường hay chấp nơi ngũ dục (tài, sắc, danh, ăn uống, ngủ nghỉ), họ thường coi đó là sự sung sướng hỷ lạc. Nhưng Đức Phật nói năm món dục ấy là căn cội sanh vào địa ngục. Chỉ có Giới, Định, Huệ của Phật pháp mới là lưỡi rìu bén để chém đứt những căn cội ấy.
Nên hỷ lạc còn có Thế Gian lạc và Xuất Thế Gian lạc. Thế gian lạc là ngũ dục lục trần. Xuất thế gian lạc là thanh tịnh tịch diệt.
Thế gian lạc gọi là Hoại Khổ, đó là phiền não chướng. Xuất thế gian lạc do chẳng còn có khổ, nên gọi là Niết Bàn. Do vậy, xuất thế gian lạc chẳng phải là những thứ lạc chấp trước nơi các tướng, vì hết thảy đã được đại tự tại và giải thoát.
2) Cô nói cô chỉ tin có cõi Cực Lạc ‘trừ khi’ cô được nhìn thấy. Câu này thật ra cũng rất đáng suy nghĩ.
Trước hết DAQH xin hỏi, có phải cô Thanh tin là có địa ngục đạo và có quỷ đạo phải không? Vì DAQH thấy cô Thanh có tụng kinh, niệm Phật, nghe pháp, tức có nghĩa cô cũng đang tu hành. Cô muốn tu hành phải chăng vì cô biết lo sợ và hòng mong đời sau đừng bị đọa vào những đường dữ này? Và một điều chắc chắn nữa là cô Thanh cũng có tin thiên đạo, vì DAQH thấy cô cũng mong muốn được tri túc, tâm thanh tịnh (như các vị Bồ Tát đạt được). Còn nhân đạo và súc sanh đạo thì tất nhiên cô Thanh phải thấy rồi.
Vậy 5 cõi: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Trời, Người, vì sao cô Thanh lại tin là có? Bởi vì trong A Lại Da Thức của chúng ta đã từng tiếp nhận và duy trì các hạt giống chủng tử đến từ các cõi này, thế nên chúng ta mới có thể dễ dàng tin nhận về nó.
Nói cách khác, chẳng phải là chúng ta đã từng lộn lạo hằng sa ức kiếp trong 5 đường luân hồi này rồi đó ư? Chẳng phải là chúng ta đã từng trồi lên thiên đạo rồi lại bị tuột xuống lưu đày nơi địa ngục đấy hay sao!
Còn cõi nước Cực Lạc? Chúng ta chưa từng có đủ thiện căn, phước đức, nhân duyên để đến được cõi nước này, thì làm sao trong tạng thức của chúng ta lại có thể có được cái hạt giống chủng tử ấy. Vì thế, việc không tin có cõi nước Cực Lạc, hoặc giả chưa từng được nhìn thấy cõi nước Cực Lạc ấy, là chuyện rất đỗi bình thường!
Thế tục thường nói: “Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, chẳng tu chẳng đắc.” Điều kiện để đến được cõi nước Cực Lạc kia là phải phát tâm Bồ Đề, hằng luôn niệm Phật, giữ Tín Nguyện Hạnh, và phát nguyện cầu sanh về cõi ấy.
Thêm nữa, các báu nơi cõi Cực Lạc kia cũng chẳng phải là các chất báu tầm thường như thế gian đây, bởi nó chính là cái quả công đức thành tựu tự nhiên do bởi nhiều đời ta đã tu nhân mà kết thành.
Kính,
Diệu Âm Quảng Hồng
Bài viết nay gây chia re trong giới xuât gia và tại gia có ý phản bát thiền tông ,duy tâm tịnh độ cho hỏi nếu tâm khong tịnh thì tay phuong có hay chăng