03 12 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Người học Phật, không cần phải hình thức trang nghiêm, mà chỉ quý ở chỗ tu hành chơn chất.
Người cư sĩ tại gia niệm Phật, không nhất định phải mặc y phục như tu sĩ, mà chỉ cần búi tóc gọn gàn, mặc thường phục là được.
Người niệm Phật không nhất định phải gõ mỏ hay đánh trống, nếu ưa thích sự tĩnh lặng thì có thể tự niệm Phật trong sự yên tịnh.
Người niệm Phật không nhất định phải tạo thành hội đoàn đông đảo đọc tiếp ➝
02 12 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Phật dạy chúng ta “Khẩu hòa vô tranh”. Phật biết được những hiểu lầm, kết oán của tất cả chúng sanh. Tám, chín phần mười đều do lời nói tạo thành, nên gọi là “Nói nhiều ắt sai”. Lời không nên nói quá nhiều, nói nhiều sẽ có sai lầm, dễ dàng dẫn đến nghi hoặc, hiểu lầm của người khác, thế là liền kết oán với người. Sau khi kết oán thì oan oan tương báo không hề ngừng dứt. Ngay trong hữu ý, vô ý tạo thành rất nhiều chướng nạn trên đạo Bồ đề, cho nên người xưa dạy chúng ta: “Nói ít một câu chuyện, niệm nhiều một câu Phật”. Bạn thấy như vậy tốt chừng nào. đọc tiếp ➝
01 12 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Diệu Âm xin kể ra một câu chuyện có thực để chư vị nghiệm thử coi. Câu chuyện này hoàn toàn có thực, ở đời nầy chớ không phải là chuyện đời xưa. Vào cỡ tháng 6 năm 2004, có một bà cụ ở Việt Nam, bà cụ nầy bảy mươi mấy tuổi, là mẹ của một người bạn. Bà cụ nầy bị bán thân bất toại nằm trên giường không đi được nữa đã sáu tháng qua rồi, tức là nằm để chờ chết. Người bạn tới hỏi tôi bây giờ phải làm sao để cứu người mẹ? Tôi mới nói là hãy về khuyên người mẹ buông hết đi, thành tâm niệm Phật cầu vãng sanh, còn mình thì tìm cách tổ chức hộ niệm. Nhắc nhở bà cụ niệm Phật, gọi là hộ niệm. Người bạn nầy về Việt Nam khuyên bà mẹ niệm Phật, thì bà cụ nói rằng:
– Con cứ thử nghĩ đi, thằng em trai út của con chưa có vợ, chưa có việc làm, làm sao mà mẹ đành lòng tu hành đây?…
Người bạn đó khuyên hoài mà người mẹ nhứt định không chịu nghe theo. Bà cứ nói:
– Bây giờ nỡ nào mà Mẹ niệm Phật cho được trong khi người em của con còn khổ như vậy!
Thời gian khuyên qua khuyên lại như vậy bà mẹ cũng vẫn không niệm Phật. Khoảng bốn-năm tháng sau gì đó thì bà cụ chết. Chết rồi, sau khi mai táng xong thì cái tấm hình của bà cụ để thờ trên bàn tự nhiên rơi ra nước mắt. Tôi hỏi, nước mắt rơi ra từ khóe nào? Người bạn nói là rơi từ khóe ngoài. Tự nhiên cái khóe mắt trong tấm hình tự nó rơi nước ra lăn xuống má đọng lại một giọt nước. Ban đầu người ta tưởng là có người vô ý làm rơi nước. Nhưng không phải, tấm hình đó để trong khuôn kiếng, và nước vẫn cứ rịn ra liên tục ba ngày như vậy, chặm không khô. Chặm cái giọt nước này rồi lại rỉ ra giọt nước khác rồi lăn xuống má.
Người bạn đó cũng cầu siêu, làm nhiều việc lắm… Sau đó có một cái chuyện lạ lùng khác xảy ra. Khoảng chừng mấy tuần sau thì linh hồn của người mẹ đó ứng mộng về báo cho người con trai rằng, sáng mai hãy đến tại địa điểm đó để nhận việc làm, mẹ đã xin được việc cho con ở đó rồi. Người con đó thấy như vậy mới nói lại với người nhà, thì người nhà bàn rằng, chắc là mẹ hiển linh xin được việc làm thật đó, nên cứ theo lời mẹ đi. Người em trai mặc áo quần chỉnh tề, sáng ngày hôm sau tới tại địa điểm đó… Đúng như vậy, người con tới tại chỗ đó và người ta nhận cho anh làm việc.
Không biết là việc làm đó có tốt lắm không? Nhưng có việc làm thì gia đình cũng thấy yên tâm. Nhưng sau đó lại có thêm một hiện tượng khác xảy ra tiếp. Sau khi cúng thất bốn mươi chín ngày xong rồi, thì chiều chiều khoảng chừng 5-6 giờ, tức là mặt trời vừa lặn, thì bà Cụ lại hiện thân về trước đầu hè của gia đình đó mà khóc! Người ta thấy được, các con cái đều thấy được bà Mẹ hiện về ngay tại đầu hè ngồi khóc. Người con của bà Cụ nghe nói vậy mới sợ quá! Sợ mất hồn! Thực sự là sợ quá! Mới tới tìm tôi và hỏi, làm sao để giải quyết vấn đề đây? Thực sự, là trong trường hợp đó tôi cũng không biết cách nào giải quyết. Tôi chỉ khuyên người bạn đó hãy mau mau trở về lại Việt Nam, lấy số tiền mà bà Cụ tích trữ được đem ra in kinh, ấn tống, in hình Phật, phóng sanh, làm tất cả những việc thiện lành, rồi hồi hướng thẳng cho hương linh của bà Cụ, và mỗi chiều niệm Phật xong, đứng trước bàn thờ của bà Cụ khai thị cho bà Cụ:
– Mẹ ơi! Mẹ đã bị đọa lạc rồi! Vì tình chấp không bỏ, nên Mẹ đã bị khốn khổ rồi! Bây giờ Mẹ trở về đây khóc than với tụi con, tụi con cũng không cứu được Mẹ. Chỉ có Mẹ ngộ ra, quyết lòng buông xả, thành tâm niệm phật cầu vãng sanh Tây Phương. Con sẽ làm tất cả những việc thiện lành để hồi hướng cho Mẹ. Mau mau Mẹ phải ngộ ra để tìm con đường giải thoát cho chính Mẹ.
Tôi khuyên đại khái như vậy. Tôi cũng khuyên người bạn hãy đến một tự viện nào đó, xin các Sư cầu siêu cho Mẹ mình thêm 49 ngày nữa, cứ tận sức mà làm chớ không biết cách nào hơn? Người bạn đó đã về Việt Nam và làm đúng như vậy. Sau đó người mẹ không về khóc nữa, còn vấn đề có giải thoát được hay không thì không dám nói. Khi trở lại Úc, người bạn đó đã đến biếu cho tôi một chồng hình Phật như thế này, và nói với tôi rằng:
– Đây là những việc tôi đã làm được. Tôi cúng dường những hình Phật nầy ở Việt Nam nhiều lắm, nay tôi đem tới đây gởi cho anh để anh đi phát cho người ta, hồi hướng công đức cho Mẹ tôi.
Sự việc đó có thật đã xảy ra vào khoảng giữa năm 2004.
Mình thấy đó, đã nằm trên giường bệnh trên nửa năm để chờ từng phút ra đi, thế mà tình chấp không buông xả được. Vì tình chấp không buông xả, nên khi chết đi, mới lặn lội kiếm cho người con một việc làm. Việc làm không biết như thế nào? Đến bây giờ người con đó không biết còn giữ được việc làm đó hay không? Không biết! Nhưng vì cái chấp nầy, người Mẹ đã bị nạn rồi! Sau 49 ngày mà hiện thân về trước đầu hè cho người ta thấy và khóc, thì chắc chắn bị khổ rồi! Địa ngục thì chắc không thể nào xuống được đâu, vì nếu đã rơi vào trong địa ngục, thì dễ gì ra được để báo cho người thân? Nếu mà lọt vào trong hàng bàng sanh súc vật thì cũng không về được nữa rồi, vì đã biến thành bốn cẳng chạy lăng quăng ở đâu đó rồi, nhưng đây không phải. Nếu mà đầu thai chuyển thế thành người cũng không thể nào trở lại được nữa.
Mình dùng cái phương pháp loại suy để tìm hiểu thì rõ ràng bà Cụ nầy đã rơi vào trong hàng quỷ đói. Kinh Phật chúng ta gọi là “Ngạ Quỷ”. Quý vị thấy không? Dễ sợ không? Người con đó có được việc làm đó, có đánh đổi được sự đọa lạc của người mẹ trong vạn kiếp ở hàng quỷ đói hay không? Khi mà rơi vào đó rồi dù có khóc, khóc cho một vạn đời đi nữa, nước mắt có biến thành biển đi nữa, cũng không giải quyết được gì cả! Trong cảnh giới của quỷ đói còn khổ nhiều hơn tiếng khóc đó nữa! Nó khổ đến nỗi mà khóc không còn ra lời nữa kìa, đừng có nói là ít… Tại vì sao? Vì đói quá rồi! Không nhà không cửa, lang thang, thường thường là tìm những cái cây để mà tấp vào đó, nương vào cái sức nóng của cây đó mà sống. Mà thực sự phải tìm cây nào xấu nhứt, dở nhứt, tệ nhứt chớ những cây tốt thì đã có người chiếm rồi, không dễ gì đâu ạ! Thường khi rơi vào tình trạng đó rồi, thì phải lang thang từ chỗ nầy đến chỗ nọ, không biết chỗ nào mà sống ổn định cả! Cảnh khổ như vậy đó!…
Người tu hành chúng ta hiểu được chỗ nầy rồi, phải biết sợ. Sợ gì? Sợ cảnh ngạ quỷ! Sợ cảnh bàng sanh! Sợ cảnh địa ngục! Dễ sợ lắm!…
Nếu người con mà nhìn thấy được cảnh người mẹ đó, thì người con mới giật mình.
– Trời ơi! Tại vì con chưa có việc làm, Mẹ vì con mà Mẹ bị đọa lạc vào cảnh ngạ quỷ, bây giờ làm sao đây?
Người con mà ngộ ra đạo lý này, thì ngày đêm lo tu hành, ngày đêm lo niệm Phật, để đem tất cả công đức hồi hướng cho Mẹ, cầu cho Mẹ vượt qua ách nạn. Nhưng xin hỏi, chắc gì người con ngộ được chuyện này?! Thấy thế, rõ ràng người con đã gián tiếp gây tội cho người Mẹ. Người Mẹ vì không biết buông xả, không biết đường thoát nạn, cứ chấp vào tình thức để bị nạn. Khi đã bị nạn rồi, thì làm sao còn có thể trở về nói rằng: “Con ơi, thằng em trai của con chưa có việc làm, thì nỡ nào ta tu hành cho được!”. Mà chỉ hiện về ân hận, ngồi khóc mà thôi! Còn lời nào để nói nữa đây? Đau khổ vô cùng!
Khi nghe được mẫu chuyện này, ở đây có ai ngộ ra không? Ngộ ra đi, gọi là “Hồi đầu thị ngạn”, niệm câu A-Di-Đà Phật về Tây Phương thành đạo. Không ngộ ra, tiếp tục mê muội, mê muội nầy nó sẽ dẫn tới chỗ, nếu tránh khỏi địa ngục, thì cũng phải rơi vào ngạ quỷ! Nếu tránh được ngạ quỷ, thì nhất định phải là bàng sanh! Có những con chó sanh ra lạ lùng lắm, nó cứ chui vào trong nhà của mình, mình đá lăn cù ra nó cũng lại chui vô. Con cái không biết, cứ tưởng đó là con chó của hàng xóm, lấy roi đánh nó ra, nhưng mà đánh nó, nó cũng chạy vào. Tại sao nó không chạy vào nhà hàng xóm mà cứ chạy vào nhà mình? Coi chừng người Mẹ mình đó mà không hay! Ở quê có nhiều người không biết đạo, thấy con chó vào trong nhà thì bắt nuôi luôn. Nuôi con chó không phải vì thương nó, mà vì con gái mình vừa mới sanh một đứa cháu ngoại, đứa cháu nó bỉnh ra đầy giường đầy chiếu không ai giải quyết. Thôi nuôi con chó để nó giải quyết giùm… Đau khổ vô cùng!
Chính vì vậy, khi nghe câu chuyện này, chúng ta phải biết giật mình. Tự mình cứu lấy mình. Hồi đầu đi. Tỉnh ngộ đi. Một câu A-Di-Đà Phật đi về Tây Phương, giải thoát cho mình, giải thoát cho tất cả dòng họ, bà con, cửu huyền thất tổ trong nhiều đời nhiều kiếp, cứu cho bà con thân thuộc trong vô lượng kiếp về sau. Xin chư vị chú ý.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)
27 11 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Tất cả chư Tổ, vị nào cũng cẩn thận đến vấn đề khẩu nghiệp. Các Ngài luôn luôn nhắc nhở chúng ta, tu hành cần phải cố gắng tịnh khẩu lại. Khẩu mà tịnh được thì tâm chúng ta mới tịnh được. Mà tâm tịnh được thì công phu mới thành tựu và công đức mới có. Trong mười điều ác đức Thế-Tôn đưa ra, thì khẩu nghiệp nó chiếm gần một nửa. Mười điều thiện để cho chúng ta làm phước làm đức, thì cái miệng của chúng ta nó chiếm gầan một nửa. Cho nên khi bắt đầu quyết định tu hành, nhất định chúng ta phải cẩn thận về khẩu nghiệp, vì đây chính là cái cửa ngõ nó tuôn hết công đức của chúng ta ra.
Khi mình vào một Thiền Đường, nếu đúng là một Thiền Đường, thì mình thấy chư vị luôn luôn giữ im lặng. Đi, các Ngài đi nhẹ nhàng. Đứng, các Ngài cũng đứng nhẹ nhàng. Ngồi, các Ngài ngồi im lặng như tờ, ngón tay không dám động đậy, đừng nói chi là mở lời ra nói. Nếu mình vào trong một mật thất của Mật Tông, chúng ta sẽ thấy các Ngài tịnh khẩu niệm chú, niệm mà câu chú vang ra rào rào giống như là tiếng gió thổi, không còn là tiếng niệm nữa. Khi vào một cái Niệm Phật Đường, nếu thật sự là một Niệm Phật Đường, thì xin thưa với chư vị, mình thấy người niệm Phật khi đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín… đều ở trong câu A-Di-Đà Phật.
Chúng ta đừng nghĩ rằng…
– Một người đang thái rau trong nhà bếp người ta không niệm Phật. Không phải! Thái rau nhưng người ta đang niệm Phật trong đó.
– Trong khuôn viên Niệm Phật Đường, có người đang nhổ cỏ. Nhổ cỏ, nhưng người ta đang niệm Phật trong đó.
– Một người đang quét nhà. Quét nhà, nhưng người ta đang niệm Phật trong đó.
Nếu mà chúng ta tới bên cạnh người đó nói chuyện, người đó sẽ không niệm Phật được. Nếu mình không để ý, cứ tưởng rằng nói vài lời cho vui tươi, thoải mái, đem chuyện thế gian ra kể một vài câu cho đỡ buồn … vô tình chúng ta đã làm mất rất nhiều phước mà không hay. Chính vì vậy, có nhiều vị ở trong Niệm Phật Đường thường hay nhắc nhở với tôi rằng, hãy chú ý vấn đề nói chuyện.
– Nói với chị đó đừng tới nói chuyện, trong khi tôi đang nấu cơm.
– Nói anh đó đừng tới nói chuyện, trong khi tôi đang nhổ cỏ.
– Nói người đó đừng nói chuyện, trong khi tôi đang niệm Phật.
Thật sự có người nhắc đến, nhưng chưa có dịp để nói ra chuyện này. Hôm nay nhân buổi tịnh khẩu niệm Phật, xin đại diện cho Niệm Phật Đường chúng tôi xin nói ra vấn đề này. Thường thường các vị đồng tu vì vị nể, không dám nói. Người ta muốn thanh tịnh niệm Phật, mình lại tới nói chuyện, chẳng lẽ người ta bảo mình đừng nói chuyện được sao? Thật sự là người ta đang niệm Phật, mình lại tới cản trở sự niệm Phật của họ, mình bị mất nhiều công đức.
Trong thế gian cũng có câu: “Bệnh từ miệng nhập, tội từ miệng xuất”. Nhất là trong một Niệm Phật Đường trang nghiêm, xin chư vị cố gắng tế nhị về chuyện này, tìm cách giảm bớt được chuyện nào hay chuyện đó. Chư Tổ nói: “Bớt đi một câu chuyện, niệm thêm câu Phật hiệu. Đánh chết tập khí này, cho chân tâm hiển lộ”. Tất cả ở một đạo tràng trang nghiêm nào, một vị Sư nào, một vị Tổ nào cũng đều nhắc nhở chúng ta về chuyện tịnh khẩu. Chúng ta vâng lời, “Y Giáo Phụng Hành” lời dạy của các Ngài. Chính chúng ta cũng hiểu được rằng, cái miệng của mình nó phá quá nhiều công đức!…
Cho nên chúng ta tập hành theo các Ngài mà lập ra một ngày 24 tiếng đồng hồ tịnh khẩu. Khi tịnh khẩu, giả như lúc đó trong Niệm Phật Đường không có một ai, chúng ta cũng không nên mở lời lên nói, mà hãy nhiếp tâm vào câu A-Di-Đà Phật. Quý vị nên biết rằng, khi đã sinh ra trong thời mạt pháp này, cái nghiệp chúng ta nó lớn lắm! Vì mình không để ý đó thôi, chứ để ý một chút là thấy liền. Thấy ở chỗ nào?
– Vào trong bệnh viện, sẽ thấy liền!
– Đi ra ngoài nghĩa địa, sẽ thấy liền!
– Đi vào trong các nhà quàn, sẽ thấy liền!
Thấy những gì? Hằng ngày, hằng giờ người ta chết đi vào con đường đoạ lạc! Chắc chắn như vậy! Khi biết được như vậy rồi, thì rõ ràng ta cần phải tịnh khẩu tu hành. Ráng cố gắng giảm bớt được câu chuyện nào cứ giảm, để dành thời gian niệm Phật. Thấy một người đang cắm hoa, người ta cắm hoa nhưng mà họ đang âm thầm niệm Phật trong đó, mình không nên tới đứng bên cạnh nói chuyện. Nếu mình nói chuyện thì người ta không niệm Phật được. Người ta không niệm Phật được thì họ không tạo công đức được! Còn mình nói chuyện thì phá mất công phu của người ta. Phá công phu của người ta thì mình mất công đức. Mất công đức thì nhiều nghiệp chướng sẽ đến với mình. Chính vì vậy, người nói chuyện nhiều thường tu không được.
Vì vậy, ở tất cả những đạo tràng trang nghiêm đều nhắc nhở chuyện này. Mỗi lần chúng ta nhắc một chút, mỗi lần chúng ta nhắc một chút. Vì thực sự, chư vị ơi! Đọa lạc quá dễ dàng! Mà giải thoát thì quá khó khăn! Đã quá khó khăn giải thoát mà chúng ta còn tự dễ dàng cho mình nữa, thì không còn cách nào để mong thành tựu được.
Như hôm qua chúng ta có nói chuyện về vấn đề công cứ. Có những người lập hạnh niệm hai mươi lăm ngàn câu Phật hiệu, thì công phu cao. Có những người lập hai mươi lăm ngàn không được, thì lập mười ngàn. Lập mười ngàn không được, thì lập năm ngàn. Lập năm ngàn không được thì lập hai ngàn… Công phu khác nhau, nhưng có lập công cứ còn hơn không có công cứ. Đừng sợ rằng, hôm qua ta được niệm mười ngàn, nhưng hôm nay niệm chỉ được sáu ngàn, như vậy ta sẽ bị tội! Không! Không có gì là tội cả. Có sáu ngàn câu A-Di-Đà Phật thì chúng ta có sáu điểm. Có mười ngàn thì có mười điểm. Có bữa vì bận chuyện gì quá chỉ niệm được hai ngàn, thì hai ngàn chúng ta có hai điểm. Hai điểm còn hơn những người không có điểm nào.
Như vậy rõ ràng là chúng ta tự nguyện trói mình với câu A-Di-Đà Phật. Để chi? Để cho bánh “Xe Nghiệp” chúng ta lăn, phải cho cái nghiệp chúng ta lăn, lăn đến chỗ giải thoát. Nếu “Xe Nghiệp” này đã nặng quá, mà còn trì trệ lại đây, không chịu tiến về con đường giải thoát, thì nhất định đời đời kiếp kiếp chúng ta sẽ chịu nạn!…
Đời này đã mạt pháp rồi, nếu luống qua một đời này, tức là cuộc đời tu hành này chúng ta không giải thoát được, nghĩa là không vãng sanh về Tây Phương được, thì xin thưa, chắc chắn rằng vạn kiếp sau, gọi là “Bá thiên vạn kiếp”, không cách nào mà có thể gặp lại câu A-Di-Đà Phật.
Vì sao vậy?…
– Tại vì đời mạt pháp,thì một đời phải xấu hơn một đời!
– Tại vì đời mạt pháp,thì một kiếp phải xấu hơn một kiếp!
– Tại vì đời mạt pháp,thì những đời sau của chúng ta nhất định sẽ khổ hơn đời này! Nghiệp chướng của chúng ta trong đời sau nhất định phải lớn hơn trong đời này.
Thế nên, đời này mà giải thoát không được, đừng bao giờ hy vọng tới đời sau.
Cho nên chúng ta tịnh khẩu niệm Phật là vì thương cái huệ mệnh của chúng ta mà tịnh khẩu, chứ không phải vì cái giới luật của đạo tràng này ban ra ép buộc chúng ta phải tịnh khẩu. Hiểu được như vậy rồi thì một ngày tinh tấn niệm Phật, thật sự mình thấy vui vô cùng. Những người nào thật sự là người chân tu, chân chánh tu hành, thì họ sẽ rất trân quý những cơ hội này để niệm Phật. Còn nếu chỉ là người muốn tu thử, tu chơi chơi, tu giỡn giỡn… thì những ngày giờ này sẽ chán ngán lắm, khổ sở lắm! Và có thể rằng, một ngày nào đó họ sẽ thối lui! Mà một khi đã thối lui, chắc chắn phải thối luôn vào những cảnh đọa lạc, không bao giờ có thể ngoi lên được! Vì sao vậy? Ức ức người tu hành, làm sao tìm cho ra một người giải thoát, trong đời mạt pháp này…
Ấy thế mà đức Bổn Sư Thích-Ca-Mâu-Ni Phật dạy, quý vị cứ niệm Phật đi, quý vị hãy nương theo pháp niệm Phật đi, nhất định quý vị sẽ thoát vòng sanh tử luân hồi. Tại sao? Tại vì đại thệ của A-Di-Đà Phật sẵn sàng đón tiếp chúng ta về Tây Phương Cực Lạc để thành đạo. Các Ngài không đòi hỏi chúng ta điều gì cao siêu, chỉ đòi hỏi chúng ta Thanh Tịnh, Chân Thành, Buông Xả thế gian ra. Nói thêm một câu chuyện, mất đi bao nhiêu phước đức. Niệm một câu A-Di-Đà Phật thêm biết bao nhiêu công đức. Phải đánh chết cái tập khí thế gian, quyết lòng không nói lỗi người khác, quyết lòng không nói chuyện đời, quyết lòng không nói người này xấu người kia tốt. Để chúng ta đánh cho chết cái tập khí này đi. Vì không đánh chết tập khí này, thì A-Di-Đà Phật cứu ta không được.
Xin thưa với chư vị, ráng cố gắng, quyết lòng tới đây niệm Phật, tịnh khẩu. Rõ ràng đây là cơ hội cho chúng ta tiếp nhận quang minh của A-Di-Đà Phật. Giữ tâm ta trong câu A-Di-Đà Phật, nhất định trong một đời này, chúng ta về thẳng Tây Phương Cực Lạc để thành đạo!…
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)
25 11 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
Trong nhà Phật thường nói: “Muôn việc bỏ lại đời, chỉ có nghiệp theo thân”. Chúng ta cần phải hiểu câu nói này cho thấu đáo, rồi sau mới biết cách dụng công tu tập như thế nào. Phàm là những gì không đem đi được thì không nên để nó ở trong tâm. Còn những gì có thể mang đi được thì phải giành lấy từng phút từng giây, đừng để thời gian trôi qua một cách uổng phí. Thế thì, những gì có thể mang đi được? Chỉ có nghiệp! Nghiệp là kết quả của hành động, nói năng và suy nghĩ có chủ tâm. Nếu chủ tâm ác thì tạo nghiệp ác, chủ tâm thiện thì tạo nghiệp thiện. Nghiệp ác dẫn chúng ta vào địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh; nghiệp thiện đưa chúng ta lên cõi trời, cõi người. Vậy chúng ta nên mang theo nghiệp nào? Nên bỏ ác, tu thiện, tích lũy công đức. Phước đức thì có thể mang đi được. Nhưng đây chỉ là cái phước thiện nhỏ ở trong thế gian. Trong khi đó, chư Phật luôn luôn hy vọng chúng ta thành tựu cái thiện lớn, đó là thành Phật, thành Bồ tát. Mà muốn thành Phật, thành Bồ tát thì phải có niềm tin sâu sắc vào pháp môn Tịnh độ, phải chí tâm niệm Phật cầu vãng sinh.
Thế nào gọi là thành thật? Nhất định phải buông bỏ mọi duyên ràng buộc. Trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh đều phải luôn luôn giữ tâm mình cho chân thật, thanh tịnh và từ bi. Luôn luôn lấy câu “Nam mô A Di Đà Phật” để ở trong tâm. Gặp người có duyên, chúng ta phải lấy chân tình, đem lòng cung kính và hoan hỷ giới thiệu pháp môn niệm Phật cho họ, khuyên họ cùng tu. Đó là sự cúng dường có ý nghĩa nhất.
“Trong tất cả các hình thức cúng dường, cúng dường pháp là hơn hết”. Đó là bổn nguyện của đức Phật A Di Đà, mà mười phương chư Phật cũng giống như thế. Chúng ta cần phải tu tập như vậy thì thời gian trong một ngày không trôi qua uổng phí. Một ngày tu tập như vậy nhất định có được thân tâm thanh tịnh, có niềm vui, pháp lạc tràn đầy. Chư Phật, Bồ tát cũng cảm thông, tương ứng.
Khinh mạn là giặc
cướp đi công đức.
Siêng năng là vua
tạo bao điều thiện.
Phước đức là nước
Trí tuệ là thuyền
Nếu không có nước
Thuyền làm sao bơi!
Trích Tâm Không Vướng Bận 
Nguyên tác: Tịnh Không Pháp sư
Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
23 11 2012 | Suy Gẫm & Thực Hành |
“Tín-Nguyện-Hạnh” là ba tư lương của người niệm Phật vãng sanh. Pháp hộ niệm nói lên nói xuống cũng quy tụ vào ba điểm này.
Ngày hôm qua chúng ta nói về chữ “Tín”. Chữ “Tín” này được thể hiện ở những người niệm Phật. Ví dụ khi bệnh người ta an nhiên niệm Phật thì người đó có “Tín”. Lúc trở ngại gì cũng an nhiên tự tại để niệm Phật thì đó là “Tín”. Con đường tu hành chuyên nhất không còn lao chao phân đo giữa pháp này pháp nọ nữa, như vậy là “Tín Lực” của họ mạnh vô cùng, họ đã định rồi. Nhờ lòng tin này mà phát khởi thiện căn. Những người thiện căn cao thì tín tâm càng cao. Những người thiện căn yếu thì thường hay phân vân, do dự. Cho nên “Tín Tâm” liên quan mật thiết với “Thiện Căn”.
“Thiện Căn” là gì? Nói cho đơn giản, khỏi cần triết lý làm chi, là những người hiền lành. Trong quá khứ người ta có cúng dường chư Phật, có tu hành, đó là những người hiền lành. Trên cõi Tây Phương toàn là chư Thượng-Thiện-Nhân hết. Chính vì vậy, khi xét thấy rằng niềm tin của mình còn yếu, thì biết là thiện căn trong nhiều đời kiếp mình tu yếu. Như vậy thì bây giờ làm sao? Hãy hạ quyết tâm tin tưởng vào câu A-Di-Đà Phật. Khi bắt đầu tin tưởng vào câu A-Di-Đà Phật, mình vùng lên, mình nguyện tha thiết, mình lập công cứ vững vàng. Thì cái niềm tin này nó làm tăng thiện căn lên, rồi nhờ cái thiện căn đó nó mới giúp cho niềm tin của mình vững vàng. Hai cái nó giống như nấc thang, cái này hỗ trợ cho cái kia, cái kia hỗ trợ cái nọ…
Khi tâm mình chao đảo, phân vân, lo lắng điều gì đó, không nghĩ rằng pháp niệm Phật này vi diệu như vậy, thì chứng tỏ niềm tin của mình yếu! Bây giờ đừng nên phân đo nữa. Phật nói như vậy thì mình cứ quyết lòng tin đi, hạ quyết tâm niệm Phật thì tự nhiên thiện căn của mình từ đó mà tăng trưởng lên.
Hôm nay chúng ta nói qua cái “Nguyện” một chút. Hễ người mà có tín tâm mạnh thì sự phát nguyện sẽ tha thiết. Người không có tín tâm mạnh thì phát nguyện không tha thiết. Như vậy, sự phát nguyện không tha thiết nó bắt nguồn từ niềm tin yếu. Bây giờ, nếu mình đã thấy một bà Cụ kia niệm Phật được vãng sanh, cái hình tượng đó động viên cho mình tin, dù mình không hiểu lý do tại sao? Mình thấy bà Cụ đó không biết chữ nghĩa gì, không biết kinh điển gì, nhưng Cụ cứ thành tâm chắp tay Nam Mô A-Di-Đà Phật cho con được vãng sanh Tây Phương. Chính Bà cũng không biết Tây Phương là chỗ nào cả, chỉ nghe Phật nói vậy thì tha thiết vô cùng, ngày đêm niệm, ngày đêm nguyện, thế mà bà đó vãng sanh! Chính chỗ này đáng làm cho mình phải giựt mình, tỉnh ngộ. À! Nhất định phải có một điều gì nhiệm mầu trong này? Phát khởi niềm tin lên.
Đối với người căn cơ hạ liệt như chúng ta thì nên nhớ điều này:
– “Nguyện” là tha thiết nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải là nguyện hết bịnh.
– “Nguyện” là tha thiết nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải là nguyện cho con giải quyết xong hết tất cả nợ đời rồi con mới tu.
– “Nguyện” là quyết lòng nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ đừng có nguyện tôi làm cho xong công chuyện gia đình, tôi giúp vợ, giúp chồng, giúp con, giúp cái, giúp dâu, giúp rể… cho xong, rồi tôi mới an tâm niệm Phật.
– “Nguyện” là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải: ” Nam Mô A-Di-Đà Phật, cho con thân thể tráng kiện, khai mở trí huệ để con niệm Phật.
Quý vị phải nhớ cho thiệt kỹ điểm này. Diệu Âm nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần. Có nhiều người tu cũng rất lâu nhưng sau cùng lại có những lời nguyện sai lầm! Mình là hàng phàm phu tục tử thì bệnh khổ, nghiệp chướng, nợ đời… nó cứ đeo mình, nó đeo cho đến khi mình tắt hơi rồi nó vẫn còn đeo, đến nỗi mình phải mở mắt ra để cố làm cái gì đó(?) chứ nhắm mắt không được đâu!
Đừng bao giờ nghĩ rằng:
– Tôi làm cho xong cái nợ đời rồi tôi mới tu”.
Không bao giờ có đâu. Không bao giờ:
– À! tôi phải lo cho đứa con gái, tôi phải lo cho đứa con trai, tôi lo cho đứa cháu nội, tôi lo cho đứa cháu ngoại… Nếu tôi không lo thì không còn ai lo!…
Không phải đâu! “Dép dưới giường lên giường vội biệt. Sống ngày nay há biết ngày mai?”. Không bao giờ có chuyện như vậy đâu!
Đừng bao giờ để cho những đứa cháu, đừng bao giờ để cho những đứa con, đừng bao giờ để cho những người thân nhân của mình chịu tội. Vì chính họ là nguyên nhân làm mình đọa lạc.
Hôm trước mình đã nói chuyện này. Nếu biết thương con cháu thì phải biết lo tu hành. Để chi? Để làm sao khi nó chết mình là người thuộc chư Thượng-Thiện-Nhân trên cõi Tây Phương xuống đây cứu nó. Đây là người biết điều. Chứ còn không, thì cha dắt con xuống địa ngục, rồi con dắt cháu xuống địa ngục… Trên cũng địa ngục, dưới cũng địa ngục. Cùng nhau đi vào con đường đó, nhất định không ai cứu ai được cả! Hiểu đạo là hiểu thấu chỗ này.
Mình là người phàm phu tục tử thì:
– “Nguyện” là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải nguyện cho con được “Nhất tâm bất loạn”.
– “Nguyện” là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải nguyện cho con niệm phật cho đến “Vô Niệm”.
– “Nguyện” là con được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, sớm ngày nào con mừng ngày đó, chứ không phải nguyện cho con niệm Phật cho được “An khang”.
– “Nguyện” là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nam Mô A-Di-Đà Phật, con quyết lòng đi về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải nguyện cho con niệm Phật được chứng đắc, “Niệm Phật Tam Muội”.
Vì nên nhớ, “Niệm Phật Tam Muội”, “Nhất Tâm Bất Loạn”… đều là trong kinh phật nói, nhưng mà Ngài dành cho những người thượng thiện căn, đại thượng đại thiện căn, là những vị đại Bồ-Tát. Các Ngài đó muốn nguyện sao cũng được. Còn đối với mình thì Phật dạy, phàm phu tục tử là phải nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Còn chuyện “Nhất tâm bất loạn” ra sao, kệ nó! Chuyện “Niệm bất niệm” ra sao, kệ nó! Đừng để trong tâm.
Chư Tổ nói niệm Phật không cầu nhất tâm bất loạn thì mới có thể nhất tâm bất loạn. Người cầu nhất tâm bất loạn, thì nhất định vọng tâm nó sẽ nổi lên, không bao giờ nhất tâm bất loạn được!
– “Nguyện” là nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải nguyện cho con hết vọng tưởng để con niệm Phật được nhất tâm, để vọng tưởng đừng xảy ra.
Vọng tưởng nó đến sao đến kệ nó, mình niệm cứ niệm, chứ không phải khi vọng tưởng nổi lên thì đối trước bàn Phật: “Nam Mô A-Di-Đà Phật, xin cho con hết vọng tưởng”.
Như vậy, Diệu Âm đã nhắc lên nhắc xuống không biết bao nhiêu lần câu: “Nguyện vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc”. Tất cả mọi vấn đề khác xin buông hết.
Vọng tưởng đến? Vọng tưởng càng đến càng biết rằng mình là hạng phàm phu tục tử. Đã biết rằng mình là phàm phu tục tử thì bắt buộc phải có vọng tưởng. Có vọng tưởng rồi thì nhất định hãy nhờ cái vọng tưởng này mà nhắc nhở để làm tăng thượng duyên cho mình niệm Phật. Còn những người cứ cố gắng đối trị với vọng tưởng, tức là cứ làm sao diệt cho hết vọng tưởng, thì vô tình càng niệm Phật càng bị nhức đầu!…
Cho nên Ngài Hạ-Liên-Cư mới nói: “Niệm Phật không cầu hết vọng tưởng. Niệm Phật không cầu cho nhất tâm bất loạn. Niệm Phật chỉ để cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc”. Vì mình biết mình là hàng phàm phu tục tử, cho nên càng niệm càng loạn. Càng loạn thì càng biết mình là phàm phu. Biết là phàm phu rồi thì lo mà mua cái máy bấm. Cái máy bấm tức là cái máy công cứ. Bây giờ đây chùa nào cũng có cái máy bấm hết. Bấm, bấm, bấm, bấm… Thay vì mình đếm thì nó bấm dùm cho mình. Cứ niệm, cái tay cứ bấm, bấm, bấm, bấm… Đó là máy công cứ.
Những người nào khởi phát tâm lập công cứ, thì bắt đầu chúng ta đi. Những người nào chưa khởi phát tâm lập công cứ thì đi quá chậm, hoặc là ngồi một chỗ. Nhiều khi người kia niệm một ngày hai mươi lăm ngàn, còn ta niệm mới có hai ngàn! Hai ngàn ta cũng phải niệm. Vì chỉ có hai ngàn như vậy, ta mới bắt đầu suy nghĩ… À! Tại sao mình yếu vậy? Mình phải tiến lên ba ngàn, tiến lên bốn ngàn… Nghĩa là cái máy của mình khởi phát chậm, nhưng khi bắt đầu mình đi… đi… đi… Sau khi nó đã có trớn thì nó sẽ đi được. Cho nên khi mà người có tín tâm thì tự nhiên cái nguyện của họ tha thiết vô cùng và cái hạnh của họ được lập một cách tự nhiên. Phát được tín tâm, người chưa lập hạnh sẽ phát tâm lập hạnh liền.
Tôi xin kể ra đây một câu chuyện, câu chuyện này có thật. Có nhiều người thường nói, để từ từ rồi tôi mới lập hạnh?!… Có một ông Cụ đó 77 tuổi, đúng rồi, 77 tuổi. Cụ đã tu và ăn chay trường ba mươi mấy năm. Cụ từng tu qua hình như là mười lăm mười sáu chùa. Trong vùng Sài Gòn ít có chùa nào mà cụ không đến. Tất cả những khóa thọ Bát Quan Trai Cụ tham dự đầy đủ, những khóa Phật Thất cũng đều dự đầy đủ. Nhưng về nhà, khi có những người biết được phương pháp hộ niệm, đến khuyên Cụ niệm Phật thì Cụ không niệm. Cụ nói:
– Ta tu như vậy đã tốt quá rồi, đâu cần phải niệm sớm như vậy. Ta chưa chết mà, để từ từ sẽ tính…
Cỡ chừng sáu tháng sau, có một lúc Cụ đang đứng trước cửa nhà thì Cụ thấy có một cái bao gạo đổ ra, rồi có một đàn gà tới ăn cái bao gạo đó. Cụ ở trong nhà chạy ra đuổi mấy con gà, thì Cụ vấp phải cái ngạch cửa và té xuống, rồi bị chấn thương mê man bất tỉnh. Khi Cụ tỉnh lại, Cụ mới nói tại sao gà ở đâu mà tới nhà mình nhiều dữ vậy? Nhưng thật ra hoàn toàn không có gạo gì hết, cũng không có gà gì hết! Cụ vô nằm trong bệnh viện khoảng một tháng gì đó… có lúc tỉnh lúc mê. Bệnh viện chịu thua mới đem về nhà, và chính tôi là người có đi tới hộ niệm cho ông Cụ đó. Tôi không phải là người chính thức hộ niệm. Chương trình của tôi không có ở nơi đó lâu được. Ông Cụ mê man bất tỉnh, cứ tỉnh tỉnh mê mê, tỉnh tỉnh mê mê như vậy cho đến lúc chết không được vãng sanh.
Khi tôi tới hộ niệm cho ông Cụ, tôi hộ niệm cũng được hơn một tuần, tận sức để khai thị mà ông Cụ không tỉnh lại. Tôi mới kêu gia đình ra hỏi, hỏi cặn kẽ từ đầu tới đuôi, thì mới phát hiện được ra những chuyện này. Là trước những ngày mà ông ta mất, ông thường đứng trước cửa nhà cầm cái tay lái xe Honda nói chuyện rầm rì rẩm rỉ, rầm rì rẩm rỉ gì đó? Sau cùng thì ông ta thấy một đàn gà… Nhưng mà thật ra không có đàn gà đó?…
Quý vị coi, hôm trước mình nói rằng là người hạ căn phàm phu tục tử thì oan gia trái chủ đi kèm sát bên mình. Cho nên khi muốn phát tâm mình phải phát tâm liền, mình phải làm liền. Mình niệm năm ngàn không được thì niệm hai ngàn. Hai ngàn không được thì lúc “Cờ tướng” hay “Nói chuyện”… bắt đầu niệm Phật. Nếu mà có cái máy bấm, lúc mình đang đứng giữa ba-bốn người, họ đang nói chuyện, mình không biết trốn đâu, thì hãy đút tay trong túi, cứ để tay vô túi mà bấm bấm trong đó: “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật”. Thật ra mình giả đò cười cười với họ, nhưng mà cái tâm của mình là chìm trong câu A-Di-Đà Phật. Nhờ cái máy bấm đó nó giúp cho mình niệm. Đó gọi là công cứ. Cái máy bấm đó gọi là máy công cứ chứ không có gì khác. Nhờ như vậy mà chiều lại ta có chút công đức. Đem công đức này hồi hướng liền cho oan gia trái chủ. Xin đừng chờ!…
Hôm trước, có vị nào đó nói rằng, để tôi làm ăn cho ngon lành, sắp sửa chuẩn bị cho ngon lành xong rồi tôi mới niệm Phật? Không được. Đã phát tâm thì nên phát tâm liền. Người ta phát tâm lớn thì có khả năng lớn. Mình không có khả năng thì phát tâm nhỏ. Để chi? Để tạo công đức liền lập tức, để hồi hướng cho oan gia trái chủ liền đi. Tại vì nếu không, thì họ sẽ xúi mình hãy chờ sáu tháng nữa, ba tháng nữa mới làm công cứ… Nhưng thực ra, họ đã biết cái vận mạng của mình sẽ tới lúc nào rồi!… Quý vị ơi! Có những cái thế nó cài lạ lùng lắm!
Cho nên khi biết được như vậy rồi, đã tu thì phải phát tâm tu liền đi chư vị ạ. Vì huệ mạng của mình mà tu, chứ không phải vì một người nào khác. Không phải vì một đứa con, vì một đứa cháu, một người vợ hay một cái đạo tràng, mà chính vì mình. Mình không biết ngày nào ra đi. Hơi thở, thở ra không hít vào là xong liền. Chính vì vậy mà hộ niệm là nhắc nhở cho chúng ta phải lo tu hành liền, để rồi khi mình nằm xuống, thì tất cả những kiến thức này mình biết hết, biết hết thì hộ niệm dễ lắm. Chỉ ngồi bên cạnh: À bác Sáu ơi! Niệm Phật đi nha. Ừa!… Có gì nói với tôi nghen. Ừa!… Biết hết trơn rồi. Lúc đó tất cả mọi người ngồi chung quanh niệm “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật”. Ta nằm đó ta cũng niệm “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật”. Nhất định sẽ cảm ứng, nhất định sẽ tương ưng với đại nguyện A-Di-Đà Phật. Ta về Tây Phương dễ dàng!…
Nam Mô A-Di-Đà Phật!
Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)
121/186Đầu«...10...120121122...130...»Cuối
Các Phúc Đáp Gần Đây