Ngũ Khoa Tịnh ĐộPHẦN MỤC LỤC

1. Tam Phước.

Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, lòng từ bi không giết hại, tu thập thiện nghiệp.

Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi.

Phát bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

2. Lục Hòa Kính.

Kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân.

3. Tam Học.

Giới, Định, Huệ.

4. Lục Độ.

Lục độ là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ.

5. Thập Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ Tát.

Lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, quảng tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ công đức, thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế, thường tùy Phật học, hằng thuận chúng sanh, phổ giai hồi hướng.

PHẦN GIẢI THÍCH

1. Tam Phước.

Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, lòng từ bi không giết hại, tu thập thiện nghiệp.
Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi.

Phát bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

Trong kinh Quán Vô Lượng thọ Phật gọi là Tịnh Nghiệp Tam Phước, ba thứ tịnh nghiệp này là Tam Thế Chư Phật Tịnh Nghiệp Chánh Nhân, câu này vô cùng quan trọng, khiến cho chúng ta hiểu rõ ba đời tất cả chư Phật tu hành chứng quả, đều phải y theo Tam Phước làm nền tảng, thì cũng như chúng ta xây cất nhà lầu vậy, bất luận là xây cao bao nhiêu tầng, đều phải đắp nền móng. Tịnh Nghiệp Tam Phước là nền móng, là nền tảng cộng đồng của Phật pháp, nhất định là phải từ trên nền tảng này xây dựng, mới có thể thành tựu tất cả Phật pháp, điều này vô cùng vô cùng quan trọng.

Phước báo nhân thiên. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, lòng từ bi không giết hại, tu thập thiện nghiệp.

Phước báo nhị thừa. Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi.

Phước báo đại thừa. Phát bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

A. Phước báo nhân thiên: Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, lòng từ bi không giết hại, tu thập thiện nghiệp.

Hiếu dưỡng cha mẹ, chữ hiếu này thuộc về hội ý, chúng ta phải thể hội ý nghĩa của chữ này, trên là chữ Lão, dưới là chữ Tử, tức là bảo với chúng ta rằng, đời trước và đời sau là một thể, là một chẳng phải hai… Hay nói cách khác, toàn cả vũ trụ là một chữ Hiếu, tận hư không biến pháp giới là một chữ Hiếu… Chẳng những chúng ta nuôi dưỡng cái thân của cha mẹ, còn phải nuôi dưỡng cái tâm của cha mẹ, nuôi dưỡng cái chí của cha mẹ. Trong Giới Kinh nói: tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta. Đem cái tâm hiếu thuận cha mẹ phát dương quang đại, tận hư không biến pháp giới, tức là Hiếu Đạo.

Phụng thờ sư trưởng. Phật pháp là sư đạo, lấy hiếu đạo làm nền tảng, không có hiếu đạo thì không có sư đạo… Cho nên phải hiếu thuận cha mẹ cũng phải tôn kính thầy… Hiếu kính là tánh đức, chỉ có tánh đức mới có thể khai phát tự tánh… Đây là căn cơ của căn bản, vô cùng quan trọng… Người biết hiếu thuận cha mẹ thì biết tôn kính sư trưởng… Phật là vị thầy sớm nhất của chúng ta, Ngài chỉ dạy chúng ta phải tôn kính sư trưởng… Chúng ta tôn thờ tượng Phật Bồ Tát, và thờ Tổ Tiên, khi nhìn thấy hình tượng của Phật Bồ Tát, thì chúng ta nghĩ đến hiếu kính, hiếu thân tôn sư.

Lòng từ bi không giết hại, từ bi là tánh đức, là một khoa mục vô cùng quan trọng, lòng hiếu kính mở rộng tức là từ bi, có lòng từ bi thì không sát sanh, cái dụng ý này rất sâu… Trong tất cả ác nghiệp, sát nghiệp là nặng nhất. Tại vì sao? vì tất cả chúng sanh có mạng sống, không một ai mà không trân quí cái mạng sống của mình, không có một ai mà không tham sống sợ chết… Cho nên chúng ta không thể sát sanh, sát sanh là bất kính với Phật, là bất hiếu với cha mẹ, bởi vì Phật dạy chúng ta phải giữ giới căn bản, giới thứ nhất là không sát sanh, nếu chúng ta còn sát sanh, thì làm trái nghịch lời dạy của Phật, tức là không tôn kính sư trưởng cũng không hiếu thuận cha mẹ… Sát hại chúng sanh, chẳng những mất đi lòng từ bi cũng mất đi lòng hiếu kính.

Tu thập thiện nghiệp, thập thiện nghiệp là tiêu chuẩn thiện pháp của thế gian… Phật bảo với chúng ta rằng, phát tâm tu thập thiện nghiệp, thì tuyệt đối không đọa tam ác đạo, thượng phẩm thập thiện có thể sanh lên cõi trời, nếu có tu thêm thiền định, và tứ vô lượng tâm, tức là Từ Bi Hỷ Xả, thì có thể sanh lên cõi trời sắc giới và cõi vô sắc giới. Phật quy nạp thập thiện nghiệp thành ba đại loại, tức là Thân, Khẩu, Ý.

Thân nghiệp có ba, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, đây là đối với các bạn đồng tu tại gia mà nói, nếu là người xuất gia thì không dâm dục, phải đem lòng tham ái đoạn cho được sạch sẽ rốt ráo. Trộm cắp tức không cho mà lấy, lậu thuế cũng là trộm cắp, trộm cắp của nhà nước, tạo cái nghiệp này rất nặng… Cho nên người chân chánh học Phật, nhất định phải tuân thủ pháp luật của nhà nước… Không phạm giới sát, không phạm giới dâm, không phạm giới trộm cắp, thì gọi là thân nghiệp thanh tịnh.

Khẩu nghiệp có bốn, một là vọng ngữ, tức là nói láo, nói lời lừa gạt người khác, nói không thành thật. Hai là lưỡng thiệt, tức là hai lưỡi, khiêu khích thị phi, nói lời thêm bớt, khiến cho hai người bất hòa với nhau, tạo cái nghiệp cũng rất nặng.

Ba là ác khẩu, tức là nói lời không có lễ phép, nói lời thô lỗ, khiến cho người nghe cảm thấy khó chịu. Bốn là ỷ ngữ, là hoa ngôn xão ngữ, nói lời thêu dệt, nói được rất hay, khiến cho người nghe bị quyến rũ, nhưng dụng ý bất thiện, như hiện nay trên xã hội, nào là điện ảnh, ca vũ, âm nhạc, thấy chẳng có gì là ác, nghĩ lại những thứ này là loại giáo dục gì cho mọi người? Đều là dạy người sát sanh, trộm cắp, dâm dục, vọng ngữ, đây thuộc về ỷ ngữ, nếu lìa khỏi bốn loại khẩu ác nghiệp, thì khẩu nghiệp thanh tịnh.

Ý nghiệp có ba, tức là Tham, Sân, Si. Tham là tham ái, bao gồm keo bẩn, thường nói là sân tham, dục vọng không có thỏa mãn, thí mạng đi tìm cầu, hy vọng đạt được thỏa mãn, đây là lòng tham, một khi đã đạt được, thì không chịu buông xả, không chịu bố thí giúp đỡ cho người khác, thì gọi là keo bẩn, đối với sự tu học là một chướng ngại rất lớn. Phật chỉ dạy cho chúng ta phương pháp bố thí để đối trị lòng tham. Kế đến là sân, tức là sân hận, tham không được thì sanh lòng sân hận, lòng sân hận là phiền não rất lớn, cho nên Tham Sân Si là tam độc phiền não. Lòng tham là nghiệp nhân của ngạ quỷ. Lòng sân hận là nghiệp nhân của địa ngục. Ngu si là nghiệp nhân của súc sanh. Cái gì gọi là ngu si? tức là chẳng có trí huệ, pháp thế gian và Phật pháp có chân có giả, có chánh có tà, có phải có quấy, có thiện có ác, họ không thể phân biệt, nhận thức không rõ ràng, đem giả cho là chân, đem tà cho là chánh, đây là ngu si, bất luận họ có ý hay vô ý. Tam độc phiền não là chướng ngại minh tâm kiến tánh rất nghiêm trọng, chúng ta tu học Phật pháp phải tu từ căn bản, căn bản là tâm, phải đoạn trừ Tham Sân Si, thì chân tánh mới hiện ra.

B. Phước báo nhị thừa: Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi.

Thọ trì tam quy, trước tiên nhập Phật môn thì phải bái Lão Sư (lạy Thầy), cầu truyền thọ tam quy, là một việc rất long trọng, cũng là chánh thức lạy Thích Ca Mâu Ni Phật làm Thầy, tự nguyện một đời y theo lời dạy bảo của Thầy mà tu học, thật sự tu hành, được Thầy truyền thọ tổng cương lĩnh và nguyên tắc phương pháp tu học, gọi là truyền thọ Tam Quy Y. Tam Quy là Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng… Nếu từ trên ý nghĩa mà nói, tức là Quy Y Giác, Quy Y Chánh, Quy Y Tịnh. Phật là Giác, Phật là ý nghĩa Giác Ngộ. Pháp là Chánh, Pháp là Chánh Tri Chánh Kiến. Tăng là Tịnh, sáu căn thanh tịnh, một hạt bụi không nhiễm. Cho nên cái y cứ chủ yếu tu hành của chúng ta, là y theo tự tánh Giác, tự tánh Chánh, tự tánh Tịnh, gọi là tự tánh Tam Bảo.

Quy Y Phật, cái gì gọi là Quy Y? Quy là hồi đầu, Y là nương tựa, Phật chỉ dạy cho chúng ta, phải từ mê hoặc điên đảo hồi đầu, nương tựa tự tánh Giác, tự tánh vốn là Giác, Quy Y Phật không phải Phật bên ngoài, là Quy Y tự tánh Phật,

Đây là tự tánh Phật Bảo. Trong Tịnh Tông nói, tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ, cho nên Quy Y tự tánh Phật, tức là Quy Y tự tánh Giác, Giác mà không mê, mới là chân chánh Quy Y Phật.

Quy Y Pháp, tức là cách nghĩ cách nhìn cách làm của chúng ta đối với vũ trụ nhân sanh hoàn toàn cùng với chân tượng sự thật phù hợp, tư tưởng chính xác, kiến giải chính xác, tại trong kinh Phật gọi là Chánh Tri Chánh Kiến, hoặc là Phật Tri Phật Kiến, đây là tự tánh Pháp Bảo, không phải bên ngoài đến, Phật dạy chúng ta từ cách nghĩ cách nhìn cách làm sai lầm hồi đầu trở lại, nương theo Chánh Tri Chánh Kiến của tự tánh, gọi là Quy Y Pháp.

Quy Y Tăng, Tăng là ý nghĩa thanh tịnh, sáu căn thanh tịnh, sáu căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý, tiếp xúc cảnh giới bên ngoài sáu trần, sáu trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Người phàm phu khi sáu căn tiếp xúc sáu trần thì bị ô nhiễm, khởi lên lòng tham, lòng tham là ô nhiễm, chúng ta phải từ tất cả ô nhiễm hồi đầu trở lại, nương theo tâm thanh tịnh của mình, đây là tự tánh Tăng Bảo, tức là Quy Y Tăng.Tam Quy Y, tổng kết mà nói, Quy Y Phật tức là Giác mà không mê. Quy Y Pháp tức là Chánh mà không tà. Quy Y Tăng tức là Tịnh mà không nhiễm.Ngoài ra, còn có trụ trì Tam Bảo, trụ trì Tam Bảo tức là tượng Phật, kinh điển, người xuất gia. Ba thứ này tuy không phải là chổ Quy y chân chánh của chúng ta, nhưng tác dụng của nó tượng trưng cho Tam Bảo trụ thế, có thể đánh thức chúng ta hồi đầu nương tựa… Trụ trì Tam Bảo đối với chúng ta có sự lợi ích công đức rất lớn. Nên biết, Quy y không phải Quy y một vị pháp sư nào, pháp sư chỉ là đại biểu cho tăng đoàn, họ đem ý nghĩa của Tam Quy và cương yếu tu học truyền thọ cho chúng ta… Chúng ta từ trong tâm hồi đầu, nương tựa tự tánh Giác, Chánh, Tịnh, đây mới là chân chánh Quy Y Tam Bảo.Giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi, các giới tức là có rất nhiều giới điều, quan trọng nhất là ngũ giới, ngũ giới là căn bản đại giới của nhà Phật. Xuất gia Sa Di và Sa Di Ni phải giữ 10 giới, Tỳ Kheo phải giữ 250 giới, Tỳ kheo Ni phải giữ 348 giới. Thật ra giới điều chỉ có phía trước 17 điều, tức là 4 giới trọng và 13 giới tăng tàn, đây thuộc về giới, những giới điều khác thì thuộc về oai nghi. Oai nghi là gì? Oai nghi là lễ phép, lễ tiết, tức là trong cuộc sống hằng ngày xử thế, đối người, tiếp vật, phải tuân thủ quy củ… Trong ngũ giới điều thứ nhất không sát sanh, điều thứ hai không trộm cắp, điều thứ ba không tà dâm, điều tứ tư không vọng ngữ, điều thứ năm không uống rượu, bốn điều phía trước là tánh tội, bất luận có thọ giới hay không thọ giới, hể phạm đều là có tội… Những người có thọ giới đã phạm thì gọi là phá giới, chỉ có điều thứ năm không uống rượu, người không thọ thì không phạm tội… Chúng ta phải hiểu rõ giới điều, thì mới có thể trì giới… Mỗi một giới điều cũng có Khai, Giá, Trì, Phạm. Ở dưới trường hợp nào là Khai giới, không phải Phạm giới, ở dưới trường hợp nào Trì giới, không thể Giá giới… Giới luật là hành trì của Phật, không có giới luật thì không có Phật pháp.

C. Phước báo đại thừa: Phát bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

Đại thừa là xây dựng trên nền tảng của tiểu thừa, phước báo đại thừa có 4 câu.

Một. Phát bồ đề tâm, cái gì gọi là Bồ đề tâm? Bồ đề là tiếng phạn, dịch là giác ngộ, Bồ đề tâm tức là cái tâm thật sự giác ngộ, cái tâm chân thật không mê, đã giác ngộ cái gì? Giác ngộ đời người quá khổ, thường nói là tam khổ bát khổ… Sau khi giác ngộ, nhất định phải y theo phương pháp của Phật dạy tu hành, thì tự nhiên lìa khổ được vui, ra khỏi tam giới, vãng sanh tịnh độ, mới thật sự là phát Bồ đề tâm.

Hai. Tin sâu nhân Quả, cái phước báo thứ ba này là Bồ Tát sở tu, cái nhân quả này không phải nhân quả thông thường, chúng ta cũng hiểu, thiện có thiện báo, ác có ác báo, thiện nhân thiện quả, ác nhân ác quả. Phật khuyên Bồ Tát tin sâu nhân quả, là Phật tại trong Kinh Hoa Nghiêm có nói: Thập Địa Bồ Tát thủy chung không rời niệm Phật, từ Sơ Địa cho đến Đẳng Giác, 11 ngôi vị thứ. Họ tu cái gì? Họ tu pháp môn niệm Phật, thì ra chổ này nói nhân quả là chỉ cho, niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Cho nên Phật ở chổ này khuyên Bồ Tát tin sâu nhân quả, tức là niệm Phật là nhân, thành Phật là quả.

Ba. Đọc tụng kinh đại thừa, đây là Bồ Tát thiện, Bồ Tát học Phật, không thể một ngày không thấy Phật, không thể một ngày không đọc tụng kinh đại thừa, nên biết, đọc kinh không phải là đọc cho Phật nghe. Kinh là do Phật nói, Phật đâu có cần chúng ta đọc cho Ngài nghe, chúng ta đọc kinh là tiếp nhận lời dạy bảo của Phật, để đánh thức chính mình, dạy cho chúng ta khi khởi tâm động niệm, xử thế, đối người, tiếp vật, không làm trái nghịch lời của Phật dạy… khi hiểu rõ phương pháp và mục đích của việc đọc tụng kinh điển, thì phải y theo cương lĩnh mà tu học, mới có thể đạt được công đức lợi ích của Phật pháp thù thắng.

Bốn. Khuyến tấn người tu hành, tức là phải khuyên mọi người nên học Phật, giúp đỡ mọi người tu hành tinh tấn, khuyên mọi người niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, đây là hạnh Bồ Tát.

2. Lục Hòa Kính.

Kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân.

1. Kiến hòa đồng giải, tức là xây dựng cùng ý thức chung, ở trong một đoàn thể, chúng ta đối với phương pháp và lý luận của sự tu học, nhất định phải có cùng chung một kiến giải, đây là nền tảng cộng tu của đại chúng.

2. Giới hòa đồng tu, mọi người khi đã cùng ở chung với nhau tu học, thì phải lập ra một quy củ, nếu không có quy củ thì là sẽ loạn, không có trật tự, dĩ nhiên là có một quy ước cùng ở chung với nhau, nhất định bao gồm giới căn bản của Phật đã chế định, mọi người nhất định phải tuân thủ.

3. Thân hòa đồng trụ, tức là mọi người cùng ở chung một nơi tu hành, xây dựng đạo tràng là thành tựu cho mỗi một phần tử, mục đích là ở chổ này, tuyệt đối không phải trốn tránh trách nhiệm xã hội, mà vào trong Phật môn tìm đường sống. nếu có cái quan niệm này, thì là hoàn toàn sai lầm, mọi người sinh hoạt trong đạo tràng đều bình đẳng như nhau.

4. Khẩu hòa vô tranh, đây là nói mọi người cùng ở chung với nhau không có tranh luận, thật sự có thể dụng công tâm hướng theo đạo, mọi người ở chung với nhau, rất dể dàng tạo khẩu nghiệp, cho nên người xưa thường nói: bịnh từ miệng vào, họa từ miệng ra. Cổ đức dạy cho chúng ta: nói ít một câu, niệm thêm Phật hiệu.

5. Ý hòa đồng duyệt, đây tức thường hay nói Pháp Hỷ Sung Mãn,chúng ta học Phật, bất luận tu học pháp môn nào, sự thành tựu kém cõi nhất, tức là được hoan hỷ, giả như học Phật, mà không đạt được khoái lạc, nhất định là có vấn đề, tức là phương pháp đã dùng sai, phải tự mình kiểm thảo tìm ra khuyết điểm, mọi người cùng nhau tu hành, người đều được pháp hỷ, người người đều được thành tựu.

6. Lợi hòa đồng quân, đây là nói mọi người cùng ở chung một nơi tu hành, cuộc sống vật chất là bình đẳng, tài nguyên của đạo tràng, vào thời xưa, một phần là do nhà vua hộ trì, tức là do nhà nước xây dựng thập phương đạo tràng, kế đến là những vị đại phú trưởng giả quyên gốp ủng hộ, đạo tràng xây cất xong, thì thỉnh những vị cao tăng đại đức đến làm trụ trì, tu hành, giáo hóa chúng sanh, cho nên bất luận là nhà nước cúng dường, hoặc là đại chúng ở địa phương cúng dường vật chất, phàm là ở trong ngôi đạo tràng này, đều được hưởng thụ nhất loạt bình đẳng.

3. Tam Học.

Giới, Định, Huệ.

Cái gì gọi là Giới Định Huệ Tam Học? những chúng sanh tạo thập ác nghiệp, thì Phật dùng Giới học để đối trị, Giới học là thuốc để đối trị ác nghiệp.

Tâm của chúng sanh tán loạn, không được định, không được thanh tịnh, thì Phật dùng Định học để đối trị, Định học là đối trị tâm tán loạn.

Chúng sanh ngu si, không biết tà chánh, thiện ác, phải quấy, đúng sai, lợi hại, thì Phật dùng Huệ học để đối trị.

Nói tóm lại, chúng sanh tạo ác, tán loạn, ngu si, thì Phật dùng Giới Định Huệ để đối trị.

4. Lục Độ.

Lục độ là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ.

1. Bố Thí: Bố thí có ba loại, tức là Tài thí, Pháp thí, Vô úy thí. Tài thí thì được giàu có. Pháp thí thì được thông minh trí huệ. Vô úy thí thì được khoẻ mạnh sống lâu. Cho nên muốn được giàu có, thông minh trí huệ, khỏe mạnh sống lâu, nhất định phải phát tâm tu tài thí, pháp thí và vô úy thí.

2. Trì Giới: Trì giới tức là thủ pháp, tất cả vạn sự vạn vật thế gian và xuất thế gian, bất luận lớn nhỏ, cũng có phép tắc của nó, nhất định phải thuận theo phép tắc, thì mới có thể làm được cứu cánh viên mãn. Trong Lục Độ, Trì giới là bảo chúng ta lúc bình thường phải giữ phép tắc, không chỉ là thọ trì ngũ giới hoặc thập giới, đây là giới căn bản, mà là bảo chúng ta ở trong gia đình phải có quy củ, cha con, vợ chồng, anh em, đây là luân thường, phải có thứ tự lớn nhỏ, không được đảo lộn. Tại trong Phật cũng vậy, phải theo thứ tự tu học, trước tiên phải phát đại tâm, đại tâm tức là tâm nguyện phải độ tất cả chúng sanh, sau đó đoạn phiền não, đoạn tập khí, kế đến học pháp môn, sau cùng viên thành Phật đạo.

3. Nhẫn Nhục: Nhẫn nhục tức là nhẫn nại, bất luận làm sự việc gì, cũng phải có tâm nhẫn nại, nếu không có tâm nhẫn nại, làm bất cứ việc gì cũng không thể thành tựu, tâm nhẫn nại là một điều kiện vô cùng quan trọng. Đức Thế Tôn tại trong Kinh Kim Cang nói về Bồ Tát tu lục độ, đặc biệt nhấn mạnh Bố thí và Nhẫn nhục, hai điều này là then chốt của sự tu hành thành công hay thất bại.

4. Tinh Tấn: Tinh là chuyên tinh, chuyên nhất, Tấn là tiến bộ, do đây có thể biết, Phật pháp không phải bảo thủ, cũng không phải rớt lại phía sau, Phật pháp là ngày ngày đều cầu tiến bộ… trong vô lượng pháp môn, nhất định phải nhất môn thâm nhập, mới có thể thành tựu, nếu môn nào cũng muốn học, thì tuyệt đối không thể thành tựu, học một môn khi đã thành tựu rồi, thì hiểu hết tất cả những môn khác. Cho nên nói một thông tất cả đều thông, như pháp môn niệm Phật phải chuyên tu… Bất luận là pháp thế gian hoặc xuất thế gian, nếu muốn trong đời này được thành tựu, nhất định phải biết tinh tấn, bất luận là niệm Phật, tham thiền, trì chú, hoặc là nghiên cứu giáo lý, cũng phải biết tuân thủ cái nguyên tắc này. Nếu như tự mình phát tâm tu học, và cũng muốn giúp đỡ cho người khác, tốt nhất trong một đời chỉ học 1 bộ kinh, chuyên giảng 1 bộ kinh, đây mới là chuyên tinh. Phật Bồ Tát dạy cho chúng ta tu học phải nhất môn thâm nhập, thì gọi là tinh tấn, công đức lợi ích của tinh tấn vô lượng vô biên.

5. Thiền Định: Thiền định là bao gồm cả thiền định của thế gian và xuất thế gian, thiền định thế gian là nói Tứ thiền Bát định, nếu như tu thành, thì tương lai sanh lên cõi sắc giới, vô sắc giới. Thiền định xuất thế gian có Đại thừa và Tiểu thừa, chư Phật Như Lai tu thiền định, chúng ta gọi là Thượng Thượng Thiền Định xuất thế gian, cái then chốt tu học toàn cả Phật pháp là ở nơi Định, không phải chỉ có Thiền tông mới tu Thiền định, còn những tông phái khác không tu Thiền định. Như niệm Phật mà nói, mục đích niệm Phật là phải đạt đến nhất tâm bất loạn, nhất tâm bất loạn tức là thiền định, Giáo hạ tu chỉ quán, chỉ quán cũng là Thiền định, trong Mật tông tu tam mật tương ứng, tương ứng tức là Thiền định, do đây có thể biết, mỗi một tông phái, pháp môn, tuy dùng danh từ khác nhau, thật ra cũng là tu Định.

6. Trí Huệ: Tiếng Phạn gọi là Bát nhã, Trí huệ Bát nhã là ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày… đối với tất cả pháp đã hiểu rõ, thông đạt, mà không chấp trước tất cả pháp, tận tâm tận lực đi giúp đỡ người khác. Vì sao phải đi giúp đỡ cho người khác? Vì chư Phật Bồ Tát hiểu được tận hư không biến pháp giới, tất cả chúng sanh đều cùng với mình đồng một thể, đã là đồng một thể, cho nên giúp đỡ tất cả chúng sanh không cần nói điều kiện, gọi là Đồng Thể Đại Bi, Vô Duyên Đại Từ.

Nói tóm lại, làm tất cả việc đều có phương pháp, đều có thứ tự, thì gọi là Trì Giới. Có tâm nhẫn nại, có nghị lực, gọi là Nhẫn Nhục. Chuyên tinh không giải đãi nhất môn thâm nhập, gọi là Tinh Tấn. Trong tâm có thể làm chủ được, không bị ngoại cảnh lay động, gọi là Thiền Định. Đới với tất cả vạn sự vạn vật đều thấu triệt, rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch, gọi là Trí Huệ Bát Nhã.

5. Thập Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ Tát.

Lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, quảng tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ công đức, thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế, thường tùy Phật học, hằng thuận chúng sanh, phổ giai hồi hướng.

Thập Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ Tát là ở trong Kinh Hoa Nghiêm, đây là pháp môn thành Phật, là pháp môn lý nhất tâm bất loạn, là cảnh giới của pháp thân đại sĩ, đặc sắc của hạnh Phổ Hiền, tức là tâm lượng quảng đại như hư không pháp giới vậy. Cho nên thập nguyện của Phổ Hiền, nguyện nguyện đều cứu cánh viên mãn.

Một. Lễ kính Chư Phật, hai chữ Chư Phật này, Phật tại trong Kinh Hoa Nghiêm bảo với chúng ta rằng: Tình và Vô Tình, đồng viên chủng trí. Đây tức là Chư Phật, Tình là chỉ cho tất cả hữu tình chúng sanh, tức là tất cả động vật. Vô Tình là thực vật và khoáng vật. Cho nên Chư Phật là bao gồm sở hữu tất cả, đem cái tâm cung kính của chúng ta đối với Phật, chuyển qua đối với tất cả chúng sanh, đây tức là tâm Phổ Hiền… Tâm cung kính của Phổ Hiền là chân thật, chúng ta cung kính Chư Phật như thế nào, thì cung kính tất cả chúng sanh như thế đó, sự cung kính hoàn toàn như nhau. Tại vì sao? vì tất cả chúng sanh vốn tự thành Phật, nếu đắc tội với một chúng sanh nào thì đắc tội với Phật, tức là đối với Phật bất kính, phải đối với tất cả chúng sanh cung kính, đây là hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền viên mãn nhất, Phương pháp tu hành thù thắng nhất.

Hai. Xưng tán Như Lai, câu thứ nhất Lễ kính Chư Phật, vì sao câu thứ hai Xưng tán Như Lai, không gọi là Xưng tán Chư Phật, cái dụng ý này rất sâu. Lễ kính Chư Phật là từ trên hình tượng mà nói, từ trên tướng mà nói nhất loạt phải cung kính, nhìn thấy người thiện cung kính, nhìn thấy người ác cũng phải cung kính, không phân biệt thiện ác, không phân biệt tà chánh, cung kính chánh pháp, cũng cung kính tà pháp. Xưng tán Như Lai, là từ trên tánh mà nói, cái khác biệt ở chổ này, thiện thì chúng ta xưng tán họ, không thiện thì chúng ta không xưng tán họ, chỉ cung kính mà không xưng tán, chổ khác biệt ở tại đây.

Ba. Quảng tu cúng dường, đặc sắc của hạnh Phổ Hiền, là tâm lượng quảng đại như hư không pháp giới, tại trong Phật pháp đại thừa là tánh đức viên mãn khởi dụng… Cho nên tánh đức của Phổ Hiền Bồ Tát khởi dụng là viên mãn, nguyện nguyện đều là tận hư không biến pháp giới… Ngoài cúng dường, cúng dường một đức Phật tức là cúng dường tất cả chư Phật, không những cúng dường tất cả chư Phật đã thành Phật, cũng cúng dường Tình và Vô Tình chúng sanh chưa thành Phật, cho nên một là tất cả, tất cả là một, đây là phương pháp tu học của Bồ Tát, cũng tức là cảnh giới của Hoa Nghiêm.

Bốn. Sám hối nghiệp chướng, tất cả chúng sanh đều có nghiệp chướng, khi khởi tâm động niệm thì là tạo nghiệp, nhất định sanh ra chướng ngại. Chướng cái gì? Là chướng bản tánh của chúng ta, trong bản tánh chân tâm của chúng ta, có vô lượng trí huệ, có vô lượng đức năng, hiện tại trí huệ, đức năng, thần thông vì sao không thể khởi tác dụng… Vì có nghiệp chướng, tu hành khó thành tựu, nếu muốn nghiệp chướng sám trừ, chỉ cần thật sự phát nguyện sữa lỗi, chí thành niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tịnh độ, thì nghiệp chướng sẽ tiêu trừ. Pháp sư Từ Vân có nói: Tất cả kinh chú khó mà tiêu nghiệp chướng, chỉ có một câu A Di Đà Phật này mới có thể tiêu nghiệp chướng. Đây là sự thật… Muốn sám hối nghiệp chướng, chỉ có niệm Phật mới là chân thật sám hối… Chân thật niệm Phật thì tiêu trừ tất cả tội chướng.

Năm. Tuỳ hỷ công đức, là đối trị cái phiền não nặng nhất của người phàm phu, đó là cái tâm ganh ghét, cái tâm ganh ghét là sẳn có khi sanh ra, có cái tâm ganh ghét này, đối với sự tu học là một chướng ngại rất lớn. Cho nên Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta phải tu tùy hỷ công đức, chẳng những không ganh ghét người ta, mà còn tùy hỷ, khi nhìn thấy người ta làm việc thiện, làm việc tốt, mà có thể sanh lòng vui mừng, tận tâm tận lực đi giúp đỡ cho họ được thành tựu, nhà Nho nói: Thành nhân chi mỹ, thành nhân chi thiện. Nên biết thành tựu cho người khác, tức là thành tựu cho mình, cái phương pháp tùy hỷ công đức này rất thù thắng.

Sáu. Thỉnh chuyển pháp luân, chúng ta là đệ tử Phật, chịu sự giáo dục của Phật, đạt được sự lợi ích chân thật, chúng ta phải dùng phương pháp gì để báo ơn Phật? Nên biết tâm nguyện của Phật, là hy vọng tất cả chúng sanh có thể nghe được chánh pháp, y theo Phật pháp tu học, sớm được viên thành Phật đạo… Cho nên muốn thật sự báo ơn của Phật, tức là Thỉnh chuyển pháp luân, dùng lời hiện nay mà nói, tức là lễ thỉnh Pháp sư đại đức đến giảng kinh thuyết pháp, hoằng pháp lợi sanh, đây là phước đức rất lớn, người đứng ra lễ thỉnh Pháp sư đến giảng kinh thuyết pháp, cái phước báo này rất lớn.

Bảy. Thỉnh Phật trụ thế, Thỉnh chuyển pháp luân mục đích chủ yếu là tuyên truyền Phật giáo, đem giáo pháp của Phật giới thiệu rộng rãi cho mọi người, trong đời này của chúng ta muốn tu học có được thật sự thành tựu. Thỉnh chuyển pháp luân vẫn chưa đủ… Cho nên nhất định phải Thỉnh Phật trụ thế, tức là phải lễ thỉnh vị Thầy có đức hạnh đến thường trú lâu dài, để chỉ dẫn cho chúng ta, chúng ta có thời gian lâu dài tiếp nhận huân tu, thì mới có thể thành tựu… Mọi người nếu muốn thành tựu, nhất định phải Thỉnh Phật trụ thế, nay Phật đã diệt độ, nhưng còn đệ tử của Phật, bất luận là xuất gia hoặc là tại gia cư sĩ, chỉ cần họ có tu, có học, có đức hạnh, có thể làm cái gương tốt cho chúng ta, có thể hướng dẫn cho chúng ta tu học, thì phải lễ thỉnh họ đến địa phương này thường trú, hoằng pháp lợi sanh, khiến cho địa phương này được họ chỉ dạy trường kỳ tu tập, như vậy mới có thể thật sự thành tựu. Cho nên muốn được thành tựu, thì nhất định phải thật sự phát tâm Thỉnh Phật trụ thế.

Tám. Thường tùy Phật học, Phật còn tại thế thì nương theo Phật tu học, Phật là tấm gương tốt nhất của chúng ta, là mô phạm của chúng ta, nay Phật không còn tại thế, nhưng kinh điển của Phật vẫn còn ở thế gian, chúng ta nương theo kinh điển mà tu hành, cũng là Thường tùy Phật học, đây là tiêu chuẩn tu học Phật pháp cao nhất.

Chín. Hằng thuận chúng sanh, đây là phải đối với pháp giới tất cả hữu tình chúng sanh, nhất định phải Thuận, Thuận là vô cùng khó làm, không dễ gì làm nổi, cho nên người Trung quốc nói Hiếu, tiếp theo là Thuận, tức là Hiếu Thuận, nếu không Thuận thì không có Hiếu, học Phật là hết lòng Đại Hiếu. Hằng thuận chúng sanh phải quán sát cơ duyên, khuyên nhủ chỉ dạy cho chúng sanh đoạn ác tu thiện, giúp cho họ phá mê khai ngộ, thì nhất định phải biết thời tiết nhân duyên, đến lúc nào thì ta phải làm, mới hợp với thời tiết nhân duyên, thì thu hoạch được hiệu quả viên mãn, cho nên phải có trí huệ, thiện xão phương tiện, mới có thể Hằng thuận chúng sanh.

Mười. Phổ giai hồi hướng, tức là đem tất cả công đức học tập tu hành của chúng ta, toàn bộ hồi hướng cho pháp giới tất cả chúng sanh, hồi hướng cho họ chứng bồ đề, hồi hướng cho họ thành Phật đạo, mở rộng tâm lượng của mình, cùng với tận hư không biến pháp giới thành một thể, đạt đến cảnh giới này mới là chân chánh cứu cánh đại viên mãn.

Nói tóm lại, chúng ta y cứ kinh điển tu học Tịnh Tông, tức là y theo Tịnh Độ Ngũ Kinh Nhất Luận, trong kinh luận chỉ dạy phương pháp tu hành, có năm điều khoa mục: Tam Phước, Lục Hòa Kính, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ Tát. Phương pháp vô cùng đơn giản, vô cùng dễ hiểu, một tí cũng không phức tạp. Chúng ta một đời tuân theo cái nguyên tắc này mà tu học, thì nhất định được thành tựu, như cổ đức có nói: vạn tu vạn người đi. Chúng ta đã có y cứ của kinh luận, đã có lý luận phương pháp tu hành, nhưng trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta dùng tâm thái gì, dùng thái độ gì, để đối người, đối sự, đối vật? Chúng ta cứ tuân theo năm điều khoa mục này, thì tuyệt đối không bao giờ sai, sau đó nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ, tất cả mọi người đều được thành tựu viên mãn.

Lược trích trong Nhận Thức Phật Giáo do Pháp Sư Tịnh Không giảng tại Miami Mỹ Quốc năm 1991