18 09 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Miệng niệm Phật, tâm chuyên nhất tưởng nghĩ đến Phật gọi là định tâm niệm Phật. Miệng niệm Phật, tâm không tưởng nghĩ đến Phật mà lại suy nghĩ vẩn vơ gọi là tán tâm niệm Phật. Tán tâm niệm Phật so với định tâm niệm Phật, công hiệu hai bên vốn cách nhau rất xa. Vì thế, xưa nay các bậc đại đức đều khuyên hành giả định tâm niệm Phật, chứ không bao giờ khuyên tán tâm niệm Phật.
Nhưng sự thật thì nhứt cử nhứt động gì bên ngoài đều ảnh hưởng đến nội tâm nên dù là tán tâm niệm Phật, sự niệm Phật ấy không phải hoàn toàn vô công hiệu. Vả lại, trong khi miệng đọc tiếp ➝
17 09 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Sư tỷ Khoan Kim từ sau khi thoát khỏi nạn hỏa tai, càng cung kính tin Phật niệm Phật hơn, và gặp ai cũng tuyên dương sự linh cảm của Phật, Bồ Tát. Nhưng người con thứ ba đã đến tuổi đi lính phải phục vụ trong quân đội ba năm, cuộc sống của bà liền trở thành vấn đề khó xử. Không biết như thế nào mới tốt đây? Sư tỷ liền khẩn thiết van cầu Quán Thế Âm Bồ Tát một cách rất là cung kính rằng: “Tín nữ Khoan Kim xưa kia ngu si không biết về nhân quả báo ứng, đã tạo ra rất nhiều ác nghiệp, cho nên tai nạn, khổ nguy trùng trùng, hiện nay được nghe chánh pháp, rất cảm tạ Phật, Bồ Tát đã phò hộ con được sống bình an qua ngày. Nhưng giờ đây cầu xin Phật, Bồ Tát giúp cho con một việc: Xin giúp con tìm được một việc làm có tiền lương cao một chút do vì hiện nay tiền lương ở nhà máy giày dép cao su một ngày chỉ có 5 đồng, con trai của con sắp vào lính ba năm, cuộc sống ngày ba bữa trong ba năm này của con sẽ phải khó khăn. Đệ tử tự biết đây là một yêu cầu gần như vô lý với Phật, Bồ Tát nhưng vì tín nữ đã hơn năm mươi tuổi, lại không biết chữ, tự mình đi tìm việc rất khó, dám xin Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn tìm cách giúp con giải quyết vấn đề sinh sống trong ba năm này”. Sư tỷ sớm tối đều cầu xin như thế. Quán Thế Âm Bồ Tát thật là linh nghiệm vô cùng, không phụ sự cầu xin của người chí thành. Có một đêm, sư tỷ bỗng nhiên nằm mộng thấy một cô gái khoảng mười lăm, mười sáu tuổi nói với bà: “Khoan Kim! Bà muốn có một công việc tốt, sáng mai lúc cầm hộp cơm đi làm, phải đi đường nhỏ không được đi đường lớn, sẽ có quý nhơn giúp đỡ cho bà”. Nói xong thì biến mất. Sáng hôm sau, lúc sư tỷ mang hộp cơm ra cửa, nhớ lại cảnh trong mộng đêm trước, nửa tin nửa ngờ. Nguyên là mỗi ngày đi ra khỏi nhà đều đi theo đường lớn, nhưng hôm nay đổi hướng đi đường nhỏ thử xem. Đi được nửa đường thì ở bên bờ tường của một ngôi nhà cao cấp có một cô gái cười cười đến hỏi bà: “Bà tên là Khoan Kim muốn đi đến hãng giày dép cao su làm phải không? Bà vội vàng đáp phải, nhưng trong lòng lại rất lấy làm lạ: cô gái làm sao lại biết rõ thế? Cô gái lại nói: “Chủ tịch Hội đồng Quản trị của chúng tôi sáng sớm kêu tôi đợi bà ở đây, ông ta mời bà vào trong có chuyện muốn nói với bà”.
Sư tỷ Khoan Kim lúc đó trong lòng vô cùng ngạc nhiên đi theo cô gái vào trong. Ông Chủ tịch Hội đồng Quản trị hỏi bà một cách rất thân tình: “Bà tên là Khoan Kim, con trai bà sắp vào lính ba năm, cho nên bà muốn tìm một chỗ làm có lương tương đối khá phải không?”. Bà liền đáp phải. Ông Chủ tịch lại nói: “Nhà máy của chúng tôi có một cô nhân viên làm tạp vụ, chuyên lo về công việc nấu nước pha trà, nhưng cô này lại để móng tay quá dài, lại sơn đỏ chót, cho nên bình trà, chung trà, mâm đều rất dơ, tại cô ta sợ gãy móng tay, cho nên rửa cái gì cũng không sạch. Bây giờ cần đổi người khác, chỉ cần hàng ngày rửa sạch những dụng cụ uống trà là được rồi, mời bà đến đảm nhiệm công việc. Thế nào? Lương mỗi tháng là 450 đồng, cuối năm lại thưởng một tháng lương nữa”. Sư tỷ nghe ông Chủ tịch nói thao thao một hồi, vui mừng vô cùng nói: “Cám ơn ông Chủ tịch rất nhiều có lòng tốt giúp đỡ”
Sư tỷ Khoan Kim từ lúc bỏ nơi làm việc mỗi ngày 5 đồng chuyển vào nơi tiền lương mỗi tháng 450 đồng, bà làm việc rất chăm chỉ. Nhưng trào lưu của thời thế những hãng xưởng lớn mà mướn mấy bà già làm nhân viên tạp vụ như thế rất là ít có, cho nên trong xưởng có một số viên chức mắt nhìn thấy một bà già bưng trà đi ra đi vô ở văn phòng có hơi ngứa mắt, liền nửa đùa nửa thật kiến nghị với ông Chủ tịch rằng: “Thưa ông Chủ tịch! Ông mướn bà già này bưng trà, thật không hay chút nào!”. Có người còn nói xen vào: “Thưa ông Chủ tịch! Nếu như không tìm được người trẻ tuổi, tôi ngày mai lập tức dẫn đến một cô vừa thông minh vừa lanh lợi đến thay thế cho”.
Ông Chủ tịch vội vàng nói: “Không được! Không được! Việc này xin các anh tha cho, do vì tôi đã hứa với Quán Thế Âm Bồ Tát rồi, Bồ Tát kêu tôi giúp bà ta ba năm”. Lúc đó mọi người trong văn phòng đều cười rộ lên, cho là ông Chủ tịch nói chuyện thần thoại, liền hỏi ông ta: “Bồ Tát làm thế nào ước hẹn với ông bảo ông giúp cho bà già này ba năm chớ?”.
Ông Chủ tịch liền nói với mọi người rằng: “Bà Khoan Kim này không phải là bà con của tôi, tôi lại cũng không có quen biết bà, không tin thì các người hỏi bà ta xem lập tức có thể chứng minh. Do vì cái đêm trước mời bà ta lại làm, tôi chiêm bao mơ mơ màng màng, nhìn thấy một cô gái khoảng mười sáu tuổi, cô ta nói với tôi cô là Quán Thế Âm Bồ Tát hóa thân đến nhờ tôi, do vì có một tín nữ lớn tuổi rất thành khẩn với Phật pháp, con trai của bà ta sắp đi lính ba năm, cho nên cuộc sống gặp khó khăn, yêu cầu tôi thuê dùng ba năm, trong thời gian đó, nếu như có người phản đối, ông cũng không được nản lòng, giúp ba năm đến nơi đến chốn. Lúc bấy giờ tôi liền hỏi cô gái đó rằng: “Vị lão tín nữ đó tôi lại không quen biết bà ta, làm sao đây?”. Cô gái đó lại nói: “Lão tín nữ tên là Khoan Kim, hơn 7 giờ sáng mai, trong tay cầm hộp cơm đi đến làm ở nhà máy giày dép cao su, sẽ đi ngang qua cửa nhà của ông, ông chỉ cần phái người theo giờ đó đứng đón ngoài cửa là được rồi”. Nói đến đây thì cô gái biến mất.
Lúc đó sư tỷ Khoan Kim nói với mọi người: “Thì ra là lòng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, chẳng những báo mộng cho ông Chủ tịch, đồng thời cũng chỉ điểm cho tôi, kêu tôi lúc đi làm buổi sáng, không được đi đường lớn mà đi theo đường nhỏ sẽ có quý nhơn giúp đỡ, không ngờ thật sự gặp được nhân duyên đặc biệt này. Hồi lúc trước ông Chủ tịch kêu vào làm một cách thân tình như thế, trong bụng tôi hết sức hoang mang: ông Chủ tịch làm sao biết tôi rõ như thế?… Qua lần giải thích đó mới biết là lòng đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn của Quán Thế Âm Bồ Tát đã giải quyết dùm cho tôi. Thật là Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn!”. Sư tỷ cảm động nói: “Từ hôm đó, sau khi ông Chủ tịch giải thích chuyện kỳ diệu không thể nghĩ bàn, trong ba năm trời, không còn người nào nói ra nói vào gì nữa”. Chuyện kể tới đây, tôi liền hỏi sư tỷ: “Ông Chủ tịch đó là ai, tên họ là gì?”, sư tỷ nói: “Ông ta họ Trương tên Kiết, ông là Chủ tịch Hội đồng Quản trị của nhà máy bột mì Quảng Nguyên. Trên đây hoàn toàn là sự thật. Đây là chuyện cảm ứng chuyển nghiệp thứ hai của sư tỷ Khoan Kim do niệm Phật mà được.
Trích Những Chuyện Niệm Phật Cảm Ứng Mắt Thấy Tai Nghe
Tác giả: Lâm Khán Trị
Dịch giả: Thích Hoằng Chí
17 09 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Theo đại sư Cổ côn (đời Thanh), người niệm Phật muốn được thành công phải nắm vững bốn yếu quyết sau:
1. Người niệm Phật không cần tham cầu Tịnh cảnh
Xưa nay, có một số vị khi phát tâm niệm Phật chỉ lo ham cầu tịnh cảnh (như cầu thấy Phật hiện thân, cầu thấy cảnh giới Tịnh độ…), chứ không đặt nặng vào việc cầu vãng sanh Tịnh độ, đây quả thật là đại bịnh. Bởi cầu tịnh cảnh mà không cầu vãng sanh Tây Phương, kẻ niệm Phật đó chẳng khác cầu cát mà bỏ vàng, niệm Phật với tâm như thế không phù hợp với ý Phật “chấp trì danh hiệu Phật, một lòng cầu nguyện vãng sanh” (kinh A Di Đà), không thể đạt thành công đức vô lượng và không thể vãng sanh.
2. Người niệm Phật không cần tham thoại đầu “ niệm Phật là ai ?”
Người niệm Phật lấy cái tâm thanh tịnh bản lai của mình mà niệm đức Phật A Di Đà ở thế giới Tây Phương, rồi nhờ đức Phật A Di Đà hiển lộ cái tâm bản lai thanh tịnh của mình. Mỗi khi khởi tâm niệm Phật là tâm ta hướng về tâm Phật, tâm Phật hướng về tâm ta. Tâm ta và tâm Phật rõ ràng, tâm ta và tâm Phật là một, lý cảm ứng đạo giao bất khả tư nghì. Vì thế đương lúc niệm Phật mà đi hỏi niệm Phật là ai, tức là trên cái đầu của mình lại đặt thêm một cái đầu nữa, cỡi lừa mà lại đi tìm lừa.
3. Người niệm Phật không cần dứt trừ vọng tưởng
Ngày nay có nhiều người tu các pháp môn khác, thấy ai niệm Phật họ bèn khởi tâm chê bai : “ Người niệm Phật mà còn vọng tưởng thì không đạt thành kết quả”. Nhưng họ không biết rằng, người niệm Phật tuy còn vọng tưởng vẫn có thể đới nghiệp vãng sanh. Ngài Linh Phong dạy: “kẻ tín thâm nguyện thiết mà tâm còn nhiều vọng tưởng thì kẻ đó sẽ được Hạ phẩm hạ sanh. Tuy là Hạ phẩm hạ sanh nhưng chẳng ngại gì, vì đồng được bậc thiện nhân câu hội chung một chỗ, cùng thọ dụng pháp lạc, há không phải là đại dụng hay sao ?”.
4. Người niệm Phật không cần cầu nhất tâm
Người tán tâm niệm Phật thường ngày niệm không thoái chuyển, lâu ngày tự nhiên sẽ thành tựu sự nhất tâm. Như thế nhất tâm bất loạn là do tán niệm định số mà thành. Chúng ta niệm Phật tuy không cần cầu nhất tâm nhưng cứ tương tục niệm Phật thì nhất tâm bất loạn sẽ hiển bày.
Trái lại người nào niệm Phật chỉ lo cầu nhất tâm mà bỏ qua pháp tán niệm định số, thì chẳng khác nào kẻ không nấu cơm mà cầu có cơm ăn, không chịu khó học mà muốn thành tài giỏi… là điều không thể xảy ra.
Cho nên, đối với các bậc hữu duyên của tông Tịnh độ, chúng ta chỉ cần lập chí quyết định trì danh niệm Phật mà không cần phải tham cầu tịnh cảnh, không cần xem câu niệm Phật như một câu khán thoại đầu; không cần nghĩ đến chuyện còn vọng tưởng hay không vọng tưởng, không cần phải cầu nhất tâm bất loạn. Mà chúng ta thường ngày cứ chuyên trì Thánh hiệu Phật A Di Đà “đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm Phật”, từ đây cho đến khi chết, chúng ta quyết định sẽ được vãng sanh.
Trích Chuẩn Bị Cho Cái Chết
Tác giả: Thích Nguyên Liên
17 09 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Con người lúc sắp chết do sự diễn tiến của Nghiệp và Hiện tượng của nghiệp mà có Biểu hiện lâm chung mỗi người mỗi khác. Cũng như khi sắp chết, xác thân sẽ có những chỗ nóng ấm sau cùng. Tìm hiểu biểu hiện lâm chung và hơi nóng đi ra cuối cùng trên xác thân người chết, chúng ta có thể biết được cảnh giới họ đang chuẩn bị tái sanh.
1. Xác định dựa vào hơi nóng sắc thân
Con người khi chết toàn thân lạnh dần, chỗ nào trên cơ thể còn hơi nóng sót lại là nơi đó thần thức xuất ra khỏi thân. Chỗ nóng sau cùng trên cơ thể người chết giúp chúng ta xác định được cảnh giới tái sanh của họ. Bài kệ trong Đại thừa trang nghiêm kinh luận đã chỉ rõ cho chúng ta vấn đề này.
Đảnh sanh cõi Thánh, mắt sanh Trời
Bụng nóng Ngạ quỷ, tim nóng Người
Bàng sanh nóng ở nơi đầu gối
Nóng ở bàn chân Địa ngục thôi.
Ví như chúng ta sờ vào cơ thể người mới chết, nếu thấy toàn thân lạnh hết chỉ còn hơi nóng ở đỉnh đầu, tất biết người đó được vãng sanh Tịnh độ. Hoặc như toàn thân lạnh hết nhưng còn hơi nóng giữa hai con mắt tức biết ngưòi đó sẽ tái sanh về cảnh trời… Các cảnh giới còn lại chúng ta có thể xác biết qua hơi nóng còn sót lại nơi nào trên cơ thể người mới chết như bài kệ trên đã trình bày.
Có điều, chúng ta cần nên tránh sự hiếu kỳ quá đáng tìm kiếm hơi nóng làm động chạm cơ thể người chết, khiến họ phát sanh phiền não rất dễ đoạ lạc. Việc này nên để những vị tu cao, các Ngài có năng lực vận chuyển hơi nóng đi lên, xác định cảnh giới sắp tái sanh của người mới chết để tìm phương cứu độ.
2. Xác định theo biểu hiện lâm chung
Con người sau khi chết tùy nghiệp mà tái sanh vào cảnh giới tương ưng. Do thần thức cảm nhận cảnh giới tái sanh khổ đau hay hạnh phúc mà tâm thức có lo âu hay sung sướng, biểu hiện qua hình thức trước khi chết. Cho nên, nhìn vào biểu hiện lâm chung của người sắp chết chúng ta có thể đoán định được cảnh giới tái sanh của họ.
Đại để người nào sắp tái sanh về cõi trời… thì biểu hiện sung sướng, thân tâm thơ thới, miệng mỉm cười… Người nào sắp đọa vào tứ ác thú biểu hiện có sự run sợ, thân thể xú uế, tay chân quờ quạng… Chung quy, do cảnh giới tái sanh có khác, mà người chết có những biểu hiện lâm chung không giống nhau.
Trong kinh Pháp cú câu 253, Đức Phật dạy : “ Thân ông bây giờ như lá héo ! Sứ giả thần chết đang chờ ông ! Ông đang đứng trước ngưỡng cửa tử vong! Ông sắp phải làm cuộc lữ hành trên đường trường của cái chết. Vậy mà sao ông chưa chuẩn bị lương thực gì cả?” Chúng ta đang sống và chuẩn bị làm lữ khách trên đường trường của cái chết. Sống và chết luôn là hai việc lớn nhất của đời người, chúng ta dầu muốn dầu không cũng không thể tránh khỏi cái chết. Ai là người có chút lo xa chẳng thể dững dưng qua ngày, buông thả đời mình trong nhục dục, mà ngay bây giờ hãy chuẩn bị lương thực Tín, Hạnh, Nguyện đừng để phải rơi vào cảnh: “Tiền lộ mang mang vị tri hà vãng” (Quy sơn cảnh sách).
Trích Chuẩn Bị Cho Cái Chết
Tác giả: Thích Nguyên Liên
16 09 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Đây là câu chuyện cảm ứng của cháu gái Trần Phi Lâm. Cô cháu họ này mới đầu cũng không tin Phật và cực lực phản đối lòng thành tin Phật của ông chú nhưng Trần cư sĩ rất từ bi, hễ gặp mặt là khuyên cô ta niệm Phật, giảng cho cô ta nghe về đời người ở thế gian khổ nhiều, vui ít, tai nạn nhiều, nghịch cảnh nhiều, phiền não nhiều, muốn lìa khổ được vui cần phải niệm A Di Đà Phật, lúc nguy cấp, sợ hãi càng phải cố sức niệm A Di Đà Phật. Nhưng cô cháu của ông cũng chỉ như đàn khảy tai trâu, không chịu nghe theo!
Mười mấy năm về trước, cháu gái của Trần Phi Lâm muốn dời nhà đến Hoa Liên kinh doanh buôn bán, cư sĩ Phi Lâm liền thỉnh tượng Tây phương Tam Thánh, lộng kiếng, tự mình đem đến bến xe Đài Đông cho cô ta. Lúc chia tay ông còn ân cần dặn đi dặn lại cô cháu phải chí tâm thành ý niệm A Di Đà Phật. Cô cháu họ Trần sau khi dời đến ở Hoa Liên kinh doanh buôn bán rất tốt, có một hôm do việc làm ăn cô đi vào làng, đến nửa đêm mới cỡi xe đạp về nhà, đi qua một con kênh bên đường lúc không để ý cả người lẫn xe đồng rơi xuống con kênh. Con kênh này chỉ sâu hơn người một chút mà thôi, tự mình rất dễ leo lên. Lúc đó cô cháu họ Trần phủi bụi đất trên mình, rồi xem lại tứ chi, không có bị thương chút nào hết, liền lo kéo chiếc xe đạp lên, lúc muốn kéo lên đó, lại rất kỳ quái, phía sau dường như có người kéo xe trở xuống. Cứ thế, hễ muốn kéo lên lại bị kéo trở xuống mấy lần. Lúc đó cô cháu họ Trần sợ đến nỗi lông tóc dựng đứng, sợ đến nỗi hồn bất phụ thể. Vào lúc tiến thối lưỡng nan, không có cách nào, liền nhớ đến việc ông chú ở Đài Đông thường dạy cô niệm A Di Đà Phật, khi gặp lúc tai nạn nguy cấp càng phải to tiếng niệm Phật. Cô cháu họ Trần liền chắp hai tay lại, cố sức to tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Thành tâm thành ý niệm được khoảng nửa tiếng đồng hồ thân tâm cảm thấy an nhiên, tâm sợ hãi đã không còn nữa. Bỗng nhiên trên đường có một chiếc xe ba bánh chạy đến, người đánh xe đến trước mặt cô cháu họ Trần, liền thắng xe lại, không nói một tiếng nào, liền kéo chiếc xe đạp lên, lại mời cô cháu họ Trần lên xe ba bánh, đưa xe đạp đặt lên trên xe ba bánh, người đánh xe liền chở cả cô cháu họ Trần lẫn xe đạp về đến cổng nhà của cô.
Cô cháu họ Trần trong lòng rất cảm tạ người đánh xe trẻ tuổi mạnh khỏe nầy, sau khi xuống xe, muốn lấy tiền nhiều một chút cho anh ta, nhưng lúc quay đầu lại thì không biết đã đi đâu mất rồi! Lúc đó đã là nửa đêm, cũng không biết tìm ở đâu. Qua ngày hôm sau, sáng sớm cô vẫn cứ nhớ cái ân của người đánh xe ba bánh, muốn đưa tiền cho anh ta, liền đến bãi xe ba bánh tìm trong mấy người phu xe, hỏi tới hỏi lui cả ngày, mọi người đều nói tối hôm qua không có ai chở cả người lẫn xe ở đó. Sau đó cô liền nghĩ lại sự cảm ứng lúc đang nguy cấp cố sức niệm A Di Đà Phật mới có sự hóa hiện xe ba bánh đến cứu mình. Cô ta lại nhớ đến tượng Phật của ông chú đưa cho ở bến xe Đài Đông, liền về nhà lục tìm xem, chỉ thấy tướng hảo trang nghiệm của Phật A Di Đà rất giống với phước tướng của anh phu xe ba bánh. Lập tức treo lên, rất là cung kính mua về hương hoa quả phẩm, đèn cầy để cúng dường lễ bái. Lại nhớ đến tinh thần từ bi của ông chú, đích thật là ân sâu như biển, liền từ Hoa Liên đi về Đài Đông đến chú Trần Phi Lâm nói ra việc cảm ứng này. Câu chuyện trên đây là do chính miệng Trần cư sĩ nói với tôi.
Trích Những Chuyện Niệm Phật Cảm Ứng Mắt Thấy Tai Nghe
Tác giả: Lâm Khán Trị
Dịch giả: Thích Hoằng Chí
16 09 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Trong kinh Kim Quang Minh trì nghiệm có kể câu chuyện: Thuở xưa, có một cô gái nghèo khổ, mẹ chết. Khi đến ngày 49, cô muốn đi rước thầy để cầu siêu độ cho mẹ cô. Nhưng cô không có tiền đành cắt mái tóc xanh đem bán, được một số tiền nhỏ để cúng lễ 49 ngày cho mẹ.
Cô đi thỉnh thầy, nhưng chùa quá xa. Cô vừa ra khỏi cổng thì gặp ba thầy đang đi đường. Cô mừng quá, liền thỉnh ba thầy vô, và nhờ ba thầy tụng kinh siêu độ cho mẹ cô. Ba thầy cũng đồng ý vào tụng kinh siêu độ.
Cô đi sang nhà ông Phật tử hàng xóm mượn chuông mõ và một cuốn Kinh Quang Minh. Ba thầy chí thành khai kinh và trì tụng. Cô quỳ ở sau, chí thành lễ bái.
Tụng kinh xong, cô dọn cơm mời ba thầy dùng và cúng dường lễ tạ. Ba thầy dùng trai tăng xong, từ giã ra đi. Đến một làng khác, ba thầy lại ghé vào quán nhậu rượu, nhưng khi sắp ăn uống thì nghe tiếng nói trên hư không, nói rằng, “Xin ba thầy đừng ăn thịt uống rượu, con sẽ bị đọa trở lại địa ngục.” Ba thầy ngó nhau, bỏ đũa, trả tiền mà ra đi.
Ba “thầy” vốn là tù nhân được phóng thích. Áo quần rách nát nên vào chùa xin đồ tu mà mặc. Không có tiền hớt tóc nên cạo đầu cho mát. Không ngờ lòng chí thành của thí chủ và phước báu của kinh, mà mẹ của cô con gái được siêu độ.
Ba vị thầy tu bất đắc dĩ, ngày hôm ấy, thấy việc siêu độ quá linh thiêng, nhiệm mầu, nên đã phát tâm xuất gia, thọ đại giới, tinh tấn tu hành, sau trở thành những thầy tu đạo hạnh được mọi người thương mến, kính yêu.
Công cha như núi ngất trời,
Tình mẹ như nước biển khơi tràn đầy.
Dù cho dâng hết thân này,
Cũng không trả được công người dưỡng sinh.
Góp Nhặt Lá Bồ Đề
Thích Tịnh Nghiêm
162/186Đầu«...10...161162163...170...»Cuối
Các Phúc Đáp Gần Đây