Hai câu “Sanh thì nhất định sanh, diệt thì thật chẳng diệt”, câu trước nói về sự, câu sau nói về lý. Vì Sự là “sự tức lý”, nên sanh tức chẳng sanh, chẳng phải chỉ cho sanh là sanh. Lý là “lý tức sự”, nên chẳng diệt mà diệt, chẳng phải chỉ cho chẳng diệt là chẳng diệt. Nếu hợp làm một câu thì sự lý viên dung, đó gọi là “Hợp chi tắc song mỹ”. Nếu phân thành hai câu thì sự lý sai biệt, đó gọi là “Ly chi tắc lưỡng thương”. Nếu chẳng hợp làm một, thì nên diễn thành bốn câu: Sanh thì nhất định sanh, sanh mà vô sanh; diệt thì thật chẳng diệt, chẳng diệt mà diệt. Tuy phân thành bốn câu mà nghĩa không tăng, hợp làm một câu mà nghĩa cũng chẳng giảm, vậy thì một nhiều, sự lý viên dung.
Thế nên chấp lý “diệt thì thật chẳng diệt”, chẳng bằng chấp sự “sanh thì nhất định sanh” làm sở đắc. Vì sao? Vì chấp sự mê lý vẫn được vào các phẩm vãng sanh; còn chấp lý bỏ sự thì bị lạc vào không. Bởi sự có công năng hòa hợp lý và lý không có khả năng độc lập, nên cho sanh là sanh thì rơi vào thường kiến, cho chẳng diệt là chẳng diệt thì rơi vào đoạn kiến. Đoạn thường tuy đồng là tà kiến, nhưng lỗi của đoạn kiến sâu nặng hơn. Cho nên nói chẳng bằng chấp sự làm sở đắc. Nhưng, trọn vẹn hơn cả là dung hội hai câu này.
Một niệm hiện tiền của con người là duyên sanh mà vô tánh, vô tánh mà duyên sanh. Như chẳng sanh vào cõi Phật thì liền sanh vào chín cõi. Nếu căn cứ theo duyên sanh vô tánh thì chúng sanh và Phật bình đẳng nhất không. Nếu căn cứ theo vô tánh duyên sanh thì mười cõi hơn kém cách biệt. Vua A-kỳ-đạt lúc lâm chung bị người đuổi ruồi vô ý chạm phất trần vào mặt, liền khởi một niệm sân hận, sau khi chết bị đọa làm rắn độc. Một người phụ nữ bồng con qua sông, sẩy tay làm rơi đứa bé xuống nước, liền nhảy theo lặn vớt, không may cả hai đều chết. Bởi lòng từ nên người phụ nữ này được sanh lên cõi trời. Chỉ một niệm từ bi hoặc sân hận mà trời, vật khác xa. Vậy một niệm duyên sanh lúc lâm chung há chẳng thận trọng ư? Nếu lấy tâm này duyên niệm đức Di-đà, cầu sanh Tịnh độ, há chẳng được thấy Phật mà vãng sanh ư? Nhưng một niệm này không thể bỗng nhiên có được, mà cần phải giữ tâm chí thành, thường ngày luôn niệm. Vì thế một câu Di-đà, chúng ta phải niệm đến ngàn, đến vạn; niệm một ngày, trọn năm, cũng chỉ vì để thuần thục mà thôi. Nếu được một niệm thuần thục thì lúc lâm chung chỉ có một niệm này, không xen niệm nào khác. Đại sư Trí Giả nói rằng : “Lúc lâm chung tâm tại định, tức là tâm thọ sanh Tịnh độ”. Vậy chỉ một niệm này, không còn niệm nào khác, chẳng phải là tâm tại định ư? Nếu thật niệm như thế, chẳng thấy đức Di-đà thì còn thấy ai đây? Chẳng sanh Tịnh độ thì lại sanh vào chốn nào? Chỉ sợ người chẳng tin mà thôi!
Quán Kinh đã nêu hai câu : “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật” thì các nghĩa : Tâm chẳng làm Phật, tâm chẳng là Phật; tâm tạo chín cõi, tâm là chín cõi; tâm chẳng tạo chín cõi, tâm chẳng là chín cõi đã hiển bày. Ôi! Nếu có người thấu hiểu lý này, mà còn chẳng niệm Phật, thì ta không biết làm sao, cũng đành vậy thôi!
Hai câu trên không chỉ là cương tông pháp yếu của riêng Quán Kinh, mà cũng chính là cương tông của Đại pháp trong một đời giáo hóa của Thích-ca Như Lai; không chỉ là cương tông pháp tạng của riêng đức Thích-ca, mà cũng chính là cương tông pháp tạng của tất cả chư Phật trong mười phương ba thời. Hễ thấu được cương tông này thì tông nào chẳng thấu; pháp này đã rõ, thì pháp nào chẳng rõ. Đó gọi là học tuy chẳng nhiều mà bằng các bậc thượng hiền vậy!
Lại chân pháp thì vô tánh, nhiễm tịnh chỉ tùy duyên. Nhất chân đã hiện, toàn thể thành mười cõi, thì toàn thể mười cõi tức nhất chân. Vì thế người khéo luận bàn về tâm tánh ắt chẳng lìa nhân quả; người tin sâu nhân quả nhất định thấu rõ tâm tánh. Đó là lẽ tất nhiên.
Một niệm tâm năng niệm hiện tiền của con người toàn chân thành vọng, toàn vọng tức chân; suốt ngày tùy duyên, suốt ngày bất biến. Một câu Phật được niệm là từ toàn đức lập tên, ngoài đức chẳng có tên; dùng tên để hiển đức, ngoài tên chẳng có đức. Vậy ngoài tâm năng niệm không có Phật sở niệm; ngoài Phật sở niệm không có tâm năng niệm. Năng sở chẳng hai, chúng sanh và Phật không khác; vốn lìa bốn câu, bặt trăm lỗi, khắp tất cả, chứa cùng tận, dứt đối đãi, tuyệt viên dung; chẳng thể nghĩ bàn. Hành giả Liên Tông nên từ nơi đây mà tin nhập.
Sát sanh, tội lỗi thật sâu nặng. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mà có thể giết được ư? Tạo nghiệp sâu nặng, buông lung tâm sát, kết oán thù sâu, cảm quả báo khổ đều do sát sanh dẫn đến. Vì thế tâm sát dần dần mạnh, nghiệp sát dần dần sâu, dẫn đến giết người cho đến hàng thân thuộc; tích tụ dần lớn trở thành đại kiếp đao binh, thật đáng buồn thay! Bởi chẳng biết ngăn chặn tâm sát. Nếu biết, thì muông sinh còn không nhẫn tâm giết, huống gì là người cho đến hàng thân thuộc? Muông sinh còn không nhẫn tâm giết, thì kiếp đao binh từ đâu mà đến? Kẻ giết cha anh của người, thì người sẽ giết lại cha anh của kẻ ấy. Biết không nên giết cha anh của người, cũng là dần dần ngăn chặn tâm sát. Chẳng biết mà giết hại cha anh của người, là do khởi đầu chẳng ngăn chặn tâm sát vậy.
Sở dĩ con người chẳng ngăn chặn tâm sát, bởi không thông đạt lý nhân quả. Nhân quả tức cảm ứng. Ta dùng tâm ác để cảm người, người cũng dùng tâm ác để ứng đến ta. Ta dùng tâm thiện để cảm người, người cũng dùng tâm thiện để ứng đến ta. Người chỉ biết cảm ứng ở hiện đời, mà chẳng biết cảm ứng thông cả ba thời. Chỉ biết cảm ứng ở cõi người, chẳng biết cảm ứng thông cả sáu đường. Nếu biết cảm ứng thông cả sáu đường, ba thời, thì chúng sanh trong sáu đường đều là cha anh nhiều đời, vậy chẳng đáng ngăn chặn tâm sát ư? Dẫu biết cảm ứng thông cả sáu đường, thì cũng chẳng biết được cảm ứng thông cả thế gian và xuất thế gian. Nếu cảm với tâm vô ngã, thì quả Thanh văn Duyên giác liền ứng; nếu cảm với tâm Bồ-đề lục độ vạn hạnh thì quả pháp giới Bồ-tát sẽ ứng. Nếu cảm với tâm Bình đẳng đại từ, đồng thể đại bi thì quả pháp giới Phật sẽ ứng. Ôi! Đạo lý cảm và ứng thật có thể nói hết được sao?
Nên biết một câu “A-di-đà Phật” lấy “Duy tâm” làm Tông. Nhưng nghĩa “Duy tâm” cần phải dùng ba lượng để ấn định. Ba lượng là Hiện lượng, Tỷ lượng và Thánh ngôn lượng. Hiện lượng tức thân chứng đạo lý ấy; như Đại sư La-thập lúc bảy tuổi theo mẹ đến chùa, thấy bát của Phật liền sanh tâm vui mừng lấy đội trên đầu. Bỗng chốc nghĩ rằng : Ta tuổi nhỏ, bát Phật lại nặng, làm sao có thể đội được? Niệm ấy vừa khởi, bỗng nhiên la lớn một tiếng, vội đặt bát xuống, ngộ được pháp duy tâm. Pháp sư Duy Hiểu người Cao Ly đến Trung Quốc học đạo, ban đêm tạm nghỉ nơi nghĩa địa, đến khuya quá khát nước, dưới ánh trăng sáng, Sư thấy một dòng nước trong mát hiện trước mặt, liền đưa bàn tay vốc lấy uống, cảm thấy rất thơm ngọt. Đến sáng hôm sau mới biết dòng nước này từ trong ngôi mộ tuôn ra, liền nôn mửa hết, bỗng nhiên ngộ được vạn pháp duy tâm. Sư liền trở về Cao Ly ghi chép lại. Đây đều là hiện lượng thân chứng. Tỷ lượng tức là nương vào các tướng trạng để quán xét các nghĩa rồi so sánh mà biết. Trong các dụ chỉ có dụ về cảnh mộng là sát nhất. Như núi sông, người vật thấy trong mộng có ngàn sai muôn biệt, đều không lìa tâm mộng của ta. Lìa tâm mộng thì không một pháp nào có được. Ngay đây có thể tỷ dụ mà biết tất cả vạn pháp hiện tiền chỉ do tâm hiển hiện. Thánh giáo lượng tức ngàn kinh vạn luận đều nói “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”.
Trên đã y cứ vào ba lượng để xác định duy tâm. Bây giờ lại nương theo hai môn sự lý để biện minh về Lý cụ sự tạo. Nghĩa là do có Lý cụ (bản tánh như thật xưa nay vốn đầy đủ) mới có Sự tạo (hiện tượng giới hiển bày do lý cụ tùy duyên). Nếu lý chẳng đầy đủ thì sự từ đâu mà tạo lập. Vì thế lý cụ chỉ là cụ sự tạo; lìa sự tạo thì không có lý cụ. Chỉ một niệm tâm này vốn đầy đủ vạn pháp trong mười cõi. Nên khi một niệm này tùy duyên thì tạo ra vạn pháp. Như trong vàng vốn có đủ tánh chất để thành bình, mâm, vòng, xuyến … đó là lý cụ; các duyên thợ, lò, kềm, búa … tạo thành các vật trên là sự tạo. Như trong bột gạo vốn đã đầy đủ tánh chất để tạo thành các món ăn, đó là lý cụ; các duyên thợ, nước, lửa … tạo thành các món ăn ấy là sự tạo.
Đã luận bàn về sự lý rồi, bây giờ lại căn cứ vào danh thể đồng dị để phân định chân vọng. Trong Phật pháp có những pháp danh đồng mà thể lại dị, có những pháp danh dị mà thể lại đồng. Về danh đồng thể dị, như một danh là tâm mà có nhục đoàn tâm, duyên lự tâm, tập khởi tâm, kiên thật tâm. Nhục đoàn tâm (quả tim thịt) đồng bốn đại, không có sự nhận biết. Duyên lự tâm (tâm phan duyên) chung cả tám thức; vì tám thức đều phan duyên suy lường cảnh tự phần, nên tâm này chỉ thuộc vọng. Tập khởi tâm chỉ nương thức thứ tám, vì gom chứa chủng tử và khởi hiện hành các pháp, nên tâm này thuộc chân vọng hòa hợp. Kiên thật tâm, tức là tánh chân thật bền chắc, là linh tri lìa niệm, là tâm thể thuần chân. Ở đây nói Duy tâm tức chỉ tâm thuần chân này.
Về danh dị thể đồng, các từ : Chân như, Phật tánh, Thật tướng, Pháp giới … mà trong kinh luận đã nói đều là chỉ cho tâm thuần chân này.
Đã phân biệt chân vọng, nay lại căn cứ theo Bản hữu và hiện tiền để chiết trung chỉ bày. Các kinh đều nói : “Vô thỉ bản hữu chân tâm” (Chân tâm vốn có từ vô thỉ). Phàm đã nói Bản hữu, thì nay há lại không ư? Bởi nay hiện có, nên nói là Bản hữu. Nếu không có vô thỉ thì không có hiện tiền; như lìa hiện tiền há lại có vô thỉ sao? Vì thế chẳng cần phải tôn cao Bản hữu, tìm xa vô thỉ; chỉ một niệm tâm tự tánh hiện tiền tức chân tâm bản hữu vậy. Một niệm hiện tiền toàn chân thành vọng, toàn vọng tức chân, suốt ngày tùy duyên, suốt ngày chẳng biến, lìa một niệm hiện tiền này há lại có chân tâm tự tánh ư? Cổ đức nói : “Mé kia Oai Âm chẳng lìa cánh cửa đời này, hiện hành vô minh của chúng sanh, tức trí thể bất động của chư Phật”; nghĩa ấy cũng tựa như thế! Từ bốn nghĩa trên mà hiển thị nghĩa Duy tâm, cho nên chỉ lấy Duy tâm làm Tông.
Câu A-di-đà lại lấy Duy Phật làm Tông. Vì tất cả pháp đã do tâm hiển hiện, thì toàn thể là Duy tâm. Tâm không có đây kia, không có phần hạn. Vạn pháp trong mười cõi, hoặc là y báo, hoặc chánh báo, hoặc giả danh, hoặc thật pháp, chỉ tùy thuận nêu một pháp thì toàn thể đều tức tâm, là đầy đủ đại dụng của tâm. Tâm, ngang thì khắp mười phương, dọc thì xuyên suốt ba thời. Vì nghĩa Duy tâm thành, nên nghĩa duy sắc, duy thanh, duy hương, duy vị, duy xúc, duy pháp cho đến duy hạt bụi, duy hạt cải, tất cả nghĩa “Duy” đều thành tựu. Cho nên nói : “Tất cả pháp không có tướng nhất định, hễ gặp duyên tức đặt làm Tông”. Duy hạt bụi, duy hạt cải mà còn có thể làm Tông, huống gì quả địa Di-đà đủ tám vạn tướng hảo trang nghiêm, lại không thể lấy làm Tông ư? Vì thế lấy Duy Phật làm Tông.
Một câu A-di-đà cũng lấy “Tuyệt đãi viên dung” (bặt đối đãi, viên dung vô ngại) làm Tông. Vạn pháp trong mười cõi, tùy thuận nêu một pháp, thì toàn thể đều tức tâm, đầy đủ đại dụng của tâm; ngang thì khắp mười phương, dọc xuyên suốt ba thời; lìa bốn câu, bặt trăm lỗi; độc thể toàn chân, không có gì bao phủ bên ngoài (Đại); thanh tịnh đầy khắp, không có gì chứa đựng bên trong (Tiểu). Một pháp đã thế, vạn pháp cũng đều như thế, mỗi mỗi đều y cứ vào đương thể của các pháp, bặt đối đãi, không có pháp nào không hàm chứa. Đó là nghĩa Tuyệt đãi.
Lại vạn pháp trong mười cõi, mỗi mỗi đều biến khắp, hàm chứa trong nhau, đan dệt hiển bày, bao trùm thấu triệt, không hề chướng ngại, cũng chẳng hủy hoại, lại chẳng xen tạp. Như gương sáng trên đài, ảnh tượng hiện bày lớp lớp; như ánh sáng của ngàn muôn hạt châu trên màng lưới của trời Đế Thích, xoay vần giao thoa, nhiếp nhập. Đây là y cứ vào các pháp luân chuyển đan xen, đối đãi nhau mà thành nghĩa viên dung. Nay hợp tuyệt đãi và viên dung làm một Tông. Đang khi tuyệt đãi tức viên dung, đúng lúc viên dung lại tuyệt đãi. Chẳng phải lìa tuyệt đãi mà có được viên dung, tuyệt đãi là tuyệt đãi cái viên dung kia. Chẳng phải là lìa viên dung mà có tuyệt đãi, viên dung là viên dung chỗ tuyệt đãi ấy. Tuyệt đãi và viên dung, mỗi mỗi đều chẳng thể nghĩ bàn. Nay cùng hợp làm một tông thì trở thành chẳng nghĩ bàn trong chẳng thể nghĩ bàn.
Lại lấy nghĩa siêu việt tình thức, xa lìa các kiến làm Tông. Bởi chỉ y cứ theo các pháp Tuyệt đối đãi, lìa bốn câu, bặt trăm lỗi thì đã vượt trên vọng tình chấp trước của phàm phu và sở kiến sai biệt của Hiền thánh ba thừa. Nếu y cứ vào các pháp viên dung, bao trùm bốn câu, dung hội trăm lỗi thì lại càng chẳng phải là chỗ đạt đến của tình phàm kiến thánh. Cho nên lập chung nghĩa siêu việt tình thức, xa lìa các kiến làm Tông.
Đầu tiên lấy Duy tâm làm Tông, kế đến lấy Duy Phật, rồi Tuyệt đãi viên dung và sau cùng là vượt tình thức, lìa sở kiến. Tóm lại bốn lớp tông chỉ này mới là tông chỉ của một câu Di-đà; như thế há dễ luận bàn ư?
Pháp môn niệm Phật như bầu trời trùm khắp, tựa mặt đất chở cùng. Không một người, một pháp nào lọt ra ngoài, không ở trong đó. Như toàn Kinh Hoa Nghiêm có Ngũ chu, Tứ phần(1) khác nhau, nhưng không ngoài hai chữ nhân quả. Tâm nhân của 41 giai vị Bồ-tát, không một tâm nào không hướng đến quả giác. Các pháp hành tu tập của 41 giai vị, há chẳng phải đều từ pháp hành niệm Phật ư? Cuối bộ kinh thì lấy nghĩa Bồ-tát Phổ Hiền dùng 10 nguyện lớn dẫn dắt chúng sanh trở về Cực Lạc làm điểm then chốt quy kết toàn kinh. Thật chẳng đúng như thế sao? Vả lại nói Hoa Nghiêm tức là dùng “nhân hoa” vạn hạnh để trang nghiêm “quả Phật” nhất thừa. Vạn hạnh này há chẳng phải là hạnh niệm Phật ư? Kinh Hoa Nghiêm có vô lượng môn như Bà-tu-mật nữ, Vô Yểm Túc vương, Bà-la-môn Thắng Thục …, nhưng đều hiển bày cảnh giới Tỳ-lô. Vậy vô lượng môn này chẳng phải là môn niệm Phật ư? Còn Kinh Pháp Hoa, từ đầu đến cuối đều khai, thị, ngộ, nhập Tri kiến Phật. Đó chẳng phải đã nói trước sau chỉ có một pháp môn niệm Phật ư? Như Kinh Lăng Nghiêm, đầu tiên hiển thị tánh Như Lai tạng, nói nhân chân chánh thành Phật; kế đó chọn lấy pháp môn Nhĩ căn viên thông, là nói đến diệu hạnh thành Phật; sau cùng nêu 60 Thánh vị viên mãn Bồ-đề, trở về cảnh giới vô sở đắc, chứng cực quả Phật địa. Nếu trái với điều này thì đắm chìm trong bảy đường(1); còn thuận với đạo ấy thì biết rõ năm ấm ma nhiễu loạn. Cuối cùng kinh nói : “Nếu có người, thân mang 4 tội trọng, 10 Ba-la-di, chớp mắt trải qua địa ngục A-tỳ ở chốn này phương nọ, cho đến các Vô gián ở mười phương, nếu có thể trong một niệm đem pháp môn này chỉ bày cho người chưa học ở thời mạt kiếp, thì tội chướng của người ấy tùy niệm kia mà tiêu trừ. Biến nhân khổ phải thọ ở địa ngục thành cõi An lạc”.
Vậy suốt đầu, suốt cuối chỉ có một pháp môn niệm Phật. Toàn bộ giáo pháp của một đời Đức Phật, 3 tạng 12 thể loại kinh, cho đến các pháp môn Bán mãn, Quyền thật, Thiên viên, Đốn tiệm, đều hiển thị “Duy tâm tự tánh”, thành tựu trọn vẹn Diệu giác vô thượng mà thôi! Đó há chẳng phải tổng gom vào một Đại pháp môn niệm Phật sao? Đến như Thiền tông, khi Đạt-ma Đại sư từ Tây Trúc đến cũng chỉ nói : “Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh liền xong”. Vậy đã nói thành Phật, thì chẳng phải Tông môn cũng là niệm Phật môn ư? Cho nên 1700 tắc công án của 2 phái, 5 tông(1), chẳng qua cũng là chỉ bày bản nguyên tự tánh, hiển thị pháp thân thanh tịnh vốn có của hành giả mà thôi.
Pháp thân, ngang thì khắp mười phương, dọc thì suốt ba thời, không đâu chẳng bao trùm. Người tu Thiền cần phải thời thời hiện tiền, niệm niệm tương ưng. Như vậy có chỗ nào mà nói là không phải pháp môn niệm Phật? Đến như nói : “Một chữ PHẬT ta chẳng muốn nghe”, “đánh một gậy chết tốt ném cho chó ăn…” cũng đều là phương tiện hướng thượng thù thắng dùng để hiển bày Pháp thân, là niệm Phật chân thật vậy.
Có một số người không biết gì thường cho rằng người trong Tông môn không nên niệm Phật, người này không chỉ không biết niệm Phật, mà còn chẳng thật biết Tông môn. Không chỉ hai môn Tông và Giáo như thế, mà hàng sĩ nông công thương, Bách gia chư tử trong khắp thiên hạ, dẫu không muốn niệm Phật, không biết Phật, cũng không thể thoát ra ngoài pháp môn niệm Phật được. Bởi đến đi, động tĩnh đều tuân theo đạo này, trăm họ hằng ngày thường dùng mà chẳng biết. Đó gọi là :
Nhất khí bất ngôn hàm hữu tượng,
Vạn linh hà xứ tạ vô tư.
Và :
Hiệp lộ đào hoa phong vũ hậu,
Mã đề vô địa tị tàn hồng.
Tạm dịch :
-Nhất khí(1) không lời trùm hữu tượng(2)
Hàm linh đồng hưởng đức vô tư.
-Đường hẹp, hoa đào sau mưa gió
Vó câu đâu tránh được cánh hồng.
Một là chân thật vì sanh tử mà phát tâm Bồ-đề, đó là con đường chung để học đạo; hai là dùng Tín trì niệm danh hiệu Phật làm chánh tông của Tịnh độ; ba là lấy nhiếp tâm chuyên chú trì niệm làm phương tiện hạ thủ công phu; bốn là lấy việc chiết phục phiền não hiện hành làm nhiệm vụ cốt yếu để tu tâm; năm là giữ gìn bền chắc bốn giới trọng để làm cội gốc bước vào đạo; sáu là tu tập các hạnh khổ để làm duyên trợ tu; bảy là lấy nhất tâm chẳng loạn làm nơi quy hướng của Tịnh độ; tám là dùng các điềm linh dị cát tường để chứng nghiệm việc vãng sanh. Tám việc này, mỗi mỗi nên thống thiết giảng nói, người tu Tịnh nghiệp chẳng thể chẳng hay.
Nơi chúng sanh phải luân hồi chính là sáu đường. Trong đó, chỉ chúng sanh ở cõi người mới có thể điều phục tâm ý, hướng đến Bồ-đề. Còn các đường khác, luôn bị các nỗi kinh sợ, sân hận, khổ vui bức bách, không còn thời gian nào để hướng tâm về Đạo. Do đó kẻ mất thân người thì nhiều như đất trong đại địa; được thân người thì hiếm như đất dính trong móng tay. Vậy thân người há dễ được lắm sao? Chúng sanh cõi người từ khi mới sanh ra, lớn lên cho đến già chết, những điều mắt thấy tai nghe đều là những trần lao thế gian, là nghiệp duyên sanh tử, Phật pháp đâu dễ được nghe? Được thân người đã khó, được thân nam đầy đủ sáu căn càng khó hơn. Được nghe Phật pháp đã khó, được nghe danh hiệu Di-đà, pháp môn Tịnh độ càng khó hơn. Đâu dễ may mắn được thân người khó được, nghe Phật pháp khó được nghe, nay đã được nghe rồi mà còn chẳng chịu tin, chẳng chịu hành trì, thật đáng tiếc thay!
Hãy gát qua việc chẳng tin, nay chỉ nói đến tin mà thôi. Như tin mà chẳng phát nguyện thì cũng như chẳng tin. Đã phát nguyện mà chẳng hành trì, thì cũng như chẳng nguyện. Hành trì mà chẳng dõng mãnh, thì cũng như chẳng hành. Hành trì sở dĩ không dõng mãnh là do nguyện chẳng thiết tha; nguyện sở dĩ chẳng thiết tha là do lòng tin chẳng chân thật. Tóm lại, sanh lòng tin chân thật quả rất khó. Nếu Tín thật đã chân, thì nguyện tự sẽ tha thiết; nguyện thật đã tha thiết, thì hành trì tự nhiên dõng mãnh. Tín đã chơn, nguyện đã thiết, thêm sức hành trì dõng mãnh, thì nhất định vãng sanh Tịnh độ, nhất định gặp đức Phật Di-đà, chứng ba Bất thoái, được giai vị Nhất sanh bổ xứ. Đã sanh về Tịnh độ, thì vĩnh viễn đoạn dứt cội gốc sanh tử từ vô lượng kiếp đến nay. Đã được giai vị Nhất sanh bổ xứ thì quả Diệu giác vô thượng chí tôn nhất định thành tựu. Nhưng chỗ quyết định của một niệm tín tâm chân thật này, đâu phải tầm thường; nếu duyên chướng đạo chẳng mỏng, nghiệp sanh tử chẳng nhẹ, gốc thiện chẳng trồng từ lâu, duyên lành đời trước sâu dày, thì đâu được như thế? Nhưng chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay chẳng thể tự biết được nghiệp lực nặng hay nhẹ, căn lành sâu hay cạn, mà nghiệp lực do tâm chuyển biến, căn lành thì do người đắp vun.
Vì thế người hoằng pháp cần phải dùng phương tiện khéo léo, khẩn thiết chỉ bày; còn người học đạo phải chuyên tâm gắng sức, mạnh mẽ tiến tu. Chỉ cần một lời thể nhập vào tai, một niệm phát động tâm trí, tức có thể chuyển biến nghiệp lực, vun đắp căn lành. Còn dù qua tai biết bao nhiêu ngôn từ khai thị khẩn thiết mà chưa từng thể nhập được một lời, dù gặp biết bao cảnh thuận nghịch mà chẳng có một niệm phấn phát, thì đó là chân nghiệp lực sâu nặng, chân thiện căn nhẹ mỏng. Như vậy thì chẳng biết phải làm sao?
Một niệm tâm tánh hiện tiền vốn đồng thể với Phật, mà Phật đã giác ngộ từ lâu, còn ta thì vẫn si mê. Phật tuy đã ngộ nhưng chẳng tăng; ta tuy còn mê nhưng chẳng giảm. Phật dù chẳng tăng, nhưng vì thuận tánh nên hưởng thọ đại pháp lạc. Ta dù không giảm, nhưng vì trái tánh nên gặp khổ não lớn. Trong tâm tánh đồng thể, tuy Phật hưởng thọ niềm vui pháp, nhưng bởi đồng thể đại bi, vô duyên đại từ, nên niệm niệm đều nhớ đến ta, nhiếp hóa ta. Lại trong tâm tánh đồng thể, tuy ta gặp các khổ, nhưng chẳng biết cầu khẩn Phật, nhớ nghĩ đến Phật, chỉ tùy cảnh sanh tâm, theo tình tạo nghiệp, từ vô số kiếp đến nay đã tạo tất cả tội ngũ nghịch, thập ác; lãnh thọ các khổ não lớn nơi tám nạn, ba đường. Hễ nói đến thì thật hổ thẹn; hễ nghĩ đến thì thật hãi hùng. Ví như đời này chẳng niệm Phật, thì vẫn như cũ một bề tạo các nghiệp, lãnh thọ các khổ. Như thế chẳng đáng hổ thẹn, chẳng đáng kinh sợ ư?
Nay biết Phật có tâm đại từ đại bi, niệm niệm luôn luôn nhớ nghĩ, nhiếp hóa ta, thì ta nay cảm ân đức của Phật nên phải niệm Phật. Trong kiếp số dài lâu một bề luống thọ các khổ, nay muốn cầu thoát khổ nên phải niệm Phật. Nghiệp đã tạo, nay chẳng biết làm sao, mà lại tạo thêm nghiệp ở vị lai ư? Nghĩ như thế liền sanh lòng hổ thẹn, nên phải niệm Phật. Tâm tánh đồng thể đã vốn có, nay há lại không ư? Chỉ thiếu sự chứng ngộ; vì cầu ngộ, nên phải niệm Phật. Vì tâm cầu ngộ mà niệm Phật, thì niệm Phật nhất định khẩn thiết; vì tâm hổ thẹn mà niệm Phật thì niệm Phật nhất định khẩn thiết; vì tâm sợ khổ mà niệm Phật thì niệm Phật nhất định khẩn thiết; vì tâm cảm ân mà niệm Phật thì niệm Phật nhất định khẩn thiết. Ta không niệm Phật, Phật còn nhớ nghĩ đến ta; nay ta khẩn thiết niệm Phật, nhất định Phật càng nhớ nghĩ đến ta hơn. Bồ-tát Đại Thế Chí nói rằng : “Chư Phật trong mười phương thương xót nhớ nghĩ đến chúng sanh như mẹ nhớ con; nếu con bỏ mẹ, tuy mẹ có nhớ cũng không biết làm sao? Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì mẹ con đời đời chẳng xa cách nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện đời và mai sau nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa; chẳng nhờ phương tiện mà tự tâm khai ngộ”. Đó là lời chỉ dạy thống thiết từ cảnh giới thân chứng của Đại sĩ. Ta nay niệm Phật thì nhất định thấy được Phật. Vừa thấy Phật liền thoát khỏi các khổ, tức có ngày khai ngộ. Như thật được khai ngộ thì liền một phen tẩy sạch tâm hổ thẹn từ quá khứ. Như thế mà còn chẳng niệm Phật sao?
Tất cả chúng sanh xưa nay là Phật, chân tâm vốn có, vọng tánh nguyên không, tất cả pháp thiện đã tự đầy đủ. Chỉ vì nhiều kiếp theo duyên mê nhiễm, nên chưa đoạn được vọng nguyên không, chưa chứng được chân vốn có, chưa tu các thiện vốn đủ, chưa thành được Phật “vốn là” (bản thị). Nay muốn đoạn được vọng nguyên không, chứng chân vốn có, tu thiện vốn đủ, thành Phật “vốn là”, theo duyên ngộ tịnh, mà tìm cầu con đường thẳng tắt nhất, mau chóng nhất, chí viên, cực đốn, thì không gì bằng hạnh trì niệm danh hiệu Phật. Bởi tâm năng niệm vốn toàn chân mà thành vọng, nhưng toàn vọng lại tức chân. Phật sở niệm cũng vốn từ toàn đức lập danh, nên toàn danh tức đức. Ngoài tâm năng niệm không có Phật sở niệm, ngoài Phật sở niệm không có tâm năng niệm. Năng sở đều lìa, tâm Phật nhất như, trong mỗi mỗi niệm đều chế phục, đoạn trừ ngũ trụ phiền não; xoay chuyển, diệt tận ba chướng tạp nhiễm; phá 5 ấm, vượt 5 trược, tịnh 4 độ, niệm 3 thân, tu vạn hạnh, chứng bản chân, để thành tựu Diệu giác vô thượng. Một niệm đã như thế, niệm niệm đều như thế, chỉ cần niệm niệm tương tục thì phục, đoạn, tu, chứng có công hiệu chẳng thể nghĩ bàn. Bởi dùng tâm toàn Phật niệm Phật toàn tâm, thì tất cả oai thần của Phật quả vốn có nơi tự tâm sẽ thầm gia bị. Một câu Phật hiệu chẳng lẫn tạp duyên, mười niệm công phu thành, chóng vượt qua nhiều kiếp. Như thế mà chẳng tin thì đồng gỗ đá. Bỏ đây mà tu pháp khác không phải cuồng ắt cũng si. Thế thì còn nói gì, còn biết nói gì đây?
Hỏi : Các phương đều có Tịnh độ, sao lại chỉ khen ngợi phương Tây, cầu nguyện sanh về?
Đáp : Vì đây chẳng phải là ý của hàng thế trí, mà chính là lời chỉ dạy rõ ràng, chân thật phát ra từ kim khẩu Như Lai. Vì các kinh Đại thừa hiển mật đồng quy hướng. Vì khiến cho người mới phát tâm chuyên chú một cảnh, hầu dễ thành tựu Tam-muội. Vì lấy bốn nguyện làm duyên, thì duyên mạnh; mười niệm làm nhân, thì nhân thù thắng. Vì Phật và chúng sanh có duyên. Chúng sanh ở cõi này, không luận là tăng tục, nam nữ, già trẻ, thiện ác, như khi gặp phải các cảnh duyên quá thuận nghịch khổ vui, phần lớn đều từ đó buộc miệng phát ra một tiếng niệm Phật. Như không niệm thì thôi, hễ niệm ắt niệm Phật A-di-đà. Việc ấy ai xui khiến nên? Bởi chúng sanh từ lâu đã nhờ ơn Phật giáo hóa, từ lâu đã thọ nhận ân đức của Phật, có duyên sâu nặng với Phật. Vả lại, Kinh Di-đà này khi ngài La-thập vừa dịch thành, thì ngài Huệ Viễn liền cùng với 123 người nương vào đó lập ra hội niệm Phật, 123 người ấy lần lượt thị tịch, lúc lâm chung đều có lưu lại những điềm lành. Cho dù chim anh vũ, hay cụ già niệm Phật, khi chết đều có tướng lành xuất hiện. Những điều đó, nếu chẳng phải chúng sanh đã có duyên sâu với Phật, thì gọi là gì?
Kinh Vô Lượng Thọ ghi : “Mai sau khi kinh đạo diệt hết, Ta dùng nguyện lực chỉ giữ lại kinh này thêm 100 năm để độ khắp chúng sanh”. Sở dĩ chẳng giữ lại kinh khác mà chỉ giữ lại kinh này, đâu chẳng vì pháp môn này dễ hành trì và hợp với các căn cơ, lại an ổn vào đạo mà mau chóng đạt được lợi ích ư? Do đó biết rằng, thời gian càng về lâu sau, pháp môn này càng hợp cơ.
Chúng sanh thế gian khi gặp phải cảnh nguy cấp thống khổ, thì thường kêu cha mẹ, trời đất. Nhưng chẳng biết cha mẹ, trời người chẳng thể cứu giúp sự sanh tử của ta, đoạn dứt sự luân hồi của ta, bởi họ đồng ở trong sanh tử luân hồi như ta. Các bậc Thánh tam thừa, tuy đã ra khỏi sanh tử, nhưng không có tâm Đại bi, không làm lợi ích cho ta được. Các Bồ-tát, tuy có tâm Đại bi, nhưng tâm chứng của các ngài có phần hạn, chưa thể làm lợi ích khắp chúng sanh, thỏa mãn tất cả các ước nguyện. Chư Phật trong mười phương, tuy đã chứng đắc cùng tận pháp giới, nhưng ta không dễ cảm đến các ngài, dẫu có cảm thấu đến mà thấy được, chẳng qua cũng chỉ tạm thời lìa khổ, chưa thể đạt đến rốt ráo. Chỉ có Phật A-di-đà, chúng sanh vừa thấy Ngài liền thoát khỏi sanh tử, vĩnh viễn đoạn trừ gốc khổ. Chỉ một câu “A-di-đà Phật” là nơi đáng để ta dốc tâm ra sức. Tôi có một câu kệ rằng :
Suy nghĩ khắp muốn lìa ba cõi
Chẳng niệm Di-đà biết niệm ai?
Niệm Phật thì chẳng khó, mà khó ở chỗ giữ cho được bền bỉ, lâu ngày không gián đoạn. Nếu được cứng chắc như sắt đã luyện thành, thép đã tôi xong, như một người chống muôn người, ngàn Thánh ngăn chẳng được, vạn trâu kéo chẳng quay đầu, lâu ngày chầy tháng, nhất định sẽ cảm thông tương ứng. Nếu chưa dụng tâm được như thế, vội cho rằng lời Phật không chứng nghiệm, tâm Phật khó cảm ứng, há có nên chăng? Chỉ cần được nhất niệm cảm thông, liền ra khỏi sanh tử, thẳng đến vị Bất thoái, trọn thành Phật quả. Há có việc dễ thực hành vậy sao?
Biết nhỏ mà chẳng biết lớn, thấy gần mà chẳng thấy xa, đó là thói thường của chúng sanh. Như đức Phật A-di-đà vốn có ân đức lớn đối với chúng sanh mà chúng sanh chẳng biết. Từ vô lượng kiếp xưa, Ngài ở trước đức Phật Thế Tự Tại Vương, vì tất cả chúng sanh khổ ở thế giới ác trược phát 48 nguyện lớn. Lại nương nơi nguyện tu tập hạnh Bồ-tát trải qua kiếp số lâu xa; bỏ ngôi vị Kim luân vương, quốc gia, vợ con, đầu mắt tủy não chẳng biết bao nhiêu ngàn vạn ức lần. Đó chỉ là một hạnh bố thí tài vật nội ngoại trong vạn hạnh. Như thế nhẫn được điều mà mọi người chẳng thể nhẫn, làm những việc mà người chẳng thể làm. Viên tu vạn hạnh, lực đạt tột cùng, thuần thục công phu, thành tựu Tịnh nghiệp, đạt đến Phật quả, phân thân vô số, dùng các phương tiện, dẫn dắt quần sanh đồng sanh Cực Lạc. Thế thì như vì một người, nhiều người cũng thế. Từ nhiều người mà quán xét, thì thấy Phật vì tất cả chúng sanh. Nếu từ một người mà quán xét thì thấy Phật chỉ vì một mình ta. Vì ta mà phát đại nguyện xứng tánh, vì ta mà tu tập đại hạnh nhiều kiếp, vì ta mà nghiêm tịnh bốn độ, vì ta mà viên mãn ba thân, cho đến nơi nơi hiện thân tiếp dẫn, chốn chốn hiển thị tướng lành. Tất cả là vì ta vậy. Khi ta tạo nghiệp, Phật cảnh giác; khi ta thọ khổ, Phật cứu giúp; khi ta về nương thì Phật nhiếp thọ; khi ta tu hành thì Phật gia hộ. Sở dĩ Phật vì ta tất cả, cũng chỉ muốn ta niệm Phật, muốn ta vãng sanh, muốn ta vĩnh viễn thoát khổ, hưởng thọ pháp lạc; lại muốn ta tiếp nối hóa độ tất cả chúng sanh cho đến Nhất sanh bổ xứ mà thôi.
Ôi! Ân sâu đức nặng của Phật, cha mẹ chẳng thể ví bằng; dù đất trời có cao dày đến mấy cũng không thể sánh được. Nếu chẳng nghe khai thị đâu biết được nghĩa này? Chẳng đọc kinh Phật, nào hiểu được lý ấy? Từ nay về sau đã biết rồi, thì chỉ có việc gắng sức tiến tu, trọn báo thân này chí thành nương gá, chẳng kể thân mạng một lòng niệm Phật mà thôi, còn gì phải bàn nữa?
Tất cả chúng sanh đều bị mười sử lợi độn sai khiến mà lưu chuyển trong sanh tử trải qua vô số kiếp, chịu khổ não lớn, chẳng thể xa lìa, thật đáng thương xót. Mười sử gồm năm lợi sử là Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ. Gọi là lợi, bởi năm sử này phát khởi nhanh nhẹn, nhạy bén. Năm độn sử là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi. Năm món này từ lợi sử sanh khởi, đối với lợi mà gọi là độn. Mười sử này, tất cả chúng sanh, hoặc ít hoặc nhiều đều có nghiêng về. Nếu mang nó mà tu tập, chỉ tăng thêm tà kiến phiền não, nhất định không có phần tương ưng. Còn muốn đoạn trừ nó thì thật khó.
Mười sử này trong ba cõi, chín địa phối hợp với Tứ đế, phát sanh 88 sử Kiến hoặc, 81 phẩm Tư hoặc. Chỉ đoạn Kiến hoặc cũng đã như chặn dòng sông rộng 40 dặm, huống gì Tư hoặc? Nếu còn mảy may Kiến, Tư hoặc chưa đoạn, tức chẳng thể xa lìa Phần đoạn sanh tử. Đó gọi là dọc thì ra khỏi ba cõi. Thật khó! Thật khó!
Mười sử này gọi chung là Tri kiến chúng sanh. Cổ đức nói : “Dùng Tri kiến Phật đối trị Tri kiến chúng sanh”. Tri kiến Phật tức một điểm linh tri hiện tiền lìa niệm. Nhưng linh tri này chẳng thể độc lập, mà phải tùy duyên khởi. Nếu chẳng theo duyên khởi Phật giới, thì liền theo duyên khởi chín cõi; lìa mười cõi thì không có duyên khởi nào khác. Muốn theo duyên khởi Phật giới không gì hơn dùng tâm tín, nguyện trì danh hiệu Phật. Nhưng Tín cốt ở sâu, nguyện cốt ở thiết, trì danh cốt ở chuyên. Nếu với tâm sâu, thiết, chuyên để tín, nguyện và trì danh, tức đã dùng tri kiến Phật làm tri kiến tự kỷ, cũng là trong niệm niệm dùng tri kiến Phật đối trị tri kiến chúng sanh. Trong tâm mười sử sục sôi kia chỉ cần đặt vào một tâm tín, nguyện, trì danh thì liền chuyển duyên khởi chín cõi làm duyên khởi Phật. Đó là pháp môn cực diệu “chỉ sắt thành vàng” trong môn tu đạo. Chỉ cần tận lực gánh vác, lâu ngày chẳng đổi thay, bảo đảm rằng có thể ngồi đợi đài vàng, không bao lâu sen báu sẽ đến tiếp đón. Đó là từ cõi Đồng cư này sanh về cõi Đồng cư kia, thẳng tắt vượt ba cõi; so với thứ lớp tiến tu chẳng phải ít phí sức hơn ư?
Một câu “A-di-đà Phật” là phương thuốc A-già-đà(1) chữa lành tất cả các bệnh, là hạt châu như ý làm thỏa mãn tất cả các nguyện, là thuyền từ trên biển sanh tử giúp người vượt qua tất cả khổ, là đèn trí huệ chiếu phá tất cả tối tăm. Chỉ cần một câu này lọt vào tai thì liền kết được duyên. Chỉ một niệm tâm tin sâu thì liền có thể tương ưng. Tín tâm đã thật chân thì nguyện không cầu mà tự phát. Hai tâm tín nguyện này phải luôn tồn tại nơi tâm, như tôi trung vâng theo mật chỉ của vua sáng; như con hiếu nhận lấy nghiêm mệnh của cha hiền, ghi nhớ mãi chẳng quên, lấy đó làm phận sự trọng yếu. Như thế, chẳng luận ở nơi cảnh giới nào, hoặc vắng vẻ, hoặc ồn náo, hoặc an nhàn, hoặc bận rộn, nhiều niệm, ít niệm…, tất cả đều là chánh niệm vãng sanh. Chỉ ngại ở chỗ siêng năng hoặc biếng trễ mà thôi. Chúng sanh đã phải chịu sanh tử luân hồi từ bao kiếp trước đến nay, lẽ nào vĩnh viễn không phát tâm cầu xuất ly, tu hạnh hướng về đạo sao? Bởi buông lung mà phế bỏ, bởi biếng nhác mà bại hoại, nên mãi ở trong sanh tử, chịu khổ não lớn. Nay nghe pháp môn trì danh đơn giản mà thiết yếu này, lại vẫn còn y theo vết cũ, ở yên nơi chỗ bại hoại, thì thật là một kẻ không có phẩm tánh và khí chất cang cường chánh trực vậy!
Chấp trì danh hiệu Phật tức là thân tâm thành khẩn, tin phục hành trì, là giữ chặt nơi tâm, không phút giây quên bỏ. Nếu có một niệm gián đoạn thì chẳng phải là chấp trì, nếu có một niệm xen tạp cũng chẳng phải là chấp trì. Cần phải niệm niệm liên tục không tạp, không đoạn. Đó mới là chân tinh tấn. Tinh tấn mãi mãi thì dần dần đạt đến nhất tâm bất loạn, thành tựu trọn vẹn Tịnh nghiệp. Nếu đã đạt đến nhất tâm bất loạn mà vẫn luôn tinh tấn, ắt sẽ khai hiện trí huệ, phát khởi biện tài, chứng đắc thần thông, thành tựu Niệm Phật Tam-muội, cho đến các tướng lành linh dị đều hiển hiện. Như hình người bằng sáp đặt gần lửa, chỗ mỏng sẽ thủng trước. Nhưng chẳng nên định đặt tâm mong cầu chứng nghiệm, mà chỉ cần nỗ lực nơi nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn là nơi quy hướng của Tịnh nghiệp, là cửa lớn của Tịnh độ. Nếu chưa thâm nhập được cửa này thì trọn không thể xong việc. Người học há chẳng gắng sức ư?
Tu tập tất cả pháp môn, cốt yếu phải rõ Tông, đạt chỉ. Ngày nay mọi người chỉ biết “Vạn pháp duy tâm”, mà chẳng biết “Tâm duy vạn pháp”. Chỉ biết ngoài tâm không Phật, chẳng biết ngoài Phật không tâm. Chỉ biết vô lượng là một, chẳng biết một là vô lượng. Chỉ biết chuyển núi sông đại địa trở về nơi tự kỷ, chẳng biết chuyển tự kỷ đến khắp núi sông đại địa. Nhưng nếu chẳng biết Tâm từ vạn pháp sanh, thì há lại thật biết vạn pháp do tâm sanh ư? Đã chẳng biết ngoài Phật không có tâm, há lại thật biết ngoài tâm không có Phật ư? Như trái cầu tròn bổ làm hai phần, nếu phân ra thì cả hai đều hư hoại, nếu hợp lại thì toàn vẹn.
Vì thế người niệm Phật, nhất định phải đặt “duy Phật, duy Tịnh độ” làm Tông. Nếu tông Duy Phật duy độ chẳng rõ biết, thì nghĩa Duy tâm chân thật chẳng thành. Nếu thấu đạt nghĩa Duy tâm chân thật thì tông Duy Phật duy độ tự thành. Tông này đã thành thì một câu Phật sở niệm, quốc độ sở sanh khởi đại dụng toàn thể, ngang khắp mười phương, dọc suốt ba thời, bao trùm chẳng sót. Sở niệm đã thế, năng niệm cũng như thế. Đó gọi là dùng tâm thật tướng niệm Phật thật tướng. Dùng tâm pháp giới niệm Phật pháp giới. Niệm niệm bặt đối đãi, niệm niệm cực viên dung. Vì bặt đối đãi nên siêu việt tất cả các pháp môn, không pháp môn nào sánh bằng. Vì cực viên dung nên gồm thâu tất cả pháp môn, không pháp môn nào nằm ngoài. Đây gọi là “Pháp không có tướng nhất định, gặp duyên liền nhận làm Tông, phát khởi đại dụng, hiển hiện ắt toàn chân”. Một câu A-di-đà Phật cần phải tin như thế, niệm như thế mới thật là chẳng thể nghĩ bàn trong chẳng thể nghĩ bàn vậy!
“Cái” mà chúng sanh và Phật bình đẳng đồng có, chính là linh tri hiện tiền lìa niệm này. Nhưng chư Phật bởi tùy nhân duyên tịnh ngộ, ngộ rồi lại ngộ, tịnh càng thêm tịnh, ngộ và tịnh đến chỗ cùng tột. Cho nên linh tri này, ngang thì khắp mười phương, dọc thì suốt ba thời, rộng lớn không gì ở bên ngoài nó. Còn chúng sanh bởi tùy nhân duyên nhiễm mê, mê rồi lại mê, nhiễm càng thêm nhiễm. Cho nên một điểm linh tri ấy bị cục hạn, rút ngắn, chỉ còn nhỏ bé và yếu kém. Nhưng đương thể của linh tri nhỏ bé này đồng với linh tri rộng lớn của chư Phật, không mảy may sai biệt. Ví như được tùy duyên tịnh ngộ, nghiệp nhân bặt dứt, tình thức rỗng không, thì linh tri nhỏ bé ấy lập tức chuyển thành linh tri rộng lớn vô biên. Như một đốm lửa có thể đốt cháy vạn khoảnh rừng hoang.
Nhưng một niệm linh tri hiện tiền này, nếu luận theo cảnh sở tri thì có rộng hẹp, hơn kém khác nhau. Nếu luận theo trí năng tri thì hoàn toàn không khác. Như đồng là lửa, nếu đốt gỗ Chiên-đàn thì tỏa hương thơm, nếu đốt phân dơ thì phát mùi hôi. Vật được đốt dù khác, nhưng lửa dùng để đốt thì không hai. Như đồng là nước mà trong đục khác nhau. Đồng là gương mà mờ, sáng sai biệt. Trong đục dù khác, nhưng tánh ướt chẳng khác. Mờ và sáng tuy khác mà thể của sáng chẳng khác. Bởi nước đồng tánh ướt, nếu đục thì lắng cho trong. Bởi gương đồng một thể sáng, nếu mờ thì lau chùi cho sáng. Gương sáng bị mờ là do dính bụi dơ, bụi dơ chẳng phải trong sáng, trong sáng là bản thể của gương. Nước đục là do hòa lẫn bùn đất, bùn đất chẳng phải là tánh ướt, ướt là bản tánh của nước. Một niệm linh tri này cũng như tánh ướt của nước, tánh trong sáng của gương, tánh nóng đốt của lửa, toàn thể chẳng khác. Bởi toàn thể không khác, nên có rất nhiều môn phương tiện tu đạo. Có người ngưỡng mộ chư thánh, có người chỉ trọng tánh linh của tự kỷ; có người, ngoài thì mến mộ chư thánh, trong thì tôn trọng tánh linh tự kỷ; có người không mến mộ chư thánh cũng không tôn trọng tánh linh. Ngưỡng mộ chư thánh, như người niệm Phật chân thật, biết chư thánh đều đã chứng đắc tánh linh nơi ta, nên nói, nín, động, tịnh đều có thể làm mô phạm cho người. Nếu chúng ta chẳng ngưỡng mộ chư thánh thì không có đường tiến tu. Cho nên, người này hoặc chuyên trì danh hiệu, hoặc quán tưởng thanh sắc, ba nghiệp chí thành, sáu thời kính lễ, dốc lòng nương tựa, trọn kiếp vâng theo; rồi thời tiết đến, nhân duyên thuần thục, cảm ứng tương giao, bỗng nhiên, đất tâm rộng mở, linh quang hiển lộ. Lúc ấy mới biết tánh linh nơi ta bình đẳng không khác chư thánh, vì thế cần phải tôn trọng.
Chỉ tôn trọng tánh linh, như người tham thiền trong Tông môn, bởi từ “chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”, cho nên, suốt ngày 12 thời (24 giờ) chỉ muốn trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi hiển bày mặt mũi của chính mình, thọ dụng diệu đức của Pháp thân thật tướng. Ngoài tâm tánh thì không mảy may chấp thủ. Mặc tình cho ngàn thánh hiện tiền, ta đây đã có Thiên chân Phật. Một khi công phu đạt đến chỗ sâu xa, chứng ngộ đã cùng tột, mới biết tất cả chư thánh đều đã chứng ngộ tánh linh nơi ta, thì càng phải ngưỡng mộ.
Lại, ngoài thì ngưỡng mộ chư thánh, trong thì tôn trọng tánh linh, như muốn tôn trọng tánh linh, ắt phải ngưỡng mộ chư thánh, bởi ngưỡng mộ chư thánh chính là tôn trọng tánh linh. Lại ngưỡng mộ chư thánh, ắt cần tôn trọng tánh linh. Nếu chẳng tôn trọng tánh linh, há có thể ngưỡng mộ chư thánh được ư? Đó là trong ngoài giao nhau tu tập, tâm Phật đồng tôn trọng. Đã không chấp bên nào thì đường tiến tu càng nhanh chóng, một khi lực đến tột cùng, công được thuần thục thì toàn thể tương ưng. Lúc ấy mới biết chư thánh chẳng qua cũng chỉ đã chứng tánh linh nơi ta mà thôi, không cần phải ngưỡng mộ. Nhưng tánh linh nơi ta chẳng qua cũng bình đẳng với chư thánh mà thôi, đâu cần phải tôn trọng.
Chẳng ngưỡng mộ chư thánh, chẳng tôn trọng tánh linh, tức chẳng dính mắc mảy may, tâm và Phật đều quên, trừ bỏ tất cả, vòi vọi không nương gá. Bên ngoài thì xa lìa thế giới, bên trong thì thoát khỏi thân tâm. Một niệm chẳng sanh, vạn duyên đều đoạn. Lâu ngày công phu thuần thục, chứng nhập trọn vẹn, tánh linh hiển lộ, chóng đồng chư thánh. Tuy chẳng ngưỡng mộ chư thánh, nhưng lại khéo ngưỡng mộ. Tuy chẳng trọng tánh linh mà thật tôn trọng.
Bốn môn trên đây, người học hãy tự lượng xét căn tánh của mình, chỉ nên thuận ưa thích một môn mà thâm nhập, lâu ngày nhất định sẽ tương ưng. Cần nhất là chớ nên vọng khởi chấp trước, dối sanh luận bàn; lấy bỏ, khen chê cũng chỉ là một chứ chẳng khác; như thế không chỉ trái với diệu đạo mà còn chướng ngại; sợ rằng sẽ phỉ báng đại pháp mà rước lấy tội lỗi.
Kinh Lăng Già ghi : “Chỗ biết của chư Thánh, lần lượt được truyền trao, vọng tưởng vốn vô tánh”. Nhị Tổ nói : “Tìm tâm trọn không thể được”. Luận Khởi Tín ghi : “Nếu có người khéo quán Vô niệm, tức đã hướng đến trí Phật”. Hoa Nghiêm Hợp Luận ghi : “Đốn ngộ một niệm duyên khởi vô sanh, liền siêu việt các kiến giải của Tam thừa quyền học”. Kinh Phật, lời Tổ, luận của Bồ-tát, thiện tri thức đều y cứ một niệm hiện tiền để chỉ bày, hiển thị tánh vọng vốn không. Phàm vọng vốn không mà chân vốn có, vậy không là Phật thì là gì? Bởi chúng sanh từ lâu đã tùy duyên ô nhiễm, chưa chóng khôi phục “vốn không” kia. Nay cần phải dùng duyên khởi thanh tịnh dần dần chuyển biến.
Lại dùng tâm nhân “Ta tức Phật” để niệm quả Phật “Ta tức tâm”. Nhân quả xưa nay xuyên suốt, tâm Phật vốn thế nhất như. Nhưng quả Phật “Ta tức tâm” có Đại từ vô duyên, Đại bi đồng thể, vốn chẳng nghĩ bàn. Còn tâm nhân “Ta tức Phật” có tin sâu, nguyện thiết, thành khẩn trì danh cũng chẳng nghĩ bàn. Trong mỗi mỗi niệm đều gạn lắng trần nhiễm, hiển bày “vốn không”, chóng hội nguồn linh, thẳng đến biển quả. Thế thì duyên thanh tịnh, không có gì vượt qua niệm này. Chỉ cần trong lúc niệm nên buông bỏ vạn duyên, đề khởi một niệm, khẩn thiết như cứu lửa cháy đầu, như mất cha mẹ, như gà ấp trứng, như rồng dưỡng châu. Chẳng mong quả nhỏ, chẳng cầu mau thành. Chỉ tâm luôn niệm như thế. Đó gọi là Thiền môn thâm diệu vô thượng. Bấy giờ căn thân, thế giới thầm tùy thuận tâm, niệm niệm chuyển biến, nhất định chẳng phải là chỗ thấy biết của tâm phàm, mắt thịt. Cho đến lúc thân hoại mạng chung, đức Di-đà và Thánh chúng bỗng nhiên hiện tiền, đồng thời mùi hương lạ, tiếng nhạc trời, các tướng lành linh dị hiển hiện. Lúc ấy người đời mới cho là Tịnh nghiệp thành tựu. Nhưng sự thành tựu Tịnh nghiệp, há mới đến lúc này sao?
Người niệm Phật nên sanh bốn tâm : Một là nên sanh tâm hổ thẹn, bởi từ vô thỉ đến nay đã tạo biết bao nghiệp chướng; hai là nên sanh tâm vui mừng, bởi được nghe pháp môn này; ba là nên sanh tâm thống thiết, vì nghiệp chướng từ vô thỉ khiến khó gặp khó biết được pháp môn này; bốn là nên sanh tâm cảm kích, vì Phật từ bi vô lượng như thế. Chỉ khởi một trong bốn tâm thì Tịnh nghiệp ắt thành tựu. Niệm Phật cần phải lâu dài mà không được gián đoạn. Nếu gián đoạn, sẽ không thành tựu Tịnh nghiệp. Đã lâu dài lại cần phải dõng mãnh, không được biếng trễ. Nếu biếng trễ cũng không thành tựu Tịnh nghiệp. Lâu dài mà không dõng mãnh, tức sẽ lui sụt. Dõng mãnh mà không dài lâu, sẽ không tăng tiến.
Khi niệm Phật không nên khởi niệm tưởng khác. Không khởi tưởng tức là “Chỉ”. Khi niệm Phật cần phải niệm niệm rõ ràng; niệm niệm rõ ràng tức là Quán. Trong một niệm đã đầy đủ Chỉ và Quán, chứ chẳng có Chỉ Quán nào khác. Chỉ là nhân của Định, Định là quả của Chỉ. Quán là nhân của Huệ, Huệ là quả của Quán. Một niệm chẳng sanh, rõ rõ ràng ràng, tức tịch mà chiếu. Rõ rõ ràng ràng, một niệm chẳng sanh tức chiếu mà tịch. Đạt được như thế, Tịnh nghiệp nhất định thành tựu. Thành tựu như thế, đều đạt đến Thượng phẩm. Từ một người cho đến trăm, ngàn, vạn, ức người nếu tu tập như thế, đều sẽ thành tựu như thế. Hành giả niệm Phật há chẳng tự răn nhắc ư?
Trích từ Triệt Ngộ Thiền Sư Ngữ Lục
Thích Nguyên Chơn dịch
Trích: Tập San Suối Nguồn số 08 và số 09 (TVHQ)
Biên tập: Trang nhà Huệ Quang
Các Phúc Đáp Gần Đây