Khi Ðức Phật còn ở đời, em ruột cùng cha khác mẹ của Ngài là ông Nan Ðà, con người bảnh trai lịch thiệp phong lưu, tham ái đa tình. Nhờ lịch thiệp bảnh trai, lại là hoàng tử, nên Nan Ðà đã sớm giao du với mọi người trong hoàng thân quốc thích, dự không biết bao nhiêu cuộc yến tiệc rượu nồng, cung phi mỹ nữ trẻ đẹp, đờn địch hát xướng.
Lửa tình sớm đốt cháy nơi lòng, Nan Ðà đã sớm thành hôn với thiếu nữ trẻ đẹp tên Tôn Ðà Lợi. Từ đó Nan Ðà đắm đuối bên vợ suốt ngày đêm. Chàng cảm thấy dường như vẻ đẹp của hoa lá, cùng hương trời sắc nước của trần gian như đã tô điểm thêm vẻ đẹp cho vợ mình. Nan Ðà rất thích những buổi yến tiệc của hoàng tộc để chàng có dịp dắt vợ khoe giữa đám đông. Vui thích được nghe mọi người chúc tụng khen tặng vợ mình trẻ đẹp, đồng thời cũng không muốn vợ tiếp xúc giao thiệp với người khác.
Chàng thương yêu vợ đáo để không rời xa một bước, Lòng ham muốn dục tình trong người Nan Ðà như than hầm rực đỏ nung cháy trong lòng. Suốt ngày chỉ suy tính đến chuyện yêu đương ân ái giàu sang hưởng thụ cho thỏa tình. Nhưng lòng tham dục của kẻ không biết thiểu dục tri túc có bao giờ đủ đâu? Cho nên kẻ tham dục luôn luôn rơi vào hưởng thụ ích kỷ như người khát uống nước biển, càng uống càng cảm thấy khát!
Theo thời gian, tâm trí và năng lực của Nan Ðà chỉ biết cung phụng cho ái ân bạc tiền. Ðức Phật thương ông sẽ trôi lăn triền miên trong vũng bùn ngũ dục (tài, sắc, danh, ăn, ngủ) vô tình đem đốt rụi đời mình trong đống lửa tham vọng dục tình, để rồi chuốc lấy nghiệp ác kéo lôi với đôi bàn tay trắng khi tắt thở lìa đời. Mãnh lực yêu thương và niềm hy vọng sẽ được kế ngôi vị quốc vương đã làm cho Nan Ðà mù quáng không còn thấy được tia sáng chân lý cuộc đời.
Sự thành đạo giác ngộ của thái tử Tất Ðạt Ða; sự hoằng dương chánh pháp hóa độ chúng sanh của Ðức Phật Thích Ca; sự xuất gia theo Phật tu hành của Kiều Ðàm Di Mẫu, công chúa Da Du Ðà La, La Hầu La và năm mươi hoàng tử trong hoàng tộc, cùng dân chúng và hoàng thân quốc thích ai nấy lo tu đức cúng dường Tam Bảo, làm việc từ thiện bố thí, những sự kiện dồn dập này đã làm cho Nan Ðà suy nghĩ về cuộc đời, về kiếp sống của con người, về sự tu nhân tích đức. Nhưng sự suy nghĩ đó chỉ thoáng hiện qua trong đầu óc của Nan Ðà như đóm sao rơi giữa bầu trời dày đặc tăm tối!
Ðức Phật thương hại Nan Ðà vì danh lợi ái tình mà ngày ngày đốt thiêu tiêu phí oan uổng năng lực tâm trí, điều quý giá nhất của kiếp người là thì giờ, tâm trí và năng lực. Nhưng hoa quý đâu thường nở, trẻ đẹp đâu mãi còn, già bệnh chết không hẹn với người.
Sau những lúc ái ân, vào những lúc tàn canh yến tiệc, khi vợ chồng bất hòa, hoặc khi thân thể bệnh hoạn rã rời, lúc đó Nan Ðà cảm như tử thần bên cạnh.
Mỗi lần đến tinh xá Kỳ Hoàn thăm Phật, được nghe Phật thuyết về lý vô thường, tứ đế, nhân quả, từ bi, hỷ xả, đạo quả giác ngộ Niết Bàn và trước tướng mạo trang nghiêm, dung nghi hỷ xả thanh thoát của Ðức Phật, Nan Ðà đã say sưa ngưỡng mộ về đức tướng trang nghiêm của Phật, tự so sánh mình và vẻ đẹp trần tục của vợ không nhằm vào đâu. Chẳng bao lâu Nan Ðà đã nghe theo lời khuyên của Ðức Phật, phát tâm xuất gia thọ giới tu hành. Nhưng với Nan Ðà thì thân tuy xuất gia, mà tâm chưa vào đạo, nên lòng lúc nào cũng nghĩ đến vợ, đến nhà và trông có dịp là chạy về thăm vợ. Lửa lòng chàng nung cháy hẩy hừng. Nhớ thương vợ bứt rứt cầm lòng không đặng, lắm lúc Nan Ða muốn xả giới để hoàn tục, hoặc đánh liều lén Phật về thăm rồi tới đâu thì tới.
Một hôm, trước khi lên đường đến xứ Ma Kiệt Ðà thuyết pháp giáo hóa, Ðức Phật gọi Nan Ðà đến căn dặn: “Hôm nay ta đáp lời thỉnh cầu của vua Tần Bà Ta La, ta đến thuyết pháp cho vua và hoàng tộc nghe và ta cùng đại chúng thọ trai cúng dường nơi đó, đến chiều mới về. Vậy ông ở nhà nhớ xách nước đổ cho đầy lu, rồi sau đó ông muốn làm gì tùy ý”.
Nan Ðà nghe Phật nói thế, lòng rất đỗi vui mừng, nghĩ bụng rằng, ta sẽ múc nước đổ đầy lu trong chốc lát, rồi ta thong dong về thăm Tôn Ðà Lợi, người vợ thương yêu của ta. Lâu ngày không gặp nhau, khi ta về thăm, chắc nàng mừng lắm!
Ðức Phật và Tăng chúng vừa ra khỏi tinh xá Kỳ Hoàn, Nan Ðà vội vã làm công việc múc nước đổ vào lu, cứ thế đổ mãi đến gần trưa, nhưng nước chỉ tới hai phần lu, không tăng thêm được nữa, dù ông cố sức chạy xách nước đổ vào lu cách nào, mực nước trong lu cũng chỉ thế chứ không đầy. Lấy làm lạ, Nan Ðà bực mình quăng thùng nước, lật lu xem có phải lu nứt bể hay không? Nhưng hình thái lu vẫn còn tốt, không có một dấu vết nào nứt lủng. Ông lại lật ngửa lu lại để ngay ngắn và bắt đầu dồn dập gấp rút hơn trước, xách nước múc đổ vào lu. Nhưng mực nước cũng chỉ đến nửa lu rồi ngừng. Dù ông ra sức xách nước đổ vào thế nào đi nước, mực nước trong lu cũng chỉ thế thôi. Không nhẫn nại được nữa, Nan Ðà quăng đôi thùng, nghĩ bụng rằng, Phật và Tăng chúng chiều tối mới trở về. Tốt hơn ngay bây giờ ta về nhà thăm nàng Tôn Ðà Lợi trước, rồi sau đó trở lại gánh nước đổ đầy lu cũng chẳng muộn gì. Vả lại Phật đâu có biết ta lén về.
Nan Ðà vừa bước vô nhà thì Ðức Phật hiện ra trước cửa. Nan Ðà thấy Phật giựt mình thất sắc, mồ hôi toát ra như tắm, vội vàng quỳ lạy ăn năn, thú thật nước chưa đầy lu.
Ðức Phật ôn tồn bảo: “Nước chưa đầy lu, sao con đến đây làm chi?”. Nan Ðà hổ thẹn, cúi đầu lặng thinh không nói nên lời. Ðoạn rồi Phật dẫn Nan Ðà trở về tinh xá và hết lời khuyên nhủ để cho tâm trí ông mở mang và kiên nhẫn tu hành.
Quán biết được cõi lòng của Nan Ðà đang bị lửa tham ái ầm ĩ đốt thiêu, nên Ðức Phật dùng phương tiện để độ ông kẻo tội nghiệp. Ðức Phật dẫn Nan Ðà vào rừng, thấy con khỉ cái già, lông lá rụng hết, bày trơ lớp da sần sùi, gầy gò tanh hôi, Ngài hỏi Nan Ðà:
– Con khỉ già này có đẹp bằng nàng Tôn Ðà Lợi vợ ông không?
Nan Ðà nhăn mặt lắc đầu:
– Bạch Thế Tôn, làm sao lại có thể so sánh được với nàng Tôn Ðà Lợi. Bởi nàng trẻ đẹp dịu dàng, da thịt mịn màng như nhung gấm thêu hoa, như trăng tỏa sáng, như mặt nước hồ thu.
Ðức Phật lặng thinh theo dõi dáng điệu lộ vẻ không bằng lòng của Nan Ðà. Ngài càng thương hại cho ông không hiểu thân người bất tịnh, lại bị lý vô thường phá hủy tạo thành sanh diệt huyễn ảo của kiếp người và vạn vật trên đời này. Con người và vạn vật ngày ngày lặng lẽ trôi về trạng thái già nua suy tàn. Nhưng Nan Ðà cũng như khắp trong thiên hạ có được mấy ai tỉnh ngộ?
Ngài lại dùng thần thông dắt Nan Ðà lên cõi trời thứ ba mươi ba. Trước cảnh trí ngời sáng huy hoàng, cỏ hoa thơm ngát, thông reo thác đổ, cùng các tiên nữ diễm lệ hương sắc tuyệt trần đang dạo chơi thưởng hoa ngắm bướm, vừa thấy Phật, các nàng tiên hân hoan vây quanh mừng vui kính lễ chào Ngài. Nan Ðà bỗng nhiên được sống trong cảnh trí hương sắc của tiên giới, cùng với những nàng tiên trẻ đẹp lộng lẫy tuyệt trần, lòng ông phấn khởi ngây ngất quên đi cõi trần thế, quên cả nàng Tôn Ðà Lợi, người vợ thương yêu của ông. Không cầm lòng được, bất giác Nan Ðà hỏi Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn, ở đây cảnh trí sao quá đẹp, người sao quá diễm lệ tuyệt trần?”.
Ðức Phật hỏi Nan Ðà:
– Ông thấy thế nào về vẻ đẹp của các tiên nữ so với nàng Tôn Ðà Lợi? Và vẻ đẹp của nàng Tôn Ðà Lợi cùng với con khỉ cái già lông lá rụng hết, da thịt nhăn nheo kia?
– Bạch Thế Tôn! Cả hai không khác gì nhau. Vẻ đẹp của nàng Tôn Ðà Lợi so với các tiên nữ ở đây cũng như con khỉ đột già kia so với vẻ đẹp của nàng Tôn Ðà Lợi. Bạch Ðức Thế Tôn, con muốn quên đi cõi trần thế để được ở luôn nơi đây. Cúi xin Ðức Thế Tôn từ bi thương xót cho con được toại nguyện ở lại đây.
Thấy Nan Ðà mà thương hại, Ðức Phật ôn tồn bảo:
– Nếu muốn ở lại dây, thì ông nên trực tiếp đến hỏi các tiên nữ kia.
Nan Ðà vui mừng, lòng tràn đầy hy vọng, liền lẹ chân hướng về các tiên nữ mở lời:
– Thưa các cô, tôi thấy cảnh thấy người nơi đây tự nhiên lòng tôi sanh cảm mến lạ thường. Tôi ước ao xin ở lại nơi dây, không biết có được chăng?
Các tiên nữ đáp: Muốn ở lại đây phải là những người ở cõi trần đã có tâm trì trai giới hạnh tu hành, biết làm nhiều việc phước thiện, lòng đã dứt tình ái ân.
– Nhưng sao ở đây không thấy người nam nào hết, thưa các cô? Nan Ðà hỏi.
– Chị em chúng tôi đang chờ mong ông Nan Ðà, em của Phật đang ở cõi trần, biết phát tâm tinh tấn trì giai giới hạnh tu hành, khi công đức đầy đủ sẽ sanh lên đây, làm chủ nhân ông sống cùng với chị em chúng tôi hưởng thú vui hạnh phúc.
Nan Ðà mừng quá reo lên:
– Nan Ðà chính là tôi đây!
Các tiên nữ đáp;
– Nhưng bây giờ chưa phải lúc được ở chốn này, vì Nan Ðà còn kém tu, phước duyên chưa đủ, tuy xuất gia mà tâm chưa vào đạo!
Nghe thế, Nan Ðà thất vọng não nề. Sau đó Ðức Phật lại dẫn Nan Ðà xuống cảnh giới địa ngục. Trước cảnh tượng tội nhơn bị qủy sứ đầu trâu mặt ngựa hành hạ, tra kẹp, gông cùm, thiêu đốt, máu chảy thịt rơi v.v… thốt ra những tiếng thất thanh từ nơi ngục lạnh, hầm chông biển lửa, Nan Ðà khiếp đảm sợ run, bám sát lấy Phật. Phật dẫn Nan Ðà đi khắp từ địa ngục này tới địa ngục khác, chứng kiến biết bao thảm trạng thống khổ hãi hùng của tội nhơn. Nan Ðà nãy giờ cúm rúm lặng thinh theo sát chân Phật. Có lúc ông phải nhắm mắt lại, không dám nhìn cảnh tượng hãi hùng rùng rợn chật ních tội nhơn: Kẻ thì bị cưa xẻ quăng vào vạc dầu sôi; kẻ bị ngồi trên bàn chông sắc lửa đỏ hừng hực cháy; kẻ bị trói vào trụ đồng nung lửa đỏ; kẻ bị quỷ dữ đuổi vào biển lửa cháy cong queo v.v…
Ðến một nơi khác thấy vạc dầu sôi sùng sục mà không có tội nhơn, ba con quỷ đầu trâu mặt ngựa cầm chỉa ba mắt to lờm lờm gầm gừ trong tư thế sẵn sàng đâm tội nhơn ném vào vạc dầu sôi. Thấy vậy, Nan Ðà bạch Phật: “Bạch Ðức Thế Tôn, nãy giờ con thấy địa ngục nào cũng chật ních tội nhân bị hành hạ. Nhưng sao vạc dầu sôi này lại không có người?”
– Ðức Phật bảo Nan Ðà: Ông nên đến hỏi quỷ chủ ngục.
Nan Ðà vừa bước đến, ba quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa há miệng như máu, răng tóc tua tủa như chông sắt, đồng thanh đáp:
– Nơi đây chưa có tội nhơn là vì chờ Nan Ðà, em của Phật không chịu giữ giới tinh tấn tu hành, chết sẽ đọa vào đây!
Vừa nghe, Nan Ðà hoảng hốt rú lên thất thanh, hồn bay phách tán, toát mồ hôi dầm dề, quỳ lạy Phật cầu xin mau mau dẫn ra khỏi nơi khủng khiếp này.
Sau khi Ðức Phật dùng thần thông đưa ông Nan Ðà trở lại cõi thế gian, ông hoàn hồn hồi tưởng lại những cảnh hãi hùng vừa đã chứng kiến, ông thành tâm nghe lời Phật khuyên nhủ, dứt khoát bỏ vọng tâm danh lợi ái ân, dốc chí theo Phật một lòng tinh tấn chuyên tâm tu hành, chẳng bao lâu, ông chứng thánh quả.
Nhưng thưa quý vị! Suy nghĩ kỹ, đâu phải nào chỉ có tâm trạng của Nan Ðà tham đắm lợi danh, đam mê ái dục, lòng nặng ích kỷ hưởng thụ? Nếu tôi không lầm trong mỗi con người chúng ta đều mang tâm trạng ấy một cách nặng nề sâu vào cốt tủy, làm hủy diệt biết bao khả năng thánh thiện của chúng ta. Tôn giả Nan Ðà đã hơn người đời ở chỗ là biết hổ thẹn ăn năn sám hối. Ông đã kịp thời tỉnh thức lương tri, nghe lời Phật dạy gắng công tu hành.
Sau khi được Phật phương tiện khai thị, ông đã hùng dũng đoạn trừ tất cả lòng tham ái lợi danh, khai nguồn tuệ giác, và cuối cùng Nan Ðà đã trở thành bậc thánh thiện giác ngộ. Còn chúng ta thì sao? Có ai dám thành tâm tự nhận rằng tôi yếu kém xấu xa thua người. Hay chỉ thích vạch lá tìm sâu, phê bình nói xấu, thêu dệt thêm thắt lỗi lầm của người khác? Ai đã dám dứt khoát từ bỏ danh lợi ái ân, thực sống với chính mình, tự nhận mình quá ư phàm tục, để dõng mãnh phát tâm nguyện sống đời từ bi hỳ xả vị tha, để thánh thiện theo hạnh Phật, để lợi ích cho mình và cho người. Hay chỉ quanh quẩn trong vòng tình cảm tham vọng hạn hẹp?
Chính điều này tuy không thấy có hình thức, nhưng là cội nguồn của buồn khổ, của tội lỗi, của đọa đày bất an cho suốt đời mình và vạn loại sinh linh.
Chừng nào biết dứt bỏ tình danh lợi, thì chừng ấy mới thực sự sống gần ánh đạo vàng giải thoát:
Ðắm đắm say say chuyện thế gian,
Lợi danh tình ái khéo đa mang,
Bao giờ dứt bỏ tình danh lợi,
Là bước gần bên ánh đạo vàng.
Thưa quý vị! Ðạo Phật là đạo từ bi giác ngộ, là đạo độ đời giải thoát mọi phiền lụy khổ đau. Mục đích của đạo Phật là thức tỉnh người đời sống thực với lòng mình và nhìn thẳng vào cuộc đời để nhận chân mình và hiểu rõ mọi hiện tượng thịnh suy thành bại của cuộc đời. Thực chất của thân người là sanh, già, bệnh, chết, khổ và không. Thực chất của cuộc đời là danh lợi, ái dục. Con người và cuộc đời được xây dựng trên tham lam, sân hận, si mê, ích kỷ và tất cả đều giả tạm. Con người suốt đời quanh quẩn đắm chìm trong vòng tranh chấp thị phi. Do đó, bi quan, lạc quan, thành bại, ái ân của tình đời được tô điểm lên lớp tự kỷ, mỹ hóa, nhưng thực chất của mọi hiện trạng vẫn là ích kỷ, tham, sân, si, ái dục, danh lợi, khổ và không.
Ðức Phật nhận thấy chúng sanh đắm chìm trong hư giả mộng huyễn, liên miên chụp bắt chấp trước rồi sanh ra tranh chấp tạo đau khổ cho nhau, nên động lòng thương mà thuyết giảng hướng dẫn để cho người đời tỉnh thức. Kinh Lăng Già nói: “Thế gian ly sanh diệt, du như hư không hoa. Trí bất đắc hữu vô, nhi hứng đại bi tâm. Viễn ly ư đoạn thường, thế gian hằng như mộng”. Nghĩa là: Nếu thế gian lìa sanh diệt thạnh suy vinh nhục hơn thiệt thì giả huyễn như hoa đóm giữa hư không. Nhưng chúng sanh không nhận rõ điều đó, nên đắm đuối khổ lụy. Vì vậy Phật động lòng từ bi mới giảng thuyết giáo pháp để cho chúng sanh thấu rõ vạn sự thế gian là mộng, đừng dong ruổi, nên gắng tu để giác ngộ, chứng chân thật giải thoát.
Ðể tránh rơi vào cái khổ tâm thao thức triền miên của kiếp người bất an, Ðức Phật khuyên con người nên sớm tu tỉnh. Muốn tu tỉnh thì trước nhất phải mở rộng lòng ra, biết tri túc, hỷ xả, bố thí, thương giúp người, biết phản tỉnh tự tâm, biết rõ ta từ lòng mẹ ra đời với hai bàn tay trắng và ngày từ giã cõi đời này cũng chỉ với hai bàn tay trắng. Tình ân ái vợ chồng con cái quyến thuộc có thương tiếc kéo níu lại cũng không được. Dẫu giàu có tiền kho bạc biển cũng không mua chuộc được với tử thần. Quỷ vô thường đến dắt đi không thể hẹn. Mạng sống của đời người chỉ trong hơi thở. Thở ra mà không hít vào là kết liễu mạng sống. Sớm còn tối mất nào có chắc gì? Nếu chúng ta không biết tĩnh tu, suốt tháng năm, suốt cả cuộc đời cứ chạy theo hy vọng hảo huyền, để cho lòng tham lam, ái dục, ích kỷ lôi cuốn, một mai nhắm mắt lìa đời, có ân hận mình sao vụng tu thiếu phước cũng chẳng kịp.
Trích từ Pháp Ngữ Lục của hòa thượng Thích Đức Niệm
Kinh thưa các cô chú, cho cháu hỏi cháu có xem qua phim Tội tà dâm quả báo ở địa ngục trên trang duongvecoitinh nay. Con xin nói thêm là tựa phim là ÂM LUÂT VÔ TÌNH của Thượng Quang Ngọc Hoa. Trong đó có nói ăn chao là ko được vì có rượu, và có tội tà dâm là gần gũi vợ chồng trong các tháng chay. Cháu ko biết những việc này là có tội nhưng nhỡ vợ cháu sau này không tin tưởng mà gần gũi cháu trong tháng chay vậy cả hai có tội sao. Xin cô chú cho ý kiến. Xin cám ơn.
A Di Đà Phật – Chào bạn Minh:
Việc sinh hoạt vợ chồng thì nhà Phật không có cấm đối với hàng Phật tử tại gia nhưng phải biết tiết chế và giữ gìn nguyên khí cho thân thể được khỏe mạnh. Còn nếu quá buông lung hay đam mê cho thỏa ý thích dục vọng của mình thì cũng xem là tà dâm. Cuốn “Âm Luật Vô Tình” là hồi chuông cảnh tỉnh rất tốt cho Phật tử tại gia chúng ta, dựa vào đó mà chúng ta nên tuân thủ thì được tăng trưởng thêm phước thọ.
Trước tiên bạn cứ “hồn nhiên” 🙂 chia sẻ cuốn sách này cho vợ bạn xem:
http://www.tinhte.vn/threads/am-luat-vo-tinh.2269945/
xem phản ứng của cô ấy ra sao…biết đâu vợ của bạn cũng sẽ “giác ngộ” 🙂
và Tịnh Thái cũng có chia sẻ về việc này tại:
http://www.duongvecoitinh.com/index.php/2013/04/vo-chong-gan-gui-nhau-co-pham-gioi-ta-dam-khong/comment-page-1/#comment-9842
Còn nếu vợ mình chưa sẵn sàng tiếp nhận thì vào các ngày lục trai/thập trai thì mình cũng khéo léo “dàn xếp” việc sanh hoạt vào ngày khác với lý do rất đơn giản là…hơi mệt 🙂 và làm vui lòng vợ mình bằng 1 bộ phim hay dẫn vợ đi shopping chẳng hạn 🙂
Tịnh Thái tin rằng bạn sẽ “dàn xếp” được 🙂
Nam Mô A Di Đà Phật.
Tội tà dâm là khi mình gần gũi với người khác khi họ đã có gia đình rồi, hoặc khi mình đã có gia đình rồi mà còn quan hệ “ngoài luồn”, hoặc khi chưa có gia dình mà quan hệ phóng túng, bừa bãi. Còn vợ chồng gần gũi chừng mực thì ko xem là tà dâm. Việc ăn chay để nhắc nhở tâm mình phải nên thường trong sạch và thanh tịnh, tôi xin kể cho các bạn 1 câu chuyện ngắn:
Xưa kia Đức Đạt Lai Đạt Ma vì hoàn cảnh bắt buộc phải uống ly rượu để người thanh niên kia chịu nghe mình giảng giải (người này sau trở thành đệ tử của Ngài). Ngài uống nhưng trong tâm Ngài ko xem đó là rượu, ko có thích thú, cũng chẳng động tâm, cùng với nước lã không khác gì hết.
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy tâm mới là quan trọng, tâm làm chủ các pháp, vì vậy bạn đừng quá lo, hoàn cảnh bắt buộc thì cũng chỉ là chuyện tạm bợ mà thôi. Tâm của bạn đã “chay” thì mọi chuyện ăn uống hay sinh hoạt trong gia đình đều là chay cả.
Con cám ơn chú vậy nói chung là mình phải tránh gần gũi vợ chồng vào 6 ngày chay cơ bản, còn ba tháng chay tháng 1 5 9 âm lịch thì mình nên hạn chế tối đa đúng không chú. Còn việc nữa nhờ chú Tịnh Thái xin hoan hỷ trả lời gíup con về việc chao có rượu thì ăn có phạm giới không vì con đọc trong Âm luật vô tình thì trong đó có nói ngài Địa Tạng nói không nên ăn (nếu con có nghe sai thì con xin thành tâm sám hối). Con thì ăn chay lại thường xuyên dùng chao nên cũng lo lắng cám ơn chú.
Còn một việc nữa nhờ chú góp ý: con đang tập ăn chay trường, con ăn cũng được vài tháng nhưng con có bệnh mắt con yếu hay mỏi mắt, đi bác sỹ cho uống thuốc dầu cá omega3. Con hiện nay không dám uống vì nghĩ dầu cá chiết xuất từ mỡ cá nên mình uống là mình gián tiếp giết hại nó rồi. Con không biết tính sao nhưng hiện giờ con không uống xin chú cho con lời khuyên.
A Di Đà Phật – Chào bạn Minh:
Đúng là phải nên hạn chế việc tham đắm sắc dục, việc này phải biết khéo léo nữa, không thì gia đình lục đục ko vui thì cũng chướng ngại cho phàm phu chúng ta tu tập trên đường giải thoát lắm. Đạo chẳng thể tách Đời, mà cũng chẳng để đời làm nhiễm tâm Đạo, làm thối thất tâm Đạo. Do đó khó nhất là tu nhà, sau mới tu chợ, rồi sau cùng mới tu chùa – vì duyên ở gia đình thế tục thì quá đa đoan, quá nhiều thứ dễ làm cho tâm phàm phu chúng ta bị mê hoặc, bị cám dỗ. Cho nên phải gần gũi thiện tri thức, phải thường tham khảo lời dạy của Phật, của Tổ để hiểu rõ tường tận là trong hoàn cảnh nào thì người tu nên ứng xử ra sao là hợp lý, hợp tình & hợp pháp (pháp là bao gồm cả thế pháp cùng Phật pháp).
Khi mình biết tu thì mình rất thương vợ, vì sao? Vợ mình chưa biết tu, hay tu chậm hơn, tiến chậm hơn thì mình phải nhẫn nại dìu bước họ đi từ từ, chứ không thể thúc ép họ “đi nhanh” như mình, chỗ này người tu dễ vướng vào lắm…tu một thời gian thì vợ chồng xa cách, cha con xa cách, rồi mình với Cha Mẹ mình ko khéo cũng lạnh nhạt đi…tự mình nghĩ là “ko có khả năng độ được những người này”. Nhưng Phật lại dạy: “Phật chỉ độ người hữu duyên” – nay họ có duyên với ta, làm thân thuộc trong gia đình tức là có duyên, có duyên thì có thể độ được. Chỉ là do mình phải chăng quá nôn nóng? Hay chưa biết dùng phương tiện khéo léo và khế cơ hơn chăng?
Mình nên thường quán chiếu điều này sẽ có nhiều lợi ích lắm…Thí dụ nói chuyện sanh hoạt vợ chồng: Nếu mình chiều bà xã mình một chút rồi sau đó vợ mình hoan hỉ cùng với mình công phu, tụng Kinh, niệm Phật, nghe pháp – so với việc cứng ngắc “trì giới” khiến vợ mình cáu giận, chẳng thèm nghe mình nói chuyện huống gì công phu chung thì mình thấy thế nào? Việc sanh hoạt vợ chồng lúc này cũng thuộc về Lục Độ Ba La Mật, Bố thí nội tài, tận hết bổn phận làm chồng là Trì giới, vui vẻ an nhẫn với vợ là Nhẫn Nhục, Phật hiệu chẳng hề lìa tâm là Đại Tinh Tấn, ngoài ko dính tướng trong không động tâm là Thiền Định, dùng phương tiện khéo (dục) để dẫn dắt vợ mình thâm nhập Phật pháp từ từ là Trí Huệ, là Từ Bi.
Người Mê thì ngay trong Phật pháp cũng vẫn là Mê, người Giác thì ngay trong hành vi Thế Tục vẫn là Giác. Mê cùng Giác chẳng phải do việc ở bên ngoài mà phân biệt, việc sanh hoạt vợ chồng trong một chừng mực nào đó cũng là hằng thuận chúng sanh, tùy hỉ công đức. Quan trọng nhất là tâm mình ko có dính vào tướng tham dục, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, Phật hiệu ko gián đoạn. Chớ nên bảo rằng là trong lúc sinh hoạt vợ chồng thì chẳng được phép niệm Phật, có thể niệm thầm Phật hiệu. Phật dạy “tịnh niệm tương tục”, Ấn Quang Đại Sư dạy “bất kể đi đứng nằm ngồi đều chẳng được rời Phật hiệu” thì việc sanh hoạt vợ chồng nào có ngoài “đi đứng nằm ngồi” đâu? Chỉ là không được niệm thành tiếng mà thôi. Còn niệm Phật thầm thì chúng ta có thể niệm được, niệm bằng ý, dùng câu Phật hiệu để hóa giải “tư tưởng đam mê dục vọng” kia, ta niệm thì ta biết, Phật biết chứ chẳng cần phải để cho vợ biết :), người khác chỉ thấy mình làm tròn bổn phận và mình cũng vui vẻ chứ chẳng thể biết trong tâm mình chỉ có A Di Đà Phật. Tu mà như không có tu vậy đó, gọi là “tu lén, tu mót” 🙂 chứ hông dám dùng từ gì cao siêu kẻo lại khiến người đọc lầm lạc.
Còn việc ăn chao thì không vấn đề gì – vấn đề là mình chẳng thể “thèm” chao 🙂 ăn chay rồi mà còn thèm món này món kia dù đó là món chay thì cũng…kẹt lắm, lỡ sau này ko có món đó mà ăn thì trong lòng bứt rứt khó chịu. Giống như người ăn chay mà mỗi bữa cơm phải ăn 1 trái ớt thì ăn mới ngon, đây vẫn là chưa thiệt buông xả, chấp vào vị giác còn nặng, cần phải chú ý bỏ ớt từ từ, cho đến bỏ hẳn…Người tu ăn uống phải nên đơn giản và tùy duyên, có gì thì ăn đó, ăn món nào ngon hay dở thì mình cũng nên vui 🙂 vì trong tâm có A Di Đà Phật 🙂 Khi ăn, khi nhai nhất định ráng ép mình niệm Phật, rồi dần cũng thành quen…lâu ngày ko còn quá đắm chìm vào mùi vị nữa, dần sẽ tan nhạt đi – nguyên nhân là do vừa ăn vừa niệm A Di Đà Phật. Vậy thì đang ăn cũng là đang tu rồi 🙂 Tu cái gì vậy: “Ngoài ko dính tướng, tâm chỉ niệm Phật”.
Mắt yếu là do túc nghiệp mà ra, bạn ko uống dầu cá là đúng lắm, chẳng nên nghe theo bác sĩ, bác sĩ có thể trị bệnh sinh lý ở thân chứ túc nghiệp quả báo thì chỉ có bản thân mình tự chuyển, bạn phải có niềm tin này. Việc này chỉ có thể nói với người hiểu đạo, với phàm phu thì bác sĩ cho gì thì họ nhất định sẽ nghe lời bác sĩ 🙂 chứ chẳng nghe theo Phật 🙂 Nếu dầu cá trị mắt yếu thì chắc giá cao lắm vì ai bị mắt yếu cũng nên uống, mà sao có người uống khỏi, có người lại ko, thậm chí ngày một nặng hơn? Nếu nói nó là hiệu quả thì phải nên hiệu quả 100%, vừa giảm xuống một chút 80% thì chẳng phải là phương thuốc tốt. Trì giới niệm A Di Đà Phật chính là thuốc hay bậc nhất vậy.
Bạn cũng nên hạn chế ngồi vi tính hay xem tivi, cho đến lướt iphone, tablet…vì tia bức xạ từ trong màn hình có hại cho mắt lắm, mắt bình thường mà ngồi màn hình lâu thì cũng suy yếu rất nhanh, huống hồ mắt mình có bệnh. Hãy dùng đôi mắt ấy để đọc Kinh, đọc Chú Giải, để quán sát hết thảy thiện pháp mà có thể giúp mình tăng trưởng trí huệ & tâm từ bi.
Vài lời thô kệch hi vọng sẽ giúp cho bạn được một chút.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật các đạo hữu,
Huệ Tịnh tán thán lời khuyên rất thực tế lợi ích của đạo hữu Tịnh Thái.
NAM MÔ THƯỜNG HOAN HỶ BỒ TÁT MA HA TÁT!
Tui có ý kiến cho Bạn đọc Minh:
Chúng ta đang sống trên cõi người, tất cả chỉ là tương đối.
Nói về sát sanh :
Chúng ta ăn thực vật như rau, củ, quả, cây,….cũng là sát sanh, mà đó là sát sanh thực vật.
Bởi vậy chỉ là tương đối, nên hạn chế càng nhiều càng tốt.
Chúng ta sống phải có sức khỏe, nên “Trình độ mình tới đâu” thì hãy “Tu tập” tới đó, đừng quá “Cưỡng ép”, “Lâu dài, đều đặn, liên tục” là chủ yếu, từ từ sẽ có kết quả!
Chúng ta có “Thân và Tâm”, “Thân” đã tu thì “Tâm” cũng phải “Tu”.Trong 2 thứ “Thân và Tâm” thì “Tâm” quan trọng hơn “Thân”.
Bạn là đàn ông, nếu là “Đàn ông” thực sự : không bị bệnh làm giảm ham muốn tình dục, không là người “Đồng tính” thì chuyện “Quan hệ vợ chồng” là chuyện bình thường.
Trên tinh thần “Đang sống” thì chuyện “Quan hệ 1 vợ 1 chồng” không có gì là “Phạm giới” cho dù là ngày ăn chay!Nhưng phải chú ý đến sức khỏe ,nếu nhiều quá sẽ “tổn hại” sức khỏe.
Bạn có ý nguyện Vãng sanh cõi Cực Lạc là tốt, nhưng làm gì để khi chết vãng sanh cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà là chuyện không phải dễ!
Túm lại: Bạn đừng quá “Cứng nhắc”.
A Di Đà Phật đạo hữu Tịnh Trung,
Tịnh Trung: “Bạn có ý nguyện Vãng sanh cõi Cực Lạc là tốt, nhưng làm gì để khi chết vãng sanh cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà là chuyện không phải dễ!”
– Cố Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh dạy về cách nhất tâm, tinh tấn và chuyển hóa vọng niệm –
“Ngày tháng trôi qua mau lắm, một năm không mấy chốc mà đã hết rồi. Già, bệnh, chết mãi đeo theo người, không chừa ai hết. Mong các huynh đệ ai nấy đối với pháp của Phật, không biết nhiều thì cũng biết ít, noi theo chỗ hiểu biết của mình mà tinh tấn tu hành, luôn luôn nghĩ đến vô thường, sanh tử. Thân này tuy không bền lâu, mình phải cố gắng nương theo thân người này để tu hành, vượt qua biển sanh tử, lên đến bờ giải thoát. —> (Nếu chưa được vậy thì cũng làm nhân duyên thù thắng cho những đời sau, đạo tâm kiên cố, căn lành tăng trưởng.”) <— Huệ Tịnh: Rất quan trọng nên hiểu như vậy.
==================================
KINH A DI ĐÀ.
Hán dịch: nhà Dao Tần, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Saigon, Việt Nam
Một đoạn chương trong kinh:
"Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về."
==================================
NAM MÔ THƯỜNG HOAN HỶ BỒ TÁT MA HA TÁT!
AM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Xin Chân thành chia sẽ với các vị đồng tu Niệm Phật Tự Tại Vãng Sanh.
https://www.youtube.com/watch?v=aTfypApZ51k
A Mi Đà Phật.
Con đã hiểu và con rất cám ơn công đức bố thí pháp cho con của Tịnh Thái và Tịnh Trung. A Di Đà PHẬT.
Người đã chứng và trú trong “Sơ thiền” còn muốn quan hệ tình dục vợ chồng không?
Để trả lời câu này phải hiểu rõ kinh Nikaya.
Và phải rõ “muốn về ý” hay muốn “về thân”!
Trong kinh Nikaya hay dùng từ “Chánh niệm”, từ này trong hệ thống kinh Nikaya có nhiều mức độ.
Trong kinh Nikaya trước khi “Chánh niệm tỉnh giác” có cụm từ “Mắt thấy sắc không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng”.
Trước khi chứng sơ thiền phải vượt qua triền cái “Tham ái”.Khi chứng sơ thiền là “Ly dục, ly bất thiện pháp, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh”.
Tất cả yếu tố trên đa số nói là không còn muốn quan hệ tình dục vợ chồng.
Ở mức “Hộ trì các căn” lúc đó chưa “Chánh niệm tỉnh giác” nên “sự tỉnh thức” ở mức thô,không thấy ở mức Vi tế.
Ngoài ra ở “Tam thiền” cũng nói đến “Chánh niệm tỉnh giác”,. Nên tùy vào từng tầng thiền và tùy vào sự đoạn diệt các kiết sử mà “Sự tỉnh thức” sẽ khác nhau.
Còn Phật Thích Ca hay nói “Chánh niệm” , đó là “Chánh niệm của Vị Phật. Cùng 1 từ nhưng mức độ “Tỉnh thức” khác nhau.
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
16. Kinh Ðại Bát-Niết-Bàn
(Mahàparinibbàna sutta)
Tụng phẩm III
Ðó là lời Thế Tôn dạy. Sau khi nói vậy, Thiện Thệ lại nói thêm:
Ta đã già, dư mạng chẳng còn bao,
Từ biệt các Ngươi, Ta đi một mình.
Tự mình làm sở y cho chính mình,
Hãy tinh tấn, chánh niệm, giữ giới luật,
Nhiếp thúc ý chí, bảo hộ tự tâm.
Ai tinh tấn trong pháp và luật này
Sẽ diệt sanh tử, chấm dứt khổ đau.
(Hết trích).
Ngoài ra còn có “Chánh niệm” của A La Hán
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
22. Kinh Ðại Niệm xứ
(Mahàsatipatthana sutta)
…………..vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm…………
22. Này các Tỷ kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại; hai là nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất hoàn.
(Hết trích).
Cụm từ “Hướng đến chánh trí, chánh niệm” được lập lại rất nhiều lần.
Từ “Chánh niệm” trong cụm từ này chúng ta hiểu là “Chánh niệm sau chứng quả A La Hán”.
Bởi vậy phải cẩn thận từ “Chánh niệm” trong kinh Nikaya.
Trong “Sơ thiền” có “Ly bất thiện pháp” vậy “Quan hệ tình dục vợ chồng” có phải là “Bất thiện pháp” không?
Nếu là cư sĩ tại gia là không, mà cư sĩ tại gia có người chứng “Sơ thiền” ,nên cư sĩ tại gia đã chứng và trú “sơ thiền” thì vẫn còn ý muốn quan hệ tình dục vợ chồng; “Ý muốn tình dục” là có, nhưng vì “Hỷ lạc trong sơ thiền” hơn “Hỷ lạc của tình dục nam nữ” nên đa số Người đã chứng sơ thiền không có “Hành động tình dục nam nữ” nhưng “Ý muốn tình dục “ là có!
Ở mức sơ thiền : “Chánh niệm” lúc không nhập định vẫn còn “Yếu” nên chưa “Nhận ra ý muốn tình dục nam nữ ở mức vi tế”, nên đa số nói là “Không còn ham muốn “Tình dục nam nữ” ở người bình thường không “Đồng tính” ”.
1 lần nữa, đây chỉ là ý kiến của tui!
A Di Đà Phật các đạo hữu,
Hành giả nào niệm Phật mà càng ngày càng ít tham muốn quan hệ tình dục nam nữ có phải là đi tới quả chứng sơ thiền không?
Điều trên sẽ hợp lý hơn nếu xét thêm Quả Tu Đà Hoàn.
Xem nội dung :
10/06/2014 09:12 (GMT+7)
Cư sĩ có đời sống vợ chồng tu tập có được giải thoát?
GN – Khi bạn vẫn còn duy trì ân ái vợ chồng thì có thể chứng đắc từ Sơ quả đến Nhị quả.
HỎI: Vợ chồng tôi là những cư sĩ Phật tử đã thọ trì 5 giới. Tôi muốn hỏi là chúng tôi vẫn có đời sống vợ chồng (ân ái) thì việc tu tập có thể thành tựu giải thoát không, hay phải đợi đến lúc không còn ân ái nữa mới tu tập giải thoát?
(THÁI PHI, [email protected])
ĐÁP: Bạn Thái Phi thân mến!
Kinh Phật ghi nhận có rất nhiều cư sĩ sau khi nghe Phật thuyết pháp hoặc sau một thời gian tu tập đã chứng đắc Sơ quả Dự lưu (Tu-đà-hoàn, diệt trừ ba kiết sử đầu tiên là Thân kiến, Nghi và Giới cấm thủ). Các vị như nam cư sĩ Anàthapindika, Jìvaka; nữ cư sĩ Godhà, Visàkhà v.v… đều chứng Dự lưu và có đời sống gia đình bình thường.
Ngoài ra, còn khá nhiều vị cư sĩ đã chứng đắc Nhị quả Nhất lai (Tư-đà-hàm, diệt trừ Thân kiến, Nghi và Giới cấm thủ và làm suy yếu hai kiết sử Tham, Sân). Những vị đắc Thánh quả Nhất lai như nam cư sĩ Mahànàma, nữ cư sĩ Sumanà con gái ông Anàthapindika. Bậc Nhất lai tuy chưa đoạn tận tham ái nhưng không còn bị dục tham chi phối nhiều.
Nói rõ về ba quả chứng của hàng cư sĩ như vậy để bạn yên tâm, vừa tu tập thanh tịnh thân tâm mà vẫn tròn đủ trách nhiệm, giữ gìn hạnh phúc gia đình. Khi bạn vẫn còn duy trì ân ái vợ chồng thì có thể chứng đắc từ Sơ quả đến Nhị quả. Đến khi chứng đắc Tam quả thì ái dục tự động tan biến. Bấy giờ có thể bạn xuất gia hoặc vẫn sống đời cư sĩ nhưng với người bạn đời chỉ còn ân nghĩa mà thôi.
Tuy vậy, thiết nghĩ người cư sĩ (chưa chứng Tam quả) nếu chưa có sự đồng thuận của vợ (chồng) thì không nên chủ động đoạn dục, vì như thế là chưa tròn trách nhiệm và bổn phận với người bạn đời của mình.
Chúc bạn tinh tấn!
TỔ TƯ VẤN ([email protected])
(hết trích).
A Di Đà Phật,
Xin gửi đến đạo hữu Huệ Tịnh và Tịnh Trung lời dạy của HT. Tịnh Không liên quan đến “Sơ Thiền” – Sơ Thiền cũng chỉ là phương tiện chứ chẳng phải mục đích của người học Phật, chứng Sơ Thiền thì không đồng nghĩa với với việc chứng được thánh quả Tu Đà Hoàn, chỗ này chúng ta cần lưu ý:
…ví dụ bạn tu sơ thiền, chưa ra tam giới, bạn đắc sơ thiền thì tương lai bạn cũng chẳng qua là sanh trời sơ thiền mà thôi, không dễ dàng thành tựu. Sao lại biết không dễ dàng thành tựu? Bạn có thể tự mình làm thử xem. Thiền định của sơ thiền có thể chế phục ngũ dục lục trần, họ là ở sắc giới, không phải dục giới. Chúng ta ngày nay đối với tài, sắc, danh, thực, thùy, ngũ dục lục trần còn động tâm hay không? Chỉ cần sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần còn bị động tâm, còn bị khởi niệm thì bạn liền biết rằng bạn ở dục giới, bạn không có phần ở sắc giới. Người trời sắc giới đối với mừng, giận, buồn vui không động tâm, tức nhà Phật thường nói là “tám gió thổi không lay”. Tám gió thổi không lay là cảnh giới gì vậy? Là cảnh giới của trời sơ thiền. Hay nói cách khác, công hạnh của họ càng cao thì định công càng cao. Chúng ta biết, không phải họ không có định công, cái định này ở trong Phật pháp gọi là “vị đáo định”, họ vẫn chưa đạt được sơ thiền, họ có định công, không đạt đến sơ thiền. Họ định công nếu như đạt đến sơ thiền rồi, thì trong tất cả cảnh giới đều không động tâm. Quả thật đúng là trong không động tâm, ngoài không bị cảnh giới cám dỗ, là người trời sắc giới.
Trong Sơ Thiền, tầng thứ công phu mỗi mỗi không giống nhau. Người chân thật dụng công, mỗi năm cảnh giới không như nhau, mỗi tháng cảnh giới không như nhau, mỗi ngày cảnh giới không như nhau, bạn liền biết được, tầng thứ của Thiền định phức tạp đến như vậy. Dùng phương pháp, phương thức thì vô lượng vô biên, cho nên gọi là vô lượng pháp môn. Những sự thật này chúng ta phải biết.
Thiền định là phương thức, không phải mục đích, cho nên nó cũng là pháp phương tiện, chứ không phải là pháp cứu cánh, các vị nhất định phải nên biết. Bạn phải “giác liễu chư thiền hư giả”. Có rất nhiều người tu Thiền định, được Thiền định, nhưng vì sao họ không ra khỏi ba cõi, không chứng được thành quả? Lỗi lầm chính ngay chỗ họ sanh khởi “kiến ái”. Cảnh giới của Thiền định tốt, nhà Phật thường nói: “Thiền duyệt vi thực”, cảnh giới đó thật an vui. Vừa vào được cảnh giới này, ham thích cảnh giới này thì hỏng rồi. Họ ham thích cảnh giới đó, cho nên họ ở nơi cảnh giới đó, họ không thể nâng lên, vậy thì đặc biệt sai lầm. Tương lai, chúng ta tu hành khế nhập cảnh giới này thì chính mình phải biết.
Trên kinh Kim Cang nói rất hay: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”. Cảnh giới Thiền định cũng là hư vọng, mười pháp giới y chánh trang nghiêm đều không phải là thật, nên chắc chắn không thể tham ái, vừa sanh tâm hoan hỉ thì chính mình liền đọa lạc, không thể tiến lên thêm. Cho nên, vĩnh viễn phải ghi nhớ: “Bất thủ ư tướng, như như bất động”, mãi mãi ghi nhớ, đến quả địa Như Lai vẫn là “bất thủ ư tướng, như như bất động”. Hai câu nói này không có bờ mé, không thể nói tôi đến Bồ Tát Địa Thượng rồi, đến quả giác viên mãn rồi thì đại khái có thể dừng lại. Không thể được, vừa dừng thì sai.
Trích lời dạy của HT Tịnh Không từ:
PHẬT THUYẾT THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH (tập 37 & tập 70)
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật,
Vậy xin liên hữu TT hay các đạo hữu khác người tu Tịnh Độ tông đạt Thiền định có khác với Thiền tông không vì niệm Phật có tha lực? Thiền tông 100% tự lực. Ý các vị đạo hữu nghĩ sao?
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật – Chào Huệ Tịnh:
HT. Tịnh Không trả lời cho bạn:
“…Pháp môn niệm Phật của chúng ta cũng là tu chỉ quán. Trong niệm Phật đường thường hay nhắc nhở mọi người “buông xả vạn duyên”, đó là “chỉ”; “đề khởi Phật hiệu”, đây chính là “quán”. Từ đó cho thấy, “chỉ quán” chính là Thiền định. Niệm Phật đâu có phải là không tu Thiền? Thế Tôn ở trong kinh Đại Tập nói cho chúng ta biết, pháp môn niệm Phật là “vô thượng thâm diệu Thiền”, đạo lý là ở chỗ này. Cho nên không có Thiền định thì chắc chắn không thể khai trí tuệ. Chúng ta biết, pháp môn niệm Phật thật sự là “vô thượng thâm diệu Thiền”, bạn còn khởi tâm động niệm muốn đi học Thiền, muốn đi ngồi Thiền, vậy là sai rồi. Bạn đã và đang tu “vô thượng thâm diệu Thiền” nhưng bạn không biết, không biết sự thù thắng của pháp môn mình đã tu…
…Phật ở trong Kinh Đại Tập nói được rất rõ ràng “trì danh niệm Phật là vô thượng thâm diệu thiền”: Chỉ dùng câu Phật hiệu này để dập tắt hết tất cả vọng niệm. Thật biết dụng công thì phải dùng như thế nào? Khi ý niệm vừa khởi lên, cho dù cái ý niệm này là niệm thiện hay là niệm ác, chỉ cần một ý niệm vừa khởi lên thì A Di Đà Phật, liền quay lại với A Di Đà Phật, đó gọi là biết niệm, không để cho ý niệm của bạn tiếp nối, cho nên người xưa nói “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”.
Niệm là ý niệm khởi lên, thiện niệm ác niệm đều không hề gì, nó sẽ khởi tập khí nhưng khi nó vừa khởi lên lập tức liền giác ngộ, cái gì gọi là giác ngộ? Một câu A Di Đà Phật chính là giác ngộ, đánh chết cái ý niệm này đi, đổi thành A Di Đà Phật, khi không khởi niệm thì không khởi A Di Đà Phật cũng không hề gì, vừa có ý niệm, cái ý niệm thứ hai thì là A Di Đà Phật, con người này công phu liền có lực, con người này niệm Phật thì nắm chắc vãng sanh Thế Giới Tây Cực Lạc, cho nên chúng ta có thể vãng sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc hay không, chỉ cần xem chính chúng ta nghĩ lại xem có được cái công phu này không? Không có công phu này thì vọng niệm nối nhau, niệm niệm tiếp nối vậy thì phiền phức, vậy thì làm sao? Do công phu niệm Phật của chúng ta chưa đủ, tâm cảnh giác của chúng ta chưa cao, vẫn chưa có cách gì thay thế được, nỗ lực đem câu A Di Đà Phật niệm cho quen thuộc, thuần thục rồi thì tự nhiên cảnh giới này liền hiện tiền.
Chỉ cần ý niệm khởi lên, chính là A Di Đà Phật. Cho nên dùng 1 niệm, chính là 1 niệm A Di Đà Phật này, đánh bạt hết tất cả các vọng niệm, bạn phải nên biết chỉ cần là ý niệm đều là vọng niệm. Cái gì gọi là chánh niệm? Không có ý niệm gọi là chánh niệm, không có ý niệm mà rõ ràng tường tận, thông suốt, thấu đáo thì gọi là chánh niệm, nếu như không có ý niệm, cái gì cũng đều không biết, mê hoặc, điên đảo thì đó gọi là vô minh. Vậy thì cũng sai lầm, cho nên Phật dạy chúng ta chấp trì danh hiệu thật là rất hay vậy! Mỗi niệm là A Di Đà Phật, đó là giác quán, có giác có quán, không khởi tất cả vọng niệm, không có bất cứ ý niệm nào, đó gọi là định, đó là thiền định. Cho nên trong định có huệ, trong huệ có định thì niệm câu A Di Đà Phật làm sao không phải là thâm diệu thiền chứ!
Chúng ta phải hiểu, có rất nhiều người nói Thiền nói Tịnh, tách thiền và tịnh ra, đó là gì vậy? Đó là họ đã không hiểu thiền cũng không hiểu tịnh. Nếu thật sự thông đạt hiểu rõ thì Thiền Tịnh là một, nhưng cách thức khác nhau, điều này phải hiểu…”
Trích lời HT. Tịnh Không giảng từ:
– PHẬT THUYẾT THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH (tập 75).
– Đại Sư Huệ Năng Giảng Về Nhập Môn Tu Thiền.
– Hoa Nghiêm Áo Chỉ (tập 20).
Nam Mô A Di Đà Phật.
Trả lời với Huệ Tịnh ngày 12/09/2014 (ngày của trang web duongvecoitinh):
Để có câu trả lời này Bạn phải đọc theo thứ tự các bài :
1. Bài 9 và các phần liên quan trong đó.
2.Bài 10
3.Bài 7
4.Bài 8
Đây là danh sách 10 bài :
DANH SÁCH 10 BÀI ĐÃ VIẾT THEO THỜI GIAN :
1. “Mối liên quan giữa các pháp môn thiền nói chung và pháp môn trì danh hiệu Phật A Di Đà” gồm 405 trang A4.
2. “Kể chuyện quá trình viết bài “Mối liên quan…” từ 11.07 đến 31.07.2012 TL và lúc khác” gồm 86 trang A4.
3. “Bài viết rõ thêm 1 phần về kinh Nikaya và kinh A Hàm” gồm 33 trang A4.
4.“Kể chuyện tại sao phát hành bài “Bài viết rõ thêm …A Hàm” ” gồm 13 trang A4.
5. “Lời sám hối” gồm 16 trang A4.
6.“Độc giác Phật” gồm 21 trang A4.
7.“Nghiên cứu lại bài kinh trung bộ số 6” gồm 18 trang A 4.
8.“ “Mật Tông Phật giáo” phần hiển giáo” gồm 59 trang A 4.
9. “Trình tự hiểu pháp môn niệm danh hiệu Phật A Di Đà” gồm 11 trang A4.
10. “Bổ sung ở cõi người trong định phi tưởng phi phi tưởng xứ có đoạn diệt hoàn toàn 7 kiết sử ” gồm 14 trang A4.
(Hết trích).
Bạn cho biết mail của Bạn, tui sẽ gởi 10 bài này cho Bạn.
A Di Đà Phật các liên hữu,
@Tịnh Thái – HT. Tịnh Không giảng rất đúng nhưng Huệ Tịnh vẫn thấy còn thiếu phần giải nghĩa rõ ràng về công đức tha lực bất khả tư nghì gia trì cho hành giả khi niệm câu “A Di Đà Phật” chỉ quán diệt chết vọng niệm để đạt thiền định phát sanh trí tuệ ra sao trong tiến trình tu tập. Thiền tông thì lấy một công án nào đó để khai ngộ minh tâm kiến tánh để đắc đạo nhưng trong cậy toàn vào tự lực (tùy theo căn tánh tu tập gieo trồng trong kiếp quá khứ) phải có sư Tổ chứng minh truyền tâm pháp.
Nhưng thực tế thời cơ hiện đời là mạt pháp thời gian đã thay đổi nhưng pháp môn Tịnh Độ lại tuyệt kỳ không bị ảnh hưởng theo vẫn lấy sự chấp trì danh hiệu Phật cho dù đang ở kỳ chánh hay là mạt pháp, thượng căn cho tới hạ căn mà tu tập. Huệ Tịnh vì các đạo hữu cư sĩ sơ cơ mà đem lòng thắc mắc xin hỏi các vị đạo hữu liễu ngộ tam tạng kinh điển và tu tập kinh nghiệm đầy người giải nghĩa rõ ràng hơn:
1. Tại sao chỉ cần chấp trì danh hiệu Phật A Di Đà mà thời gian không gian không hề chướng ngại bao gòm tất cả căn cơ không bỏ sót ai mà vẫn siêu thoát sanh tử luân hồi vãng sanh Tịnh Độ?
2. Tại sao niệm Phật đắc nhất tâm bất loạn lại không cần sư Tổ chứng minh chỉ tự biết không cần báo cho ai biết mà vẫn đắc đạo? Như các vị lão ông già bà già chỉ biết tin rồi niệm Phật lại biết trước giờ chết lâm chung ra đi tự tại hay như thế.
3. Như vậy câu hỏi 1+2 có liên quan gì đế tha lực bất khả tư thuyết mà hành giả niệm Phật được sự lợi ích bất khả tư nghì khi còn sống không?
Trong khi cũng trong thời mạt pháp đa phần chúng ta nghiệp chướng nặng nề che lấp chơn tánh quá nhiều, muốn tu theo Thiền môn không thể áp dụng một công án để minh tâm kiến tánh nổi nữa vì ánh sáng trí tuệ rất giới hạng chỉ còn giỏi lắm đi theo hơi thở để không theo vọng tưởng khi khởi lên. Nếu hành giả nỗ lực tọa thiền 2-3h giỏi lắm mỗi ngày mới đi vào một chút định gì đó mà chẳng ai rành hiểu. Thử hỏi trong thời nay bao nhiêu Phật tử nào ngồi kiềt già để thân tâm định nổi 2-3h không?
1. Dù cho hành giả ngồi được 2-3h định theo hơi thở như vậy so với người niệm Phật 2-3h ai có công đức nhiều hơn?
2. Công đức nên giãi nghĩa như thế nào cho một người tự lực (2-3h) + tha lực so với người chỉ tự lực (2-3h) tu tập?
3. HT cũng nghe kể lại có vài người dụng công bị tẩu hỏa nhập ma bất kể là hành giả tu pháp môn niệm Phật hay Thiền. Tại sao lại xảy ra như thế?
@Tịnh Trung – HT rất cảm kích lòng thành của đạo hữu muốn giúp mình học hỏi hiểu nghĩa thêm nhưng HT khi hỏi điều gì cũng đem lòng vì mọi người mà hỏi không chỉ vì cá nhân. Nếu TT có thể trích lời giảng của vị Tổ hay thầy nào đó để trên trang comment cho mọi người cùng đọc thì phước đức vô lượng vô biên. Xin đạo hữu hoan hỉ hiểu cho.
Nam Mô A Di Đà Phật!
A Di Đà Phật – Chào liên hữu Huệ Tịnh 🙂
Trước tiên Tịnh Thái xin tán thán công đức đặt các câu hỏi Phật pháp nhằm giải nghi và mang lại lợi ích cho chúng sanh của liên hữu Huệ Tịnh 🙂 Nhưng do liên hữu dùng cách nói “…các vị đạo hữu liễu ngộ tam tạng kinh điển và tu tập kinh nghiệm đầy người …” giải đáp dùm thì ko ai dám vào trả lời đâu 🙂 vì trả lời thì chẳng khác tự cho mình liễu ngộ hay kinh nghiệm tu tập đầy người hay sao 🙂 ? Chỗ này ko khéo thì khiến câu hỏi của mình đi vào tình trạng là…ko có người trả lời vì Tịnh Thái đoán ko ai dám tự cho mình là “tu cao” hết 🙂
Tịnh Thái là phàm phu sanh tử tội ác nhưng có máu liều nên “liều mạng” vào trả lời qua loa thôi :):
Câu 1,2,3: Đáp án là ko…có đáp án. Vì đây là pháp môn “KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN”, chỉ Phật với Phật mới lý giải nỗi mà thôi, nên gọi là “pháp môn khó tin”. Đã là “KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN” thì đến chừng mực nào đó thì chúng ta ko nên nghĩ, cũng chẳng nên bàn. Phàm phu “tri thức” chúng ta rất khó độ, lên ko lên, xuống ko xuống, bị cái “tri thức” của chính mình làm hại từ vô lượng kiếp đến nay chẳng thể ra khỏi sanh tử, kiếp này chúng ta lại thường “trụ” vào trong cái biết của chính mình, chẳng thể buông xả được cái biết đó thì…Phật A Di Đà cũng ko giúp được. Trong Kinh Vô Lượng Thọ Phật dạy chúng ta “vô trụ sanh tâm” chính là bảo chúng ta buông xả cái thấy cái biết của chính mình mà sanh cái tâm “thuần chơn”, chân thành, cung kính, tin tưởng tuyệt đối vào pháp môn này, có thể thật chân thành, thật cung kính mà chấp trì thánh hiệu A Di Đà Phật thì…một lúc nào đó tự nhiên cái chi cũng biết 🙂 Vừa biết rồi thì lại “vô trụ” tiếp, lại buông xả tiếp, rồi lại sanh ra Huệ Tâm tiếp, trí huệ trong tâm tánh liền hiện tiền ở một tầng sâu hơn…mà lại chẳng thấy có cái chi để “tâm đắc” hết 🙂 Tất cả đều do A Di Đà Phật và chư Phật Tam Bảo mười phương gia trì 🙂 Thật tin như vậy, thật làm được như vậy thì…tự nhiên công phu niệm Phật liền có lực. Huynh đệ chú ý chữ “TỰ NHIÊN”, ở đây Tịnh Thái chia sẻ nhấn mạnh chữ này, để chúng ta cảnh giác – chớ nên nóng vội trên bước đường tu mà muốn “đốt cháy” giai đoạn, muốn thành tựu sớm, tự tạo tai họa cho chính mình thì uổng phí công phu tu tập 1 đời vậy. Mọi thứ phải để tự nhiên 🙂 Chỉ duy nhất một điều là mình có thể siêng năng, chăm chỉ là “Y Giáo Phụng Hành”, ngoài ra hết thảy đều phải buông xả hết tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng thì thành công :).
Phần hai của liên hữu Huệ Tịnh cũng có hỏi 3 câu 🙂 :
Câu 1 & 2: Công đức tu hành là từ Giới Định Huệ mà sanh ra, cho nên tu tập theo bất kỳ pháp môn nào mà có thể thành tựu được Giới Định Huệ thì đều tốt cả, là bình đẳng 🙂 Không có pháp cao, cũng ko có pháp thấp – Ai có duyên với pháp môn nào thì theo học pháp môn đó 🙂 Chúng ta ở đây tán thán Tịnh Độ là đúng, nhưng khi so sánh công đức tu tập giữa các pháp môn thì chẳng thể nói A hơn B được. Vừa buông xuống ý niệm so sánh này thì tâm Bình Đẳng liền hiện tiền, công đức của tự tánh mới lưu xuất ra được chút phần, cho đến so sánh Tha Lực & Tự Lực cũng là chướng ngại 🙂 vì Tự Tha không hai, trong Tự Lực có Tha Lực, trong Tha lực cũng bao gồm tự lực luôn rồi. Cho nên bước vào được Trung Đạo thì mới thật là “vô trụ”, không trụ một bên nào hết, cũng chẳng có cái Trung Đạo mà trụ, vì vốn dĩ pháp là như vậy, nên thấy biết như vậy, cũng nên hành như vậy, cũng hành được rất tự nhiên vậy 🙂 (Nhưng chú ý: nói có thể nói hay như vậy nhưng đây là cảnh giới của Pháp Thân Đại Sĩ, phàm phu chúng ta chỉ tạm dừng thấy biết tới đây thôi, lại phải buông xả quay về câu A Di Đà Phật, chớ sanh tâm vọng tưởng hay hoan hỉ với chút ít giải ngộ trên văn tự như vậy, sẽ chướng ngại rất lớn cho công phu niệm Phật, khi nào vãng sanh về Tây phương thì tự nhiên được khế nhập vào cảnh giới này, việc này chúng ta cần phải rõ ràng, tường tận.) Người tu hành bị tẩu hỏa nhập ma là do si chấp vào cái thấy cái biết của mình trên đường tu nên bị kẹt vào cảnh giới ma, chẳng thoát ra được, họ cũng có thể được cơ duyên học tập với Thầy tốt nhưng sau cùng…tập khí ngạo mạn ko thể hàng phục nên chẳng thật nghe lời Thầy, vẫn là muốn tự làm theo ý mình nên mới chiêu cảm đến những sự việc đáng tiếc như vậy. Do đó, tâm ngạo mạn cần phải được trừ bỏ tận gốc, nếu chúng ta muốn thành tựu và hạ cánh an toàn về Tây phương Cực Lạc. Muốn loại trừ tâm này thì chỉ cần buông xả cái thấy cái biết của chính mình, không ngừng nhìn thấu, không ngừng buông xả thì đời này mới có hy vọng thành tựu.
Tịnh Thái nói “qua loa” mà xem lại thì cũng nhiều chữ quá rồi…cũng phải buông xả nên tạm dừng phần hồi đáp tại đây 🙂 Mong đạo hữu Huệ Tịnh hoan hỉ 🙂
Nếu có chỗ nào nói chưa đúng như pháp thì kính mong chư huynh đệ góp ý thêm cho Tịnh Thái.
Tịnh Thái chân thành cảm ơn ạ.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật chào liên hữu Tịnh Thái,
1. Trước tiên làm sao đưa vào mấy cái mặt cười vào comment hay vậy? HT vì mọi người xin TT chỉ cái bí quyết đó. A Di Đà Phật. LoL.
2. Nói về câu ” các vị đạo hữu liễu ngộ tam tạng kinh điển….” thì HT cũng biết nó 2 chiều để nhìn. Thứ nhất đọc theo chữ nghĩa đen thì nó có cái tự cao sẽ e sợ không dám trả lời. Nếu người nào còn bị kẹt văn chữ đen thì làm sao giải nghĩa mấy câu hỏi thắc mắc của HT dưa ra. Nếu thật sự liễu ngộ thì đâu còn ngã chấp mà nên vì sự lợi ích cho các vị sơ cơ Phật tử để trả lời chứ. Cũng như TT đã liều một phen trả lời có sao đâu? HT rất tán thán hoan hỉ công đức của liên hữu TT.
3. HT đọc bài giải nghĩa của TT tưởng mình sẽ lọt vào đảo đào hoa mê hồn trận của Hoàng Dược Sư nữa chứ. Công nhận nội công học hỏi tàng kinh điển và sức tu luyện của TT cũng khá lắm chứ (nói giống theo phim kiếm hiệp cho vui). Tuy bài đọc ra thấy rất hay nhưng HT là người chủ đặt ra các câu hỏi tánh tình hơi khó chịu cho nên chưa hài lòng 100% về giải nghĩa tha lực và công đức bất khả tư nghì của chư Phật Bồ Tát có liên hệ gì với tất cả mọi người khi tu pháp môn Tịnh Độ. Để HT minh họa một câu chuyện này cho TT và các đạo hữu khác nghe dễ hiểu nhe.
— Có một bà mẹ ăn chay niệm Phật mới qua đời trong một gia đình có hai đứa con trai. Thì có một đứa con thường ngày ngồi thiền tu tập 30 phút theo hơi thở để giảm bớt (stress) căng thẳng hàng ngày chứ không nghĩ đến gì ngồi thiền để đắc đạo gì cả, thấy cảnh tượng vậy không giúp được gì chỉ biết nhìn khóc thôi. Còn đứa con thứ hai thì ưa thích niệm Phật trì chú Vãng sanh thường ngày cũng 30 phút để nguyện cho cha mẹ gđ và tất cả đều được vãng sanh về Cực Lạc. Thế thì đứa con thứ hai theo tâm niệm tập quán từ bi tu tập hàng ngày có một sức mạnh tự nhiên hộ niệm Phật hồi hướng cho mẹ được sanh về cõi TPCL. Nhưng đứa con thứ nhất kia ngồi thiền học hỏi ở đâu ra nghĩ thời buổi này niệm Phật là mê tín thất thời rồi. Ngồi thiền mới thực tế cao siêu hơn có lợi ích hơn. Thành ra đứa con này không có phát tâm niệm Phật trợ giúp cho mẹ vãng sanh. Tại vì có tin đâu. Một đứa con thì đặt hết lòng tin vào Phật A Di Đà mà niệm còn một đứa thì kẹt vào cái chữ Thiền. Như vậy thực sự ai có công đức hơn? Công đức hơn thua cách xa ở chỗ nào? Do đâu mà có công đức như thế (lý sự viên dung)?
Câu chuyện như vậy thực tế có ở ngoài đời. HT chỉ minh họa cho các Phật tử sơ cơ (thanh niên) nên thực tế một chút vì cha mẹ gia đình mà cũng nên tự suy nghĩ lựa chọn còn đường tu tập cho đúng như lời Phật đã khuyên chỉ dạy trong thời mạt pháp. Đại Sư Ấn Quang khuyên dạy chúng ta cư sĩ tại gia chỉ nên giữ tròn 5 giới ăn chay niệm Phật niệm Quan Âm và làm lành đem công đức nguyện sanh về Tây Phương thì cứ nghe lời làm đừng nghi ngờ. Nghi ngờ thì sẽ đi tìm cái gì cao siêu hơn để mà tu tập thì xin lỗi có tu cho mấy cũng phải còn đứng ở ngoài cửa nhà Như Lai. Không bằng một lão ông già bà già TIN hết lòng niệm Phật. TIN thì một câu vãng sanh lên ngồi đài sen ở Phương Tây có một thế giới tên là Cực Lạc tự tại đi khắp mười phương đem tất cả món quý báo cúng dường chư Phật. Không TIN thì e rằng cửa địa ngục không muốn mở cũng phải mở. Nguyện cho ai chưa sẽ được đức TIN kiên cố vững chắc.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật 🙂 – Chào liên hữu Huệ Tịnh:
Để có hình mặt cười thì bạn dùng dấu “:” và dấu “)” sát nhau là thành hình mặt cười 🙂
Còn ứng dụng Phật pháp hay tu tập theo pháp môn nào thì tùy vào duyên phần của mỗi người. Chúng ta tu theo Tịnh Độ cũng chẳng nên quá cứng ngắc mà cứ nghĩ rằng khi người thân qua đời thì chỉ có niệm Phật/trì chú vãng sanh thì mới có lợi ích cho người mất, ai có nhân duyên tu tập của người đó, hễ họ có tâm vì người mất mà làm các việc thiện lành hồi hướng cho người thân là cũng quý lắm rồi, mình có thể khuyên nhẹ nhàng chứ ko nên áp đặt ý của mình lên họ, ko khéo thì tự mình cũng đang làm khổ mình mà thôi. Người ta nói “ép dầu, ép mỡ ai nỡ ép duyên” 🙂 Ép thì hỏng hết, tình nghĩa anh em cũng lại sứt mẻ. Mình nói người ta “kẹt” vào Thiền, nhưng biết đâu mình đang “kẹt” vào Tịnh Độ, “kẹt” vào A Di Đà Phật, “kẹt” vào Kinh Vô Lượng Thọ, “kẹt” vào chú vãng sanh, “kẹt” vào Tam Thời Hệ Niệm, “kẹt” vào Hộ Niệm? Cứ thường cho pháp tu của mình là nhất thôi…Vậy là kẹt rồi.
Trước khi tu học Phật pháp thì ta dính mắc vào thế gian pháp, sau khi học Phật pháp thì lại kẹt thêm “Phật pháp” vào nữa…Chúng ta tu học Phật pháp là muốn giải thoát, thế mà càng tu thì càng chấp, càng kẹt, càng khổ…tâm ko thể thanh tịnh, tâm mà ko tịnh thì muốn sanh về cõi tịnh liệu có được ko? Việc này mình cũng nên thường phản tỉnh và chú ý, xem chúng ta có đang kẹt vào chỗ nào không 🙂 Nếu có thì hãy mau mau gỡ nó ra, buông nó xuống…ko thì việc vãng sanh về Cực Lạc cũng bị chướng ngại nhiều lắm…
Con đường mình đi tất nhiên phải kiên định, một câu Phật hiệu, một bộ Kinh, một vị Thầy thọ trì cho đến tận cùng, nhưng khi đem Phật pháp vào đời thì nên tùy duyên. Tùy duyên thì được tự tại, ko thể tùy duyên thì được…phiền não. Ai tu pháp gì mình cũng nên hoan hỉ, mình có thể khuyên nhủ nhẹ nhàng, mang tính gợi ý, trực tiếp hay gián tiếp – đều được cả nhưng xin chớ phan duyên, xin chớ nên áp đặt cái thấy biết của mình lên trên đường tu của người khác. Phật ngày xưa Ngài có ép học trò của Ngài niệm Phật hết đâu? Ai thích hợp tu học pháp nào, Ngài liền dạy cho pháp đó…
Còn thú thật: Người ta chê Tịnh Độ là mê tín thì cũng chưa chắc là sai đâu…Vì sao? Vì chúng ta là người tu Tịnh Độ, chúng ta xem thử quan sát có mấy ai có được Chánh Tín? Vì người tu Tịnh Độ chúng ta còn mê tín quá nhiều…học Phật rồi mà vẫn đi xem bói, xin xăm, buôn thần bán thánh, xem Phật Bồ Tát là thần minh, xem Tây phương Cực Lạc thế giới là nơi để…trốn nợ, trốn khổ? Nếu tâm chúng ta tu học Tịnh Độ như vậy thì Phật chỉ có rơi nước mắt mà thôi…Mạt pháp là do lòng người chứ Pháp của Phật làm gì có Mạt, có suy? Người tu Tịnh Độ mà thật có Chánh Kiến, Chánh Tín, thật Y GIÁO PHỤNG HÀNH thì Phật pháp liền hưng vượng 🙂 Suy cũng do mình, mà thịnh cũng do mình. Chúng ta ngày nay tu học ra nông nỗi này thì chúng ta trách ai? Lời nói của họ nói chúng ta mê tín, nếu chúng ta tiếp nhận mà sửa đổi, tự làm mới thì họ là thiện tri thức, nếu chúng ta xem đó là lời “khó nghe” thì tương lai chúng ta rất có thể vãng sanh về Tam Ác Đạo, chứ sợ e rằng chẳng thể sanh về Cực Lạc.
Vì sao: Vì người chân chánh tu Đạo chẳng thể thấy lỗi của thế gian. Vì Tâm Tịnh thì cõi nước mới Tịnh. Tâm ta nếu vẫn còn phân biệt, chấp trước quá nặng thì Phật A Di Đà muốn kéo chúng ta đi cũng chẳng thể được nữa rồi…nếu chúng ta chẳng chịu Nhìn Thấu, chẳng chịu Buông Xả.
Nếu Tịnh Thái có chỗ nào chưa đúng như pháp, mong Huệ Tịnh cùng các huynh đệ góp ý thẳng thắn.
Tịnh Thái xin thật lòng cảm ơn ạ.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật 🙂 – Chào liên hữu Tịnh Thái.
Cảm ơn nhiều 🙂 !
TT nói rất hay không có chổ chê 🙂 nhưng khổ cái là đa phần nghiệp chướng của chúng ta khi ở ngoài đời hay vô đạo vẫn phải bị cái ngã kiến chấp trói buột mà không hề hay biết. Đối với HT ai tu tập pháp môn phương tiện ra sao thì đó là tùy duyên, tại sao phải đem bỏ kẹt thêm vào tâm chi cho mệt. Mỗi người trong tiền kiếp quá khứ có vô số chủng tử trong tàng thức riêng biệt khác nhau, cho nên sự hiểu biết giác ngộ cũng khác nhau. Chỉ có chư Đại Bồ Tát Pháp Vương Tử & Phật mới thấu hiểu các chúng sanh nghiệp chủng như thế nào mà tùy thuận ban pháp để được độ. Chủng tử hữu lậu thì hiểu theo trí thức hữu lậu khi học Phật pháp dễ rơi vào cái ngã chấp pháp khó tháo gỡ, nhẹ thì phiền não vẫn còn, nặng thì bị tẩu hỏa nhập ma. Chủng tử vô lậu khi gặp Phật pháp thì liền liễu ngộ y theo phụng hành làm thầy Tổ sư trời người giống như ngài Huệ Năng không biết chữ thế gian (hữu lậu) nhưng lại thâm ngộ Phật pháp minh tâm kiến tánh chỉ nghe qua một bài kệ. Đó chỉ là do chủng tử vô lậu của bậc thượng căn tu tập đắc vô số các pháp vô lậu trong vô số kiếp trước. Trong khi đó sư huynh của ngài HN là Thần Tú theo ngũ tổ Hoằng Nhẫn học hỏi biết bao nhiêu thời gian mà vẫn bị kẹt bên lề đường của sanh tử. Vì Thần Tú vẫn còn dùng tâm chủng tử hữu lậu để mà học pháp vô lậu.
Chúng ta là Thần Tú hay là ngài Huệ Năng khi đọc học hiểu Phật pháp và nghe các thầy PS như HT Tịnh Không giảng? Nếu mà có chủng tử vô lậu thì khi nghe giảng nói về pháp môn Tịnh Độ tức thời liễu ngộ Di Đà tự tánh nhất tâm bất loạn nhập vào niệm Phật tam muội làm thầy trời người đồng với ngài Huệ Năng không khác. Có được bao nhiêu người học ít mà ngộ thấy ra tự tánh ai ngờ thường thanh tịnh không chấp mà cũng không phải không chấp? Chấp không chấp cũng chưa vô cửa Như Lai huống chi là có tâm không chấp.
Trong thời mạt pháp ai cũng hiểu và nói pháp môn niệm Phật chỉ cần có Tín tâm Nguyện thiết là được vãng sanh. Niệm Phật trình độ cao hay thấp là do nơi thực hành. Nghe phớt qua thì thấy dễ nhưng thực tế không dễ tí nào để cho hàng trí thức hữu lậu biết đừng đem tâm khinh phỉ báng làm tổn hại Bồ Đề tâm của bản thân chính mình. Nếu nói khó thì cũng không đúng vì sẽ khiến người sơ cơ phát tâm dễ thối chí tín nguyện vãng sanh. Tất cả toàn là tuỳ theo các loại vô số chủng tử biến hiện trong tàng thức của mỗi người. Có ngày tại sao chúng ta lại rất tin quyết chí vãng sanh Cực Lạc. Tại sao có ngày lại không có sức mạnh khi gặp nghịch hay thuận cảnh nghiệp lực đến? Có phải vì chủng tử vô lậu của mình quá yếu dễ bị chủng tử hữu lậu chi phối làm chủ?
Làm sao để tăng trưởng sức mạnh chủng tử vô lậu trước khi học tu tập Phật pháp vô lậu?
Cho nên kết thúc rằng chủng tử vô lậu của mỗi người hiển lộ được nhiều hay ít là phải tự xem lòng mình có một sức mạnh Tín Nguyện kiên cố vững chắc không thối chuyển hay không khi đối đầu với nghiệp lực đến bất ngờ? Khi ta động tâm giận hờn buồn phiền, vui mừng còn có sức đem tâm thanh tịnh bước đến bàn thờ Phật để tụng kinh niệm Phật hay không? Không có chuyện gì xảy ra bình an vô sự thì không cần phải nói. Người nào có được như vậy 100 người niệm Phật 100 người vãng sanh. Chúng ta ai cũng còn nghiệp chướng rất nhiều nếu chưa gặp mặt thử thách thì chưa biết mình thực sự tu tập đạo lực như thế nào.
Đừng nên chấp là niệm Phật nhiều câu là sẽ bảo đảm vãng sanh. Người nào trong lòng tự biết tự tin thì sẽ niệm Phật tụng kinh trì chú rất thoải mái không bị hình thức làm chủ 100%. Nếu hình thức để đem lại sự an lạc hạnh phúc chơn thật trong tâm càng ngày càng bớt nắm chấp gia đình tài sản nhà cửa công ăn việc làm tình ái thì người đó tức nhiên sẽ dễ hướng tâm nặng về cảnh giới Cực Lạc. Điển hình như cái cân 2 bên nặng bên nào bên kia sẽ nhẹ hơn. Nặng Cực Lạc thì nhẹ Ta Bà. Ngược lại cũng thế.
Thành ra HT xin hỏi các vị đạo hữu kinh nghiệm tu tập như thế nào để nặng lòng Tín Nguyện vãng sanh Cực Lạc nhẹ lòng luyến ái Ta Bà? Xin các vị mở lòng từ bi chia sẻ công đức cho các đạo chưa có tín tâm nguyện tha thiết để sanh tâm Bồ Đề chịu thực hành đồng sanh về Cực Lạc.
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. 🙂
Nam Mô A Di Đà Phật.
Xin gởi đến 2 vị đồng tu Tịnh Thái và Huệ Tịnh. Tôi cảm thán những lời chia sẻ trong mục hồi đáp của 2 vị cho toi và những đồng tu khác học hỏi. Lời lẻ thật hay và cao thâm như các vị tổ sư vậy. 2 vị Tịnh Thái và Huệ Tịnh là dều có chữ ” Tịnh ” vậy chắc hẳn tâm của 2 vị chắc chắn phải là tịnh. Cầu xin Bồ Tát hộ trì cho các ngài được tinh tấn trên bước dường tu hành. Dầu sao mỗi người chúng ta dù tâm của mình đã thanh tịnh hoặc đã chứng được quả thánh nhưng vẫn còn mang xác phàm, nếu còn mang xác phàm tu sao tránh khỏi những sơ xót. Là dệ tử của Phật, chúng ta nên tán thán công đức tu hành hơn là nhìn thấy thiếu xót của người khác hoặc tự cho mình là ” thước đo tiêu chuẩn ” để ngươi khác phải nghe theo thì quả là uổng 1 kiếp tu. Nếu cứ ” bổ xung ” nhau như vậy thì sợ e rằng chữ ” Tịnh ” của 2 vị sẽ …. không còn. Mục đích của tôi chỉ có tính cách xây dựng và nhắc nhở ,nếu có gì sai trái xin 2 vị tha thứ và miển tội cho. Nam Mo A Di Đà Phật.
A DI Đà Phật!
Con cảm ơn các bậc thiện tri thức đã cho con hiểu thêm qua những lời vấn đáp phía trên. Trước giờ con chỉ nghe các bài giảng của pháp sư Tịnh Không, nhưng có nhiều điều con không hiểu thấu thì không biết hỏi ai. Nay nhờ những lời chia sẻ của thầy Tịnh Thái con rất vui mừng. Con có một kiến nghị, kính gửi thầy Tịnh Thái. Con xin phép được xin địa chỉ email của thầy được không ạ. Vì nhiều lúc con có những thắc mắc mà không biết hỏi ai để giải đáp, kính xin thầy cho con xin địa chỉ email để những lúc như thế con có thể nhờ thầy chia sẻ chỉ dạy thêm ạ. Địa chỉ email của con là [email protected], xin thầy hoan hỉ cho con xin email hồi âm của thầy.
Kính bút!
A Di Đà Phật.
Dạ thưa !…
“Thực chất của thân người là sanh, già, bệnh, chết, khổ và không”
Vậy mọi người cho con hỏi: Khổ và Không ở đây nghĩa là gì ạ ?
Con xin đa tạ mọi người rất nhiều ! 😀
Khi chúng ta sinh ra đời chỉ có hai bàn tay trắng và khi chúng ta chết thì cũng chỉ có hai bàn tay trắng đó là “không”.
Từ khi chúng ta sinh ra đời cho đến khi chết chấp thân người là của mình (ngã chấp) cho nên bị khổ vì nó. Già có cái khổ của già. Bệnh có cái khổ của bệnh. Sống cũng khổ cho cái thân, chết cũng khổ vì luyến tiếc cái thân nằm ở dứa mồ mả (cô hồn).
Chỉ có người nào thức tỉnh ra cái thân người chỉ tạm mượn để tu tâm dưỡng tánh thì mới hy vọng chấm dứt cái khổ đau.
Sống niệm Phật, chết cũng niệm Phật. Sống cũng tốt, chết cũng tốt. Tất cả tự tại tuỳ duyên mặc kệ chuyện gì nó đến cố gắng niệm Phật thoát cái khổ đau trở về quê hương Tây Phương Cực Lạc không sanh không diệt.
Nam Mô A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật, Trọng thân mến
Trong tứ khổ của kiếp người là Sanh – Lão – Bệnh – Tử. Câu hỏi của bạn cũng đã chứa đựng câu trả lời rồi nhỉ! Nếu bạn không có thân người thì chắc bạn sẽ không bị cái tứ khổ kia. Thân người có được cũng là do nghiệp chiêu cảm của tâm thức kết hợp với tứ đại Đất (da, thịt, xương, răng..), Nước (máu, nước mắt, nước mũi, đờm, dãi…), Gió (Hơi thở), Lửa (hơi ấm, nhiệt). Khi tứ đại hòa hợp thì khỏe mạnh, tứ đại bất hòa thì thân thể này sinh ra bệnh tật. Cái khổ đến rồi đó! Sống khổ, Già Khổ, Bệnh Khổ, Chết còn đau khổ hơn. Đủ duyên thì tứ đại hợp thành, hết duyên thì tan rã mọi thứ. Cho nên bản chất của cái thân cũng là Vô thường. Tức là có đó nhưng rồi sẽ mất đó (nếu hết duyên) cho nên mới gọi là huyễn, là không, là vọng.
Người tu hành phải thường quán chiếu thân mình là vô thường, đang già, đang tàn tạ, đang chết, không nên nghĩ rằng nó tồn tại mãi để khi nó thay đổi, tàn tạ lại sinh tâm buồn rầu, khổ não, thương tiếc, để phải trôi lăn mãi trong vòng sinh tử, luân hồi. Quán chiếu được cái Khổ của kiếp người, cái Vô thường của cái thân rồi từ đó cố gắng tu học, phát tâm Bồ-đề, niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực lạc hầu thoát ly sanh tử. Đó mới chính là cái Vui chân thật, là mục tiêu hướng đến của tất cả những liên hữu đồng tu Tịnh độ.
Vài chia sẻ, chúc bạn thân tâm thường lạc.
A Di Đà Phật _()_
A Di Đà Phật
Gửi bạn Trọng,
Câu hỏi của bạn thật hay và ý nghĩa là vô cùng tận. Hai chữ „Khổ“ và „Không“ nếu chúng ta hiểu được, quán chiếu được, tất con đường về Tịnh Độ – Vĩnh ly khổ ách đã có thể nắm chắc trong tay vậy.
Quán chiếu theo lời Phật dạy thì: Nơi nào còn sự sanh-diệt=nơi ấy còn sự khổ, vì thế „Khổ“ là vô cùng, vô biên, vô tận. Với trí phàm phu của chúng ta khó có thể lý giải một cách viên mãn. TN thấy đây cũng là một nhân duyên thù thắng nên mạo muội chép lại toàn bộ Phẩm Hiện Bệnh Thứ 18 trong Kinh Đại Niết Bàn. Nhân duyên có phẩm này là do lòng đại từ, đại bi của Phật, trước khi Nhập Niết Bàn, thấy các chúng sanh chưa hiểu liễu nghĩa được 8 nỗi khổ luôn rình rập, rằng xé, cướp phá, bức hại thân mạng của chúng sanh trong từng giây phút, vì thế Ngài đã thị hiện giống như một người bệnh, nằm bất động, để tạo duyên cho các bậc Bồ tát thưa hỏi. Ca Diếp Bồ Tát đã nhận ra điều đó và Ngài khởi lòng từ, đã vì chúng sanh đời mạt pháp chất vấn Phật về „hiện tượng ngã bệnh, hay còn gọi là khổ bệnh của đức Thế Tôn“…
Dưới đây là là toàn bộ lời lý giải của Phật về 8 nỗi khổ lớn của một kiếp người. TN khẩn mong bạn và tất cả quý đạo hữu có duyên hãy lắng lòng, đọc đi đọc lại Phẩm 18 này để thấy được: Ta Bà là khổ, cực khổ! Cực Lạc là vui, cực vui, từ đó mà dũng mãnh phát tâm bồ đề nhất tâm niệm Phật nguyện cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Nguyện cầu đức Bổn Sư gia hộ để tất thảy quý đạo hữu đều hiểu được chọn vẹn nghĩa kinh này.
Về chữ „Không“ Thiện Nhân sẽ nguyện được cùng các Đạo hữu chia sẻ trong những hồi đáp kế tiếp.
A Di Đà Phật
TN
****************************************************
PHẨM HIỆN BỊNH THỨ MƯỜI TÁM
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn đức Như-lai đã khỏi tất cả tật bệnh, không còn đau khổ, không sợ sệt. Thế-Tôn ! Tất cả chúng sanh có bốn mũi tên độc : Tham Dục, sân-khuể, ngu si và kiêu mạn. Bốn thứ độc nầy là nhân sanh ra bệnh. Nếu có bệnh nhơn, thời có bệnh sanh ra tức là những thứ bệnh hàn, nhiệt, bệnh phổi, ói mữa, da thịt ngứa xót, buồn nôn ngăn nghẹn, đi chảy, bệnh kiết, tiểu dải lâm dịch, nhức tai, xốn mắt, đau lưng, bụng đầy, điên cuồng, ốm gầy, quỉ mị dựa, các thứ thân bịnh tâm bịnh như vậy. Chư Phật dầu không còn có những thứ bịnh ấy. Hôm nay đức Như-Lai cớ sao bảo Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát rằng Phật đau lưng, các ông nên vì đại chúng mà thuyết pháp ?
Bạch Thế-Tôn ! Có hai nhơn duyên thời không bệnh khổ ! Một là thương xót tất cả chúng sanh, hai là cung cấp thuốc men cho người bịnh. Từ xưa đức Như-Lai đã tu đạo Bồ-Tát trong vô lượng muôn ức kiếp : Thường thật hành lời nói dịu dàng, thân yêu, lợi ích cho chúng sanh chẳng để họ phải khổ não, bố thí các thứ thuốc men cho người bịnh. Cớ sao hôm nay lại tự nói là có bịnh ?
Thế-Tôn ! Trong đời, người có bịnh, hoặc ngồi, hoặc nằm chẳng yên, hoặc đòi uống đòi ăn, dặn bảo người nhà coi sóc sản nghiệp. Cớ sao đức Như-Lai nằm yên lặng, chẳng dạy bảo hàng Thanh-Văn đệ tử những giới luật, Thiền- Định giải thoát tam muội, tu hạnh chánh cần. Cớ sao chẳng giảng nói kinh điển đại thừa rất sâu vi diệu. Cớ sao đức Như-Lai chẳng dùng vô lượng phương tiện dạy ngài Đại Ca-Diếp cùng các hàng đại-nhơn cho họ đặng bực bất thối vô thượng bồ- đề. Cớ sao chẳng trị phạt các ác Tỳ-kheo nhận chứa tất cả vật bất tịnh. Đức Thế-Tôn thiệt không có bệnh tật, sao lại yên lặng nằm nghiêng bên mặt.
Các vị Bồ-Tát phàm cung cấp thuốc men cho người bịnh, đem căn lành ấy ban cho chúng sanh, đồng hồi hướng nhứt thế chủng trí. Vì trừ các thứ phiền não chướng, nghiệp chướng, và báo chướng cho chúng sanh. Phiền não chướng là tham dục, sân khuể ngu si, phẫn nộ, triền cái, tập não, tật đố, xan lẫn, gian trá, siểm khúc, vô tàm vô qúi, mạn, mạn mạn, đại mạn, bất như mạn, tăng thượng mạn, ngã mạn, tà mạn, kiêu mạn, phóng dật, cống cao, phẫn hận, tránh tụng, tà mạn, siểm mị, dối bày tướng lạ, dùng lợi cầu lợi, cầu quấy cầu nhiều, không cung kính, chẳng tùy thuận lời dạy bảo, gần gũi ác hữu, tham lợi không nhàm, ràng buộc khó mở, mong mỏi điều ác, tham lam việc ác chấp thân chấp có, chấp không, vươn vai ưa ngủ, ngáp dài chẳng vui, tham uống tham ăn, tâm trí mờ tối, tâm tưởng sai lầm, chẳng khéo suy nghĩ, thân và miệng nhiều lỗi ác, hay mừng, nói nhiều, căn tánh ám độn, lời nói phần nhiều rỗng tuếch, thường bị các giác quán : Dục giác, khuể giác, hai giác che đậy. Tất cả trên đây gọi là phiền não chướng.
Nghiệp chướng là năm tội vô gián, những bịnh nặng dữ.
Báo chướng là sanh vào địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh, hủy báng chánh pháp và nhứt xiển đề.
Ba chướng như vậy gọi là căn bịnh lớn.
Các vị Bồ-Tát lúc tu hạnh bồ-đề trong vô lượng kiếp, cung cấp thuốc men cho tất cả người tật bịnh, thường nguyện rằng làm cho tất cả chúng sanh dứt hẳn ba chướng.
Bồ-Tát lúc tu hạnh bồ đề cung cấp thuốc men cho tất cả người bịnh thường nguyện rằng : Nguyện cho chúng sanh dứt hẳn tật bịnh đặng thân kim cương của Như-Lai. Lại nguyện vì tất cả chúng sanh làm diệu dược dứt trừ tất cả những bệnh nặng, bịnh dữ. Nguyện các chúng sanh đặng thuốc A-Dà-Đà, thuốc nầy có công hiệu trừ vô lượng độc dữ. Nguyện chúng sanh không thối chuyển nơi vô thượng chánh đẳng chánh giác, mau đặng thành tựu vô thượng Phật đạo, tiêu trừ tất cả mũi tên độc phiền não. Nguyện chúng sanh tinh tấn tu hành, thành tựu thân kim cương của Như-Lai, làm thuốc hay vi diệu trị lành các thứ bịnh, chẳng để có người sanh lòng tránh tụng. Cũng nguyện chúng sanh làm dược thọ lớn, trị lành tất cả những bịnh dữ bịnh nặng. Lại nguyện chúng sanh nhổ mũi tên độc đặng thành quang minh vô lượng của Như-Lai. Lại nguyện chúng sanh đặng vào trí huệ của Như-Lai, thông đạt pháp tạng vi mật.
Thế-Tôn ! Bồ-Tát đã phát nguyện nầy trong vô lượng trăm ngàn muôn ức na-do- tha kiếp làm cho chúng sanh không còn bịnh tật. Cớ sao hôm nay đức Như-Lai lại xướng rằng có bịnh.
Thế-Tôn, trong đời có người bịnh không ngồi dậy được, không thể cúi ngước cựa động, ăn uống không đặng, đổ nước chẳng xuống, cũng không thể dặn bảo con cái xem sóc gia nghiệp. Cha mẹ, vợ con, anh em, thân thuộc đều nghĩ rằng : Người nầy quyết định chết. Cũng vậy, hôm nay đức Như-Lai nằm nghiêng bên hữu, không nói năng đàm luận, nơi Diêm-Phù-Đề nầy, có những người ngu sẽ nghĩ rằng : Đức Như-Lai chánh giác quyết sẽ diệt tận nhập Niết-Bàn. Nhưng thiệt ra tánh như, Như-Lai chẳng rốt ráo nhập Niết-Bàn. Vì Như-Lai thường trụ không biến đổi. Do cớ nầy đức Như-Lai chẳng nên nói rằng : Nay ta đau lưng.
Thế-Tôn ! Trong đời có người bịnh. Thân thể ốm gầy, hoặc nằm nghiêng nằm ngữa trên giừơng nệm, gia quyến người đó sanh lòng ghét bỏ, cho rằng người đó ắt chết. Cũng vậy, nay đức Như-Lai sẽ bị chín mươi lăm phái ngoại đạo khinh mạn, cho là vô thường. Các ngoại đạo đó sẽ nói rằng : Chẳng bằng chúng ta do ngã tánh thường còn, thời tiết tự tại, các pháp vi trần v.v…, mà làm thường trụ không có biến đổi. Sa-Môn Cừu-Đàm bị vô thường thuyên chuyển, đó là biến đổi. Do nghĩa nầy, hôm nay đức Thế-Tôn chẳng nên yên lặng nằm nghiêng bên mặt.
Thế-Tôn ! Trong đời người có bịnh tứ đại tăng tổn không điều thích, ốm gầy mất sức. Vì thế nên không thể ngồi đứng tùy ý, phải nằm trên giường nệm,. Tứ đại của Như-Lai điều hòa thích, sức lực đầy đủ, cũng không ốm gầy.
Thế-Tôn ! Như sức của mười con trâu nhỏ, chẳng bằng sức của một con trâu lớn. Sức của mười con trâu lớn không bằng sức của một con thanh ngưu. Sức của mười con thanh ngưu không bằng sức của một con voi thường. Sức của mười con voi thường không bằng sức của một con voi rừng. Sức của mười con voi rừng chẳng bằng sức của một con voi hai ngà. Sức của mười con voi hai ngà chẳng bằng sức của một con voi bốn ngà. Sức của mười con voi bốn ngà chẳng bằng sức của bạch tượng ở núi Tuyetá-sơn. Sức của mười bạch tượng ở Tuyết-sơn chẳng bằng sức của một hương tượng. Sức của mười hương tượng không bằng sức của một thanh tượng. Sức của mười thanh tượng không bằng sức của một huỳnh tượng. Sức của mười huỳnh tượng chẳng bằng sức của một xích tượng. Sức của mười xích tượng không bằng sức của một bạch tượng vương. Sức của mười bạch tượng vương không bằng sức của một sơn tượng. Sức của mưới sơn tượng không bằng sức của một ưu-bát-la-tượng. Sức của mười ưu- bát-la tượng không bằng sức của ba-đầu-ma tượng. Sức của mười ba-đầu-ma tượng không bằng sức của một câu-vật-đầu-tượng. Sức của mười câu-vật- đầu tượng không bằng sức của một phân-đà-lợi tượng. Sức của mười phân-đà- lợi tượng không bằng sức của một đại lực sĩ trong loài người. Sức của mười đại lực sĩ không bằng sức của một bát-kiền-đề. Sức của mười bát-kiền-đề chẳng bằng sức của bát-tý na-la-diên. Sức của mười na-la-diên không bằng sức một lóng tay của vị Thập trụ Bồ-Tát.
Các lóng xương trong thân của người thường, đầu xương chẳng đến nhau. Đại lực sĩ trong loài người đầu xương đến nhau. Thân của bát-kiền-đề các lóng xương tiếp nhau. Thân của Na-La-Diên đầu xương móc nhau, Thân của Thập- trụ của Bồ-Tát đầu những lóng xương kết liền với nhau. Vì thế nên sức mạnh của Bồ-Tát rất lớn. Lúc thế giới thành lập từ kim cang tế có tòa kim cang nổi lên đến đạo tràng dưới cây Bồ-Đề. Bồ-Tát ngồi trên tòa đó, tâm liền chứng đặng mười trí lực.
Nay đức Như-Lai chẳng nên như trẻ con thơ bé. Trẻ nít ngu si không biết nói năng, tùy ý nằm ngữa nằm nghiêng không ai quở trách. Đức Như-Lai Thế- Tôn có trí huệ lớn hiểu biết tất cả, là bực tối tôn trong loài người, đầy đủ oai đức lớn, thành tựu đại thần thông, dứt hẳn lưới nghi, đã nhổ tên độc đi đứng an lành, đặng tự tại vô sở úy, giờ đây cớ chi nằm nghiêng bên mặt, làm cho hàng nhơn thiên lo rầu khốn khổ ?
Ca-Diếp Bồ-Tát liền ở trước Phật mà nói kệ rằng :
Như-Lai đại thánh đức, Xin dạy giảng pháp mầu. Chẳng nên như trẻ thơ, Người bịnh nằm giường nệm, Điều-Ngự-Thiên-Nhơn-Sư. Nằm dựa nơi song thọ, Kẻ phàm phu ngó thấy, Cho rằng ắt Niết-Bàn. Chẳng biết kinh Đại- thừa, Hạnh của Phật rất sâu. Chẳng thấy tạng vi mật. Như mù chẳng thấy đường. Duy các vị Bồ-Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi thảy. Hiểu được mật tạng nầy, Ví như người bắn giỏi. Chư Phật trong ba đời, Đại-bi làm căn bản, Đại-từ-bi như vậy. Nay ở tại chỗ nào ? Nếu là không đại bi, Thời chẳng gọi là Phật. Phật nếu ắt Niết-Bàn. Thời chẳng gọi là thường. Ngưỡng mong đấng vô thượng, Nhận lời mời của tôi, Lợi ích các chúng sanh, Xô dẹp những ngoại đạo.
Lúc bấy giờ đức Thế-Tôn, đại-bi huân nơi lòng, rõ biết tâm niệm của đại chúng muốn tùy thuận để đại chúng được lợi ích rốt ráo, liền dậy ngồi kiết-gìa, dung nhan vui vẻ sáng rỡ như vàng ròng, mặt mắt xinh đẹp dường như trăng tròn, hình dung thanh tịnh không có những cấu-uế, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp hư không. Ánh sáng đó hơn cả trăm ngàn mặt trời chiếu suốt mười phương thế giới, ban bố trí huệ cho chúng sanh, diệt trừ vô minh hắc ám, làm cho trăm ngàn ức na-do-tha chúng sanh bồ-đề tâm vững chắc.
Đức Thế-Tôn lòng không nghi lự. Như sư tử vương dùng ba mươi hai tướng đại nhơn, tám mươi thứ tốt trang nghiêm nơi thân. Mỗi lổ chơn lông trên thân đều hiện ra một hoa sen. Hoa sen ấy đủ ngàn cánh thuần màu vàng ròng, cọng bằng lưu ly, tua bằng kim cang, gương bằng ngọc mai khôi, hình lớn tròn như bánh xe. Những hoa sen ấy đều phóng ra ánh sáng nhiều màu : Xanh, vàng, đỏ, trắng, màu tía, màu pha lê, các ánh sáng ấy chiếu suốt đến địa ngục A-Tỳ cùng các đại địa ngục, chúng sanh đang bị khổ đốt, nấu, đâm, chém, lột da v.v…, gặp ánh sáng nầy đều được khỏi khổ, an ổn mát mẻ. Trong ánh sáng ấy lại tuyên nói tạng bí mật của Như-Lai, nói rằng : Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Chúng sanh trong địa ngục nghe pháp âm rồi, liền bỏ thân sanh lên cõi trời hay trong loài người. Chúng sanh trong hàn-băng địa ngục ánh sáng của Phật chiếu đến cũng được khỏi khổ, được nghe pháp và được sanh lên cõi trời hay trong loài người. Bao nhiêu địa ngục nơi cõi Diêm-Phù-Đề nầy và các thế giới khác thảy đều trống không, không người thọ tội, trừ kẻ nhứt-xiển-đề.
Loài ngạ-quỹ khổ vì đói khát tóc vấn lấy thân, cả trăm ngàn năm chưa từng được nghe tên nước, đồ uống, họ gặp ánh sáng của Phật liền hết đói khát. Trong ánh sáng ấy cũng nói tạng vi mật của Như-Lai, nói rằng : Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Nhờ nghe pháp âm nầy loài ngạ quỹ được sanh lên trời hay trong loài người, trừ những kẻ hủy báng kinh điển Đại-thừa Phương-đẳng.
Những loài súc sanh, giết hại ăn nuốt lẫn nhau. Chúng nó gặp ánh sáng của Phật trừ được tâm hung ác. Trong ánh sáng ấy cũng nói tạng vi mật của Như- Lai, nói rằng : Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Những loài súc sanh nhờ nghe pháp âm sau khi chết sanh lên cõi trời hay trong loài người, trừ những kẻ hủy báng chánh pháp.
Trên mỗi hoa sen đó đều có một đức Phật Viên-Quang rộng một tầm. Màu vàng chói sáng, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ đẹp trang nghiêm nơi thân. Trong các đức Phật đó có vị thì ngồi, có vị thì đi, có vị thì đứng, có vị thì nằm, có vị nổi tiếng sấm, có vị rưới mưa, có vị phóng chớp sáng, có vị nổi gió, có vị phóng khói lửa, có vị thị hiện những núi bảy báu, suối , ao, sông, ngòi, núi rừng, cây cối, có vị hiện ra cõi nước bảy báu, thành ấp xóm làng cung điện nhà cửa. Có vị hiện ra voi, ngựa, sư tử, cọp, sói, chim công, phụng hoàng. Có vị làm cho bao nhiêu chúng sanh trong Diêm-Phù-Đề đều được thấy địa ngục, súc sanh, ngạ quỹ, nhẫn đến thấy sáu cõi trời dục giới. Trong các đức Phật đó lại có vị thuyết về ấm, giới, các nhập, nhiều sự tội lỗi. Cóvị nói pháp tứ-đế. Có vị nói pháp thập nhị nhơn duyên. Có vị nói những phiền não, những nghiệp đều do nhơn duyên sanh. Có vị nói pháp ngã cùng vô ngã. Có vị nói hai pháp khổ và lạc. Có vị nói pháp thường và vô thường. Có vị nói pháp tịnh cùng bất tịnh. Lại có đức Phật vì các Bồ-Tát nói sáu pháp ba-la-mật. Lại có đức Phật nói công đức của Đại Bồ-Tát . Lại có đức Phật nói công đức của chư Phật Thế-Tôn. Lại có đức Phật nói công đức của hàng Thanh-Văn. Lại có đức Phật nói tùy thuận nhứt-thừa. Hoặc có đức Phật nói tam-thừa thành đạo. Có đức Phật hông bên trái hiện ra nước, hông bên hữu hiện ra lửa. Có đức Phật thị hiện giáng sanh, xuất gia ngồi đạo tràng dưới cây bồ-đề chuyển pháp luân vi diệu, nhập Niết-bàn. Lại có đức Phật thuyết pháp làm cho trong đại đội nầy có người chứng đặng sơ quả, nhị quả, tam quả, nhẫn đến tứ quả. Hoặc có đức Phật nói vô lượng nhơn duyên thoát ly sanh tử.
Những chúng sanh trong Diêm-Phù-Đề nầy được ánh sáng của Phật chiếu đến người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm nói được, người què bại đi được, người nghèo được của, kẻ bỏn xẻn phát tâm bố thí, kẻ sân hận sanh lòng từ. Người không chánh tín bèn có chánh tín. Chúng sanh trong thế giới không có ai làm việc ác, trừ hạng nhứt xiển đề.
Tất cả trời, rồng, quỷ thần, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu la, khẩn-na-la, ma- hầu-la- già, la-sát, kiện-đà, ưu-ma-đà, a-bà-ma-la, nhơn, phi nhơn v.v… đều đồng tiếng xướng rằng : Lành thay ! Lành thay ! Đấng Vô Thượng Thiên-Tôn, làm sự lợi ích lớn. Tất cả đều vui mừng hớn hở, hoặc ca hoặc múa, đem các thứ hoa rải trên Phật và chúng Tăng. Đó là những hoa cõi trời : Hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha-mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha-mạn-thù-sa, hoa tán-đà-na, hoa ma-ha tán-đà-na, hoa lư-chỉ-na, hoa ma-ha-lư-chỉ-na, hoa hương, hoa đại-hương, hoa thích-ý, hoa đại thích-ý, hoa ái-kiến, hoa đại ái- kiến, hoa đoan-nghiêm, hoa đệ nhứt đoan-nghiêm.
Lại rải các thứ hương : Hương trầm-thủy, hương đa-dà-lâu, chiên-đàn, uất-kim, hương pha trộn, hương hải ngạn.
Lại đem tràng phan lọng báu cõi trời, kỹ nhạc cõi trời : đờn tranh, đờn sắt, ống dịch, ống sanh, không hầu, khảy, thổi cúng dường lên Phật, đồng nói kệ rằng :
Tôi nay đãnh lễ đức Đại Tinh Tấn Đấng Lưỡng-Túc-Tôn vô thượng chánh giác. Đại chúng trời người chẳng thể biết thấu, Chỉ có đức Cù-Đàm mới rõ được. Đức Thế-Tôn thuở trước vì chúng tôi, Trong vô lượng kiếp siêng tu khổ hạnh, Tại sao một mai bỏ thệ nguyện cũ, Mà bèn xả mạng muốn nhập Niết-bàn ? Tất cả chúng sanh chẳng thể thấy biết, Tạng bí mật của chư Phật Thế-Tôn, Do nhơn duyên nầy khó đặng xuất ly, Luân chuyển trong sanh tử đọa ác đạo. Như Phật đã từng nói A-La-Hán. Tất cả đều sẽ đến nơi Niết-Bàn, Công hạnh rất sâu củaPhật như vậy. Hạng phàm phu ngu mê ai biết được. Ban pháp cam lồ cho các chúng sanh, Vì muốn dứt trừ hết những phiền não, Nếu có người uống chất cam lộ nầy, Chẳng còn lại thọ sanh lão bịnh tử. Đức Như-Lai Thế- Tôn vì chữa trị, Trăm ngàn vô lượng tất cả chúng sanh. Bao nhiêu những bịnh nặng của chúng sanh, Đều làm tiêu diệt không còn thừa sót. Đức Thế-Tôn từ lâu khỏi bịnh khổ. Nên đặng gọi là đức Phật thứ bảy, Ngưỡng mong ngày nay lại rưới mưa pháp, Nhuần thấm giống công đức của chúng tôi. Đại chúng trời người trong pháp hội nầy, Thỉnh cầu như vậy rồi đều yên lặng.
Phật bảo Ca-Diếp bồ-Tát : Lành thay ! Lành thay ! Nầy Thiện-nam-tử, ông đã đầy đủ trí huệ vi diệu rất sâu như vậy, chẳng bị tất cả tà ma ngoại đạo phá hoại.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nay ông thành tựu biện tài vô ngại. Ông đã từng cúng dường vô lượng hằng hà sa chư Phật quá khứ, nên có thể hỏi đức Như-Lai những nghĩa như vậy.
Nầy Thiện-nam-tử ! ta đã từ vô lượng vô biên ức na-do-tha trăm ngàn muôn kiếp, trừ hết bịnh căn, lìa hẳn sự dựa nằm, vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Vô-Thượng-Thắng, đầy đủ mười hiệu. Đức Phật đó vì hàng Thanh-Văn nói kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn nầy. Thuở đó ta cũng làm Thanh-Văn của đức Phật ấy. Ta thọ trì kinh điển Đại-Niết-Bàn như vậy, đọc tụng thông thuộc, biên chép quyển kinh, rồi ta rộng vì người khác phân biệt giảng thuyết. Ta đem căn lành đóhồi hướng vô thượng Bồ-Đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Từ đó trở đi, ta chưa từng có những phiền não nghiệp ác, chẳng đọa nơi ác đạo, chẳng hủy báng chánh pháp làm nhứt xiển đề, chẳng thọ thân hoàng môn, chẳng phạm năm tội nghịch, bốn tội trọng. Từ đó đến nay thân tâm ta an ổn, không có các sự khổ não.
Nầy Thiện-nam-tử ! nay ta thiệt không có tất cả tật bịnh. Vì chư Phật Thế- tôn từ lâu đã xa lìa tất cả bịnh khổ. Các chúng sanh chẳng biết giáo pháp bí mật Đại- thừa Phương-Đẳng, bèn cho rằng đức Như-Lai thiệt có bịnh.
Nầy thiện-nam-tử ! Như nói đức Như-Lai là sư tử trong loài người nhưng đức Như-Lai thiệt chẳng phải là sư tử . Như nói đức Như-Lai là rồng lớn trong loài người, nhưng đức Như-Lai thiệt chẳng phải rồng. Đức Phật từ vô lượng kiếp đã xa lìa ác nghiệp. Nên biết những lời như vậy chính là giáo pháp bí mật của Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như nói đức Như-Lai là người, là trời, nhưng thiệt ra đức Phật chẳng phải người, chẳng phải trời, cũng chẳng phải quỉ thần, càn- thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, chẳng phải ngã, chẳng phải mạn, chẳng phải dưỡng dục, chẳng phải sĩ phu, chẳng phải làm, chẳng phải không làm, chẳng phải thọ, chẳng phải không thọ, chẳng phải Thế-Tôn chẳng phải Thanh-Văn, chẳng phải thuyết, chẳng phải không thuyết. Những lời như vậy đều là giáo pháp bí mật của Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như nói đức Như-Lai dường như biển cả, như núi tu-Di, nhưng đức Như-Lai thiệt chẳng phải vị mặn, cũng chẳng phải đồng như đá núi. Phải biết lời nói như vậy là giáo pháp bí mật của Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như nói đức Như-Lai như hoa Phân-Đà-Lợi, nhưng thiệt ra đức Phật chẳng phải hoa Phân-Đà-Lợi. Như nói đức Như-Lai dường như cha mẹ, nhưng thiệt ra đức Như-Lai chẳng phải cha mẹ. Như nói đức Như-Lai là Đại Thuyền-Sư, nhưng đức Như-Lai chẳng phải Thuyền-Sư . Như nói đức Như-Lai như Thương-chủ, nhưng đức Như-Lai thiệt chẳng phải Thương-chủ. Những lời như vậy cũng là giáo pháp bí mật của Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như nói đức Như-Lai hay trừ dẹp loài ma, nhưng thật ra đức Như-Lai không có ác tâm muốn khiến ma bị xô dẹp. Như nói đức Như- Lai trị được ung thư ghẻ độc, nhưng thật ra đức Phật chẳng phải thầy thuốc trị ung nhọt. Những lời như vậy cũng là giáo pháp bí mật của Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử ! Như đức Phật trước kia đã nói, nếu có thiện-nam, tín nữ nào có thể khéo tu hành ba nghiệp thân, khẩu, ý, lúc người đó chết, dầu trong thân tộc hoặc đem thi hài thiêu đốt, hoặc ném xuống sông, hoặc bỏ trong gò mã, chồn sói cầm thú cùng nhau đến xé ăn, những tâm ý thức của người đó liền sanh nơi cõi lành. Tâm thức như vậy thiệt không đi, không lại cũng không chỗ đến, chỉ là trước sau giống nhau, nối nhau, tướng mạo chẳng sai khác. Lời nói như vậy là giáo pháp bí mật của Như-Lai.
Nầy Thiện-nam-tử ! Nay ta nói rằng có bịnh cũng như vậy, cũng là giáo pháp bí mật của Như-Lai. Đức Như-Lai Đẳng Chánh-Giác thiệt không có bịnh nằm nghiêng bên hữu, cũng không rốt ráo nhập nơi Niết-bàn. Nầy Ca-Diếp Bồ- Tát ! Đại-Niết-bàn đây thiệt là thiền định rất sâu của chư Phật. Thiền định nầy chẳng phải cảnh giới của Thanh-Văn, Duyên-Giác.
Nầy thiện-nam-tử ! Vừa rồi ông hỏi cớ chi đức Như-Lai dựa nằm chẳng ngồi dậy, chẳng đòi uống ăn, chẳng dặn bảo quyến thuộc coi sóc sản nghiệp.
Nầy Thiện-nam-tử ! Tánh hư không cũng chẳng ngồi dậy, chẳng đòi uống ăn, chẳng dặn bảo quyến thuộc coi sóc sản nghiệp, cũng không đi, không lại, không sanh diệt, không già, trẻ, không mọc lặn, hư bể, giải thoát, ràng buộc, cũng không nói mình, nói người, cũng không hiểu mình hiểu người, chẳng phải ăn, chẳng phải bịnh.
Nầy Thiện-nam-tử ! Chư Phật Thế-Tôn cũng như vậy, dường như hư không, thế nào sẽ có những bịnh khổ ư ?
Nầy Thiện-nam-tử ! Trong đời có ba hạng người bịnh khó trị : Một là kẻ hủy báng Đại-thừa, hai là kẻ phạm tội ngũ nghịch, ba là hạng nhứt-xiển-đề, ba hạng bịnh nầy là rất nặng ở trong đời. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác và Bồ-Tát đều không thể trị được.
Nầy Thiện-nam-tử ! ví như có bịnh khó trị chắc chết, dầu có săn sóc, tùy ý thuốc men, hoặc không săn sóc, tùy ý thuốc men, người bịnh ấy chắc chết chẳng nghi. Ba hạng người trên đây cũng như vậy, dầu có Thanh-Văn, Duyên-Giác và Bồ- Tát thuyết pháp cho, hay chẳng thuyết pháp, đều không thể làm cho họ phát tâm vô thượng bồ-đề.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như người bịnh có sự săn sóc, tùy ý thuốc men, thời có thể lành bịnh, nếu không ba việc này, thời bịnh chẳng lành. Cũng vậy, hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác, theo Phật và Bồ-Tát đặng nghe pháp rồi liền có thể phát tâm vô thượng bồ-đề. Không phải chẳng nghe pháp mà có thể phát bồ-đề tâm.
Nầy Thiện-nam-tử ! Ví như người bịnh, nếu được săn sóc, tùy ý thuốc men, hoặc không săn sóc, tùy ý thuốc men, đều được lành bịnh. Cũng vậy, có một hạng người, hoặc gặp Thanh-Văn hay chẳng gặp, hoặc gặp Duyên-Giác hay chẳng gặp, hoặc gặp Bồ-Tát hay chẳng gặp, hoặc gặp Như-Lai hay chẳng gặp, hoặc đặng nghe pháp hay chẳng đặng nghe, tự nhiên đặng thành vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đây là hạng người nào ? Chính là người vì thân mình hay vì người khác, hoặc vì sợ sệt hoặc vì lợi dưỡng, hoặc vì dua nịnh, hoặc vì phỉnh gạt người mà biên chép kinh Đại-Niết-Bàn nầy, rồi thọ trì đọc tụng cúng dường cung kính, giải nói cho người khác.
Nầy Thiện-nam-tử ! Có năm hạng người đối với kinh điển Đại-thừa Đại- Niết- Bàn nầy có bịnh mà tu hành, chẳng phải là đức Như-Lai. Những gì là năm hạng ?
Một là bực dứt kiến-hoặc trong tam giới đặng quả tu-đà-hoàn, chẳng đọa địa ngục, súc sanh, ngã-quỉ, bảy lần sanh trong loài người, trên trời, dứt hẳn các sự khổ nhập Niết-bàn. Đây gọi là hạng người thứ nhứt có bịnh tu hành. Người nầy thuở vị lai, qua khỏi tám muôn kiếp sẽ đặng thành vô thượng chánh giác.
Bực thứ hai dứt kiến-hoặc trong tam giới, tham, sân, si, mạn, đặng quả tư-đà- hàm, còn một lần sanh trong loài người, trên trời, dứt hẳn các khổ nhập Niết- Bàn. Đây gọi là bực thứ hai có bịnh tu hành. Người nầy thuở vị lai qua khỏi sáu muôn kiếp, sẽ đặng thành vô thượng chánh giác.
Bực thứ ba dứt kiến-hoặc trong tam giới, tư-hoặc cõi dục đã dứt, đặng quả a-na- hàm, chẳng còn sanh trong loài người, dứt hẳn các khổ nhập Niết-Bàn. Đây gọi là bực thứ ba có bịnh tu hành. Người nầy thuở vị lai qua khỏi bốn muôn kiếp, sẽ đặng quả vô thượng chánh giác.
Bực thứ tư dứt hẳn tham dục, sân-khuể, ngu si, đặng quả a-la-hán, không còn phiền não nhập Niết-Bàn, cũng chẳng phải hạnh kỳ-lân độc nhứt. Đây gọi là bực thứ tư có bịnh tu hành. Người nầy thuở vị lai qua khỏi hai muôn kiếp, sẽ đặng quả vô thượng chánh giác.
Bực thứ năm dứt hẳn tham dục, sân khuể, ngu si, đặng quả Bích-Chi Phật phiền não hết sạch nhập Niết-Bàn, thiệt là hạnh kỳ-lân độc nhứt. Đây gọi là bực thứ năm có bịnh tu hành. Người nầy thuở vị lai qua khỏi mười ngàn kiếp, sẽ đặng quả vô thượng chánh giác.
Đây gọi là năm hạng người có bịnh tu hành, chẳng phải đức Như-Lai vậy.
THÀ KHUẤY ĐỤC NƯỚC NGHÌN SÔNG CHỨ KHÔNG LÀM ĐỘNG TÂM NGƯỜI TU ĐẠO.
http://www.duongvecoitinh.com/index.php/2016/03/tha-khuay-duc-nuoc-nghin-song-chu-khong-lam-dong-tam-nguoi-tu-dao/