LTS: Đại lão Hòa thượng thượng Trí hạ Tịnh – Đệ nhất Phó Pháp chủ, Chủ tịch HĐTS GHPGVN – là bậc Tòng lâm thạch trụ và là một trong những đại dịch giả của Phật giáo Việt Nam. Mặc dù tinh thông cả Thiền lẫn Giáo, song Hòa thượng một đời chuyên tâm hành trì pháp môn Tịnh độ và luôn luôn khuyến tấn Tăng Ni, Phật tử ăn chay, giữ giới, niệm Phật…
Nhân dịp thực hiện chuyên đề về pháp tu Tịnh độ tại Việt Nam, đại diện Ban Biên tập và bộ phận biên tập Nguyệt san Giác Ngộ đã có cuộc thỉnh vấn, đảnh lễ Hòa thượng. Bài viết sau đây là lời kể về cuộc đời tu và lời dạy của Ngài về pháp môn Tịnh độ. Xin hân hạnh giới thiệu cùng quý độc giả.
Nguyệt San Giác Ngộ
Niệm Phật từ thuở thiếu thời
“Thuở nhỏ ở nhà, lúc đó khoảng 12-13 tuổi, tôi đã tự mình niệm Phật”, Hòa thượng kể. “Tôi đọc trong Tây phương trực chỉ, thấy có nói hễ niệm được 300 ngàn câu Phật thì được vãng sanh Cực Lạc. Tôi tin mà làm. Nhưng vì sao tin thì tôi không biết!”
“Tôi lấy quyển sách quảng cáo thuốc của ông anh (anh tôi làm chủ tiệm thuốc Bắc) đem về đặt trên gối ở đầu giường, cứ mở sách ra rồi… niệm Phật! Cứ tính niệm được 100 câu Phật thì lật một tờ. Mọi người tưởng tôi đọc truyện, bởi người ta có in kèm truyện trong sách. Tôi ở nhà mà niệm Phật lén vậy, không ai hay biết”.
Sinh năm 1917 trong một gia đình nhà nông chân chất tại Sa Đéc (Đồng Tháp), thân phụ của Hòa thượng qua đời từ lúc ngài lên ba, đến năm lên bảy thì thân mẫu cũng tạ thế, Hòa thượng sống với người anh thứ ba.
“Lúc tôi biết mến đạo là vào khoảng năm 1928, thời điểm người ta bắt đầu xây dựng Thánh thất Cao Đài ở Tây Ninh. Một số người bà con của tôi cũng ở gần đó, theo Cao Đài, để tóc bới và ăn chay trường. Tôi cũng ăn chay trường một mình ở nhà, thường ăn với nước cơm, nước muối. Bởi hễ thấy thịt cá là tôi nhớ ngay đến cảnh người ta đánh vảy, cắt cổ, làm thịt nên không ăn được”.
Hòa thượng không theo Cao Đài vì cảm thấy “không hạp”, dù ngài vẫn thường mượn các sách Thông thiên học của mấy thầy cô giáo để đọc.
“Tôi tin pháp môn niệm Phật, không lúc nào quên đạo Phật, nhưng lại vô chùa không được, vì chùa lúc nào cũng tối om om, tượng thì ông nào cũng đội khăn đỏ trên đầu, chỉ có một đốm sáng nơi lỗ mũi, về nhà thấy muốn nóng lạnh. Ngoài đường thì có một ông thầy đi trước, thằng nhỏ theo sau, đầu đội cái thúng, trong để chuông mõ, tượng Phật và đồ minh khí để đốt. Tôi nghĩ tu hành gì kỳ vậy nên không mến được!”
Năm 15, 16 tuổi, Hòa thượng hết tuổi học trường Pháp Việt, qua cấp khác thì không đủ điều kiện, nên quyết định học nghề – từ học sửa xe đạp đến học sửa đồng hồ rồi theo người anh làm không công để học thuốc. Nhờ đọc sách thuốc mà Hòa thượng dần dần thông chữ Hán. Trong khi đó, gia đình người anh thường xảy ra cảnh lục đục nên Hòa thượng có ý xuất trần.
“Tôi muốn đi lắm, nhưng cha mẹ không có, tôi đang ở với anh chị nên cũng khó. Tôi lại còn người chị thứ sáu – bây giờ chị vẫn còn sống – hai chị em hủ hỉ có nhau, vui buồn chia sớt, nếu đi thì bỏ chị lại. Tôi học nghề, nghĩ rằng nếu chị ở vậy thì hai chị em có thể nuôi nhau”.
“Đến năm tôi 20 tuổi, chị lập gia đình. Tôi bắt đầu tính chuyện giải thoát thế gian. Nghe người ta nói ở Thất Sơn – Tà Lơn có nhiều người tu theo đạo Phật, có chùa, am, cốc, nên tôi bèn dò la, biết được chùa am chủ yếu tập trung ở Núi Cấm. Đầu năm 21 tuổi, tôi bỏ nhà lên núi, để lại lá thơ chớ không cho ai biết. Lúc đó nhằm ngày 14-2-Đinh Sửu. Khoảng hơn 2 giờ chiều thì tới chân núi, tôi quăng guốc chạy chân không, cảm thấy lòng nhẹ nhõm như không còn gì dính líu. Chạy rát chân thì đứng lại, leo lên gộp đá bên đường ngó bốn phía, tôi khấn vái rằng mình là người phàm mắt thịt, không biết đâu thánh phàm, nguyện ơn trên chỉ dẫn, cứ một mặt phía truớc mà bước đi, gặp chỗ nào thì ở đó chớ không chọn lựa”.
“Khoảng hơn 5 giờ thì tôi tới Vạn Linh, nghe nói thầy đang ở ngoài cốc, đến tối mới gặp được. Sau thời Tịnh độ, thầy vào ngồi bên bàn, bóng đèn leo lét. Tôi đứng một bên; năm, bảy huynh đệ đứng bên kia thưa chuyện. Thầy chỉ tôi mà mắt nhìn mấy huynh đệ, nói: “Mấy đứa bây đừng coi thường cái thằng nay nghe. Đời trước nó là Hòa thượng, bây giờ nó cũng sẽ là Hòa thượng đó!”. Thầy nói thêm một mình: “Làm Hòa thượng nhưng nó cũng thích nhìn con gái lắm, nên sẽ bị tật con mắt suốt đời không hết”. Mấy tiếng này thầy nói chậm lắm. “Này, coi sửa soạn mai rằm cho nó tu!”. Tôi nghe vậy thì mừng lắm, không nghĩ đến việc bịnh tật hay Hòa thượng gì cả, mà cũng không biết Hòa thượng là gì, được chấp nhận cho ở chùa tu là mừng lắm rồi!”.
“Chỉ trong vòng 2 tháng, mấy thời công phu trong chùa tôi thuộc không thua ai khác, trong đó phẩm Phổ Môn tôi thuộc đầu tiên. Nguyên do là tôi không có áo dài mặc lễ Phật. Chùa có mấy cái dành cho Phật tử, tôi mượn để tụng kinh. Sau có một Phật tử phát tâm cúng bốn thước vải đà, yêu cầu tụng 60 biến Phổ Môn. Mấy huynh đệ thấy tôi không có áo dài mặc nên bảo tôi tụng. Do đó mà tôi thuộc lòng phẩm Phổ Môn, rồi mến luôn kinh Pháp Hoa”.
Hòa thượng được phân công viết sớ, được cho ở trong một cái cốc nhỏ nơi vườn chùa. Nhờ vậy mà ngoài việc tụng kinh, Hòa thượng còn tranh thủ tụng thêm bốn thời nữa, rất tinh cần. Nghe mấy huynh đệ nói đến việc tu khổ hạnh, Hòa thượng cũng quyết thực hiện.
“Tôi bỏ ngủ, không nằm nữa, đến độ lên quả đường cầm chén cơm ngồi sững mà ngủ, rớt hồi nào cũng không hay, vậy mà cũng không thành gì, nên thôi. Rồi tôi lại tuyệt cốc, chỉ ăn rau, ăn riết rồi đi lên dốc cũng không nổi, yếu quá mà cũng không thành ông gì, lại bỏ!”.
Do được đọc tạp chí Từ Bi Âm mà Hòa thượng phát khởi ý nguyện cầu học Phật pháp, vì ngoài các thời trống phách kinh kệ, ngài không được học gì thêm. Cuối năm 1939, Hòa thượng xin phép Bổn sư xuống núi về Sài Gòn rồi ra Trung cầu học. Đoạn đường hết sức gian nan, không ai giúp đỡ, không có phương tiện, ngài chỉ ôm gói quần áo mà đi, từ Sài Gòn ra Phan Thiết, tới Bình Định rồi đến Huế. Ban đầu Hòa thượng ở chùa Tây Thiên, sau nhờ thầy Giác Tâm (người Bến Tre) giới thiệu đến chùa Báo Quốc theo học Phật học. Bấy giờ là năm 1940, trường chỉ có duy nhất một lớp, đang học đến năm thứ 6 Sơ đẳng, còn vài tháng nữa thì lên Trung đẳng, song Hòa thượng cũng được nhận vào học, lại được cấp học bổng và cho nội trú. Năm 1941, ngài thọ Sa di giới rồi tiếp tục học lên Trung đẳng và tốt nghiệp vào năm 1942, đến năm 1945 thì tốt nghiệp Cao đẳng. Tiếp theo là thời kỳ Hòa thượng ra làm việc, phụng sự Đạo Pháp…
Năm 1955, Hòa thượng thành lập Cực Lạc Liên hữu tại chùa Vạn Đức (Thủ Đức), khuyến tấn mọi người niệm Phật, cầu vãng sanh Tịnh độ. Ngài là vị thầy đương thời chấn hưng Tịnh độ trong tòa nhà Phật giáo Việt Nam. Tịnh độ Liên hữu do ngài sáng lập được duy trì trong suốt mười năm – cho đến năm 1964, khi GHPHVNTN thành lập – khơi dậy một phong trào tu tập mạnh mẽ, giúp cho rất nhiêu hành giả quy hướng Tịnh độ.
Những lời dạy của Hòa thượng về pháp tu Tịnh độ
“Pháp môn trì danh niệm Phật đơn giản lắm”, HT nói. “Trước hết, luôn luôn phải có lòng tin. Tin ở nơi lời giới thiệu của Đức Phật Thích Ca về Cực Lạc thế giới của Đức Phật Di Đà là chơn thật; tin vào y báo, chánh báo của cảnh giới ấy, vì đó là chỗ mà tất cả chúng sanh và các bậc Thánh đều phải nên về. Do là y báo, chánh báo của cảnh giới Cực Lạc có thể đưa mình đến nơi bậc thánh, thành Phật chứ không ngưng trệ hay do duyên gì mà thối lui. Tiếp theo là tin nơi Pháp mà Phật Thích Ca đã dạy, phải như thế nào thì mới có thể về cảnh giới Cực Lạc”.
“Có nhiều cách để vãng sanh Cưc Lạc, song cách trì danh là đơn giản nhất. Bởi theo danh tự mà niệm thì dễ, còn quán tưởng thì trí lực của người rất khó đến. Muốn ở nơi sự quán tưởng đúng theo kinh nói thì các bậc hiền thánh mới có thể thực hiện được. Trong khi trì danh thì dẫu kẻ phàm phu, tục tử vẫn có thể niệm, cứ đúng theo Nam mô A Đi Đà Phật mà hành trì”.
“Quý huynh đệ thấy, nếu quán về 32 tướng tốt của Phật, ngay chỉ tướng lông trắng giữa chặn mày của Phật A Di Đà thôi cũng đã lớn bằng năm hòn núi Tu Di, như vậy thì làm sao nghĩ tới? Ở đây, ánh sáng lại tỏa ra khắp mười phương. Còn cặp mắt của ngài thì bằng bốn đại hải – đại hải đó không phải như ở biển ta, biển ở ta so ra thì chỉ là một cái cù lao – tưởng tượng sao nổi?”
“Cái tướng lông trắng đó của bất kỳ vị Phật nào, nếu kéo thẳng ra thì cũng đều đụng tới gót. Mà theo kinh, bề cao của thân Phật Di Đà là 60 muôn ức Na do tha số các sông Hằng (theo luận Câu xá thì một Na do tha bằng khoảng 100.000 tỷ – GN) – một hột cát được tính là một do tuần (khoảng 15-20 km), cộng lại là ra chiều cao thân Phật. Thử nghĩ, một sông Hằng có bao nhiêu hột cát, bao nhiêu do tuần? Mà thân ngài cao đến 60 muôn ức na do tha số cát sông Hằng! Do đó, tướng lông trắng đó cũng dài tương đương như vậy, xoắn tròn lại to bằng năm hòn núi Tu Di”.
“Đó không phải là cách nói tượng trưng đâu, mà Phật Thích Ca nói đúng thiệt như vậy. Nếu chỉ quán tưởng thân ngài cao như tượng mình thờ thì không chính xác. Còn nếu quán thật tướng chân như lại càng khó hơn nữa. Dù cũng có người làm được, nhưng chỉ là những bậc hiền thánh hiện thân. Do vậy, trì danh được xem là thấp nhất và dễ nhất. Mình đang đi bộ hay đi trên xe niệm Phật cũng được. Mình đang đứng ngắm cảnh cũng niệm được. Mình đang ngồi làm việc cũng niệm được và khi mệt mỏi quá nằm niệm cũng được. Chỉ trừ lúc nói chuyện là không niệm được thôi!”
“Trì danh nói là thấp song hành trì không dễ. Phải tin thực sâu, nguyện thực thiết và công hạnh phải chuyên cần thì mới hiệu nghiệm, nếu không thì cảnh khác chen vô phá hết. Khi niệm thì tâm và tiếng phải hiệp khắn nhau. Nghĩa là tâm phải duyên theo tiếng, tiếng phải ở trong tâm, đừng để nó xao lãng theo một tiếng gì khác, hễ nó rời ra thì phải kéo nó lại. Muốn được vậy, tiếng niệm phải cho rõ ràng, rành rẽ. Niệm như vậy phải chuyên cần, phải nhiều thời gian, phải đều đặn, phải tinh tấn lắm mới đắc lực. Khi niệm đã đắc lực thì tự nhiên trong tâm mình nổi lên tiếng niệm Phật mà mình không cần đề khởi, không cần nghĩ đến nó vẫn tự niệm. Ban đầu thì lúc được lúc mất, được thì ít mà mất thì nhiều. Cố gắng thêm thì được nhiều mất ít, cho đến khi không còn gián đoạn nữa thì gọi là niệm lực tương tục. Và như vậy mới đúng nghĩa “chấp trì danh hiệu”. Đó mới là nhơn của niệm Phật tam muội. Được vậy thì sự vãng sanh mới bảo đảm”.
“Tôi nói với mấy huynh đệ về chữ “chấp trì danh hiệu”. Chấp nghĩa là cầm, còn trì là giữ lại. Giống như tôi nắm quyển sách không buông ra vậy, hễ bỏ ra là không trì. Khi mình xưng danh hiệu ‘Nam Mô A Di Đà Phật’, làm sao trong tâm mình chỉ có ‘Nam Mô A Di Đà Phật’ mà thôi. Đừng có cái gì khác, đừng cho một niệm gì xen vào hết. Trong lúc niệm Phật mà còn niệm những thứ khac nữa thì không phải niệm Phật. Nếu chấp trì được danh hiệu như Phật Thích Ca nói thì nhất định vãng sanh. Làm không đúng thì không có kết quả. Lời Phật nói không khi nào sai cả, chỉ tại mình hiểu chưa đúng, mà khi hiểu đúng thì cũng không hẳn đã làm đúng”.
“Cũng có nhiều người đến than thở với tôi là muốn giữ cái tâm lại, nhiếp tâm để chấp trì danh Phật mà làm hoài nó vẫn cứ chạy. Vì cái chạy đó nó quen lâu năm rồi. Không phải lâu năm trong đời này, mà nó đã lâu năm trong nhiều đời trước nữa. Cho nên, mình phải cột, phải nắm lại, rồi lần lần ‘cột nắm’ cũng dần quen. Khi đứng lại thì nó cũng quen đứng luôn. Vậy nên, phải thật chịu khó để đạt nhất tâm bất loạn, tức niệm Phật tam muội. Trong Quán kinh nói, lúc Phật Di Đà hiện tiền thì các Phật khác cũng hiện tiền. Hiện tiền là hiện ra trước mắt chứ không phải chiêm bao”.
Hòa thượng nói thêm: “Khi dịch các kinh điển Đại thừa khác, tôi thấy trong các kinh đó đều có nói đến cảnh giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà. Như trong kinh Hoa Nghiêm, ngay cả các vị Đại Bồ tát nhập Bất khả tư nghì Giải thoát cảnh giới, khi các vị ngồi kề bên Phật còn khuyên với nhau xả bỏ thân này để về Cực Lạc, bởi duyên Cực Lạc khó có nước nào bằng. Vậy nên, chúng ta hãy chuyên tâm niệm Phật”.
CHÚC PHÚ – Q.KIẾN ghi
Nguồn tin từ Giác ngộ
Kính thưa quí Thầy quý sư huynh sư tỉ, cho con hỏi con hiện nay ăn chay một tháng 4 ngày 14 15 1 30. Con chưa ăn chay trường được giờ muốn ăn lên 8 ngày trên tháng. Vậy ngoài 4 ngày con ghi trên con có thể ăn thêm 4 ngày nào nữa thì tốt ạ. Con đang cố gắng tu theo pháp môn niệm Phật. A DI ĐÀ PHẬT.
Nam mô A Di Đà Phật
Mến chào Quang,
VT tìm trong quyển “NghiThức Tụng Niệm” phần Cách Thức ăn chay:
Tứ trai:1-14-15-30
Lục trai:1-8-14-15-23-30
Bát trai:1-8-14-15-18-23-24-30
Thập trai:1-8-14-15-18-23-24-28-29-30
Nhất ngọat trai:ăn trọn tháng giêng
Tam ngoạt trai:tháng giêng + tháng 7 + tháng 10
Tứ ngoạt trai:tháng giêng + tháng 4 + tháng 7 + tháng 10
Và ăn chay lần cho đén trường chay là công đức quí báo vô lượng
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật nói:”Người nào còn ăn thịt chúng sanh thì không phải đệ tử Phật”.
Trong kinh Nhân Quả ba đời:”
38.Nay Thường hổ huyết do nhân gì?
Xưa ăn thịt rồi đi tụng kinh .”
DVD “Ăn chay sống xanh,cứu địa cầu nói” nói:
Người ăn thịt động vật sau này sẽ bi. các bệnh nan y như:cao máu,cao mở,tiểu đường…vì các độc tố trong thịt động vật gây ra.
Chúc mừng bạn đã biét ăn chay niệm Phật,làm lành lánh dử và đến với http://www.duongvecitinh.com là nơi quy tụ rất nhiều tinh hoa của Tịnh Độ tông.
Thôi,xin chào bạn
Nam mô A Di Đà Phật
Con xin nói ra điều con suy nghĩ không biết có tội không nhờ quý Thầy chỉ bảo. Con sẽ cố gắng ăn chay nhiều ngày trong tháng nhưng những ngày có lễ cưới … Con không thể từ chối thì con ăn mặn có được không, làm như vậy có sao không vì con chưa thể dám hứa sẽ ăn chay trường được. Con mong có ngày đủ duyên tâm con định ý chí vững vàng con sẽ ăn chay trường và không bao giờ ăn mặn nữa.
Nam mô A Di Đà Phật
Mến chào Quang,
Cứ tự nhiên mà hỏi,không tội tình chi cả.VT rất cảm thông tâm trạng của bạn là một người mới bước chân vào cửa đạo nhưng vẫn còn rất nhiều trần duyên chưa buông xả được.
Ngày xưa VT cũng có lần đi dự tiệc,cứ lựa cái nào chay thì gấp,không có thì thôi,ai hỏi:”Sao không ăn thịt?”VT nói:”Ngán lắm,VT cử,vì diet,bác sỉ nói có nhiều chất mở không tốt”.Hoặc ai hỏi:”Sao không ăn?”VT nói:”No rồi,mới ăn ở nhà,cám ơn,anh chị cứ tự nhiên đi,đùng lo cho VT.”Ai mời beer rượu thì VT nói:”VT không biết uống,còn phải lái xe,”Rồi thì VT uống nước ngọt.Sau đó VT xin phép về sớm.Những lần sau ai mời đi đám cưới,VT không đi nữa.Từ từ rồi người ta chán,không thèm chơi với VT nữa,bây giờ VT không có bạn đời nữa,chỉ có bạn đạo thôi.
Bạn đang đứng ở giữa đời và đạo,bước qua bên nào là tùy nơi bạn.
Chỉ cần bạn ăn chay trường vài năm,sau đó nhìn lại đồ mạng,bạn mới thấy nó rất dễ sợ,vừa dơ,vừa hôi,vừa độc vừa mang tội.Nhưng tại sao người đời vẫn tiếp tục ăn mạng?Là bởi vì tập khí,thói quen khó bỏ.
Ví dụ như bạn là người không hút thuốc lá chứ gì.Có phải không?Bạn thử đi ngang nghe những người hút thuốc lá,họ phì phà phì phà,mình thì cảm thấy khó chịu nhưng người ta thì thấy đó là bình thường.VT đã mấy lần vào tiệm bán đồ mặn,cái mùi của nó không thôi,mình cũng đã chịu không nổi rồi,làm sao mà ăn được?Nó là xác chết mà,ghê dử lắm.
Cho nên chỗ này Phật gọi là biệt nghiệp dị kiến.
Thôi,xin chào bạn
Nam mô A Di Đà Phật
Da con xin chân thành cảm ơn Viên Trí con sẽ cố gắng. Con còn nhiều vấn đề muốn bỏ nhưng không biết làm sao bỏ nếu đựoc con xin Thầy Viên Trí cho con địa chỉ mail để con thỉnh ý của Thầy.
Nam mô A Di Đà Phật
Mến chào Quang,
Xin bạn đừng nói vậy mà tội cho VT lắm vì VT vốn không phải thầy gì cả.Nếu bạn có muốn quy y thì nên đến chỗ thầy Tịnh Không hoặc đạo tràng của cư sỉ Diệu Âm.VT cũng muốn đi xuất gia lắm nhưng kẹt ở chỗ là còn mẹ già,sớm hôm phải phụng dưỡng.Trong kinh pháp cú Phật dạy:”Trong thời không có Phật ra đời thì 2 vị Phật để cho chúng ta tôn thờ chính là cha và mẹ của chúng ta.Công đức cúng dường 2 vị Phật này bằng với công đức cúng dường Phật”.Hơn nữa có câu “Phật tại tâm”.Chính vì thế cho nên tuy là thân còn ở tại gia nhưng tâm thì cố gắng tập theo hạnh của người xuất gia,VT cũng không vợ không con gì cả vì VT hiểu:”Con là nợ,vợ chồng là oan gia + vô oan trái bất thành phu phụ.”Có lẻ VT sẽ xuất gia khi mẹ VT qua đời.
Sở dỉ mà VT hiểu biết Phật Pháp nhiều là do từ nhỏ,lúc còn ở VN VT thường hay đến chùa làm công quả rồi mượn kinh sách về đọc.
Từ lúc qua Mỉ có thể nói láy là “ma quỷ” vì cái thế giới vật chất văn minh này phải công nhận là nó cám dổ dử lắm.Nếu người nào đạo tâm không vững sẽ dể bị thối bồ đề tâm.Nhưng cũng không phải nghe nói thế giới ma quỷ rồi sợ mà bỏ chạy vì Phật dạy:”Lấy ma quân làm bạn pháp hay vô ma khảo bất thành đại đạo”.
Nói ra thật hổ thẹn nhưng cũng phải nói vì là phát lồ sám hối mà.VT ở Mỉ được 16 năm mà 13 năm đầu đã bị cái thế giới ma quỷ này nó dụ dổ rồi,suốt 13 năm đó VT đã phạm giới ăn mạng,uống beer,cờ bạc,lường gạt,…
Cho đến một ngày kia VT mắc phải chứng bệnh lạ,vào nhà thương bác sỉ không tìm ra bệnh gì,lúc đó VT mới sực nhớ đến Phật rồi bắt đầu chí thành sám hối,ăn năn,quyết tâm ăn chay,niệm Phật,làm lành lánh dử…cũng nhờ hồng ân tam bảo gia hộ mà VT được khỏe mạnh bình an đến ngày hôm nay.
Chính vì thế cho nên nếu tính theo tuổi đạo thì VT chỉ mới có 3 tuổi thôi à (tính từ lúc thực sự sám hối ăn năn chứ không tính từ lúc quy y thọ giới),vẫn còn ấu trĩ lắm.
VT đến với đường về cõi tịnh nhằm mục đích chính là để học thêm các bài pháp ở đây bên cạnh đó mình gieo duyên với nơi này để có thêm bạn đạo (thiện hữu tri thức),mặt khác là để y giáo phụng hành lời Phật dạy:”khuyến tấn người tu hành” và “pháp thí thắng mọi thí.”
VT nghĩ VT không thể cho bạn e mail được vì:
1:Ở nơi này VT chỉ như là chú tiểu quét lá đa,đứng trước sân trả lời khách viếng thăm khi các huynh đệ,tỉ muội đồng môn bận hạ thủ công phu.Rồi cũng đến lượt VT đi hạ thủ công phu chứ đâu có ở đây quét lá đa hoài.
2:VT phải trả lời nơi này để được sự duyệt xét của các huynh đệ tỉ muội đồng môn,nếu nói trong e mail tức là nói riêng,lở như VT nói sai,VT sẽ bị đọa làm con chồn như chuyện hòa thượng Bá Trượng.
3:Bạn có gì thì cứ hỏi thẳng nơi này,sẽ có các huynh đệ tỷ muội đồng môn trả lời cho như là Tịnh Thái,timlaiphttanh,cư sỉ Hữu Minh,Diệu Âm Quảng Nguyện,Liên Hợp,Minh Triết,Tịnh Minh,…đều là những vị rất am tường về Phật Pháp,đặc biệt là Tịnh Độ Tông.
Hoặc có điều chi khó nói nơi đây thì cứ e mail thẳng cho chú Diệu Âm.VT “chôm” được e mail của chú nè:
[email protected]
VT post e mail của chú Diệu Âm ra ngoài này không biết có bị chú quở không nữa.Uhmmm…chắc là không vì chú đang hạ thủ công phu mà,luyện cái chiêu gì gọi là:
“Nói ít một câu chuyện,niệm nhiều một câu Phật,đánh được vọng niệm chết…”
Hơn nữa theo VT đoán thì có lẻ chú Diệu Âm đã tạo được công đức rất lớn do đi hộ niệm và khuyên người niệm Phật nên bây giờ chú rất nổi tiếng,mà hể càng nổi tiếng thì người ta tìm chú càng đông để xin thọ giáo,phỏng vấn…mà hể chú trả lời mỗi người 30 phút thôi,10 người là 300 phút,100 người là 3000 phút,như vậy sẽ không còn thời gian hạ thủ công phu nữa nên chú tam thập lục kế,tẩu vi thượng sách,rồi thì ở đây,các huynh đệ tỷ muội thay phiên nhau làm bia đở đạn (hộ pháp) cho chú.
Oh!…Dài quá rồi!…Thôi,xin chào bạn
Nam mô A Di Đà Phật
Dạ con xin cám ơn Thầy, con goi Viên Trí là Thầy thì xem như Thầy dạy đạo cho con chứ không nhất thiết phải là Thầy Tăng trong chùa. Xin cám ơn Thầy, con thấy khâm phục Thầy và các cô chú quá còn nhìn lại mình thì quá nhỏ bé vướn bận bao nhiêu việc đời mà còn tham lam không bỏ được. Con ở Việt Nam chắc có lẽ con không có duyên gặp Thầy và cô chú, nhưng mong sao cô chú và con sẽ tinh tấn hơn trong niệm PHẬT. A DI ĐÀ PHẬT.
Nam mô A Di Đà Phật
Mến chào Quang,
VT chưa xuất gia mà nhận đệ tử chỉ e bị mang tội đó.
Quang không nói là việc gì cần bỏ thì ai mà biết đâu chứ.Nhưng mà có cái không được bỏ,có cái muốn bỏ mà bỏ không được,có cái cần phải bỏ nhưng không chịu bỏ,có cái không cần phải bỏ…
Ở VN thì nghe nói ở Sài Gòn có chùa Hoằng Pháp,người ta tu Tịnh Độ đông lắm.Ở miền Trung thì có ban hộ niệm Hoa Sen rất lớn.Quang ở vùng nào?
Chắc là có duyên mà,hy vọng sẽ gặp lại hết tất cả ở Tây Phương Cực Lạc.
Dòng đời mà,có rất nhiều thử thách,vượt qua được thử thách thì sẽ thành công.(sau đó sẽ có thử thách khác)
Cho nên Phật dạy:”Chiến thắng trăm quân không bằng chiến thắng bản thân mình”.Chiến thắng bản thân mình chính là chiến thắng cái tâm ma của mình đó.
Thôi thì để VT mượn bài kệ của Ngài Mục Kiền Liên tặng cho Quang,cứ theo đó mà tu trì:
“Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Thanh tịnh kỳ tâm
Thị chư Phật thuyết”
Thôi,xin chào bạn
Nam mô A Di Đà Phật
Dạ con ở tphcm con sẽ lên chùa Hoằng Pháp tu học A DI ĐÀ PHẬT con cám ơn Viên Trí nhiều lắm.
Chào Thầy!
Xin cho con hỏi thầy
Duyên nghiệp đến từ đâu mình phải làm thế nào và nó sẽ ra đi như thế nào.
Xin thầy chỉ dạy cho con. Con cảm ơn thầy