Bồ Tát Quán Thế Âm Trong Lòng Mẹ Tôi

Bồ Tát Quán Thế Âm Trong Lòng Mẹ TôiMẹ là người Phụ nữ nông thôn thuộc xã hội cũ. Mẹ không biết chữ, không ăn chay, nhưng trong lòng Mẹ luôn hiện hữu hình bóng của đức Đại Từ Đại Bi Cứu khổ Cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.

Hồi tôi còn nhỏ, lúc đó làng tôi có rất nhiều người đến xin ăn, Mẹ tôi sắm sửa một ít thức ăn đem đến tận tay cho họ, tuy rằng không nhiều nhưng có thể cứu đói tạm thời. Thời gian trôi qua như vậy, nhà tôi trở thành nơi dừng chân của kẻ hành khất. Tôi còn nhớ, mùa đông năm ấy tuyết rơi trắng cả bầu trời, từng cơn gió lạnh thổi về buốt giá, một người phụ nữ dẫn con đi qua, người con vừa đói vừa lạnh, ngoài kia những bông tuyết vẫn rơi đều trên lá, cảnh vật như vô tình. Đến làng tôi, người phụ nữ kiệt sức ngồi tựa vào gốc cây bất động. Mẹ tôi đang ở nhà, bỗng nghe tiếng trẻ thơ từ gốc cây vọng lại, liền lật đật chạy đến chỗ có hai Mẹ con và đưa họ về nhà. Một tay Mẹ đốt cỏ sưởi ấm cho họ, một tay pha thuốc cho họ uống, mẹ còn tìm những bộ áo quần khô ấm cho họ mặc. Lúc đó có người hỏi mẹ tôi: “Bà làm như vậy là vì mục đích gì?” Mẹ trả lời ngay: “Không mục đích gì cả, tôi chỉ làm theo lương tâm mình mách bảo, có Bồ Tát Quán Thế Âm chứng giám là được”.

Sau năm 1958, kẻ ăn xin đã bớt đi rất nhiều, nhưng thay vào đó là những người thợ sửa nồi, sửa giày từng đoàn kéo đến làng tôi. Mỗi lần đến như vậy, họ đều mở sạp hàng ngay trước mặt nhà tôi. Có khi đến bữa cơm không có chỗ ăn cơm, họ liền vào nhà tôi ăn. Mẹ tôi tiếp khách như thế nào thì đối đãi với họ như thế ấy. Khi đó tôi còn nhỏ, chưa hiểu mô tê gì ráo, nhưng vì những việc như vậy mà tôi hay thầm trách Mẹ tôi.

Mẹ biết và nói với tôi: “Con à, chúng ta mỗi người có mỗi hoàn cảnh khác nhau, họ đều có nỗi khổ tâm riêng, nhất là những người phải xa nhà rày đây mai đó. Anh con cũng như họ, tha phương cầu thực, người khác giúp đỡ anh con, bây giờ mẹ giúp đỡ họ thì cũng chính như giúp đỡ gia đình mình vậy”.

Mọi người trong làng đều nói mẹ tôi có tấm lòng Bồ Tát. Những lời nói đó thật không ngoa chút nào. Mẹ tôi đối với lân lí xóm giềng, bất kể ai gặp khó khăn đều hết lòng giúp đỡ.

Ở thập niên 60, kinh tế trong làng gặp lúc túng quẫn, mọi người đói rách lầm than, mà nhà tôi được cái có mấy anh trai làm việc ở xa thường hay gửi tiền về nhà, nên kinh tế có phần đỡ hơn người khác. Tuy vậy, Mẹ tôi không dám ăn, không dám xài, đem tiền cho người ta mượn hết, đến lúc nhà cần tiền để xài thì trong tay không còn một đồng nào. Nhưng mẹ tôi thà tự xoay xở chứ không bao giờ đến nhà người ta đòi nợ, trong lòng luôn nghĩ mọi người đang gặp khó khăn hơn mình.

Ngoài ra, Mẹ còn dùng cây cỏ thuốc để chữa bệnh cho mọi người. Cứ đến mùa hè, bà con lối xóm đau đầu nghẹt mũi đều đến nhà tôi xin thuốc.

Mẹ dù rất bận rộn, nhưng vẫn dành thời gian đi nhổ cây cỏ thuốc, đem về rửa sạch và phân ra từng loại rồi chế biến thành thuốc chữa bệnh. Tôi thường giúp Mẹ giã và sao thuốc, giúp là giúp vậy chứ tôi chẳng biết thuốc gì là thuốc gì. Có một năm, ở nhà, tôi hỏi mẹ làm như thế để làm gì. Mẹ xoa đầu tôi nói: “Nói ra con cũng không hiểu đâu, làng trên xóm dưới cỏ cây đều khô trụi, lấy đâu ra thuốc mà uống?” May mà cuộc sống bây giờ điều kiện vệ sinh tốt, bệnh ghẻ lở bớt đi rất nhiều, hơn nữa bây giờ có thuốc tây rất công hiệu.

Mẹ ở nhà thường hay hỏi nhà nào gặp khó khăn, ai khổ đau, ai lầm lỡ, trên gương mặt Mẹ lúc nào cũng biểu hiện sự lo âu, khắc khoải. Mãi cho đến bây giờ hình ảnh ấy vẫn còn khắc sâu trong đầu tôi. Mẹ làm như cuộc đời này tất cả nỗi khổ của người khác đều do Mẹ tạo ra! Mỗi lần nói xong một câu gì Mẹ đều niệm Nam Mô A Di Đà Phật hoặc Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi còn nhớ, ở thời kỳ “Văn Cách”, Mẹ thường nói với mấy anh em tôi: “Bây giờ là thời loạn, xấu tốt bất phân, các con nên làm việc thiện cho nhiều, tuyệt đối không làm kẻ ác nhân, làm ác nhân sau này ắt sẽ gặp ác báo”. Nhờ chúng tôi biết phận nên cũng chưa làm gì xấu xa, nếu không, Mẹ tôi ở dưới cửu tuyền sẽ không yên lòng.

Mẹ không hiểu Phật pháp nhiều, không biết thiền, chỉ biết niệm Quán Âm Bồ Tát và A Di Đà Phật. Nhưng bà ngoại thì khác, bà là người đọc qua nhiều sách, thiên văn, địa lý cổ kim đều thông, đồng thời là người hướng Phật “Hành sở ứng hành, thọ sở ứng thọ, chư ác bất tác, chúng thiện phụng hành”. Mẹ tôi lúc nhỏ đã chịu ảnh hưởng của bà ngoại về đối nhân xử thế.

Sau này tôi nghe Mẹ tôi kể rất nhiều về những mẩu chuyện thiện ác nhân quả báo ứng, những câu chuyện này thời ấu thơ mẹ tôi nghe bà ngoại kể, vì thế mẹ thường nói với chúng tôi: “Phàm làm việc gì phải ngay thẳng vô tư, làm hết lòng bằng chính lương tâm của mình. Đừng bao giờ cho rằng người khác không biết việc của mình làm, tuy rằng có thể họ không biết, nhưng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát biết”.

Anh em tôi có ngày hôm nay là nhờ mẹ tảo tần hôm sớm nuôi nấng dạy dỗ. Ba tôi thì một đời lam lũ, là người nông dân hiền lành chất phác, chỉ biết an phận thủ thường. Mẹ tôi trừ việc lao động chân tay, còn giáo dưỡng chúng tôi trưởng thành. Mẹ không biết chữ, nên trong cuộc đời đã chịu nhiều cay đắng.

Vì vậy, Mẹ quyết tâm cho chúng tôi học hành đến nơi đến chốn. Cũng vì việc học của anh em chúng tôi mà mẹ phải bán đất bán ruộng không một chút do dự nào, nhưng nhà tôi ruộng đất chẳng là bao nên Mẹ phải thức thâu đêm để may vá kiếm thêm tiền nuôi chúng tôi ăn học. Mỗi khi mùa đông đến thì tiếng cọc cạch của chiếc máy may cũ kỹ trong nhà tôi không bao giờ ngừng nghỉ. May mà sau này xã hội thay đổi, nếu không anh em tôi có thể sẽ không được đến trường đến lớp.

Tôi nhớ, hồi còn đi học, Mẹ sợ chúng tôi thi không được lên lớp, nên mỗi khi kỳ thi đến, tôi thấy mẹ đối trước tượng Quán Thế Âm Bồ Tát đốt hương lâm râm cầu nguyện, mong sao cho chúng tôi vượt qua kỳ thi dễ dàng. Lúc đó tôi còn nói với mẹ mê tín như vậy thì được ích gì, mẹ liền mắng tôi: “Đừng nói tầm bậy! Tâm thành tắc linh. Con nói không có ích gì, vậy tại sao có người học giỏi nhưng thi rớt lên rớt xuống? Con không tin thì thôi, chứ Mẹ thì tin lắm!” Nói ra cũng lạ, tôi học thì dốt đặc cán mai, mà hồi đó từ cấp Ι thi lên cấp ΙΙ rất khó, từ cấp ΙΙ lên cấp ΙΙΙ càng khó hơn. Toàn huyện chỉ có một hai trường cấp ΙΙΙ, mỗi trường chỉ lấy có hai lớp, nhưng tôi may mắn được lọt vào một trong hai trường đó, đây có lẽ là lời cầu nguyện của Mẹ tôi đã làm động lòng đến trời cao?

Mẹ xa chúng tôi đã tám năm, thọ 88 tuổi. Mẹ ra đi thật nhẹ nhàng, chẳng đau ốm gì. Ngày nay, lúc nào nhớ Mẹ, tôi đem chuyện Quán Thế Âm Bồ Tát và Mẹ kể cho con mình nghe. Bây giờ nghĩ kỹ lại, những việc làm của Mẹ tôi lúc còn tại thế hình như phảng phất đâu đó hình bóng của đức Quán Thế Âm. Mẹ tuy mù mờ về Phật pháp, nhưng trong lòng Mẹ luôn nghĩ về điều thiện, cho nên những việc Mẹ làm vừa phù hợp với Phật lý, vừa thắm đượm tình người. Đây gọi là “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”; đồng thời cũng chính là nguyên nhân để chúng tôi nhớ sâu sắc về Mẹ.

Thiên Trúc, mùa Vu Lan 2010
Thiện Long – Hàn Long Ẩn dịch

Công Ơn Cha Mẹ

Công Ơn Cha MẹCó một cô bé vì làm quấy nên bị mẹ quở mắng, cô cãi lại mẹ rồi tức giận bỏ nhà ra đi. Cô đi lang thang từ sáng đến tối mà chẳng biết về đâu, bụng đói meo vì không có gì bỏ vào cả, trong túi của cô cũng chẳng có tiền.

Đến gần tối mà cô bé vẫn còn lang thang trên phố. Nhìn vào nhà ở hai bên vệ đường, thấy mọi người quây quần bên bữa cơm tối, tiếng cười nói vui vẻ khiến cho cô càng buồn bã thêm. Bữa cơm gia đình đủ mặt những người thân thật ấm cúng biết chừng nào. Giá như không bỏ nhà ra đi thì giờ này cô đang ngồi ăn tối ở nhà cùng ba mẹ và anh chị em. Nghĩ đến đây cô bật khóc.

Cô bé đi ngang qua một xe mì gõ, nghe mùi thơm phưng phức, bụng cô càng đói cồn cào, chân đang bước bỗng chùn lại. Bác bán mì thấy cô bé mặt mũi tèm lem đứng trước xe mì trông có vẻ đang thèm thuồng lắm. Bác gọi cô lại và hỏi:

– Cháu muốn ăn mì phải không?

Cô bé e dè đáp:

– Vâng, cháu đang đói lắm. Nhưng cháu không có tiền.

Bác bán mì tỏ ra thông cảm:

– Không sao đâu. Bác đãi cháu, cháu hãy vào ngồi đi.

Bụng đang đói, cô bé bưng tô mì ăn ngấu nghiến một cách ngon lành. Ăn xong, cô đứng lên cúi đầu chào bác bán mì và nói lời cảm ơn. Không kiềm được xúc động, cô bé khóc tức tưởi:

– Cháu cảm ơn bác! Bác thật là một người tốt. Bác với cháu không quen biết mà bác lại đối xử với cháu tốt như thế, chẳng như mẹ cháu là người thân của cháu mà lại không thương cháu.

Bác bán mì xoa đầu cô bé nói:

– Cháu không nên nói như thế. Bác chỉ cho cháu một tô mì thôi mà cháu đã cảm kích đến như vậy, trong khi đó mẹ cháu đã cho cháu cả cuộc đời mà cháu không biết ơn của mẹ. Mẹ đã sinh ra cháu, nuôi dưỡng và dạy dỗ cháu, công lao ấy to lớn biết chừng nào, vậy mà chỉ vì một lúc dỗi hờn cháu đã bỏ mẹ mà đi.

Nghe đến đây cô bé bật khóc nức nở:

– Cháu thật vô tâm! Cháu có lỗi với mẹ nhiều lắm.

Cô bé nghĩ, chắc mẹ đang tìm kiếm cô khắp nơi, không gặp cô chắc mẹ lo lắng lắm. Cô vội chào bác bán mì và chạy mau về nhà để nói với mẹ lời xin lỗi.

Về đến nhà, cô đã thấy mẹ đứng trước cổng chờ cô. Vừa trông thấy con, bà hết sức mừng rỡ chạy đến ôm cô vào lòng và khóc:

– Từ sáng đến giờ con đi đâu để mẹ tìm khắp nơi mà không gặp. Con có biết mẹ lo lắng lắm không?

Cô bé òa lên khóc và nói lời xin lỗi mẹ:

– Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ! Từ nay con sẽ vâng lời mẹ. (Kể theo Cửa sổ tâm hồn)

BÀI HỌC ĐẠO LÝ:

Cha mẹ là người có công ơn to lớn đối với chúng ta, là người gần gũi, thân thiết và yêu thương chúng ta hơn ai hết. Cha mẹ đã sinh thành, nuôi khôn lớn và dạy dỗ chúng ta nên người, biết bao công lao khó nhọc không thể kể hết. Nếu không có cha mẹ làm sao chúng ta có mặt trên cuộc đời này.

Thế mà vì những giận hờn nông nổi, có người đã phủi ơn cha mẹ một cách mau chóng, hoặc vì chạy theo bóng sắc, tiền tài mà lắm người quên bỏ cha mẹ của mình. Không ít những đứa con chỉ vì không được cha mẹ chìu lòng hoặc bị cha mẹ rầy la quở trách mà tự vẫn hay bỏ nhà đi hoang, ôm niềm oán hận cha mẹ. Không ít những đứa con vô tâm chỉ biết làm cho cha mẹ lo lắng, buồn khổ bằng những hành vi sai trái như lười biếng học hành, tập tành ăn chơi hưởng thụ, sống đua đòi theo chúng bạn… Nhưng dù con ngoan hay hư hỏng thì cha mẹ vẫn dành cho con sự bao dung và thương yêu vô bờ.

Khi có ai đó dành cho ta tình cảm tốt đẹp hoặc giúp đỡ ta điều gì, ta hết sức cảm kích và tỏ lòng biết ơn. Nhưng công ơn cha mẹ đối với ta như trời cao biển rộng thì ta lại không để ý. Mấy ai tự xét lại mình đã làm được những gì để đáp đền công ơn cha mẹ. Mình đã làm gì cho cha mẹ được vui? Mình đã làm gì để cha mẹ tự hào? Mình đã quan tâm chăm sóc cha mẹ chu đáo về đời sống vật chất lẫn tinh thần hay chưa?

Chỉ khi làm cha mẹ, chúng ta mới hiểu hết tình thương yêu và những vất vả nhọc nhằn của cha mẹ. Cho nên Đức Phật dạy, muốn báo hiếu cho cha mẹ đầy đủ và ý nghĩa nhất thì ngoài việc kính yêu, hết lòng chăm lo phụng dưỡng cha mẹ, chúng ta cần phải biết hướng cha mẹ làm điều lành, kính tin Tam bảo, tu tập Chánh pháp để tạo an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và tương lai, có như thế mới mong đáp đền công ơn cha mẹ.

Phan Minh Đức

Tôi Là Phật Tử

Tôi Là Phật TửQuê hương tôi nằm trên vùng biển xanh cát trắng Nha Trang. Từ nhỏ, mấy chị em tôi đã được mẹ đưa về chùa làm lễ quy y, trở thành Phật tử.

Chúng tôi thường được mẹ dẫn đi chùa, mẹ khuyến khích mấy chị em tôi ai học thuộc kinh Bát Nhã, chú Đại Bi thì sẽ có thưởng. Thằng em thứ ba của tôi rất thông minh, học giỏi nên chỉ trong ba ngày, nó đã thuộc và “trả bài’’ vanh vách. Còn tôi thì ì ạch lắm mới thuộc được kinh Bát Nhã. Với chú Đại Bi thì ôi thôi, chữ nào vô được trong đầu thì ngày sau nó cũng tìm đường chui ra. Tôi chẳng có hứng thú gì với những dòng chữ Phạn khô khan, khó hiểu ấy cả. Thế rồi tôi bỏ luôn không học nữa.

Ba tôi thường dạy cho chúng tôi hát những ca khúc Phật giáo. Tôi còn nhớ một số bài hát mà mấy cha con đã từng hát thật say sưa. Có lẽ đây là quãng thời gian êm đềm, hạnh phúc nhất của cuộc đời tôi.

Sau năm 1975, ba tôi rời thành phố Nha Trang khăn gói lên đường đi kinh tế mới. Thấm thía lẽ vô thường, sự thăng trầm của cuộc đời, cùng với những hiểu biết giáo pháp của Đức Phật, ba phát tâm ăn chay trường, sống thiểu dục tri túc, thực hành hạnh từ bi nhẫn nhục… cho đến tận bây giờ.

Mẹ con chúng tôi ở nhà, giữa cái thời bao cấp đầy khốn khó, tiền lương của mẹ không đủ sống nên một mình mẹ xoay xở đủ cách để nuôi bốn đứa con. Tôi cũng tìm cách đi bỏ kẹo, thắt lá buông phụ giúp gia đình… Chị em chúng tôi cũng dần dần lớn lên dưới đôi tay yếu ớt nhưng tràn đầy tình yêu thương và nghị lực của mẹ.

Học xong 12, tôi thi vào sư phạm. Ra trường, đi dạy xa nhà rồi lập gia đình. Chồng tôi cũng là giáo viên. Hai đứa con lần lượt ra đời. Vâng lời mẹ, tôi có thỉnh tượng Bồ tát Quan Âm về thờ và thắp hương hàng đêm. Nhưng thực ra, trong tôi chỉ có một niềm tin mù mờ, xa vời. Làm giấy tờ hoặc kê khai lý lịch viên chức ở mục tôn giáo, tôi luôn luôn ghi chữ “không’’. Tôi luôn cảm thấy bất an, lo sợ người ta biết nhà tôi thờ Phật, vì bấy giờ tôn giáo tín ngưỡng gần như bị liệt vào “tiêu cực và mê tín dị đoan”. Cùng với những vất vả thiếu thốn, phải hơn thua, giành giựt với đời để mưu sinh làm cho tôi càng ngày càng xa rời mái nhà tâm linh Phật giáo…

Trong vòng xoáy hơn thua của cuộc đời, đôi khi tôi cảm thấy nghẹt thở, mỏi mệt và kiệt sức. Nhiều lần, nhìn tôi vô minh khổ đau tranh chấp với đời, ba tôi đem giáo pháp của Đức Phật ra giáo hóa, mong tôi sớm thức tỉnh để tu hành nhằm chuyển hóa khổ đau. Nhưng vì lưới vô minh và lòng tham lam, đố kỵ bao phủ nên những gì ba nói đều làm tôi khó chịu. Khi ba tôi giảng: “Mọi khổ đau hay hạnh phúc trên thế gian này đều là giả’’, tôi phản ứng liền. Tôi cho rằng ba sống không thực tế, những điều ba nói là viễn vông, không thực trong xã hội đầy bon chen hiện nay.

Nghe tôi nói, ba buồn vì biết tôi còn quá vô mình và nhiều ngộ nhận. Ba dỗ dành: “Nếu con quá bận rộn thì hãy chọn một pháp môn phù hợp với hoàn cảnh bận rộn, đó là pháp môn Tịnh độ. Đây là con đường hay nhất để giúp con giải thoát”. Sau đó, ba đưa cho tôi quyển kinh Vô Lượng Thọ và sách Tây Phương Du Ký. Tôi về xem qua rồi… cất luôn vào tủ, chẳng mảy may ngoái nhìn. Tôi thấy những điều này sao quá hoang đường, vu vơ, không thật, giống như truyện cổ tích. Và tôi vẫn tiếp tục lao theo dòng xoáy vô minh tham đắm với đời .

Thỉnh thoảng, tôi cũng có đi chùa cầu nguyện gia đình bình an, con cái học giỏi, phát lộc phát tài. Dù chưa thật sự có niềm tin vào Phật pháp nhưng vì lòng tham, lo sợ mất phước nên tôi cứ làm cho chắc, biết đâu được Phật linh thiêng độ trì cho gia đình.

Tôi phung phí hơn nửa đời người vào những cuộc ăn chơi, giành giật, bon chen, ích kỷ, thị phi triền miên. Để rồi, hằng đêm, tôi luôn luôn phải thao thức, trăn trở, vật vã vì những cái hơn thua, được mất đầy phù du, ảo vọng. Ngoảnh lại đời mình, một chuỗi dài những nhọc nhằn, khắc khoải, toan tính, lo âu. Lắm lúc tôi tự hỏi: Con người sinh ra để làm gì? Tôi sinh ra để làm gì? Phải chăng là để cùng nhau trải nghiệm, thi thố, thể hiện năng lực đấu tranh sinh tồn? Để rồi mai này, khi sức tàn lực kiệt, con người lại trở về hư vô hay sẽ trôi lăn về đâu? Cuộc đời sao thật là vô nghĩa!

Một “Phật tử’’ như tôi đã sống như vậy đó.

Nhưng rồi, một lần tình cờ tôi đọc được những bài viết trên chuyên mục “Những chuyện kì bí của thế giới tâm linh’’ của tác giả Hoàng Anh Sướng trên báo Thế Giới Mới kể những cuộc tìm mộ liệt sĩ, tìm mộ người thân của các nhà ngoại cảm. À, thì ra đâu phải chỉ có thế giới duy vật là duy nhất hiện hữu quanh ta.

Tôi bắt đầu chịu khó gồng mình đọc quyển sách Sống Chết Bình An của Đại sư Sogyal Tây Tạng do mẹ tôi đưa. Càng đọc tôi càng ngạc nhiên. Tôi đọc lại lần thứ hai rồi lần thứ ba. Tôi tò mò vào mạng kiếm tìm và bắt gặp được trang “Chết và tái sinh’’. Tôi bắt đầu cảm nhận một điều gì đó khác lạ và sự đấu tranh tư tưởng về một thế giới sau cái chết là có thật.

Một lần đi chùa, một cô Phật tử đưa tôi xem tờ báo Tiền Phong nói về trái tim xá lợi của Bồ tát Thích Quảng Đức. Tôi thấy là lạ và ngạc nhiên. Về nhà lên mạng tìm hiểu thêm, tôi khám phá ra những trang web có liên quan, thấy có nhiều điều mà từ trước đến nay tôi chưa hề biết đến. Thế là từ đó, rảnh rỗi giờ nào là tôi lao vào mạng. Tôi say sưa tìm, nghe, đọc trong niềm thích thú đam mê cứ như thể mình tìm được một báu vật linh thiêng giải đáp mọi thắc mắc và hồ nghi trong tâm của mình.

Một hôm, vừa làm việc, vừa mở trang “Thư viện Phật giáo” và nghe cuốn băng “Khuyên người niệm Phật’’ của cư sĩ Diệu Âm. Nghe tới đâu tôi sửng sốt, bàng hoàng tới đó. Tôi bỏ dở mọi công việc, tìm lại cuốn kinh Vô Lượng Thọ và Tây Phương Du Ký đang bị bỏ quên trong tủ. Tôi nghẹn ngào: “Con ngu quá ba ơi’’. Nước mắt tôi chan hòa, ân hận. Hơn nữa đời người thấm đau với đời, giờ tôi mới tỉnh ngộ.

Từ đó, tôi tranh thủ từng giây từng phút nghỉ ngơi hiếm hoi để đắm mình say sưa vào các trang web của chùa Hoằng Pháp, A Di Đà thôn, Pháp âm đạo Phật ngày nay, pháp sư Tịnh Không, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, bác sĩ Quách Huệ Trân, các gương vãng sanh… Tôi đọc nghiến ngấu những cuốn sách Tịnh độ mua từ chùa Long Sơn, các hiệu sách lớn ở Nha Trang như kẻ khát gặp được cơn mưa. Giáo pháp của Đức Phật từ bi, trong sáng, trí tuệ, tích cực, mầu nhiệm biết bao. 48 lời thệ nguyện của Từ Phụ A Di Đà đầy yêu thương, bao la và vĩ đại nhường nào. Lòng tôi nở bừng, lan tỏa một niềm phúc lạc vô bờ. Cái mầm Phật pháp héo hắt trong tôi bắt đầu chuyển mình. Kẻ lạc đường đã tìm được địa chỉ cố hương. Cánh cửa giác ngộ trong tôi đã hé mở.

Tôi bắt đầu “tập’’ niệm Phật, sám hối và cầu nguyện vãng sanh khi bỏ báo thân. Nhưng sao tôi cứ thấy lóng ngóng. Lý thuyết tôi đã tạm thông, nhưng thực hành lại thiếu tự tin, không biết mình hành có đúng không? Hồi giờ đi chùa tôi đâu hề biết đến pháp tu này. Tôi phải tìm thầy thôi. Tôi cố tâm tìm hiểu những ngôi chùa Tịnh độ ở Khánh Hòa và phát hiện được chùa Linh Sơn Pháp Ấn cách nhà tôi 20km. Vào một buổi chiều mưa vần vũ nhưng không có giờ lên lớp, tôi độc hành tìm đến chùa. Mình mẩy ướt nhèm. Tim tôi đập rộn rã khi lần theo dốc đá vào chánh điện. Thật phước duyên và diễm phúc, tôi gặp được thầy trụ trì. Ánh mắt từ ái, nụ cười cởi mở của thầy làm tôi hết sức tự tin. Tôi kể lể, dốc hết nỗi lòng mà tâm sự, mà thắc mắc với thầy. Thầy từ bi điềm đạm khai tâm mở trí, hướng dẫn tôi phương pháp hành trì. Trước khi ra về, thầy tặng cho tôi một số sách và băng đĩa Phật pháp. Tôi run run đón nhận “báu vật’’ thầy ban mà lòng vô cùng sung sướng.

Vài ngày sau, thầy gọi điện cho biết: “Ngày nay là ngày tu, nếu sáng nay bận thì chiều hãy đến chùa tu nửa ngày nghe”. Buổi chiều, tôi hồi hộp đến giảng đường, Phật tử về tu đông quá. Mọi người đang tụng kinh Vô Lượng Thọ. Tôi rón rén tìm chỗ ngồi và cảm xúc lắng nghe. Khi đi kinh hành, bước những bước chân đầu tiên trong tiếng “A Di Đà Phật’’ trầm hùng của đại chúng, tôi đã bật khóc vì sung sướng. Nước mắt tôi rơi lã chã theo từng bước chân. Sau bao năm dãi dầu bước chân trên những con đường vô minh tội lỗi, giờ tôi đã tìm được lối đi đầy ánh sáng. Hai dòng chữ hai bên tôn tượng Phật A Di Đà: “Nhìn thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên, niệm Phật – Chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi” như tiếng chuông cảnh tỉnh dội vào tâm can. Dẫu biết niệm Phật là phải nhất tâm, nhưng tôi không làm chủ được cảm xúc. Đức Từ Phụ ơi! Đứa con lầm đường lạc lối của Ngài nay đã quay về.

Tôi đã phát hiện chân lý và bước chân vào cửa Đạo như vậy đó.

Bây giờ, tôi đã khác trước rất nhiều. Tín – Nguyện – Hạnh tôi gắng giữ và thực hành. Làm theo lời Phật dạy, giữ ngũ giới, hành thập thiện, buông xả những gì cần buông xả, sám hối các lỗi lầm đã mắc phải. Tôi cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng vô cùng. Tôi cố gắng từ bỏ ngũ dục đã từng hành hạ, làm khổ tôi và tập sống cuộc sống thiểu dục tri túc như ba tôi đã dùng cả cuộc đời của mình mà thực hành. Tôi cũng đã có một đạo tràng ấm cúng để sinh hoạt và tu tập cùng thầy và các bạn đạo. Tôi đã biết quý từng giây từng phút “sống’’ trong hiện tại, cố gắng sửa đổi thân – khẩu – ý tịnh thanh, tâm luôn hướng về Đức Từ phụ A Di Đà, mong mỏi một ngày nào đó được trở về cố hương.

Giờ đây, mỗi khi làm giấy tờ, kê khai ký lịch, tôi có thể tự hào và hãnh diện viết vào mục tôn giáo: Phật giáo. Mỗi khi mặc bộ đồ lam đi chùa, tôi vô cùng sung sướng, hạnh phúc. Cầm lá cờ Phật giáo ngũ sắc, lá cờ của Bi – Trí – Dũng trong mỗi dịp lễ Phật đản, lòng tôi lâng lâng nhẹ nhàng. Vì một lẽ hết sức giản đơn: Tôi là Phật tử.

Diệu Túy

Người Niệm Phật Không Nên Mong Cầu Thấy Phật

Người Niệm Phật Không Nên Mong Cầu Thấy PhậtKhi nói đến chuyện thấy Phật, có nhiều người đã sơ ý, rất nhiều người đã phạm phải những sơ ý như thế này, là hằng ngày hằng ngày họ nguyện, họ cầu xin A-Di-Đà Phật hiện thân cho họ thấy. Cũng có nhiều người từng đi khoe ra rằng, đã thấy Phật rồi! Thì giờ đây xin nêu ra cái điểm hết sức quan trọng này. Ngài Tịnh Không có nói, nếu mà lòng chúng ta Thành rồi, chúng ta tu hành tốt, cũng có khi A-Di-Đà Phật hiện ra cho ta thấy. Nhưng mà Ngài cũng nói, trong suốt cuộc đời của người đó có thể thấy một lần hay nhiều lắm là hai lần, thì có thể được. Chớ còn, có nhiều người khoe rằng ngày nào cũng thấy A-Di-Đà Phật, tháng tháng đều thấy A-Di-Đà Phật, Ngài nói, có hiện tượng này thì người đó đã bị trở ngại rồi! Xin nhắc nhở cho thật kỹ chỗ này. Tại vì có nhiều người tu không chịu nghiên cứu kỹ! Tu mà cầu cảm ứng nhiều quá, nhiều khi rất dễ sinh ra vấn đề này! Trong đời của Diệu Âm đã từng gặp qua có người bị như vậy…

Ví dụ, có một lần ở tại quê, có một vị kia đã đi tới và khoe với tôi rằng là thường gặp Quán-Thế-Âm Bồ-Tát hiện ra, có gặp luôn cả Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát nữa. Nhưng sau đó… gia đình của vị này đã bị một đại nạn!… Thì xin thưa rằng, đây là điều nhắc nhở chung.

Lời cầu nguyện chính đáng của mình là cầu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Còn mình nguyện khi lâm chung thấy A-Di-Đà Phật, là để nhắc nhở cho biết, khi mình buông bỏ báo thân này ra đi, tuyệt đối không được đi theo một người nào khác. Chớ đừng nên nghe nói rằng, niệm Phật thì thấy Phật, thành ra ngày ngày cứ nguyện xin A-Di-Đà Phật hiện ra. Đây là điều không tốt! Khi mà nguyện như vậy, thường thường cái vọng tâm của mình nó hiện ra, mà vọng tâm thì cảm ứng với vọng cảnh, và bên cạnh đó cũng xin nhớ cho, chúng ta là hàng phàm phu tục tử, nghiệp chướng sâu nặng, có rất nhiều oan gia trái chủ bám sát theo mình, không bao giờ họ rời mình đâu. Cái món nợ tiền khiên chưa đòi được, họ chưa đành lòng vui vẻ buông bỏ đâu…

Chính vì vậy, nếu những người nào có những cảm ứng tương tự, thì Diệu Âm này xin thành khẩn khuyên rằng, nên Phóng Sanh, Niệm Phật, Tu Hành cho thật nhiều. Làm Thiện, Làm Phước rồi thành tâm ngày ngày hồi hướng công đức cho chư vị oan gia trái chủ và nhận lấy những cái lỗi lầm của mình từ trong nhiều đời nhiều kiếp. Cứ làm như vậy, rất thường xuyên và thành tâm, thì có thể hóa giải những ách nạn này. Chớ đừng nên khi thấy được những cảm ứng đó, lại đi khoe ra rằng mình đã chứng đắc, hay là tu hành giỏi gì đó, thì rất dễ bị chướng ngại mà nhiều khi nặng nề lắm! Và theo như chư Tổ nói, sau cùng nếu cái vọng tâm của mình không kềm chế được, đến một lúc, theo như ngài Ấn Quang nói rằng, chư Phật mười phương xuống đây cứu mình không được! Nhất là ngày nay, những hiện tượng này ta thấy nhan nhản! Thật sự nhan nhản! Tức là có nhiều người đã vỗ ngực tự xưng này, xưng nọ và có người đã khoe ra sự chứng đắc. Chính có người đã tới gặp Diệu Âm và nói như thế này: “Anh Diệu Âm ơi, anh tới thăm sư phụ tôi một chút đi“. Tôi hỏi, Sư Phụ là ai? Thì vị đó tự khoe như vầy: ”Sư Phụ của tôi không phải là người bình thường đâu, mà ở trên cõi trên xuống. Hằng ngày thì Ngài xuống đây thuyết kinh, tối thì Ngài về trên Tây Phương nghỉ“(!)…

Quý vị thấy không! Mà người ta nói rất là chân thành, chớ không phải giả đò đâu à!… Rồi họ nói tiếp: “Tôi xin nói thiệt với anh Diệu Âm nghen… Tôi là người đã vãng sanh rồi nè“(!…). Quý vị nghe đi, “Tôi là người đã Vãng Sanh rồi nè! Hôm nay, nghe anh Diệu Âm về, tôi tới thăm anh… Tôi muốn hỏi thật sự là anh tu hành đã chứng đắc tới đâu rồi, xin nói cho tôi biết”…

Họ nói rất nhiều về chuyện này. Nhiều lắm quý vị ơi! Không thể kể ra hết đâu à! Cách đây cỡ chừng đâu… chắc thời gian cũng rất gần đây, ở trong internet tôi có nhận một cái email viết chữ rất lớn, viết như vầy: “Xin Cứu Nạn!”. Chấm một cái. “Có một đạo tràng đang bị đại nạn, xin anh Diệu Âm cứu nạn!”…

Tôi làm gì có thể đi cứu nạn cho người ta! Đó cũng là một đạo tràng! Mắc cười lắm! Khi tôi đọc đến, tôi không biết làm sao, tôi mới nói: “Vì quá tham chứng đắc thì rất dễ vướng ma sự. Mà tiếc thay, đang gặp ma sự nhưng không hay!”. Tôi viết một câu đại để như vậy rồi gởi lại cho vị đó. Rồi tôi liên lạc về một vị Thầy quen biết để hỏi. Thầy khuyên rằng, hồi giờ anh nói về hộ niệm rất nhiều, nay anh gặp trường hợp này thì tôi khuyên anh nên thông báo vấn nạn này rộng rãi ra, để giúp cho nhiều người ý thức. Nếu người nào lỡ có sơ ý, thì sẽ sửa đổi lại. Nghe khuyên vậy, tôi thấy cũng phải. Tôi mới mở lại email đó, tôi viết thêm một vài chữ nữa, đại khái là: “Tu hành cần phải khiêm nhường, cần phải thành tâm, phải tự thấy mình là hàng hạ căn, hạ cơ. Chớ đừng nên nghĩ rằng mình đã chứng đắc. Người tham chứng đắc thường bị “Ma Sự” (tôi để nguyên như vậy) mà đáng tiếc thay đã bị ma sự mà không biết, thật là tội nghiệp!”. (Hẳn nhiên tôi không nêu danh tánh ai cả). Rồi tôi dùng email đó gởi đi khắp thế giới. Tôi có một cái danh sách, hễ ”Click” một cái thì nó đi khắp thế giới liền, và người kêu tôi để cầu cứu đó thì tôi nói với họ rằng, tôi không có khả năng nào để giải được cái ách nạn này, nhưng mà… Anh… đã kêu tôi cầu cứu thì bây giờ chính Anh là người giải nạn… Mau mau làm như vầy… như vầy… đi. Tôi khuyên Anh về, lấy tình gia tộc gì đó, mau mau điện thoại về hay trực tiếp về để cảnh cáo người nhà, hoặc mời người nhà đi chơi xa để giải quyết tình trạng này đi, chứ ngoài ra không ai có thể cứu được nữa đâu. Thì cũng thật là may mắn, đâu khoảng hơn một tuần sau, vị đó đã điện thoại tới nói rằng, bây giờ đã giải quyết được rồi…

Chư vị biết không? Thật sự mình cần phải biết tự cảnh tỉnh… Có một người dám tự xưng rằng mình là A-Di-Đà Phật… Quán-Âm cũng không chịu đâu ạ! Đại-Thế-Chí cũng không chịu đâu ạ! Và tuyên bố rằng, nếu mà ai theo tôi thì đảm bảo rằng: người này thì 3 tháng, người này thì 2 tháng, người nọ thì 4 tháng, người thì 2 tuần… sẽ được chứng đắc hết! Sẽ được ”Niệm Phật Tam Muội hết!”… Có lẽ đã lóe ra cái gì đó, đến nỗi cả một cái đạo tràng đều ùa theo!…

Cho nên, đây là một chuyện mà chúng ta nhắc nhở cho nhau: Không có cái tình trạng đó đâu! Chúng ta phải biết thành tâm, tin tưởng. Theo như Ngài Tịnh Không nói, khi chúng ta thành tâm thì cảm ứng được với A-Di-Đà Phật và chính cái lòng chí thành, chí kính này mà cảm ứng với A-Di-Đà Phật, đây là lời nói của Tổ Ấn Quang. Ngài Tịnh Không cũng nói rõ rệt là phải thành tâm, chí thành, chí kính niệm Phật cầu vãng sanh, nhờ chính cái lòng thành tâm này mà cảm ứng được với A-Di-Đà Phật. Rồi khi mình ra đi, A-Di-Đà Phật sẽ hóa hiện thân ra để mà cứu mình về Tây Phương Cực Lạc. Khi A-Di-Đà Phật hiện ra thì mình cứ đi theo Ngài, chứ không phải Ngài cứu độ như cách… đi khắp nơi… còn quảng cáo ra nữa, tự xưng mình là A-Di-Đà Phật đã xuống đây, rồi bảo quý vị niệm Phật rồi theo mình đi vãng sanh đâu.

Nếu chúng ta đã sơ ý, lỡ bị vướng vào những nạn này, thì mau mau xin thành tâm làm việc công đức, phóng sanh v.v… để hồi hướng cho oan gia trái chủ, để gỡ ách nạn ra. Trong vấn đề tu hành, đừng nên quá hiếu kỳ mà dễ gặp phải chướng nạn. Thật sự, khi đã lún sâu vào đó rồi, rất khó cứu ra!

Đây là những lời nói hết sức là thành thực và cụ thể, mong cho tất cả chư vị đồng tu hãy chú ý để chúng ta được an lành đi về Tây Phương Cực Lạc.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trí)

Hạnh Tu Tịnh Độ: Chánh và Phụ

Hạnh Tu Tịnh Độ Chánh và PhụTrong thời mạt pháp này, người con Phật muốn thoát khỏi sanh tử luân hồi chỉ có con đường tắt là tu Tịnh độ, nương theo Phật lực ‘đới nghiệp vãng sanh’, chỉ cố gắng niệm một câu A Di Đà Phật sao cho thuần thục. Công đức danh hiệu rất lớn, vi diệu không thể nghĩ bàn :

“Niệm Phật một niệm phước sanh vô lượng
Lễ Phật một lễ tội diệt hà sa”

Là một phật tử học Phật, tìm ra được pháp môn hợp với căn cơ, tin theo và thực hành, lập định khóa công phu tụng kinh, niệm Phật hàng ngày nhằm tránh lười biếng, giải đãi thì con đường giải thoát khỏi luân hồi sinh tử mới được mở rộng.

Ngày nay chứng kiến được rất nhiều quý vị Phật tử làm từ thiện. Mọi người trong xã hội hiện giờ tham gia làm việc thiện rất nhiều như xây nhà tình nghĩa, xây dựng cầu đường, trường học, bệnh viện, nuôi trẻ em cô nhi, tài trợ học bổng, hỗ trợ bệnh nhân nghèo, giúp dân xóa đói giảm nghèo hoặc làm các việc Phật sự như phóng sanh, đi cúng dường các chùa, in kinh sách, ấn tống đĩa …. và dành cả đời để làm việc đó.
Từ thiện là việc làm lành xuất phát từ tâm từ đáng khuyến khích. Tuy nhiên, chúng ta cần xác định rõ là giúp người hay làm từ thiện, làm Phật sự… là những hạnh phụ để trợ duyên thêm cho niệm Phật. Việc thiện hay Phật sự tùy duyên mà làm nếu như không ảnh hưởng đến công phu tu tập thì làm, còn nếu ảnh hưởng đến việc tu tập thì nên tránh vì cần xác định việc tu hành chú trọng nhất là giải thoát. Tất cả những việc thiện khác đều chỉ là phụ, là trợ duyên cho hạnh chính. Nếu như chúng ta tham thiện, đến lúc nào đó chúng ta bị cuốn hút theo, chạy theo cái phụ mà bỏ quên luôn cái chính. Thiện có quả thiện, nhưng đó cũng chỉ là quả báo Trời, người, vẫn phải chịu luân hồi sanh tử. Có phước báo lớn nhưng chính trong môi trường này rất dễ tạo tội nghiệp.

Chúng ta cứ quan sát rõ thấy người giàu trong thế gian đa phần là hưởng thụ rồi tạo thêm nhiều nghiệp chướng mới. Đến khi hưởng hết phước rồi lại phải sa vào tam ác đạo vậy có oan uổng không? Cho nên hễ xác định tu niệm Phật giải thoát là chính, còn tất cả việc lành khác đều là phụ thì người Phật tử chúng ta đã có định hướng chắc chắn. Việc phụ nếu thuận đủ điều kiện, đủ duyên thì làm, không đủ điều kiện tuyệt đối không làm. Không thuận duyên mà cố gắng quá sức để làm gọi là phan duyên. Phan duyên thì tự chuốc lấy phiền não. Cứ lo chạy theo nó mà bỏ tu tập giải thoát thì lệch đường tu mất rồi. Việc thiện làm xong hồi hướng Tây Phương rồi buông bỏ luôn, tâm sẽ không lưu luyến, không bận lòng dính mắc.

Em gái người viết cũng đã từng tụng kinh niệm Phật hàng ngày, bên cạnh đó cũng đi từ thiện cứu giúp đỡ nhiều người khác. Việc làm này cuốn hút đến độ dần dần em bỏ cả việc tụng kinh niệm Phật để theo đoàn từ thiện đi nhiều ngày trong tháng. Em mất thời gian vì công việc này, lúc nào đầu óc cũng trăn trở lo cho việc từ thiện được đủ tài trợ, được chu toàn. Do đó em trở nên lơ là với tu tập giải thoát. Phải mất một thời gian giải thích, khuyên nhủ em mới bắt đầu lập công phu hàng ngày trở lại.
Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm 47 có ghi:

“Thân người khó được, Phật khó gặp.
Tín huệ nghe pháp khó trong khó”

Có được thân người, lại gặp ngay pháp môn Tịnh độ này, nhất là quyết niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc mà tin được thì những người con Phật chúng ta đã gieo thiện căn phước đức bao đời bao kiếp, cúng dường biết bao vị Phật mới có được niềm tin Tịnh độ và hành trì.

Vì vậy, kính mong quý vị Phật tử chúng ta ai cũng nhận diện kỹ đâu là chánh hạnh, đâu là phụ để một đời quyết giải thoát khỏi luân hồi sanh tử. Phụ chỉ là trợ duyên cho chánh, hễ thuận thì làm, nghịch thì thôi. Chuyên tu chánh hạnh để hưởng được sự an vui cõi Cực lạc sau khi mãn báo thân này hơn là tập trung tu phụ hạnh hưởng quả báo nhân thiên một lúc rồi sau đó mãi trôi lăn theo vòng sanh tử luân hồi cho đến vạn kiếp không thoát ra nổi.

Diệu Âm Lệ Hiếu

Không Chịu Buông Xả Không Thể Vãng Sanh

Không Chịu Buông Xả Không Thể Vãng SanhThường thường khi hộ niệm có cái phần ”Khai-Thị, Dẫn-Giải“. Điểm chính yếu của khai-thị, dẫn-giải chính là nhắc nhở người bệnh buông cho hết tất cả những gì thế trần xuống, gọi là “Buông xả“. Phải buông cho hết đừng có để bị vướng:

Cái tâm mình mà còn thấy khó chịu cái gì, thì còn vướng cái đó.

Cái tâm mình mà còn ghét việc gì, thì vướng việc đó.

Cái tâm mình mà còn ghét một người nào, thì vướng người đó.

Bất cứ cái gì cũng vậy, hễ ghét cái gì thì vướng cái đó! Lạ lắm! Thường thường có nhiều người nói, là để tới lúc đó rồi tôi sẽ bỏ. Không phải dễ vậy đâu!

Ngài Lý Bỉnh Nam nói rằng, trong cuộc đời chúng ta làm cái gì, thì trước những giây phút chúng ta ra đi, tất cả những cái đó nó hiện lại hết, mà nó hiện càng mạnh nữa. Ví dụ, như mình thấy khó chịu một điều gì thì lúc đó ta có muốn quên, quên cũng không được. Mà thật ra lúc đó dù chúng ta có muốn quên đi, thì oan gia trái chủ cũng tạo cơ hội cho chúng ta nhớ cái chuyện đó. Lạ lắm! Mà chỉ người đó bị nạn, chứ người bên cạnh hay người hộ niệm không biết. Chính vì vậy, hộ niệm là giúp cho nhau buông xả. Phải tập buông xả.

Mấy ngày hôm trước chúng ta nói chuyện về “Người Hiền“. Thực sự là tập thành người hiền. Người hiền là người buông xả. Người ta buông xả vì người ta hiền. Ví dụ, có một sự việc như vậy, người hiền thì người ta vui vẻ, không cần để ý đến, còn người cố chấp thì người ta để trong lòng. Mà để những điều khó chịu trong lòng, thì nó sẽ thành cái chủng tử “Khó Chịu“. Rồi cái chủng tử đó càng ngày nó càng phát triển, nó càng lớn lên, đến khi nằm xuống thì cái chủng tử đó, cái nhân đó, nó hiện ra trong đầu của họ. Chủng tử này có lúc có thể giải được, còn hầu hết thì chịu thua, giải không được!

Chính vì vậy mà phải tập buông xả. Tập tối đa. Ví dụ như mình lỡ gặp điều gì rắc rối, thì theo như Chư Tổ dạy, hãy ráng cố gắng phát tâm niệm Phật liền. Nhớ tới câu A-Di-Đà Phật, nhìn tới câu A-Di-Đà Phật, tự nhiên câu A-Di-Đà Phật nó lấn lần, lấn lần… nó liệng những cái chấp ra. Tập được như vậy, thì đến lúc mình nằm xuống, bắt đầu bịnh là mình lo niệm Phật liền, chứ không lo cái gì khác hết.

Tôi xin kể ra đây một câu chuyện có thực, để rút thêm một chút kinh nghiệm cho cả người hộ niệm và cả cho người vãng sanh luôn. Ở tại Việt Nam có anh đó trong ban hộ niệm, hôm trước anh có điện thoại qua hỏi tôi. Cứ mỗi lần có chuyện khó khăn gì về hộ niệm thì anh liền điện thoại qua hỏi. Nhưng thực ra xét về khả năng, thì Diệu Âm này thầm nghĩ rằng, anh đó có khả năng hộ niệm ngon hơn mình, nhưng tại vì đầu tiên mình chỉ dẫn cho anh hộ niệm, nên bây giờ anh mến lắm… Thì anh ta báo cáo rằng từ đầu năm tới bây giờ, anh hộ niệm được 31 người, 31 ca, thành công được 21 ca, còn lại 10 ca là coi như bị thất bại. Anh nói ngon lắm: “Bây giờ tôi biết rồi anh Diệu Âm ơi, tôi biết người nào vãng sanh, người nào không rồi, chứ không phải thấy mềm mềm là tôi nói vãng sanh đâu”.

Anh ta nói với tôi có vẻ vững vàng lắm, và anh kể lại một câu chuyện, làm cho tôi cũng trực nhớ lại… Câu chuyện đó như thế này, vui lắm!…

Có một Ông đó, nói niệm Phật thì chịu niệm Phật. Bảo phát nguyện vãng sanh thì chịu phát nguyện vãng sanh. Nhưng mà Ông đó nghĩ như thế này nè. Ông nói:

“Như mình ở đây muốn qua nước Mỹ thì mình phải có cái hộ chiếu. Mình ở đây muốn đi qua Singapore thì mình phải có cái hộ chiếu. Mà hộ chiếu thì phải có công an, có nhà nước đóng dấu đàng hoàng. Thế thì, bây giờ nếu mình ở tại nước Việt Nam này mà muốn đi về Tây Phương thì mình cũng phải có “Hộ Chiếu” mới đi được… Vậy bây giờ phải làm sao cho tôi có cái “Hộ Chiếu” đi về Tây Phương đi”.

Ban hộ niệm đã giảng giải cho ông ta rằng không phải vậy đâu. A-Di-Đà Phật dạy là mình nguyện vãng sanh cho đàng hoàng, rồi thành tâm niệm Phật thì tự nhiên được đi. Nhưng ông không chịu tin! Nói gì nói ông cũng không chịu tin. Ông nói: “Không bao giờ có cái chuyện đó!” . Tại vì ông ta là nhà quê mà. Ông nói:

“Đi đâu cũng phải có hộ chiếu… thì bây giờ cách gì đi nữa cũng phải đem ra công an ký giấy cho tôi, để tôi đi…”.

Sau khi hộ niệm cho ông đã ba-bốn tuần rồi mà sao vẫn còn vướng! Lúc nào ông cũng đòi cho được cái hộ chiếu để đi về Tây Phương. Đối với ông hình như chỉ còn vướng một chút này nữa thôi. Người ta hỏi ông:

– Có đem con theo không?

– Không! Tôi không đem con theo.

– Có đem vợ theo không?

– Không! Không đem vợ theo.

– Cái gia tài này có đem theo không?

– Không! Không đem theo cái gì hết.

Ấy thế mà nhất định phải đem cái hộ chiếu theo!…

Ông đòi giấy hộ chiếu đó phải có công an ký vào và A-Di-Đà Phật cũng phải ký vào nữa… Trời ơi! Người ta khuyên gì khuyên, nhưng ông ta cũng không nghe!…

………..

Chấp như vậy đó!… Anh đó mới điện thoại qua hỏi, ”Anh Diệu Âm ơi, làm sao giải quyết giùm tôi” .

Thì lúc đó tôi nói:

“Thôi được rồi, bây giờ anh về nói với ông đó, viết lời nguyện vãng sanh ra: Tôi tên là gì đó, pháp danh là gì đó, ở tại thôn này, bao nhiêu tuổi, hôm nay Tôi phát nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, nhờ A-Di-Đà Phật ấn ký”.

Viết đàng hoàng như vậy, rồi anh bắt ông đó quỳ trước bàn Phật, kêu cả gia đình cùng quỳ sau ông, rồi ban hộ niệm cũng quỳ theo luôn. Bảo ông ta tự khấn nguyện, cầu xin Phật ấn chứng cho con. Rồi mình bảo ông ta để tờ phát nguyện trên bàn thờ. Giảng nghĩa cho ông biết rằng, A-Di-Đà Phật có cách ấn chứng khác, Ngài không ký tên, mà mình để trên bàn thờ rồi khấn nguyện, Ngài sẽ phóng quang ấn chứng vô đó. Như vậy tức là ông đã được ấn chứng. Nhờ như vậy thôi!…

Rồi ông còn hỏi:

– Có chắc không?

– Chắc chứ. Sao mà không chắc được.

Ổng viết đàng hoàng, viết tên… tuổi… họ hàng… ở tại xã nào, thôn nào… như vậy đó để lên, rồi mới nguyện. Ông ta nguyện như vầy:

– Nam Mô Di Đà Phật, hôm nay con xin để “Giấy Hộ Chiếu vãng sanh” nơi đây, con nguyện cầu Phật ấn chứng cho con…

Rồi để trên đó đàng hoàng há, bắt ông đó để lên bàn thờ bảy ngày để cầu xin… (Mình phải làm cho có vẻ quan trọng và kiểu cách một chút…). Có như vậy mà sau đó ông ta mới yên lòng. Bây giờ ông phải giữ cho cẩn thận tờ giấy này nghen, đây tờ hộ chiếu có Phật ấn chứng rồi đó. Nhờ cái tờ giấy đó… mà ông an lòng không hỏi nữa. Và sau đó, nghe nói ông cũng được vãng sanh, vãng sanh cũng ngon lành lắm…

Câu chuyện này kể ra giống như một chuyện tiếu lâm, nhưng có thật như vậy. Cả cái ban hộ niệm đó không biết cách nào mà giải quyết, khuyên gì khuyên ông vẫn nói nhất định là đi đâu cũng phải có tờ giấy, phải chứng nhận đàng hoàng, ấn chứng đàng hoàng mới được. Đây cũng là một câu chuyện vừa vui mà vừa có thực…

Chuyện này thật ra chỉ vì thói quen. Cái thói quen trong cái tâm, nó nhập sâu vào tâm hồi nào không hay, đến nỗi khi đi về Tây Phương cũng nghĩ rằng phải có như vậy mới đúng… Tất cả chính là cái chấp của người đó!

Nếu một người tu hành muốn về Tây Phương, mà giả sử như chúng ta còn mắc kẹt cái chỗ nào, ví dụ như ghét một người nào đó, xin thưa thực, Diệu Âm thường đi nói chuyện về hộ niệm, có nói: Ví dụ như, quý vị mà ghét cái màu đen: “Đời tôi ghét nhất là màu đen“… cũng không được nữa, đừng nói chi là ghét người! Tại vì khi mình ghét màu đen, thì nhiều khi lúc lâm chung, người ta mở đèn sáng trưng à, người ta còn sơn cái nhà trắng hết à, mà oan gia trái chủ tới họ phù phép hay sao đó không biết làm cho đen thui à! Nhìn thấy màu đen, mình ghét vô cùng ghét! Mình bị vướng liền. Chính vì cái vướng này mà làm cho tâm hồn của họ điên đảo, không cách nào niệm Phật được. Cũng giống như ông Cụ đó muốn về Tây Phương, vợ không đem theo, nhà cũng không đem theo, con cái cũng không đem theo, tiền bạc không đem theo, mà quyết định là phải đem miếng giấy theo. Tại vì miếng giấy đó là giấy có ấn chứng đàng hoàng có ký đàng hoàng!

Thấy không? Nếu mình cứ nói: “Bác buông xả đi, bác buông xả đi”. Nói hoài không bao giờ ông cụ đó buông xả. Nhưng làm một cái trò giống như trò xiệc vậy, trò gạt vậy thì ông ta lại chịu nghe. Đây gọi là “Thiện xảo phương tiện”.

Cho nên đây cũng là một cái kinh nghiệm rất hay để khi đi hộ niệm, muốn khuyên người ta buông xả, nhiều lúc mình cũng bày cái phương tiện nào đó thì người ta mới buông xả. Và nói như vậy thì bây giờ chúng ta hãy biết tập buông xả trước, buông xả cho trụi lủi. Hòa Thượng nói, phải buông xả trụi lủi trụi lui thì quý vị mới dễ dàng an nhiên tự tại vãng sanh. Nếu mà buông xả nhiều thật nhiều, còn lại chút chút nào đó thì những vị hộ niệm mới khuyên mình bỏ được, chứ nếu mình buông xả ít quá, tức là chấp nhiều quá, sau cùng nó vướng… nó vướng tới… tới… tới kỳ cùng luôn!

Mình nhớ là trong cái lá thư của ngài Ấn Quang, có một người niệm Phật 25 năm trường, ngày nào cũng công khóa đàng hoàng, nhưng mà sau cùng rồi…. thì Ngài nói, “Không vãng sanh “. Nhìn hiện tượng xảy ra, Ngài nói, ”Không Vãng Sanh!”… Hỏi Ngài, ông này được vãng sanh về Tây Phương chứ? Ngài nói, không! Như vậy, niệm Phật lâu năm rồi, chắc có lẽ cũng được về tam thiện đạo chứ? Ngài nói, “Không!” luôn! Dễ sợ như vậy! Đây là do tình chấp mà bị kéo lại. Bên cạnh đó, mình phải hiểu rằng oan gia trái chủ sẽ lợi dụng cơ hội đó mà phá mất cơ hội vãng sanh của mình.

Đây là kinh nghiệm! Chúng ta hãy cố gắng quyết lòng. Tất cả chúng ta ai ai cũng sẵn sàng chuẩn bị đi về Tây Phương. Đi về Tây Phương sướng quá, chấp ở đây làm gì mà chúng ta bị nạn. Thật sự oan uổng!

Cho nên tu hành là biết buông xả. Chúng ta phải thực hiện những bước này cho được thì sau cùng sẽ rất dễ dàng vãng vanh về Tây Phương để thành đạo.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Cư sĩ Diệu Âm (Minh Trị)