Đường về Cõi Tịnh nào có cách ngăn chi. Phàm thánh đều là cùng đi chung trên một con đường này tìm về Cực Lạc.
Nếu ai biết lìa tâm phân biệt, xả ly ái trước, dùng tâm chí thành tin ưa, cầu sanh Cực Lạc thì chỉ cần nương vào tha lực đại từ đại bi của từ phụ A Di Đà, cúi đầu chắp tay trước tướng bạch ngọc hào, niệm một câu Phật hiệu “A Di Đà Phật”, ngay trong khoảng sát na đã đến được nơi mình mong mõi, thoát khỏi biển lớn sanh tử. Nhưng nếu ai dùng tâm phân biệt của phàm phu mà suy nghĩ thì khó hiểu thấu nổi ý nghĩa của câu: “một niệm hồi quang ắt dễ về”.
Rốt ráo nào phải là ở ngoài tâm, phân minh thì Cực Lạc ở ngay trước mắt. Nếu suy xét kỹ càng như thế; thì một niệm Di Đà ở tự tâm, bổng dưng thành tựu được hết thảy các pháp Tín-Giải-Hành-Chứng, đích thân được Phật thọ ký. Do vậy, tin “Tha Phật” mà chẳng tin nổi “Tự Phật” thì chính là trí còn kém cỏi. Không có trí quyết định thì chẳng sanh nổi lòng tin quyết định, cho nên đối với việc vãng sanh Cực Lạc ý chí do dự, không được chuyên tâm. Tín nguyện chẳng vững thì chỗ mình y cứ để tu tập, cũng chẳng thể chuyên nhất nổi.
Thoạt tiên, là vì do một niệm bất giác, mê mất bổn tâm, khởi tâm động niệm trước cảnh vật bên ngoài, lấy vọng làm chân, chạy theo trần cảnh. Do vậy mà bị quấn trói vào trong lưới nghiệp, lưu chuyển trong sáu đường, thăng trầm theo sanh tử, khổ đau, nhọc nhằn mõi mệt, trong vô lượng kiếp chưa hề gián đoạn, khó mà thoát ra.
Chúng sanh vì mê vọng nhập tâm, chất chứa các nghiệp nhân, khi nghiệp nhân thành quả thì phải chịu luân chuyển trong sáu đường, nên nhận lầm là có sanh diệt. Nhưng nào biết sanh là do tự duyên mà sanh, nhưng Pháp Tánh chẳng sanh cùng với duyên. Diệt thì do duyên mà tự diệt, chứ Pháp Tánh cũng chẳng cùng diệt theo duyên. Pháp tánh vốn như như, chẳng sanh cũng chẳng diệt.
Dù cho sự sanh diệt của chúng sanh rành rành, không ngừng nghĩ, nhưng chư Phật chỉ thấy vô sanh. Thế mà, chúng sanh lại thấy có sanh diệt. Đó cũng là do vì “mê” và “ngộ” có sai khác, nên làm cho cái thấy cũng sai khác; chứ thật ra, sanh hay vô sanh nào có tự tánh. Hễ ngộ thì sanh diệt đều là vô sanh, còn mê thì vô sanh đều thành sanh diệt. Do vậy, nếu lìa xa tâm phân biệt thì sáu căn được tịch tịnh, đắc “vô phân biệt trí”, và sẽ thấy rằng: sanh và vô sanh vốn chỉ là một thể.
Nay, quán chiếu pháp lý “sanh và vô sanh” rồi, lại thấy A Di Đà Phật chính là tâm mình, tâm mình chính là A Di Đà Phật. Tịnh độ chính là phương này, phương này cũng chính là Tịnh độ. Chỉ do vì mê hay ngộ khác nhau, nên thấy có khác nhau, thánh và phàm nào có sai biệt! Vậy, nếu ai biết đem tự tánh A Di của mình mà niệm niệm tương tục, lấy cái lưỡi của mình mà diễn nói giáo pháp chân tông của Di Đà, cùng với đại chúng xoay chuyển pháp luân rộng khắp chúng sanh thì bốn mươi tám bi nguyện của A Di Đà Phật và nguyện của mình vốn là cùng chung một Nguyện Hải Nhất Thừa, gôm trọn ba căn đồng sanh Cực Lạc. Người niệm Phật với cái tâm như thế chính là “Di Đà niệm Di Đà” vậy!
Nếu ai biết rõ tam thế hết thảy chư Phật đều vô sở hữu, chỉ nương vào tự tâm; hết thảy pháp đều chỉ là tâm lượng thì bản thân ai nấy vốn sẵn là Di Đà, trong tâm mỗi người đều là Tịnh độ. Thấu rõ được lý này thì thời thời đều thấy Phật, chẳng nhọc công mà hết thảy công đức đều thành tựu đầy đủ, mỗi bước đi đều là hướng thẳng tới Tây Phương Cực Lạc. Do đó, chúng ta phải có trí quyết định, thì mới sanh được lòng tin quyết định. Có lòng tin quyết định thì mới hòng quyết định vãng sanh nổi. Bọn phàm phu chúng ta phải nên dè dặt chớ nên sanh lòng nghi hoặc diệu pháp Di Đà khiến mình mất điều lợi lớn.
Còn người chưa thấu rõ viên lý này thì mỗi lúc khởi tâm động niệm đều là tạo nghiệp dữ. Chỉ cần một niệm trái nghịch với Chân Như thì sáu căn liền chạy đuổi theo vọng cảnh, buông lung cái ngã làm quấy động pháp giới, theo tình tạo nghiệp.
Thân nghiệp thì sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Ngữ nghiệp thì nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói lời thô ác. Ý nghiệp thì thường sanh lòng tham, sân, yêu mến si mê. Do ba thứ nghiệp này, tạo ra vọng duyên vô tận trói buộc, làm cho tâm mê, thần ám, mờ mờ mịt mịt… Rốt cuộc rồi, phải bị chìm lỉm trong trần lao, trải trong sáu đường ác thú, xoay vần ở trong đó vô lượng kiếp, khổ đau sầu thống, nhọc nhằn, gian nan, khó thể thoát ra.
Nếu ai có ý mong muốn thoát lìa khỏi chốn trần lao này, chỉ còn có cách là dụng lực tinh tấn, huân tu sám hối, tẩy sạch các tội lỗi nơi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý); khiến cho các phù trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) thảy đều thanh tịnh. Lại nếu biết đem công đức tu hành chân chánh như thế, phát nguyện hồi hướng cho hết thảy chúng sanh trong mười phương pháp giới đồng vãng sanh Cực Lạc; thì tất nhiên, lúc lâm chung, người này sẽ được vãng sanh Tây Phương vào hàng thượng phẩm, một đời thành tựu Phật quả cứu cánh .
Trong giáo pháp của Tịnh tông, hết thảy đều là do nương vào tha lực của bốn mươi tám nguyện Đại Từ Đại Bi sâu nặng của Phật A Di Đà, để thâu tóm mười phương hết thảy chúng sanh. Hễ ai có đầy đủ tín tâm đều được vãng sanh. Tín là tin có Tây Phương Tịnh độ, tin có chuyện A Di Đà Phật nhiếp thủ chúng sanh. Tin bọn phàm tình chúng sanh trí ngu, nghiệp nặng như chúng ta cũng có phần được vãng sanh. Nếu ai phát khởi được chánh Tín như thế thì dù nói là Phật Di Đà nhiếp thủ chúng sanh vãng sanh; nhưng trên thực tế, đấy chỉ là tùy tâm tự hiện, cảm ứng đạo giao, rốt ráo chẳng phải do từ bên ngoài mà có. Tin như thế mới là Chân Tín.
Tín mà không Hạnh thì Tín ấy chẳng thành. Hạnh thì như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, chẳng nhọc phương tiện, tự được tâm khai”. Kinh A Di Đà cũng nói: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe nói đến A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu hoặc một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn. Người ấy lúc mạng chung, A Di Đà Phật và các thánh chúng hiện ở đằng trước. Người ấy khi mạng chung, tâm không điên đảo, liền được sanh về cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”. Hành như thế thì gọi là Chánh Hạnh.
Hạnh mà không Nguyện thì Hạnh ấy cũng chẳng thành. Nguyện nguyện đều tương ứng với từng mỗi một nguyện trong bốn mươi tám Bi Nguyện của Phật A Di Đà thì mới là Đại Nguyện.
Ba điều: Tín-Hạnh-Nguyện trên, như ba chân của cái đảnh chẳng thể thiếu một. Nếu có đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh thì một câu niệm Phật tức thời viên mãn hết thảy các hạnh. Bởi lẽ, Tín-Hạnh-Nguyện chính là Tánh đức vốn có sẵn đầy đủ trong từng mỗi chúng sanh. Nay, chỉ là biết cách nương vào Di Đà Nguyện Hải, lấy sáu chữ hồng danh làm chất xúc tác để tỏ lộ bổn tánh Di Đà sẵn có của mình, để có thể phát ra được vô lượng quang minh trí huệ của bổn tánh mà thôi.
Nếu có ai lấy tâm phân biệt để quán chiếu thể tánh của Phật, chúng sanh và mình thì sẽ thấy đó là ba thể loại khác nhau. Vậy, pháp này là Ngã pháp hay Chánh pháp? Cũng giống như thế, nếu có ai lấy tâm phân biệt để quán chiếu thể tánh của pháp giới thì sẽ thấy Sa Bà và Tây Phương Cực Lạc vốn là hai cõi khác nhau. Vậy, pháp này là Ngã pháp hay Chánh pháp?
Nếu lấy tâm vô phân biệt để quán thể tánh của hết thảy pháp giới thì khắp cùng mười phương cõi nước đều là Cực Lạc. Khắp cùng mười phương thế giới đều là quê cũ Thanh Lương. Tịnh độ vốn luôn hiện hữu ở nơi tâm mình như gương đài soi sáng. Tự mình muốn quay về thì liền được về. Cánh tay vàng uyển chuyển của Phật A Di Đà đêm ngày thường rủ xuống, đợi chờ mình nương nhờ. Bạch ngọc hào quang sáng lạn của Từ Phụ Di Đà, xưa nay vẫn thường luôn phóng chiếu, chẳng một sát na bị ẩn mờ tối tăm.
Muôn vạn pháp lành đều là do từ nơi tâm quang, trí sáng của mình mà thành tựu. Ngày nay, nếu liễu giải được lý này thì không còn có kẻ mê, người ngộ. Nếu còn tham đắm, chìm lỉm trong vọng tình, ái kiến, dục cảnh…. thì mây đen, núi cao, sông biển, gò nồng hầm hố liền tự nhiên hiện ra ngăn lấp lối trở về.
Nếu ngộ thì tâm, Phật và chúng sanh vốn chỉ là một, không phải là ba thứ sai biệt. Như Ngài Vĩnh Gia nói: “Trong mộng rành rành bày sáu nẻo, giác rồi ba cõi rỗng toang hoang”.
Như vậy thì, như kinh nói: “Từ đây đi về Tây Phương qua khỏi mười vạn ức cõi nước, có một thế giới tên là Cực Lạc. Cõi ấy có Phật, hiệu là A Di Đà nay đang thuyết pháp”, chẳng ngoài duy tâm Tịnh độ, bản tánh Di Đà. Cho nên mới biết rằng: ngay trong cuộc sống hiện tiền đây, hoa sen đóa đóa thơm ngào ngạt, cây báu tầng tầng xếp thành hàng, không chỗ nào mà chẳng phải Tịnh độ, không niệm nào mà chẳng thể nương vào Từ Phụ Di Đà.
Nay, đệ tử chúng con phát lồ sám hối, phát nguyện cầu vãng sanh Cực Lạc. “Hành” đầy đủ các hạnh lành giống như người có đầy đủ đôi mắt. “Nguyện” như ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, đèn đuốc soi sáng lối đi. Nương theo ánh sáng chiếu tỏ mà nhận thấy tỏ rỏ phân minh.
Do vậy, người niệm Phật nếu không phát nguyện vãng sanh thì dẫu có công phu tự lực giỏi đến đâu, rốt cùng cũng sẽ trở thành hư huyễn, vì không biết thuận theo lời Phật dạy, xuôi trần nghịch giác.
Thánh hiệu “A Di Đà Phật” không thể nghĩ lường, có công năng khuất phục sáu căn, không cho bọn chúng tạo tác. Tây Phương Cực Lạc chỉ là quê cũ trở về. Hai thứ báu trang nghiêm giúp ta mau chóng phá tan màn đêm tăm tối, như ánh mặt trời chói rực giữa bầu trời, như thần dược của Thiện Kiến có thể trị các thứ bệnh khổ..
Ngay trong lúc vọng tâm tạp loạn, khổ ải tác từng hàng mà đối trước đức Từ Tôn, giữ vững sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật” thì tạp loạn tự nhiên theo niệm mà ngưng lặng, tất cả các khổ không chi chẳng dứt. Như Ngài Linh Phong Đại Sư bảo: “Câu Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn chẳng thể chẳng thành Phật”.
Từ một câu Phật hiệu mà phát khởi, rồi tiếp tục tịnh niệm tiếp nối không gián đoạn, với tấm lòng tin sâu khẩn thiết, chánh nhân rạng rỡ, quyết lòng xa lìa sanh tử luân chuyển đáng buồn thương, chán ngán cảnh trần lao rối bời đáng đau xót. Từ đây, đệ tử chúng con quyết định cắt đứt mọi dị kiến, chí thiết chỉ có câu Phật hiệu trong tâm mà niệm niệm cho đến khi nhất tâm bất loạn thì năng lẫn sở cùng biến mất, chỉ trong sát na về đến quê nhà.
Đây là cách thần diệu nhất để tu hành chứng quả, là đường chánh pháp phương tiện siêu thắng. Nhanh như sấm sét vãng sanh Cực Lạc, đóng bít các đường ác, chặt ngang tam giới, phá tan sanh tử khổ đau, rạng rỡ như trăm ngàn ánh mặt trời, mặt trăng chiếu tỏ nẻo mê vọng.
Một lòng, quyết tâm, quyết chí nương vào bi lực của Phật A Di Đà, nhất định được vãng sanh. Tâm này vững chắc như Kim Cang, chí này bất động chẳng thể lung lay như núi Thiết Vi thì trước khi một niệm vừa chớm, tâm đã trụ nơi cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà.
Nay, đệ tử chúng con nhất tâm quy mạng Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật. Cuối xin Ngài dùng quang minh thanh tịnh chiếu đến chúng con, dùng thệ nguyện từ bi nhiếp thọ chúng con. Chúng con nay thường luôn gìn giữ chánh niệm, xưng danh hiệu của Như Lai, vì đạo Bồ Đề, cầu sanh Tịnh độ.
Phật xưa đã thề: Nếu có chúng sanh muốn sanh cõi ta, chí tâm tin ưa, dẫu chỉ mười niệm, nếu chẳng được sanh, chẳng lấy Chánh Giác. Do nhân duyên niệm Phật này được vào trong biển đại thệ của Như Lai, nương vào từ lực Phật, các tội tiêu diệt, thiện căn tăng trưởng. Đến lúc sắp mạng chung, tự biết ngày giờ, thân không bệnh khổ, tâm không tham luyến, ý chẳng điên đảo, như nhập Thiền Định. Phật và thánh chúng tay cầm đài vàng, đến hoan nghênh tiếp đón, trong khoảng một niệm sanh cõi Cực Lạc. Hoa nở thấy Phật, liền nghe Phật thừa, mau khai Phật huệ, rộng độ chúng sanh, mãn nguyện Bồ Đề.
Niệm Phật từ tâm mà có, kết nghiệp há thuộc bên ngoài. Tâm nghịch với niệm Phật thì trong khoảnh khắc bèn kết ác nghiệp. Nay đệ tử chúng con, đem Giới-Định chân hương, thơm tho ngào ngạt, dùng đuốc trí huệ thắp sáng khắp mọi nơi, phá tan đám mây mù mờ ám, tỏ sáng rạng ngời bầu trời tánh đức, quét sạch hết bụi bặm vọng tưởng, cõi lòng mở rộng thông suốt, các căn thanh tịnh trọn vẹn, các nghiệp nhanh chóng rỗng rang.
Một câu Phật hiệu vừa phát khởi; ngay tức thời, một đóa hoa sen trong ao thất bảo bèn nở rộ, nhấp sương đón gió, hương vây ao ngọc. Một lòng trì danh hiệu Phật, một quả chín mùi, ngậm khói đối trời, bóng rọi vườn vàng.
Hoa sen của cõi Cực Lạc đầy khắp cùng tất cả thế giới. Thường Tịch Quang hiện hữu nơi nơi, đại nguyện vương của Từ Phụ A Di Đà Phật, có mặt trên từng mỗi mảy trần trong mười phương pháp giới. Đường về Cõi Tịnh rất dễ đến, sao lại chưa chịu về?
Đệ tử chúng con, cung kính đảnh lễ, thâm tạ ân Phật, chẳng biết làm sao để báo đền, chỉ biết đem hết thân mạng và tuệ mạng mà phát nguyện: thượng cầu Phật đạo, hạ hóa độ chúng sanh đồng vãng sanh Cực Lạc.
Biên soạn: Diệu Âm Trí Thành
(Tài liệu tham khảo: Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm)
“Trì danh niệm Phật:
Tức Phật nói kinh A-di-đà, điều Phật nói đến là pháp chấp trì danh hiệu, không cần tham cứu hay quán tưởng, cũng khỏi nhọc quán tượng, chỉ cần nhất tâm tâm niệm hồng danh vạn đức A-di-đà Phật, hoặc thêm hai chữ “Nam mô” càng biểu thị ý quy kính. Pháp niệm Phật quý ở chỗ nhất tâm, miệng niệm tâm niệm, tâm khẩu nhất như. Nếu chỉ miệng niệm tâm không niệm ắt không hiệu quả, tâm niệm miệng không niệm thì không ngại gì. Phải niệm niệm tương tục, chớ để gián đoạn, tinh tấn không ngừng thì nhụy sen trong ao Thất bảo ở cõi Tây Phương ngày một thêm lớn; nhụy sen này tuy là vật vô tình nhưng rất cảm ứng. Lúc chúng sinh ở cõi Ta-bà phát tâm niệm Phật, nhụy sen ở Tây Phương đánh tên ngay lập tức, phân ra siêng năng, giải đãi rõ ràng. Còn có cái khéo là phân rõ hơn kém, công phu sâu cạn, phẩm hạnh cao thấp, vô lượng người vãng sinh nhưng chưa từng bị nhầm lẫn. Lúc mạng chung vãng sinh tức sinh nơi hoa này, hoa này chính là nơi tuệ mạng an trú.”
Trích Khuyên tu pháp môn niệm Phật – Pháp sư Nguyên Anh.
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật!
Sư huynh Diệu Âm Trí Thành viết pháp có nhiều điều rất đáng tâm đắc, trên con đường hộ trì phật pháp, đệ theo lời dạy Đại sư Ấn Quang ” phật pháp hưng vong thất phu hữu trách” chẳng dám cầu vọng gì cả, chỉ mong Phật pháp sâu rộng đến với mọi người, đồng về Cực Lạc.
Nhưng sức của Đệ có hạn, công phu còn nông nổi yếu kém, nhưng vì Tâm với Đạo khắc khoải nên có đôi lúc biên chép lại các lời dạy của Tổ sư Ấn Quang để in ấn tống cho đồng tu hữu duyên.
Vậy Sư huynh có thể cho đệ biết Gmail để đệ gửi các bản thảo nhờ Huỵnh biên tập lại cho xác đáng được không, vì đệ trí cạn, lực mỏng nhiều lúc suy nghĩ cũng e dè nhỡ may không như lý như pháp thì tội chẳng phải nhỏ.
Kính mong Huynh cho hồi âm.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
A Di Đà Phật!
Phật vì muốn ban cho chúng sanh ba thứ lợi chân thật [chân thật tế (thành tựu Phật quả), chân thật lợi (giải thoát sanh tử) và chân thật huệ (trí Bát Nhã)] mà thị hiện ở thế gian này để nói lên pháp chân thật mà hết thảy thế gian chẳng biết nổi. Bồ Tát lại hóa thân ra trong thế gian này làm Tổ, Thầy, Thiện Trí Thức để chủ giảng kinh giáo của Phật, cốt hầu giúp chúng sanh hiểu rõ tận tường ý Phật, không bị hiểu lầm.
Nay đạo hữu Tịnh Minh phát tâm thọ trì, biên chép lời Phật, ý Tổ để cúng dường tứ chúng đó chính là y giáo phụng hành lời Phật dạy.
DATT xin lập lại lời Phật căn dặn trong kinh Vô Lượng Thọ, người tu Phật đạo chẳng dám sai chạy ra khỏi lời Phật dạy một chút nào thì công phu tu hành mới không bị hư hao, chẳng bị cong vạy, lệch lạc. Ðấy cũng chính là “rời ngoài một chữ trong kinh thì giống như lời ma nói”.
Hòa Thượng Tịnh Không căn nhắc người viết/nói pháp phải nên tuân thủ theo lời Khổng phu tử dạy: “thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ” (thuật lại chứ không trước tác, tin tưởng, chuộng cổ); Hòa Thượng nói: “Hiện nay, chúng ta thường nghĩ phải sáng tạo, phải phát minh, phải trội hơn người khác, quan niệm ấy là gì? Quan niệm ấy là phiền não! Tham, sân, si, mạn, nghi, quý vị xem người đó đã phạm bao nhiêu chữ trong mấy chữ ấy? Chẳng khiêm nhượng như cổ nhân. Phu Tử ôn hòa, hiền từ, cung kính, tiết kiệm, nhường nhịn, chắc chắn chẳng tranh danh, đoạt lợi, tự mình có kiến giải giống như cổ nhân, bèn nói những điều cổ nhân đã nói, chẳng nói những điều của chính mình, đó là đức hạnh, tích đức. Chẳng ham tiếng tăm, lợi dưỡng, đấy là điều kiện căn bản của học vấn, đức hạnh thế gian và xuất thế gian. Do vậy, Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta mười cương lãnh tu học, thứ nhất là “lễ kính chư Phật””.
Đạo hữu Tịnh Minh có thể gửi bài viết thẳng cho DATT (email: [email protected])
Diệu Âm Trí Thành
DATT xin được phép hỏi đạo hữu Tịnh Minh là người xuất gia hay tại gia. Nếu đạo hữu là người xuất gia thì DATT đã phạm tội rồi vì đã xưng hô không đúng phép tắc. DATT xin sám hối. Lại nữa, xin đạo hữu đừng gọi DATT là sư huynh, gọi DATT là được rồi. A Di Đà Phật!
Mình xin chào các anh em, các đạo hữu và các thầy. Mình đọc trang web này cũng khá lâu, hầu như ngày nào cũng đọc. Mình có ý này,nếu có gì không đúng các bạn và quý thấy bỏ qua cho: ” Mình cũng mới tập niệm phật gần đây, thật ra cũng mong cho bớt đi nghiệp xưa nay đã tạo, chớ không dám mong mõi là về tây phương cực lạc. KHi nào tu tập có bề dày một chút đã rồi họa may mới dám nghĩ tới điều này , với mình hiện giờ sao thấy về tây phương cực lạc giống như xa xỉ quá !” Vài dòng suy nghĩ như vậy, rất mong quý anh chị em , quý đạo hữu và quý thầy chỉ giáo thêm, chân thành cãm ơn . A Di Đà Phật !
A Di Đà Phật,
Trong cuốn Liễu Phàm Tứ Huấn – Làm Chủ Vận Mệnh có một đoạn quan trọng như sau: “…Mệnh do tự mình tạo, phước do chính mình tìm…” – Vậy việc vãng sanh về Tây phương Cực Lạc cũng là xem cái tâm của mình có thật muốn không? Nếu thật muốn thì tâm tưởng sự thành, mình sẽ vãng sanh, còn nếu ko thật muốn đi, thì cũng là…tâm tưởng sự thành, mình sẽ chẳng thể đi được. Vẫn là chuyện của mình, mình muốn đời này ra khỏi biển khổ sanh tử hay không?
Nếu thật muốn ra khỏi biển khổ sanh tử thì mình cũng nên coi tất cả những việc trước kia như hôm qua đã chết đi, nghiệp ác xưa đã lỡ tạo thì mình chân thật sám hối, quyết ko tái phạm, cũng ko cần nghĩ đến nữa, nếu nghĩ đến thì phải ráng tu, tích công bồi đức, đoạn ác tu thiện, hết thảy công đức tu tập đều hồi hướng cho tất cả chúng sanh; còn những việc về sau như hôm nay mới sinh ra. Biết sống trong hiện tại. Làm được việc này là mình đã có một sinh mệnh mới. Đó là sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức. Thân huyết nhục của chúng ta còn có khí số nhất định; song còn sinh mệnh nhân nghĩa đạo đức thì không bị số mệnh trói buộc, có thể cảm đến thiên lý, có thể cảm đến A Di Đà Phật và mười phương chư Phật hộ niệm…Đạo lý tu hành chính là có thể Làm Chủ Được Vận Mệnh, Chuyển Phàm thành Thánh.
Những lời chia sẻ bên trên TT đều trích dẫn từ cuốn “Liễu Phàm Tứ Huấn – Làm Chủ Vận Mệnh”, bạn nên chú ý xem thường xuyên, HT. Tịnh Không khuyên chúng ta mỗi ngày nên đọc cuốn sách này 1 lần, kiên trì đọc trong 1 năm thì công phu tu tập sẽ có nhiều tiến bộ, công đức và trí huệ liền được tăng trưởng. TT cũng đang cố gắng thực hành điều này theo lời dạy của HT. Tịnh Không.
Mong bạn hãy vững vàng và tự tin hơn vì một trong những điều kiện để được vãng sanh chính là Mình Phải Tin Mình Có Thể Được Vãng Sanh. Đọc cuốn “Làm Chủ Vận Mệnh” thì bạn có thể tăng trưởng niềm tin vào chính mình.
http://phapamgiaithoat.com/ebook/Lam-Chu-Van-Menh-TT-Thich-Minh-Quang-Dich.pdf
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật,
Xin chào chú Tịnh Thái, con muốn kiếm sách Làm Chủ Vận Mệnh này để tặng người thân nhưng kiếm không được, toàn thấy bản ebook không à? Chú có biết ở đâu có chỉ dùm con với.
Con cám ơn
Hỏi:
Kính bạch Hoà thượng! Một đời gây tạo đủ các nghiệp ác, nhưng lúc lâm chung thật lòng sám hối, niệm Phật có thể được “Đới nghiệp vãng sanh” về Tây phương Tịnh độ, thoát khỏi mọi đau khổ, hiện tượng này phải chăng nó mâu thuẫn và trái với luật nhân quả? Xin Hoà thượng giải thích rõ vấn đề này cho chúng con hiểu.
Đáp:
Xin thưa với quý vị, chẳng có mâu thuẫn. Những nghi hoặc của bạn là vì bạn chưa có nghiên cứu và đọc kỹ, trong kinh Phật và các bậc Tổ sư đã nói. Bởi vì cõi Tây phương Cực lạc là một thế giới do công đức và lòng từ bi của chư Phật mà thành tựu một thế giới thanh tịnh, với bi nguyện của chư Phật, muốn cứu vớt hết tất cả những khổ nghiệp chúng sanh về nơi quốc độ của Ngài. Đây là một thế giới thuần thiện, nơi đó, toàn là những bậc Thánh tăng, Bồ tát, La hán, cho nên bấtcứ ai sanh về cõi này, thì sống trong môi trường tốt đẹp với các bậc thánh như vậy, không một ác duyên nào, nói khác đi, chung quanh đều là thiện tri thức, chẳng có bạn ác đến dụ dỗ hoặc đến quấy nhiểu bạn. Với môi trường tốt đẹp như thế, giúp cho chúng ta nhanh dứt trừ các việc ác, tu tập nhanh thành tựu quả vị. Dù người tạo nghiệp ác, nhưng biết thức tỉnh, ăn năn sám hối, quyết lòng niệm Phật, họ vẫn được Phật tiếp dẫn về Tây phương, và mang theo nghiệp cũ đó về cõi Phật. Ta gọi là “Đới nghiệp” là mang theo cái ác nhơn cũ đó về Tây phương, ở đó chẳng có ác duyên bên ngoài, thì các chủng tử xấu ác bên trong không thể hiện hành được. Bởi vì thế giới Tây phương Cực lạc là thuần thiện. Do gặp môi trường tốt, nên các nhân thiện và duyên thiện huân tập vào trong tạng thức của chúng ta, nên việc tu hành rất nhanh thành tựu đạo quả. Đạo lý là ở chỗ này. Nó vẫn là nhơn quả, nói về lý luận nhân quả, nhất định chẳng có trái nghịch và mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, người thật lòng sám hối là hi hữu và tốt đẹp vô cùng. Được như vậy thì mười phương chư Phật đều khen ngợi, tán thán. Chúng ta hiện nay biết được đạo lý này thì bây giờ phải thật lòng sám hối, không những trong tương lai mình vãng sanh, mà ngay trong đời sống hiện tại càng tăng thêm nhân cách của mình. Người có chí khí phải nỗ lực cố gắng vươn lên!
(Trích “Tịnh Độ vấn đáp” của HT. Tịnh Không)
Đọc những lời hồi đáp của huynh Tịnh Thái Sơn tôi cãm thấy ấm lòng lắm ! Mình sẽ có gắng nghe theo lời khuyên, sẽ cố gắng đọc thường xuyên Liễu Phàm Tứ Huấn . Một lần nữa chân thành cãm ơn huynh . Nam Mô A Di Đà Phật !
A Di Đà Phật
Con có thể xin địa chỉ email của BBt được không ạ. Vì con muốn gởi 50 file gương vãng sanh của người Việt để kính nhờ BBT đăng cho mọi người được xem và tải. Được vậy con xin thành kính tri ân BBT rất nhiều
A DI ĐÀ PHẬT
A di đà phật.
Bạn có thể chia sẻ các file đó đc ko ạh.
A di đà phật. Cảm ơn bạn
Nam Mô A Di Đà Phật
xin chào bạn Nguyên Gấm
Bạn có thể liên lạc với mình theo địa chỉ email sau: [email protected] hoặc theo số đt: 0915116885 mình sẽ gửi sách tặng bạn
a di da phat