Pháp sư Khả Cứu đời Tống. Sư thường niệm kinh Pháp Hoa cầu sanh Tịnh Độ. Trong chương Tam Bối Vãng Sanh của kinh Vô Lượng Thọ, đoạn thứ tư có nói: Hễ ai tu học hết thảy pháp Đại Thừa, hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ thì A Di Đà Phật cũng đến tiếp dẫn giống hệt [như người chuyên tu Tịnh Độ]. Đủ thấy pháp môn này bao dung hết sức rộng lớn. Pháp sư Khả Cứu ngồi vãng sanh, mất đã ba ngày, sống lại, bảo các đồng tu: “Tôi đã đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, trông thấy tình hình hoàn toàn giống như kinh đã dạy”. Ngài lại nói những ai tu Tịnh Độ trong cõi đời, hoa sen trong ao bảy báu ở Tây Phương đều có ghi tên. Người Thượng Phẩm vãng sanh là lão hòa thượng của Quảng Giáo Viện tại Thần Châu. Khi ấy, lão hòa thượng còn chưa vãng sanh. Ngoài ra, còn có Tôn Thập Nhị Lang ở Minh Châu và chính sư Khả Cứu đều là đài vàng. Kém hơn là đài bạc, người chứng được đài bạc là Từ đạo cô. Pháp sư Khả Cứu thuật tình hình đã thấy cho mọi người nghe rồi lại vãng sanh. Sau này, Tôn Thập Nhị Lang lâm chung, nhạc trời vang rền hư không; khi Từ đạo cô lâm chung, có mùi hương lạ ngập thất không tan.
Pháp sư Hoài Ngọc, khi lâm chung, thấy A Di Đà Phật cầm đài bạc đến đón, Sư nghĩ ta bình sinh công phu rất đắc lực, cớ sao chỉ được đài bạc, tợ hồ chẳng cam lòng. Ý niệm vừa khởi, chẳng thấy A Di Đà Phật nữa. Sư lại dốc hết tánh mạng niệm Phật bảy ngày bảy đêm không ngớt, A Di Đà Phật lại hiện, cầm đài vàng tiếp dẫn.
Trong thế gian, người tu pháp môn Tịnh Độ chân tâm niệm Phật cầu vãng sanh, hoa sen của người ấy bèn sáng ngời, rực rỡ chóa mắt. Nếu giải đãi, biếng nhác, hoa liền khô héo. Đổi dạ chuyển sang tu pháp môn khác, hoa liền chết khô. Hết thảy sự vật trong Tây Phương đều chẳng sanh diệt, chỉ có hoa sen trong ao bảy báu là có sanh, có diệt. Sự tươi, khô, sanh, diệt ấy do hành nhân cảm thành, chứ không liên quan gì tới A Di Đà Phật.
Khi niệm Phật, tâm tánh năng niệm chẳng thể nghĩ bàn, nhưng phải dùng chân tâm, đừng dùng vọng tâm. Niệm Phật bằng chân tâm thì xử thế đãi người tiếp vật cũng phải dùng chân tâm. Niệm niệm cầu sanh về Tịnh Độ, khi còn sống trên đời thì hết thảy thuận theo tự nhiên, chớ nên cưỡng cầu. Một câu Phật hiệu đầy đủ viên mãn Tam Học, Tam Huệ, và ba món tư lương, mà cũng đầy đủ viên mãn vô lượng hạnh môn, nhất tâm chấp trì sẽ có thể viên siêu, viên đốn.
Trích Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải Giảng Ký Phần 9
Pháp sư Tịnh Không giảng thuật
Cư sĩ Lưu Thừa Phù ghi chép
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Theo lời Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể rằng, những ngày Hòa Thượng còn ở quê nhà, nơi Tổ đình Thiên Ấn – miền Trung, có một chú sa di tên Diệu Mãn. Thường nhật Chú chỉ làm công việc quét chùa. Chú người hiền lành, ít nói, tánh tình ngồ ngộ. Đặc biệt trong chúng, ai nhờ việc gì đều hoan hỷ làm ngay. Cũng chính vì vậy, chú thường bị quí sư huynh đệ la rầy, sao đang làm việc này lại bỏ đi làm việc kia… Tuy vậy, nhưng lúc nào chú cũng hoan hỷ, không ai thấy chú câu chấp việc gì bao giờ.
Chú Diệu Mãn thường lấy niệm Phật làm công phu tu hành. Ngày ngày, tháng tháng, năm năm… hai thời công phu sáng tối chú gìn giữ đều đặn. Ai làm gì thì làm, mặc người nói ra nói vào điều chi, thậm chí có ai chọc ghẹo, chú cũng hoan hỷ im lặng cười xòa.
Thời gian thấm thoát trôi qua, cho đến một hôm, giữa buổi thọ trai, chú Diệu Mãn đắp y ra tác bạch với Hòa Thượng Bổn Sư và đại chúng, chú chấp tay cung kính thưa: “Bạch Hòa Thượng và đại chúng, con nay xin thành tâm đảnh lễ ân đức của Hòa Thượng và đại chúng đã trưởng dưỡng con cho đến ngày hôm nay, nay thời gian đã đến, con tác bạch xin Hòa Thượng cho phép cho về với Phật”. Đại chúng ngẩn ngơ nhưng bình thường thấy chú Diệu Mãn ngồ ngộ, nên tưởng hôm nay chắc chú ấy cũng giỡn chơi. Hòa Thượng dạy rằng: “Này Diệu Mãn, tiết trời lúc này đang mùa mưa, con về với Phật mùa này cũng ướt át lắm, thôi để 23 tết đưa ông Táo về trời, rồi con hãy đi luôn cho tiện.” Chú Diệu Mãn đáp: “Mô Phật, bạch Thầy, Thầy dạy như vậy, con xin vâng”.
Sau lần tác bạch ấy, đại chúng không nhắc gì thêm về việc ấy nữa. Cứ nghĩ tánh chú ngộ nghĩnh vậy mà. Chú Diệu Mãn trở lại công việc thường ngày, vẫn hoan hỷ, vẫn ngồ ngộ, vẫn quét chùa như ngày nào. Mọi người ai nấy dường như đã quên lời tác bạch của Chú Diệu Mãn hôm nao.
Thời gian thấm thoát trôi qua, đến ngày 23 tháng chạp gần Tết năm đó, giữa cái chộn rộn, xôn xao của những ngày cuối năm, quí huynh đệ đột nhiên thấy Chú Diệu Mãn thần sắc lạ hơn ngày thường, y áo chỉnh tề bước lên hậu Tổ, lễ Tổ xong rồi ngồi thế hoa sen chấp tay niệm Phật. Đại chúng ai nấy đều thấy lạ, và đâu đó trong tâm khảm của mỗi người đều cảm được một điều gì đó rất tôn nghiêm, rất kính cẩn. Tự dưng không ai còn khởi niệm đùa cợt trước thái độ của chú Diệu Mãn trong giờ phút ấy nữa. Chú thưa với đại chúng rằng : “Nhờ chư huynh đệ hoan hỷ thỉnh Hòa Thượng từ bi lên tụng cho Diệu Mãn thời Kinh tiếp dẫn”.
Quí Thầy hấp tấp chạy mau xuống thưa với Ôn Hòa Thượng, thỉnh Ôn lên hậu Tổ. Khi Ôn đã lên tới, chú Diệu Mãn chấp tay cung kính thưa: “Bạch Thầy, hồi trong năm con đã bạch Thầy cho con về với Phật, Thầy dạy lúc đó trời mưa quá không tiện đi, đợi cuối năm hãy đi. Nay đã là ngày 23 tháng Chạp, thời giờ đã đến. Con xin Thầy cùng đại chúng từ bi tụng Kinh tiếp dẫn cho con.”
Thời gian không gian lúc ấy dường như ngừng lại, mọi người từ Hòa Thượng xuống tất cả huynh đệ, tâm trạng ai ai cũng tràn đầy cảm xúc khó tả. Hòa Thượng xướng bản Kinh A Di Đà, đại chúng cùng hòa theo. Chú Diệu Mãn vẫn chấp tay an tọa nơi đó. Tụng xong bản Kinh, Hòa Thượng đến xem thì thấy Chú đã an tịnh ra đi tự lúc nào !
Chú Diệu Mãn đã an tường ra đi, ra đi biết trước giờ khắc. Ra đi giữa sự tiếp dẫn của Hòa Thượng Bổn Sư và các sư huynh, sư đệ. Ra đi giữa bổn nguyện trong Kinh A Di Đà, ra đi có định hướng. Ôi, Phật Pháp thật nhiệm mầu làm sao !
Chú Diệu Mãn ra đi nay đã hơn 70 năm, nếu đại chúng chưa đủ duyên lành, thì ngày nay tấm gương nhất tâm tu trì ấy, thế hệ mai sau đâu dễ gì được nghe Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể lại. Chúng con xin thành tâm cảm niệm ân đức Hòa Thượng đã kể lại những mẫu chuyện chuyên tu chuyên hành như vậy, để đàn hậu tấn chúng con càng thêm vững bước trên con đường chấm dứt sinh tử luân hồi.
Trích Giữ Tâm Một Chỗ, Việc Gì Cũng Xong
TKN Thích Nữ Giác Anh
Trong cuốn băng thâu âm lời khai thị trong Phật Thất, pháp sư Đàm Hư có kể nhiều chuyện vãng sanh hiện thời. Ngài có nhắc tới chuyện một con gà trống vãng sanh. Khi pháp sư Đế Nhàn làm phương trượng chùa Đầu Đà, trong chùa có nuôi một con gà trống. Con gà trống ấy mỗi ngày đều theo đại chúng tụng kinh sớm tối, nó cũng theo đại chúng đến trai đường. Mọi người ăn cơm, cơm, rau rơi xuống đất nó đều nhặt ăn hết, ăn sạch sành sanh. Có một hôm lên tụng kinh, sau khi tụng kinh xong, mọi người đều rời khỏi, con gà trống ấy không đi. Thầy Hương Đăng xua nó đi: “Mọi người đi hết rồi, ta phải đóng cửa, ngươi hãy mau đi ra”. Con gà trống to ấy không đoái hoài tới thầy ấy, đi tới giữa đại điện, đứng ở đấy, nghển cổ nhìn tượng Phật, kêu ba tiếng, rồi đứng chết ngay ở đó. Pháp sư Đế Nhàn chiếu theo lễ tiết dành cho người xuất gia hỏa táng nó. Đây là chuyện súc sanh vãng sanh mà lão pháp sư Đàm Hư đích thân chứng kiến. Con người nếu chẳng khéo niệm Phật sẽ thua cả súc sanh! Công đức lợi ích vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới cái nói bất tận, quý vị hãy khéo nghe lời khai thị của Đàm lão pháp sư.
Chủ giảng: Lão pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Huệ Trang và Đức Phong
Video giảng sư: ni sư thích nữ Như Lan
Được Phật A Di Đà gia hạn sống thêm 5 năm. Sư Bà Thích Như Phụng thấy Phật, thấy cả cảnh giới Tây Phương Cực Lạc và được chết trong mùi thơm đúng như ước nguyện.
NHƯ Lai trưởng tử trụ Ta bà, PHỤNG sự nhân quần dĩ lợi tha, TÂY xứ phu tòa quy bỉ ngạn, HƯNG Thiền châu kết độ hà sa, NI đồ phổ nhuận Tôn Sư đức, TRƯỞNG ấu đồng triêm pháp lục hòa, MINH hiển từ tâm hành lục độ, CẢNH huyền cao chiếu nhứt thiền gia.
Tháng 10 năm 2002, chúng tôi có việc phải về Việt Nam, trong thời gian mười ngày bên đó, chúng tôi được nghe quý Sư và Phật tử thường nhắc về hạnh tu của Sư Bà Như Phụng. Chúng tôi rất muốn được đến thăm Sư Bà nhưng vì lý do đặc biệt khiến chúng tôi không thể rời khỏi nhà. Sau khi trở về bên này, trong câu chuyện tham khảo ý kiến với Bác Tịnh Hải về vấn đề vãng sanh, chúng tôi có trình bày với bác rằng: “Dựa theo sách Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá Lợi của bác, cháu nghĩ tại Sa Đéc sẽ có hai vị cao tăng Ni sau này sẽ vãng sanh lưu Xá lợi”. Dự đoán ấy nay đã trở thành sự thật!
Mấy tuần trước, chúng tôi được gia đình cho biết, Sư Bà Như Phụng đã thị tịch và để lại rất nhiều xá lợi. Chúng tôi liền báo tin cho Bác Tịnh Hải rõ, bác yêu cầu chúng tôi liên lạc về Sa Đéc để thu thập hình ảnh và bài tiểu sử của Sư Bà do liên hữu Thiện Thành gởi qua, chúng tôi đã liên lạc trực tiếp với Sư cô Thích nữ Như Hiền thuộc chùa Tây Hưng để xin thêm những chi tiết về công hạnh tu tập và trường hợp vãng sanh của Sư Bà.
Sư Bà Thích nữ Như Phụng tự Diệu Thành, pháp hiệu Giác Mỹ, sinh năm 1911 tại làng Tân Vĩnh Hòa, Quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc. Là đệ tử xuất gia của Hòa Thượng Thích Vạn Ân thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 41. Thân phụ là cụ Phạm Văn Lắm, người rất hiền hòa phúc hậu, thân mẫu là bà cụ Huỳnh Thị Trúc, một người mẹ đảm đang đức hạnh. Sư Bà là con thứ sáu trong gia đình có tám anh chị em và là chị của cố Ni Trưởng Thích nữ Như Lan, trụ trì chùa Thanh Thiền ở Sa Đéc và Ni Trưởng Thích nữ Như Hiếu, đương kiêm trụ trì chùa Tây Hưng.
Thuở thiếu thời, Sư Bà thường xuyên lui tới chùa Tây Hưng, tụng kinh niệm Phật, công quả sớm hơm và quy y Tam Bảo. Càng ngày Sư Bà nhận thức sâu sắc về cuộc đời giả tạm, khổ nhiều hơn vui, từ đây chí xuất trần tu thiện pháp càng mãnh liệt. Khi duyên lành đã sẵn đủ, lại được sự chấp thuận của song thân, Sư Bà lên đường tầm sư học đạo. Năm 1929, lúc vừa tròn 19 tuổi, Sư Bà đến chùa Tây Hưng cầu Hòa Thượng Thích Vạn Ân xin được thế phát xuất gia tu học. Tháng 11 năm 1945, Hòa Thượng Bổn sư viên tịch, Sư Bà được giao phó trọng trách.
Sư Bà chuyên tu theo pháp môn niệm Phật A Di Đà. Thuở ban đầu, ngay sau khi xuất gia, Sư Bà niệm Tam Thiên Phật, rồi Vạn Phật, Ngũ Bách, tụng Sám Hối Hồng Danh, nhưng về sau Sư Bà chỉ niệm thánh hiệu “A Di Đà Phật”. Ngay cả khi Sư Bà kết hạt chuỗi bo bo, mỗi hạt bo bo là một biến “A Di Đà Phật”.
Công phu niệm Phật của Sư Bà không bao giờ dãi đãi, thời khóa niệm Phật hàng ngày bắt đầu từ 2 đến 4 giờ sáng; 7 đến 9:30 giờ; 2 đến 4 giờ chiều; 5:30 đến 7 giờ tối. Sư Bà ngọ trai lúc 12 giờ trưa và sau đó tụng Kinh A Di Đà, việc này Sư Bà đã thực hành nghiêm chỉnh ngay từ lúc mới xuất gia.
Sư Bà đã niệm Phật miên mật như thế trong suốt thời gian dài làm cho chúng tôi nhớ đến lời dạy của Ngài Ngẫu Ích Trí Húc Đại Sư mà Hòa Thượng Minh Tâm đã ghi trong Lời Bạt của sách Những Chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá Lợi: “Đời mạt pháp, ức vạn người tu hành, ít có một người đắc đạo. Chỉ còn nhờ phép Niệm Phật mới được độ thoát. Than ôi, nay chính là đời mạt pháp rồi mà bỏ pháp môn niệm Phật này thì còn pháp môn nào tu học được nữa”. Vì vậy trường hợp vãng sanh lưu lại Xá lợi của Sư Bà Như Phụng đối với hành giả chuyên tu theo pháp môn Niệm Phật chắc cũng không có gì ngạc nhiên.
Ngoài công phu niệm Phật, Sư Bà đã thực hành hạnh của Bồ Tát mà ít có người làm được. Như trên đã nói, Sư Bà kết chuỗi bo bo, mỗi hạt là một biến “A Di Đà Phật”, mỗi ngày kết hai tràng để tặng cho chúng sanh Phật tử, nguyện của Sư Bà là mong cho mọi người đều niệm Phật. Sư Bà phát năm cầu nguyện khi thí chuỗi là:
Cầu cho Phật tử dồi sào sức khỏe
Cầu cho người niệm Phật tài vật đầy đủ
Chí niệm thường tinh tấn
Thực hành hạnh nguyện Bồ Tát
Khi bỏ thân được vãng sanh Cực Lạc.
Ngày nay nhiều Phật tử ở hải ngoại có dịp về thăm lại chùa Tây Hưng vẫn thường nhớ đến những tràng chuỗi bằng hạt bo bo và ao ước có được xâu chuỗi như thế để tưởng Phật, niệm Phật.
Với tâm nguyện cứu độ chúng sanh, phát nguyện cầu siêu cho chư hương linh được siêu sanh lạc quốc, Sư Bà đã bỏ ra bốn năm trời, cứ vào mùa Thanh Minh, thường đến hết nghĩa trang này lại qua nghĩa địa khác để trì chú Tán Sa cho hương linh, mỗi phần mộ ba vòng. Năm 1948, Sư Bà cùng với Sư Bà viện chủ chùa Thiền Quang ở Sài Gòn tổ chức kỳ siêu, vớt vong bằng giàn Thủy Lục, trong đêm các Ngài tụng Kinh Địa Tạng, niệm Hồng danh “A Di Đà Phật” để hồi hướng cho chư hương linh.
Sau đó Sư Bà nhập thất ba năm. Trong thời kỳ nhập thất này, Sư Bà rất ít nói chuyện, thị giả hay Phật tử chỉ mang thức ăn vào thất rồi trở ra. Sư Bà chú tâm vào việc tụng Kinh niệm Phật để hồi hướng cho hương linh các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn.
Năm 1964, Sư Bà lại nhập thất tịnh tu ba năm, tiếp tục nhứt tâm niệm Phật và tụng Kinh để hồi hướng cho ngôi Tam Bảo sung túc, huynh đệ tu hành tinh tấn, đàn na hưng thịnh. Và trong suốt thời gian sau này, Sư Bà vẫn thường xuyên nhập thất niệm Phật.
Năm vừa qua, thấy tuổi hạc đã cao, Sư Bà phát nguyện trước chư Phật: “Con nay đã trên 90 tuổi rồi sao lại chưa đi, nếu như thọ mạng chưa dứt, xin chư Phật cho con ở lại thế gian 5 năm nữa để con gieo trồng bo bo, kết chuỗi hầu khuyến khích Phật tử niệm Phật”. Mấy hôm sau, bên tai Sư Bà nghe có tiếng nói: “Thôi, mãn nguyện rồi, con nên đi đi”. Ở đây, Sư Bà xin thêm 5 năm nữa, chúng tôi vẫn thắc mắc, không rõ trước kia Sư Bà có nguyện gì nữa không, nếu là có thì có thể đã có sự cảm ứng đạo giao mà Sư Bà thường ít nói nên không ai biết được chăng ?
Sư Cô Như Hiền có kể lại, là cách đây gần một năm, khi ngồi trước chánh điện niệm Phật, Sư Bà ngửi được mùi hương thơm phảng phất rất là dễ chịu và nhìn thấy được cảnh giới tốt đẹp với những thứ cỏ lạ đều đặn, thẳng tấp trên cát mịn màng, thoáng xa xa người người lui tới trong y phục đẹp, trang nhã và lịch sự nhưng Sư Bà chưa được vào cảnh giới đó. Bỗng chốc Sư Bà nhớ ra là mình đang niệm Phật và đang ngồi ở chánh điện.
Những giờ phút sau cùng của đời người, trước khi được về với Phật, Sư Bà rất tỉnh táo, vui vẻ, hay hỏi han vuốt ve các Phật tử tới viếng thăm. Sanh tiền Sư Bà thường nguyện với Đức Phật A Di Đà, xin “được chết thơm”, xin đến lúc lâm chung được ra đi nhẹ nhàng, tinh thần minh mẫn. Nay nguyện của Sư Bà đã được thành tựu như ý.
Sư Cô Như Hiền nhớ lại lần thân bệnh vào năm trước, đôi lúc Sư Bà còn kêu than đau đớn nhưng lần sau cùng này, Sư Bà không kêu rên hay than đau và luôn luôn giữ thế nằm nghiêng về phía tay phải, thế nằm của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật khi nhập diệt.
Hơn chín mươi năm trụ thế, tấm thân ngũ uẩn được sử dụng để phụng sự Đạo pháp và chúng sanh đã hao mòn theo năm tháng, thân thế tuy mỏi mệt nhưng tinh thần luôn luôn trong sáng và tinh tấn niệm Phật. Khoảng bốn ngày trước khi vãng sanh, Sư Cô thị giả bạch thỉnh ý Sư Bà xin tụng bộ Kinh Đại Bi Đạo Tràng Sám Pháp – Lương Hoàng Sám để hồi hướng công đức cho Sư Bà, Ngài hoan hỷ chấp nhận, và thời gian này Sư Bà còn lên chánh điện để quan sát. Khi bộ Kinh được tụng đến quyển thứ bảy, qua phần Chú Vãng Sanh, đang tụng thời Sư Bà đã xả báo thân, thu thần viên tịch. Trong giây phút cận tử nghiệp này, Sư Bà vẫn còn nhép môi để niệm Phật, niệm thầm trong tư tưởng. Ngài ra đi với nét mặt hồng tươi khác lạ, da mặt căng thẳng và đầy nét hoan hỉ, trên tay vẫn còn cầm xâu chuỗi, cho đến lúc tay dũi thẳng ra xâu chuỗi mới rớt xuống một cách tự nhiên, nhẹ nhàng trước mặt quý Sư Cô. Lúc đó là 5 giờ chiều ngày mồng 8 tháng 9 năm Quý Mùi tức ngày 3 tháng 10 năm 2003. Nơi tịnh thất, trên chánh điện chùa Tây Hưng tiếng niệm “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” vang lên. Sư Bà trụ thế 92 tuổi, hạ lạp trải qua 63 mùa an cư kiết hạ.
Với hạnh nguyện lợi tha cao cả, Sư Bà đã cống hiến cả cuộc đời mình một cách thầm lặng cho đời và đạo. Việc làm của Sư Bà tuy đơn giản nhưng nếu không có Bồ Đề tâm, không có Bồ Tát hạnh thì cũng không dễ gì làm được. Công đức và đạo hạnh của Sư Bà vẫn còn sống mãi trong lòng người con Phật, nhất là Ni giới và hàng Phật tử tại gia. Đặc biệt nhất vẫn là vô số xá lợi đủ màu mà Sư Bà đã lưu lại cho hậu thế, trong đó có 5 viên XÁ LỢI NGỌC. Theo lời Sư Cô Như Hiền, Sư Bà Như Hiếu chỉ giữ lại một số xá lợi như đã thấy trong hình để khuyến khích Phật tử tu hành niệm Phật, số còn lại được đem đi rải trên sông.
Sư Cô Như Hiền còn cho biết, sau lễ trà tỳ tại lò hỏa táng Bình Hưng Hòa, huyện Bình Chánh – Sài Gòn, Xá lợi được đem về thất để lựa trong tối hôm đó. Đến 2 giờ khuya, giờ mà Sư Bà bắt đầu cho ngày tu niệm Phật, Sư Cô thị giả nghe thấy có luồng gió mát với hương thơm ngào ngạt giống như hương thơm của hoa sứ (ngọc lan). Mùi thơm này lưu lại cho đến mười phút.
Sư Bà Như Hiếu cho biết: “Sở cầu sở nguyện của Sư Bà Như Phụng đã được như ý nên Sư Bà đã trở về với Đức Từ Phụ A Di Đà Phật”.
Bốn năm trước đây, tại Sa Đéc, hàng Phật tử tại gia có cụ bà Diệu Thành đã vãng sanh để lại xá lợi với sự nhiệm mầu là từ chín viên nhỏ đã tự kết hợp lại thành ba viên xá lợi lớn (*), nay là Sư Bà Thích Nữ Như Phụng đã vãng sanh để lại nhiều xá lợi đủ màu và năm viên NGỌC XÁ LỢI. Sự vãng sanh của hai vị Bồ Tát nói trên thật là một tấm gương sáng, một bài học quý báu, giúp cho Phật tử ở Sa Đéc có lòng tin sâu xa vào sự thù thắng của Pháp môn Niệm Phật và nhứt là lời dạy vô cùng quan trọng của Đức Bổn Sư trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật nói phẩm thứ hai: “Bởi vậy mà Ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hôm nay trân trọng xác quyết rằng: VÃNG SANH ĐỒNG Ý NGHĨA VỚI THÀNH PHẬT, VÌ VÃNG SANH TỨC LÀ THÀNH PHẬT”. Chắc chắn là trong tương lai nơi đây sẽ còn có thêm nhiều vị được vãng sanh!
Thiện Thành và Minh Thịnh cẩn ghi.
(*) Đây là lời thuật của vị Sa Môn đã trường chay trong suốt hơn hai mươi năm trước khi được đắp y vàng từ ba mươi năm qua. Ngài nay đã chín mươi tuổi, có lòng tin sâu xa vào Pháp môn niệm Phật, đã và đang thực hành pháp môn này một cách rốt ráo.
Lời Tịnh Hải:
Xin chư vị lưu ý, trong tập sách này có rất nhiều chuyện vãng sanh. Và toàn là những người chết đẹp bởi sau khi được Phật A Di Đà rước, mọi nghiệp chướng đều được Phật A Di Đà dùng Phật lực xóa hết, nên đã để lại những gương mặt thật đẹp.
Tại sao mỗi vị được vãng sanh, Đức Phật A Di Đà phải tốn công như vậy?
Bởi đó là đại nguyện của Ngài. Ngay trong nguyện thứ nhứt, Ngài đã nói: “Hết thảy chúng sanh, sanh vào nước con đầy đủ thân sắc, chân kim vàng tía, băm hai vẻ đẹp, tướng đại trượng phu, đoan trang nghiêm chánh, tinh khiết thanh tịnh, đều đồng một loại.
Thân xác của chư vị được vãng sanh, lưu lại ở đây đẹp đẽ như vậy, chỉ là một chuyện rất tầm thường. Theo tinh thần lời Kinh, khi Sư Bà Như Phụng đến Cực Lạc liền được thân kim vàng tía và đổi sang tướng trượng phu, tức thân nam và hình dạng tướng mạo đều giống Đức Phật A Di Đà.
Tại sao được vậy?
Tại vì, người tu pháp môn niệm Phật đều gọi Phật A Di Đà là Từ phụ. Đây là đức cha hiền từ thương tất cả các con.
Chúng ta khi nhập thai ở cõi này, đâu từng thấy trước mặt mũi cha mẹ, vậy mà khi được sanh ra còn giống cha hay giống mẹ. Còn bây giờ, chúng ta thờ Ngài, ngày đêm lại tưởng nhớ, niệm danh hiệu Ngài. Do thần lực của Ngài, nên về đến Cực Lạc tất cả đều giống cha như khuôn đúc.
Có dịp chúng tôi sẽ trình bày điều này nhiều hơn.
Cuộc đời Sư Bà là tấm gương tu hành kiên trì, đúng đạo pháp và pháp môn niệm Phật. Ngoài việc tự lực niệm Phật cầu vãng sanh, Sư Bà còn có tinh thần lợi tha. Sư Bà đặc biệt lo cho sự siêu thoát các vong linh tử nạn vì chiến tranh. Chẳng rõ Sư Bà Như Phụng có khả năng cầu cho người chết siêu thoát được hay không. Nhưng hành động và tinh thần của Sư Bà không trục lợi là điều chúng ta khâm phục.
Đối với người sống, Sư Bà gieo trồng bo bo lấy hạt và mỗi ngày đều ngồi kết hạt bo bo làm chuỗi để tặng Phật tử. Một hạt bo bo được kết, Sư Bà lại niệm một câu hồng danh A Di Đà Phật. Do tâm không chạy theo trần cảnh, mà suốt ngày chỉ niệm A Di Đà Phật, quả chính là Sư Bà đã niệm Phật mà trong tâm có Phật, như Hòa Thượng Tịnh Không nói.
Theo chúng tôi, Sư Bà đã diện kiến Phật A Di Đà một lần. Đó là lần Sư Bà yêu cầu cho hoãn lại ngày vãng sanh với hạn kỳ 5 năm. Căn cứ vào lời nguyện của Sư Bà và câu nói thầm lặng: “Thôi, mãn nguyện rồi, con nên đi đi” mà chúng tôi tin tưởng như vậy.
Ngoài ra, Sư Bà Như Phụng còn thấy cả cảnh giới Cực Lạc và được chết trong mùi thơm, đúng như Sư Bà ước nguyện.
Hòa Thượng Tịnh Không thường giảng: “có cầu sẽ có ứng”. Xin chư vị đọc kỹ cung cách tu hành của Sư Bà và hành động đúng theo Sư Bà, chắc chắn chư vị cũng được toại nguyện y như vậy.
Một Phật tử tại Hoa Kỳ suốt đời lo tạo dựng sự nghiệp cho gia đình và con cái, đến cuối đời lâm bệnh nặng may nhờ phước lành nhiều đời còn sót lại nên gặp được vị thiện trí thức khai thị cho pháp môn Niệm Phật để vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc. Nghe xong Phật tử này liền tin nhận và nghe theo, thực hành tinh tấn nên thành tựu quả vãng sanh.
Hỏi: Trong nhà chỉ mình con là người tu hành, xin hỏi hiện chúng con phải tu nhân như thế nào để đến khi lâm chung không phải chịu cảnh sắp đặt vãng sanh tự tại?
Đáp: Câu hỏi này rất hay. Người tu hành nên có chí hướng như vậy. Chúng tôi thấy quá khứ có rất nhiều người tu tập có hiệu quả, để khi lâm chung biết trước ngày giờ, vãng sanh tự tại. Thời cận đại cũng có, có thể thấy việc này là thật chứ không phải giả.
Muốn biết cách tu hành như thế thì chúng ta phải xem xét kỷ lại, những người được thành tựu đây, cách thức mà họ tu hành rất đáng để chúng ta tham khảo. Trong ký ức của chúng tôi có mấy vị ấn tượng sâu sắc nhất. Đệ tử của pháp sư Đế Nhàn niệm Phật. trước khi xuất gia ông có làm nghề vá nồi, bạn cũng biết rồi đấy ông ấy chỉ có niệm 3 năm mà đứng ra đi, ra đi rồi, còn đứng thêm 3 ngày nữa. Đợi sư phụ mình lo hậu sự cho mình xong. Đây mới thực sự là có tu tập. Ông cả đời sinh sống bằng nghề cu li, không biết chữ, chưa từng đọc sách, vì đời sống quá khổ, nên ông tìm đến người bạn đã chơi từ thuở nhỏ của mình, Pháp sư Đế Nhàn là bạn của ông ấy đã cùng chơi chung với nhau, đều sinh trưởng ở miền quê, ngài xuất gia làm một vị sư phụ, cũng không dễ gì tìm được ngài, theo ngài để xuất gia. Biết được nhân gian này quá khổ rồi, lão hòa thượng thấy ông ấy không có biết chữ lại rất đần độn, hai thời công phu sớm tối cũng học không thuộc nữa, cho nên ông ấy không ở chốn chùa chiền, đạo tràng, vì ở lại sẽ gây phiền, ngài cạo tóc cho ông ấy, cũng bảo rằng không cần phải thọ giới và cũng không cần phải học kinh, không cần phải học cách sám pháp, đến miền quê Ninh Ba, tìm một ngôi chùa nhỏ không có người ở, ngài bảo ông ấy đến đấy ở, ông trụ ở đây rồi, ngài chỉ dạy cho ông một câu Nam mô A Di Đà Phật, chỉ dạy có một câu này, ngài dạy ông phải niệm cho chân thành, niệm mệt rồi thì ông đi nghỉ, nghỉ khỏe rồi dậy niệm tiếp, tương lai nhất định sẽ có lợi ích. Ông ấy cũng không biết là có lợi ích gì. Sau này có thể thành tựu thực sự, ông nghe lời. Sau khi ở lại ngôi chùa nhỏ này. Lão pháp sư Đế Nhàn có thâm danh và cũng có đạo hạnh có tín đồ nên tìm 1 tín đồ ở gần đấy đến chăm sóc cho ông ấy hộ trì ông ấy đem gạo dầu ăn muối cho ông ấy chăm lo đời sống cho ông ấy ông ấy chỉ chuyên sâu vào pháp môn này suốt ngày từ sáng đến tối chỉ niệm nam mô A Di D Phật niệm mệt rồi thì nghỉ nghỉ rồi niệm tiếp đúng 3 năm thì thành công. Ông ấy biết trước ngày giờ trong ngôi chùa nhỏ đó có 1 vị hộ pháp đó là bà cụ nấu cơm cho ông ăn nấu 2 bữa trưa và chiều, buổi sáng ông tự nấu lấy. Một bữa nọ ông rời ngôi chùa nhỏ vào thành đi thăm bạn bè họ hàng của mình. Sau khi về chùa ông nói với bà lão hộ pháp rằng ngày mai bà không cần nấu cơm cho tôi ăn nữa. Bà lão này trong lòng nghĩ rằng thông thường sư phụ không có ra khỏi cửa hôm qua vừa mới đi ra ngoài rồi chắc bạn bè mời ăn cơm nên ngày mai không cần phải nấu cơm. Sang ngày thứ 2 lúc đến giờ ngọ bà lão không yên tâm nên sang chùa xem thử, kết quả là bà thấy sư phụ đang đứng tại nơi đó bà gọi mà không thấy trả lời, bà đến trước mặt nhìn kỹ thì đã thấy chết rồi, đứng mà chết. Bà vội đi tìm các cư sĩ khác bàn bạc bẩm báo cho pháp sư Đế Nhàn ở chùa Quán Tông hay, lúc đó không có phương tiện giao thông như bây giờ chỉ đi bộ. Đi bộ qua rồi đi bộ về mất 3 ngày, ông đứng suốt 3 ngày. Tại sao người ta lại tu thành công? Vì họ không có vọng tưởng, không có tạp niệm nhất tâm xưng niệm 3 năm thì thành công nghiệp chướng tiêu trừ. Đây quả thật là có bản lãnh, quả thật có công phu, nguyên nhân cũng không có gì khác buông bỏ vạn duyên, nếu còn có chút vấn vương trong long, bạn có chút đeo mang thì coi như chịu thua, bạn sẽ không được tự tại cái lý đơn giản như vậy, xem thử coi chúng ta có chịu làm hay không?
Người thứ 2 mà chúng tôi ấn tượng rất sâu sắc là pháp sư Tu Vô ở chùa Cực Lạc Cáp Nhỉ Tân. Bạn xem lại trong ấn trần hồi ức lạc có ghi lại trước khi xuất gia ngài là 1 người thợ nề, cũng là thành phần xuất thân từ lao động khổ cực. Sau khi xuất gia ngài làm công việc thường trụ hầu đại chúng, thường thì chúng ta gọi là tu khổ hạnh. Bình thường ngài chỉ niệm 1 câu Phật hiệu. Pháp sư Đàm Hư có tạo mấy ngôi chùa ở niềm Bắc, chùa Cực Lạc cũng là Ngài tạo dựng nên, sau khi ngôi chùa xây dựng hoàn thành, ngài mở ra 1 pháp hội truyền giới đây là lần truyền giới lớn nhất trong Phật giáo. Thích lão hoà thượng Đế Nhàn làm hoà thượng đàm đầu, khi truyền giới phải có người trợ giúp. Mọi người tìm khắp nơi, ngoài pháp sư Tu Vô đến gặp mặt pháp sư Đàm Hư còn có hoà thượng Giáng Điền. Sư trụ trì là pháp sư Định Tây, pháp sự Định Tây hỏi ông có thể làm được việc gì, ông phát tâm chăm sóc người bệnh trong thời kỳ thọ giới, công việc này cũng rất quan trọng, trong thời kỳ thọ giới những bệnh lặt vặt như trúng gió cảm mạo đây cũng cần người chăm sóc. Thế là ông đến phục vụ, ông ở được khoảng 2 tuần thì ông lại đi tìm pháp sư Đàm Hư. Khi ấy pháp sư Định Tây cũng đang ở bên cạnh. Ông xin pháp sư Đàm được nghỉ, ông nói là ông phải đi, pháp sư Đàm Hư là người rất có đạo hạnh, rất từ bi. Nếu bạn có việc phải đi thì Ngài cũng không quở trách. Pháp sư định Tây ở bên cạnh nghe vậy, không nén nỗi cơn giận. Ông đến đây phát tâm chăm sóc người bệnh, đến được có 2 tuần, mà viện truyền giới phải mất khoảng 2 tháng, ít nhất là đợi đến kỳ thọ giới ông mới được đi. Tại sao ông lại không có lòng kiên nhẫn như vậy chứ?
Pháp sư trách móc ông ấy, sau cùng ông ấy nói: Không phải là tôi đi đến nơi khác mà là tôi sắp vãng sanh sang thế giới Cực Lạc rồi.
Hai vị hòa thượng này nghe rồi biết việc này quan trọng, không phải việc bình thường đâu, bèn hỏi ông ấy:
– Hôm nào ông đi?
– Ngài đáp: Chắc khoảng nữa tháng. Tôi định đến từ biệt trước, không quá nửa tháng đâu.
Ông lại còn thỉnh cầu pháp sư Định Tây chuẩn bị cho ông 200kg củi chẻ, tức là củi lửa để hỏa táng sau khi vãng sanh. Vị pháp sư thường trụ này nhận lời hết.
Sáng hôm sau ông lại đến tìm vị Hòa thượng
– Có chuyện gì thế?
– Thưa pháp sư hôm nay con phải ra đi rồi.
Lão hòa thượng vội tìm cho ông một phòng ở phía sau chùa, tạm thời kê một chiếu giường, ông ngồi trên đó và nói với pháp sư Đinh Tây:
– Pháp sư có thể thỉnh cho mấy vị pháp sư trợ giúp niệm Phật tiễn tôi đi được không?
Đương nhiên là có rất nhiều người hoan hỷ, có rất nhiều người giúp ông ấy trợ niệm. Thế là trong khi trợ niệm người trợ niệm nói với ông ấy:
– Xưa kia những người trợ niệm thường làm những bài thơ, bài kệ để lưu lại cho đời sau làm kỉ niệm. Pháp sư Tu Vô ông cũng làm vài bài kỉ niệm cho chúng tôi đi? Pháp sư Tu Vô nói:
– Tôi đâu có đi học, tôi đâu có biết chữ đâu, tôi cũng không biết làm thơ, cũng không biết làm kệ. Nhưng sau cùng ông nói một câu rất thành thật, ý của ông chính là nói: Tu hành nhất định phải chăm chỉ, việc tu hành này nhất định không được giả.
Vậy thì mấy câu khai thị này, tuy là nói rất đơn giản nhưng khi mọi người nghe rồi cũng thấy rất là có ích. Thế là liền niệm Phật cho ông, niệm chưa đầy 15 phút thì ông ra đi.
Đây là câu chuyện thuộc về hiện đại, cận đại hơn là: Xưa kia lúc còn ở Đài Loan, chúng tôi cũng có nghe, có mấy vị cư sĩ tại gia niệm Phật, biết trước giờ khắc, tự tại vãng sanh.
Đai khái là khoảng 30 năm trước, có lần tôi ở Phật Quang Sơn, Phật Quang Sơn cử hành buổi tọa đàm tuyên về Phật học, tôi có tham gia. Buổi tối, ánh trăng rất đẹp, tôi đứng bên bờ hồ phóng sanh ngắm trăng, có một số khoảng mười mấy vị bạn học cùng đi theo tôi, chúng tôi ở đó thảo luận về Phật pháp. Không bao lâu sau, có một anh công nhân đi đến nhóm của chúng tôi, công trình của Phật Quang Sơn rất nhiều cho nên anh ấy có thâm niên làm công. Anh công nhân này đã kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện. Lúc bấy giờ anh kể cho chúng tôi nghe mới vừa năm rồi, thời gian gần đây, ở miền quê của anh – làng Tương Vưng, ở miền quê đó có một bà lão, lòng dạ của bà rất lương thiện, rất từ bi, thích giúp đỡ người khác. Thuở còn sanh tiền, bà cũng không phân biệt rõ thế nào là thần, hễ bất cứ nơi nào có chùa thì bà đi đến lễ, dâng hương, lễ Phật, bái thần. Ba năm trước bà cưới vợ cho con, cô con dâu này là người hiểu biết Phật pháp, khuyên mẹ chồng không nên đi lung tung, cô lập bàn thờ cho bà và khuyên chân thành niệm A Di Đà Phật cầu sanh tịnh độ.
Bà lão này rất là có thiện căn, nghe cô con dâu nói vậy nên không đi lễ lung tung nữa, nhất tâm niệm A Di Đà Phật suốt 3 năm trời. Con trai và con dâu của bà rất hiếu thảo, hôm đó đến giờ cơm tối bà nói 2 con cứ ăn trước đi, đừng đợi mẹ để mẹ đi tắm. Tất cả mọi người vẫn đơi bà ăn cơm, họ đợi rất lâu, họ lấy làm lạ sao bà tắm lâu thế. Họ đi xem thử quả thật bà đã tắm xong, trong phòng tắm không có bà, phòng ngoài cũng không có bà, sau cùng họ thấy bà đang ở phòng niệm Phật, mặc chiếc áo tràng ngay ngắn, chỉnh tề, tay cầm xâu chuỗi, đứng trước tượng Phật, đứng im nơi đó không nhúc nhích, gọi bà cũng không trả lời. Đến khi nhìn lại thì bà đã vãng sanh, đi rồi. Đứng vãng sanh, một bà lão tại gia niệm Phật 3 năm đứng vãng sanh.
Anh ấy đã kể câu chuyện này cho chúng tôi nghe, anh ấy nói đây là câu chuyện có thật chứ không phải giả.
Buổi tối hôm ấy, chúng tôi quá lại nói chuyện Phật pháp nghe anh ấy kể, khiến mọi người ấn tượng rất sâu sắc.
Niệm như thế nào để biết trước ngày giờ tự tại vãng sanh, đứng ra đi, ngồi ra đi, tự tại vãng sanh không có gì khác. Vạn duyên buông bỏ, nhất tâm hướng Phật thì thành công.
Nếu còn chút xíu không buông bỏ được thì đó là nghiệp chướng, làm chướng ngại bạn vãng sanh, thậm chí làm chướng ngại bạn niệm Phật. Những thí dụ này chúng tôi đã tận mắt thấy qua, tận tai nghe qua có mười mấy vị, mà việc nghe nói thì càng nhiều hơn. Những câu chuyện này xảy ra gần đây, chúng tôi đã chứng kiến trong còng 30 năm qua, cho nên câu chuyện này là thật, không có chút gì giả dối.
Các Phúc Đáp Gần Đây