Niệm Phật Công Đức phần 4

Niệm Phật Công Đức phần 4IV: TÂM HỌC PHẬT VỚI NGUYỆN-GIẢI-HÀNH
1. Đạo Phật là sự thực tiễn của Tam quy y “Giác, Chính, Tịnh”.

Phật pháp tu học, ngay bước đầu là truyền thụ Tam quy y. Tam quy y là sự nhập môn của Phật pháp. Vì vậy, chúng ta nhất định phải nhận thức rõ ràng ý nghĩa của Tam quy y.

Tại sao học Phật phải quy y? Quy y ở đâu? Quy y cái gì? Mục đích của quy y ở đâu? Điểm tốt của quy y ở chỗ nào? Nếu như không nhận thức rõ được những điều này, quy y một cách mơ hồ, thụ giới một cách hồ đồ. Nói thật, đó là hồ đồ quy y, hồ đồ thụ giới, tương lai thành Phật hồ đồ!

Mới vào cửa Phật, thầy sẽ truyền thụ Tam quy y. Tam quy y chính là đem cương lĩnh chung, phương hướng chung truyền trao cho bạn. Sau này, bất luận bạn y cứ kinh điển nào, tu học pháp môn nào cũng đều không thể trái với cương lĩnh này, không thể tách rời phương hướng này. Vì đây là cương lĩnh thành Phật, phương hướng thành Phật.

“Tam quy y” là chỉ cho quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Một số người cho rằng: Phật là tượng Phật, Pháp là kinh điển, Tăng là người xuất gia, mà không hề biết đây là một nhầm lẫn rất lớn.

Trong sự ghi chép của kinh điển, chúng ta có thể phát hiện nguồn gốc của sự sai lầm đã lâu. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, đại sư Huệ Năng, tổ thứ sáu Thiền tông đã giảng Tam quy y, ngài không dùng “Phật, Pháp, Tăng” mà dùng “Quy y Giác, quy y Chính, quy y Tịnh”. Lục Tổ đại sư đã thay đổi những danh từ này, chúng ta nghĩ xem, nhất định là đã có sự sai lầm ở thời đại nào đó.

Ý nghĩa của Tam bảo: Phật là “Giác”, Pháp là “Chính”, Tăng là “Tịnh”. Giảng từng từ như thế chúng ta sẽ không đến nỗi sinh ra sự hiểu lầm. Đây là Tự tính Tam bảo, là nơi quy y đúng đắn của chúng ta. Phật pháp được gọi là “ Nội học”, là tìm cầu ở bên trong, không phải tìm cầu ở bên ngoài; nếu tìm cầu ở bên ngoài thì gọi là “ngoại đạo”. Tam quy y, nếu như quy y tượng Phật, kinh điển và người xuất gia ở ngoài tâm, thì quy y như thế chính là quy y ngoại đạo. Ngoại đạo hoàn toàn không phải là chỉ cho tôn giáo khác, mà là chỉ cho sự cầu pháp ở ngoài tâm. Phật pháp là dạy cho bạn tìm cầu ở trong tâm.

“Phật” là tự tính giác; giác ngộ là chính mình giác chứ không phải người khác. Người khác giác ngộ không liên quan gì đến ta. Đức Thích-ca Mâu-ni, Ngài đã giác ngộ, còn ta chưa giác ngộ. Quy y Ngài, ta không thể giác ngộ, quy y chính mình mới có thể giác ngộ. Vì vậy, Phật dạy chúng ta quy y tính của mình, không được quy y Đức Phật ở ngoài. Nếu các vị quán sát, tư duy kỹ sẽ biết không dối gạt người. Phật pháp là khai phát tự tính cho chúng ta, tuyệt đối không dạy ta chạy theo người khác. Đức Phật không hề dắt mũi chúng ta đi. Phật dạy mỗi người đội trời đạp đất. Tam quy chính là dạy bạn đội trời đạp đất. Vì chúng ta vốn là Phật, chẳng qua vì mê mà thôi. Đức Phật đến giúp đỡ chúng ta khôi phục tự tính. Cho nên, “Phật” chính là ý nghĩa của giác ngộ, chúng ta phải quy y tính giác của mình.

Quy là trở về, quay đầu lại. Chúng ta quay đầu từ chỗ nào? Quay đầu từ chỗ mê hoặc, điên đảo để nương về tính giác của mình. Đây là quy y Phật chân chính. Nói thì rất dễ nhưng trên thực tế chúng ta không hề quay lại; đối người, đối sự, đối vật, chúng ta vẫn cứ mê mờ không tỉnh giác.

Tiền đề lớn, phương hướng lớn mà Đức Phật dạy chúng ta, chúng ta phải tuân thủ ra sao? Làm thế nào để tu học. Thí như, Đức Phật dạy chúng ta hiếu cha mẹ, kính tôn sư, chúng ta không hiếu kính. Đây là mê mờ; hiếu kính chính là tính giác của mình; không tôn sư trọng đạo, đó là mê mờ. Tôn sư trọng đạo chính là tính giác của mình; đối với tất cả chúng sinh ta không có lòng từ bi, đó là mê muội; từ bi với tất cả chúng sinh chính là giác. Những điều này hoàn toàn thực hiện trong đời sống mới là sự tu học chân chính.

Tất cả những điều Đức Phật dạy chúng ta, tất nhiên là đạo lý cho tính giác của mình. Trái với lời dạy của Phật chắc chắn là mê hoặc điên đảo. Như vậy, những sự việc ấy chúng ta cần phải hạ thủ, biết cách làm thế nào để phá mê khai ngộ trong đời sống hằng ngày.

“Pháp” là chính tri kiến, chính là trí huệ Bát-nhã vốn có đủ của tự tính. Người xưa giảng “Chân thật trí huệ” chính là Pháp, pháp không phải từ bên ngoài đến. Kinh Pháp Hoa giảng “Nhập Phật tri kiến”. Tri kiến Phật chính là pháp, Phật là tính giác của mình, tự tính bản giác. Trí huệ sinh ra từ trong bản giác chính là Pháp.

“Tăng” là thanh tịnh, tự tính xưa nay thanh tịnh, thanh tịnh tức là Tăng bảo. Lục Tổ đại sư khi khai ngộ đã trình bày chỗ tâm đắc cho thầy Ngũ Tổ. Câu thứ nhất nói: “Nào ngờ tự tính, vốn sẵn thanh tịnh”. Tự tính xưa nay vốn thanh tịnh chính là Tăng bảo. Trong tự tính của chúng ta có đầy đủ Tam bảo. Đây là sự quy y đúng đắn, chúng ta nhất định phải hiểu rõ.

Ngày nay có nhiều người tu phát tâm làm đệ tử Phật, phát tâm học tập theo Phật, lĩnh thụ Tam quy y, chúng tôi có băng ghi âm và một quyển sách nhỏ “Truyền thụ tam quy”, hy vọng các vị nghe nhiều, xem nhiều. Quy y về đâu, nương vào cái gì, đều phải hiểu rõ ràng triệt để, mới có thể đạt được lợi ích công đức chân thật của Tam quy y.

Hình tượng Phật, kinh sách, người xuất gia, chính là hình tượng của Tam bảo, dáng dấp của Tam bảo. Nội dung thực chất đúng nghĩa của Tam bảo, tức là “giác, chính, tịnh” của tự tính. Hình thức cũng rất quan trọng, nó là sự truyền thừa của Phật pháp, một hình thái truyền nối.

Nếu như không có hình thức này tượng trưng cho sự tồn tại thì Phật pháp sẽ biến thành một cái hang rỗng không, trở thành học phái thần bí.

Đối với hình thức Tam bảo, chúng ta cũng phải tôn trọng. Tôn trọng Tam bảo chính là tôn trọng đạo. Nếu như chúng ta mong mỏi giáo pháp của Đức Phật Thích-ca, sự giáo dục của Ngài có thể thường trụ nơi thế gian, có thể lợi ích chúng sinh rộng khắp cả, thì hình thức của Tam bảo vô cùng quan trọng. Bất luận tượng Phật đúc hay vẽ, chúng ta đều phải tôn trọng, kinh sách và người xuất gia chúng ta cũng phải tôn trọng.

Cúng dường Tam bảo, nếu biết cúng dường như thế nào thì chính mình được lợi ích. Thấy tượng Phật, nhắc nhở mình phải giác ngộ tự tính, giác tỉnh không còn mê. Thấy kinh sách hoặc quyển kinh, tự thức tỉnh chúng ta phải chính tri, chính kiến, tư tưởng kiến giải phải chính xác, không thể có sai lầm. Thấy hình tượng của người xuất gia, thì phải thức tỉnh chính mình: “Sáu căn thanh tịnh, mảy trần chẳng nhiễm”, phải thanh tịnh, không được ô nhiễm. Nếu người xuất gia không thanh tịnh thì họ chẳng liên quan gì đến chúng ta. Cho nên công đức của trụ trì Tam bảo đối với chúng ta là vô lượng vô biên.

Từ nhiều kiếp lâu xa đến nay, chúng ta luân hồi trong sáu nẽo, mê mờ không tỉnh thức, sai lầm không chính kiến, nhiễm ô không thanh tịnh. Dù cho ngày nay đã thụ tam quy y nhưng thói xấu của chúng ta vẫn còn khá nặng, rất dễ bị lôi cuốn. May mà có Trụ trì Tam bảo thường xuyên, từng giờ từng khắc nhắc nhở chúng ta, giúp chúng ta giác không mê muội, chính kiến chẳng tà vạy, thanh tịnh không ô nhiễm, thử hỏi làm sao mà chúng ta không cung kính? Đây chính là lợi ích chân thực của Trụ trì Tam bảo đối với chúng ta.

Hiếu dưỡng cha mẹ, kính thuận sư trưởng và tôn trọng đạo, đây là bước khởi đầu của sự tu hành, phải tiến thẳng đến bồ-đề viên mãn, thì “giác, chính, tịnh” của chúng ta mới viên mãn. Vì thế, tu “giác, chính, tịnh” là bắt đầu từ hiếu dưỡng cha mẹ, kính thuận sư trưởng và tôn trọng đạo.

Tu hành là sửa đổi những hành vi lỗi lầm. Đối với thực chất, nội dung tu hành, chúng ta phải hiểu rõ nghìn vạn lần không được lầm lẫn, cho rằng tu hành là mỗi ngày đọc bao nhiêu bộ kinh, niệm bao nhiêu tiếng, lễ bao nhiêu lạy. Lầm rồi! Đó chỉ là hình thức mà thôi.

Nếu mỗi ngày đọc mười bộ kinh Vô Lượng Thọ, niệm mười nghìn danh hiệu Phật, lễ ba nghìn lạy, nhưng vẫn không hiếu dưỡng cha mẹ, không kính trọng sư trưởng thì tu hành kiểu này hoàn toàn là tu giả dối, không phải chân thật. Cổ nhân thường nói: “Hét bễ cuống họng cũng uổng công”! Nếu người này hiếu dưỡng cha mẹ, kính thuận sư trưởng và tôn trọng đạo, ghi nhớ sự hiếu thuận của chư Phật vào lòng, trong cuộc sống hằng ngày, đối người, xúc sự, tiếp vật, đều thực hành đúng như lý, như pháp thì dù cho người này cả ngày không đọc một bộ kinh, không niệm một câu Phật, Đức Phật vẫn nói người ấy là đệ tử chân thật; người ấy thật sự đang học Phật.

Các vị nên biết, tu hành không phải nơi hình thức mà quý nơi thực chất. Nói cách khác, trong cuộc sống hằng ngày, xử lý sự việc, đối đãi với người, tiếp xúc sự vật đều phải giống như Bồ-tát. Phật và Bồ-tát ứng sự, tiếp đãi người như thế nào? Đời sống của các ngài ra sao? Chúng ta phải học tập giống như Phật và Bồ-tát. Đức Phật dạy bạn đọc kinh, lễ Phật, đó là bài tập của lớp học trò tiểu học. Sự hành trì của sinh viên đại học không phải giống như thế. Các vị xem thấy 53 lần tham học với 53 vị Thiện tri thức của Thiện Tài đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm, họ đều là sinh viên đại học. Họ rất ít có hình thức kiểu này, họ hoàn toàn nói đến hành vi thân, khẩu, ý thanh tịnh, chính tri chính kiến và sự giác ngộ được biểu hiện trong đời sống. Đây mới là vị Bồ-tát chân chính.
2. Năm năm học giới, vâng theo lời dạy của sư trưởng.

Người mới học, nhất định phải hạ thủ công phu từ “trì giới”. Giới đây chính là lời răn dạy của thầy, Đức Phật dạy chúng ta, đạo nghiệp, học nghiệp, sự nghiệp có thành tựu hay không, then chốt ở nơi thầy! Nếu có sự hướng dẫn của vị thầy tốt thì nhất định chúng ta sẽ thành tựu. Vậy vị thầy nào là thầy tốt nhất?

Đại sư Thiện Đạo nói: “Vị thầy nào có duyên với bạn chính là vị thầy tốt”. Sao gọi là “có duyên”? Vị thầy mà trong lòng bạn tôn kính, ngưỡng mộ nhất, chính là vị thầy có duyên với bạn. Vì những lời thầy nói, bạn có thể tiếp nhận. Sự dạy dỗ của thầy, bạn sẽ cố gắng thực hành, đây gọi là có duyên. Với vị thầy không có duyên, dù cho vị ấy có học vấn, đạo đức cao hơn, bạn vẫn không tin tưởng. Sự hướng dẫn của vị ấy, sẽ trở thành gió lướt qua bên tai bạn, bạn không để ý, căn bản là không thực hành. Thế thì chẳng được lợi ích gì, và cũng không thể thành tựu.

Thiện tri thức của mỗi người không giống nhau, như tôi tôn kính người này, bạn tôn kính người khác. Vì vậy, chư Phật, Bồ-tát phải thực hiện nhiều thân phận khác nhau. Bồ-tát Quán Thế Âm trong phẩm Phổ Môn, thị hiện ba mươi hai loại thân tướng. Bạn thích thân tướng nào thì ngài sẽ hiện thân tướng đó, đây là có duyên với bạn. Nếu bạn thích Bồ-tát mà Phật thị hiện đến thì bạn không thích, đối với Phật, bạn sẽ không cung kính. Việc này xảy ra rất nhiều.

Có rất nhiều người không cung kính Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và Phật A-di-đà nhưng lại cung kính Bồ-tát Quán Thế Âm. Những lời Bồ-tát Quán Thế Âm nói, họ liền nghe theo, còn những lời Đức Phật nói, họ không nghe. Bạn muốn tìm thầy thì phải biết nguyên tắc này. Phải tìm vị thầy mà trong lòng bạn yêu thích nhất, tôn kính nhất. Vì trong sự yêu thích và tôn kính có một điều kiện rất quan trọng, chính là bạn tin tưởng, chịu thực hành theo những lời vị thầy ấy đã nói. Đây là một nhân tố rất quan trọng. Học như thế bạn sẽ có sự thành tựu.

Vẫn còn một nguyên tắc rất quan trọng khác, đây là đặc biệt nói với người mới học. Người mới tu học, không có chính tri, chính kiến, không có khả năng phân biệt tà chính, đúng sai. Đối với một số việc, cách nói dường như đúng mà lại sai, bạn không biết nó là tà pháp lại xem nó là chính pháp. Một khi thiệt thòi bị lừa thì rất khó dứt ra. Đây là nhân tố chủ yếu không cách nào thành tựu cho sự tu học đời đời kiếp kiếp của chúng ta, hy vọng đời này chúng ta không phạm nữa.

Tà chính rất khó phân biệt, trong kinh Lăng-nghiêm, Đức Phật giảng về năm mươi loại ấm ma, loại ma bậc cao hơn, thoạt nhìn không khác gì Phật và Bồ-tát, mà xem nó là Phật, Bồ-tát, thế thì đã hỏng rồi. Ma nói pháp, trong một trăm câu chỉ có một câu không giống với Phật. Một câu giả này tức là độc tố. Chúng ta có năng lực gì để phân biệt?

Vì vậy, người mới học không rời thầy giống như trẻ con không được rời mẹ hiền. Vì sao mẹ hiền phải mang con theo mình đến ba bốn năm? Trong ba bốn năm này, đứa trẻ không thể rời mẹ, vì nó còn nhỏ quá, không hiểu việc, giờ phút nào cũng có thể nguy hiểm đến tính mạng, nên cần người chăm sóc kỹ, một khắc cũng không được rời khỏi mẹ. Chúng ta mới học Phật pháp, cũng không khác gì trẻ con, chỉ cần trong một tích tắc không cẩn thận, bất tri, bất giác, liền bị yêu ma quỷ quái lôi kéo vào đường tà. Điều này thật đáng sợ! Vì thế ta nhất định phải nương theo bậc thiện tri thức.

Thời xưa, người học Phật phải 5 năm học giới, và trong 5 năm không được rời khỏi thầy. Vì người mới học tu không có chính tri, chính kiến, rất dễ bị ngoại cảnh mê hoặc. Năm năm học giới, không phải là học giới luật mà là học lời răn dạy của thầy. Học trò thời nay muốn họ 5 năm không được rời khỏi sự răn dạy của thầy thì khó quá! Thế nên, ngày nay học Phật khó, khó ở điểm không có thầy, không có bậc thiện hữu tri thức. Tại sao không có thầy? Vì không có học trò. Tất cả học trò miệng đều nói muốn học, thực tế trong lòng hoàn toàn không muốn. Đây là phước báo của chúng sinh trong thời đại này không bằng quá khứ.

Vào năm Dân quốc thứ 42 (1953), tôi tiếp xúc Phật pháp, vẫn còn thời vận rất may mắn, có thể nương tựa một chút bên thầy. Vị thầy mà tôi gặp vẫn dùng phương pháp cổ điển dạy cho tôi, tôi có thể tiếp nhận. Môn triết học tôi học đầu tiên nhất, do tiên sinh Phương Đông Mỹ dạy, ở tại nhà ông, một tuần gặp một lần, học trong hai giờ. Sau khi nhận thức Phật pháp, tôi gặp được đại sư Chương Gia. Đại sư rất từ bi, giống như thầy Phương Đông Mỹ. Mỗi ngày chủ nhật, thầy dạy tôi hai tiếng đồng hồ. Đại sư viên tịch, tôi đến Đài Trung lễ thầy, thân gần lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, thầy đã đưa ra cho tôi 3 điều kiện:

1. Bắt đầu từ hôm nay, ông chỉ có thể nghe một mình tôi giảng kinh thuyết pháp. Ngoài tôi ra, bất kỳ pháp sư, đại đức, cư sĩ nào giảng kinh thảy đều không được nghe.

2. Bất luận là sách Phật hay sách thế gian, nếu không qua sự đồng ý của tôi thì tất cả đều không được xem.

3. Những pháp ông đã tu, đã học trước đây, tôi không thừa nhận, thảy đều bỏ qua, bắt đầu từ ngày hôm nay phải học theo tôi.

Ba điều kiện này, thoạt nghe dường như rất hà khắc, tôi cảm thấy vị thầy này rất ngang ngạnh, giống như ngoài ông ta ra thì không có người nào khác. Bấy giờ, tôi suy đi nghĩ lại nhưng vẫn cứ tiếp nhận. Về sau, tôi mới biết, 5 năm học giới trong cửa Phật chính là học ba điều kiện này. Ba điều kiện này chính là phương pháp của mẹ hiền vỗ về con trẻ. Học trò phải nghe lời, phục tùng một trăm phần trăm. Thầy dẫn bạn đi trên con đường chính đáng, phụ trách bồi dưỡng nền tảng “giác, chính, tịnh” cho bạn, thời hạn là năm năm. Sau 5 năm, bạn có năng lực phân biệt tà chính, đúng sai thì thầy sẽ giải phóng bạn. Lúc này, bất luận người nào giảng kinh thuyết pháp bạn đều có thể nghe. Sách vở xuất thế gian, bạn đều có thể xem, vì bạn có năng lực phân biệt, nên nó không có tác hại cho bạn. Bạn có thể phân biệt tà chính, đúng sai, chân vọng, bạn có thể đi khắp nơi nghe pháp, thành tựu trí huệ viên mãn cho mình.

Năm năm học giới, thầy là người vận dụng tâm này bồi dưỡng chính tri, chính kiến cho bạn. Nếu bạn không vâng theo, không chịu nghe lời, thì không có pháp tử. Học sinh thời hiện đại không được như vậy. Thấy vị thầy đề xuất điều kiện này, họ sẽ nói: “Cái này không thể được, thiện tri thức rất nhiều”. Tâm trạng của học sinh thời nay không giống như chúng tôi ngày trước. Chúng tôi rất thật thà luôn vâng theo sự dạy dỗ của thầy. Thầy yêu cầu 5 năm đó, tôi rất cảm kích thầy, tự mình lại tăng thêm 5 năm, vì thế tôi hoàn toàn tuân thủ theo thầy trong vòng mười năm.

Chúng ta hãy xem giáo trình dạy học của kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử đã là tấm gương cho chúng ta thấy. Thầy của đồng tử là Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ-tát Văn Thù đã dạy đồng tử như thế nào? Cũng là ba điều kiện của thầy Lý. Đợi đến khi đồng tử có năng lực phân biệt tà chính, đúng sai thì thầy của ông mới chủ động cho ông ra ngoài tham học. Đó chính là 53 lần tham học. Ra ngoài tham học, người nào đồng tử cũng có thể tiếp xúc, pháp môn nào cũng có thể nghe, kinh sách nào cũng có thể xem. Những điều đó đã thành tựu trí huệ viên mãn cho Thiện Tài đồng tử. Vì thế, 5 năm học giới được trích từ kinh Hoa Nghiêm, nó là điều có căn cứ rõ ràng. Đây là giáo trình dạy học truyền thống của Phật môn, chúng ta không hiểu đạo lý, ý nghĩa, công đức chân thật của nó liền không chịu tiếp nhận, ấy là chúng ta không có tâm nhẫn nại học tập chân chính. Nói cách khác, căn cơ học Phật của chúng ta không tốt, thậm chí có thể nói là hoàn toàn không có căn cơ học tập. Vậy thì làm sao có thể thành tựu được? Người xuất gia học Phật không thể trái với nguyên tắc này. Người tại gia học Phật muốn thành tựu cũng không thể trái với nguyên tắc này. Người học Phật thời nay nhiều hơn thời xưa. Vì cơ hội học Phật nhiều hơn ngày xưa, theo sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, kinh điển không thiếu thốn. Thời xưa muốn có được một bộ kinh, thật sự không dễ dàng chút nào. Hiện tại dường như mỗi gia đình đều có thể cúng dường một bộ Đại Tạng kinh. Người xưa nào có phước báo nhiều như thế!

An Huy, quê hương tôi có một ngôi chùa, là đạo tràng rất cổ kính, thời kỳ hưng thịnh nhất có năm, sáu trăm người xuất gia ở đó. Đạo tràng ấy rất rộng lớn biết bao mà chỉ có một nửa bộ Đại Tạng kinh. Người xưa muốn đọc Đại Tạng kinh, đều phải đến chùa ở lại mấy ngày tìm kinh, mượn Đại Tạng kinh rồi chép ra. Họ chép kinh là nghĩ đúng, tu hành đúng. Người thời nay có thể thỉnh Đại Tạng kinh về nhà cúng dường. Tuy tiện lợi nhưng xem ra vẫn là uổng công. Người bây giờ phước báo rất lớn nhưng đó là cái lớn trên hình thức, trên thực chất vẫn là nông cạn, vì không có sự khiêm tốn, chân thành, cung kính của người xưa, cho nên sự học tập và thành tựu, tự nhiên không bằng người xưa.

Hiện giờ, thiện hữu tri thức đã ít, dù cho có thiện hữu tri thức cũng rất khó tìm được học trò. Sau khi tôi học thành tựu, quanh năm hoằng pháp ở nước ngoài, không có bạn học, bạn tu nên cảm thấy rất cô đơn. Sau đó, tôi gặp được cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, thật là vui sướng. Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ gặp được tôi cũng rất vui, vì ông đang hoằng dương kinh Vô Lượng Thọ ở Trung Quốc, tôi cũng đang hoằng dương kinh Vô Lượng Thọ ở nước ngoài, cả hai đều là người lẻ loi trơ trọi, nên vừa gặp nhau cảm thấy vô cùng may mắn có một người bạn đồng hành.

Mỗi lần từ nước ngoài trở về, tôi luôn đến Đài Trung thăm thầy Lý. Mỗi lần gặp thầy, tôi đều cầu thỉnh thầy bồi dưỡng thêm cho mấy đứa học trò. Huynh đệ cùng thầy chúng tôi ngày càng nhiều, lực lượng hoằng Phật pháp ở bên ngoài đã rộng lớn. Những lời này có lẽ đã nói mười mấy lần. Lần sau cùng, dường như thầy đã chán nghe, thầy nói: “Không phải là tôi không dạy học trò, ông hãy thay tôi tìm học trò đi”.

Sau khi nghe câu nói này, tôi không còn lý do gì để nói. Tôi thầm nghĩ, quả là tìm không được! Biết đến nơi nào để tìm được một người thật thà, hoàn toàn nghe lời thầy? Thử nghĩ xem tìm một người có thái độ tu học và cung kính đối với thầy giống như mình. Thật sự tìm không được! Tôi đã hiểu ra. Từ đó về sau, tôi không nói nữa, vì biết việc này rất khó khăn!

Người chân chính thích học, người chân chính muốn học, đương nhiên có, chỉ là tôi không gặp được. Hiện giờ, thầy cũng không còn nữa, làm thế nào đây? Tìm người xưa, làm đệ tử tư thục của bậc cổ đức, từ xưa đến nay đều chọn lấy phương pháp này. Vị thứ nhất là Mạnh Tử ở Trung Quốc. Mạnh Tử rất ngưỡng mộ đức Khổng Tử, ông phát nguyện làm học trò của Khổng Tử, nhưng Khổng Tử đã từ trần! Song những trước tác của Khổng Tử còn trên thế gian, ông liền đọc sách của ngài, tuân theo cố gắng thực hành đạo lý những lời dạy mà Khổng Tử đã nói, có chỗ nào không hiểu, ông liền thỉnh giáo học trò của Khổng Tử. Nhờ vậy sự học tập của ông đã thành tựu. Đó gọi là “đệ tử tư thục”. Ở Trung Quốc, Khổng Tử được tôn xưng là bậc “Chí Thánh Tiên Sư”. Mạnh Tử được gọi là “Á Thánh”, đây là ví dụ về các bậc cổ nhân làm thầy đứng đầu ở Trung Quốc.

Chúng tôi có ví dụ này để nêu ra, thầy giáo nhiều, cổ thánh tiên hiền do bạn chọn lấy, bậc đại đức nào bạn thích, có duyên với bạn thì bạn hãy theo vị ấy học tập, bạn sẽ thành công. Trong lịch sử, những ví dụ về thành công rất nhiều. Người nổi tiếng nhất là Tư Mã Thiên, tác giả bộ Sử Ký của triều Hán, ông cũng học theo người xưa, tôn Tả Khưu Minh, tác giả bộ Tả Truyện làm thầy, chuyên học Tả Truyện và ông đã thành công.

Trong nhà Phật, Ngẫu Ích đại sư tôn đại sư Liên Trì làm thầy. Ông vô cùng ngưỡng mộ, sùng kính đại sư Liên Trì, chuyên đọc sách của đại sư Liên Trì, làm học trò của ngài, ông cũng đã học thành công. Thầy Lý ở Đài Trung dạy tôi học theo đại sư Ấn Quang, tôn đại sư làm thầy, chuyên học “ Văn sao” của ngài, tu học theo những lời dạy trong “Văn sao”, và làm đệ tử của ngài. Thầy Lý là đệ tử của đại sư, thầy dạy tôi cũng làm đệ tử của ngài. Khuyến khích hướng dẫn tôi như vậy, đây là sự khiêm tốn của thầy, cũng là cách dạy dỗ từ bi chân thật của ông.
3. Tôn Phật A-di-đà làmThầy.

Vị đại thiện tri thức mà hôm nay tôi sẽ giới thiệu đến quý vị là Đức Phật A-di-đà, hy vọng mọi người có thể nương vào lý luận và sự giáo huấn trong kinh Vô Lượng Thọ, nỗ lực tu học, làm đệ tử của Phật A-di-đà, Đức Thích-ca Mâu-ni rất khâm phục Đức Phật A-di-đà đến nỗi năm vóc gieo sát đất. Ngài tán thán Đức Phật A-di-đà là “Vua của tất cả chư Phật, bậc tối tôn trong các ánh sáng”. Đức Phật giới thiệu Đức Phật A-di-đà cho chúng ta, tại sao chúng ta không làm đệ tử của Đức Phật A-di-đà?

Mọi người đã phát tâm quy y thì nên thực hiện sự quy y ngay trong đời sống. Quy y Phật là quy y Đức Phật A-di-đà, quy y Pháp là quy y kinh Vô Lượng Thọ, quy y Tăng là quy y Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí. Nếu như đem Tam bảo quy về tự tính để nói thì quy y Phật, Phật A-di-đà là tự tính giác, vô lượng giác. Đây là tự tính Phật bảo; quy y pháp, kinh Vô Lượng Thọ là bộ kinh nói rõ về thể, tướng, dụng của tự tính; quy y tăng, Bồ-tát Đại Thế Chí biểu hiện trí huệ, Bồ-tát Quán Âm biểu thị cho từ bi. Chúng ta phải học trí huệ của Bồ-tát Đại Thế Chí, lòng từ bi của Bồ-tát Quán Thế Âm, và thực hiện ngay trong đời sống thường ngày, đối người, đối sự, đối vật đều phải từ bi. Từ bi phải nương vào trí huệ, không được nương vào tình cảm. Từ bi mà nương vào tình cảm tức là phiền não. Nhà Phật thường nói: “Từ bi là gốc, phương tiện là cửa”. Còn nói: “Từ bi nhiều tai họa, phương tiện sinh kém hèn”. Nguyên nhân nào khiến cho từ bi, phương tiện biến thành tai họa, kém hèn? Vì xử lý việc bằng tình cảm làm hư việc. Từ bi nhất định phải nương vào lý trí, như thế mới chính xác, đó là giác mà không mê.

Các bạn tu học Tịnh Độ, trong nhà đều thờ cúng Tây phương Tam Thánh, ý nghĩa ở đây không phải là nhìn Bồ-tát, Phật thành thần minh để tôn thờ; chúng ta phải hiểu ý nghĩa chân thật của sự cúng dường. Đó là từng giờ từng khắc nhắc nhở chúng ta, sớm tối lễ Phật, chiêm ngưỡng hình tượng Phật sẽ nhắc nhở chính mình, hôm nay ta phải tỉnh thức không được mê, phải có từ bi, phải có lý trí. Đứng trước tượng Phật cung kính hành lễ là biểu hiện sự tôn trọng đức tính của chúng ta, xem trọng đạo đức của mình. Đây không phải là mê tín. Chúng ta tu học phải bắt đầu hạ thủ công phu từ điểm này, sau đó mới có thể tu học Đại thừa.

Pháp Đại thừa và pháp Tiểu thừa không giống nhau, tâm lý cũng khác, pháp Tiểu thừa không có sự phát Bồ-đề tâm, pháp Đại thừa phải phát Bồ-đề tâm. Trong “Tam phước” điều thứ ba là pháp Đại thừa. Câu thứ nhất chính là phát Bồ-đề tâm. Bồ-đề tâm là tâm giác ngộ chân thật. Dáng vẻ của giác ngộ chân thật là cái gì? Một người giác ngộ chân thật, quyết định sẽ thành Phật, đây mới là chân giác ngộ. Chúng sinh trong chín pháp giới đều mê mờ không tỉnh thức. So với Phật, Bồ-tát vẫn còn mê, Đức Phật mới thật sự giác. So với chúng ta, Bồ-tát đã giác còn chúng ta mê. Sự sai biệt của mười pháp giới, chính là do mức độ sâu cạn không đồng của mê và ngộ. Trình độ giác ngộ càng cao thì cảnh giới càng cao; mức độ mê mờ càng nặng thì càng rơi xuống thấp.

Người thực sự giác ngộ, chỉ có một mục tiêu, họ phải làm Phật, đây là người tu Đại thừa. Muốn làm Phật thì phải học Phật. Đức Phật là người đã giác ngộ. Đi theo dấu chân của Ngài, tuân theo phương hướng của Ngài, chúng ta làm rất ít việc, có thể thu được hiệu quả gấp đôi. Vì vậy, tôi đề nghị các vị hãy học tập theo Đức Phật A-di-đà của chúng ta.

Bản kinh Vô Lượng Thọ mà chúng tôi đã hiệu đính mới lại khác với tất cả bản tụng đang lưu hành. Một số kinh có trong tất cả bản tụng sáng, tối không áp dụng được trong đời sống hiện tại, vì vậy việc học tập rất khó được lợi ích.

Chúng ta tu học Tịnh Độ, học tập Đức Phật A-di-đà, kinh văn của khóa niệm buổi sáng nên chọn lấy 48 lời nguyện trong phẩm thứ 6 của kinh Vô Lượng Thọ. Mục đích của việc đọc 48 lời nguyện không phải là một mực tôn kính Đức Phật A-di-đà mà phải học tập Ngài. Đức Phật phát nguyện gì, chúng ta cũng phải nguyện như thế ấy. Nguyện của ta phát không được thì hãy đọc lời nguyện của Phật để dẫn phát ra lời nguyện của ta, dụng tâm ngay điểm này. Tâm nguyện của chúng ta và Phật A-di-đà cùng phát giống nhau, mục đích của bài kinh buổi sáng là ngay nơi lời nguyện này.

Tâm giống Phật, nguyện giống Phật. Phật A-di-đà là tấm gương của chúng ta, là bậc mô phạm cho chúng ta noi theo đó xây dựng bản thân mình, tạo cho mình một khuôn mẫu giống như Đức Phật A-di-đà. Các vị nghĩ xem, đạo lý ấy có vãng sinh không?

Bài kinh tụng buổi chiều, chúng tôi chọn sáu phẩm kinh văn. Từ phẩm thứ 32 đến phẩm thứ 37. Đoạn kinh văn này dạy chúng ta rất tỉ mỉ, trong cuộc sống hàng ngày nên dùng thái độ nào để đối nhân, đối sự, đối vật, dùng tâm thái nào để sống qua ngày, đây là giải-hạnh.

Chúng ta phải học làm Phật và Bồ-tát ngay trong hoàn cảnh hiện thực (giác mà không mê, chính mà chẳng tà, tịnh mà chẳng nhiễm), trải qua đời sống Giác- Chính-Tịnh, tâm nguyện giải-hạnh đều giống như Đức Phật, đây là học theo Phật A-di-đà. Sự học thành tựu, bạn chính là Đức Phật A-di-đà. Đó là thực sự tu học Phật pháp ngay trong đời sống thực tế. Bài khóa tụng của chúng tôi là y cứ vào cách ấy mà sửa chữa hiệu đính.

Nếu như công việc của các vị bận rộn, không có thời gian đọc tụng toàn bộ kinh điển thì có thể chọn lấy phương pháp này. Thời buổi sáng đọc tụng 48 lời nguyện, thời buổi chiều đọc tụng từ phẩm 32 đến phẩm 37. Thời buổi sáng phải phát nguyện nhắc nhở chính mình, ngày hôm nay không được quên lời dạy của Tam bảo, phải nương theo nguyên lý, nguyên tắc lời dạy của Tam bảo để tu hành. Thời buổi chiều phải nương vào kinh văn để kiểm thảo, phản tỉnh một cách cẩn thận: Ngày hôm nay ta có phạm lỗi gì không? Nếu có thì cần phải sửa đổi. Đức Phật dạy chúng ta những việc nào không nên làm, có phải là chúng ta đã không làm không? Đức Phật dạy chúng ta những việc nào nên làm, có phải chúng ta đã làm chưa? Những bài kinh sáng và chiều, chúng ta đọc tụng trước hình tượng Phật và Bồ-tát, cầu xin các Ngài chứng minh cho chúng ta, chúng ta phải sửa đổi để làm với mình ngày càng đổi mới. Thực hành công phu như vậy mới đúng pháp, mới có công đức.

Trong tất cả pháp môn, pháp môn niệm Phật của tông Tịnh Độ thù thắng nhất. Đây là pháp môn Đức Thế Tôn dạy chúng ta. Chúng ta phải nghe lời Đức Phật A-di-đà. Theo sự chỉ dạy của Ngài cố gắng thực hành. Điều này gọi là “Học Phật, niệm Phật”.

Niệm Phật không phải niệm trên đầu môi, mà phải thường ghi nhớ lời dạy của Phật trong lòng. Niệm là tâm niệm. Phần trên của chữ ‘niệm’ là chữ kim 今, phần dưới là chữ tâm 心, chỉ cho tâm hiện tại, trong tâm hiện tại thật sự có Phật. Những lời dạy của Phật, Ngài giảng đạo lý cho chúng ta nghe, mỗi niệm ta đều không quên, mỗi niệm tồn tại trong lòng, niệm để thực hành, đây gọi là niệm Phật, không phải là niệm trên đầu môi, niệm ngoài miệng, còn trong tâm thì không, cái đó không cần đến, nhất định phải thật sự có Phật ở trong tâm.

Bình thường tôi giảng kinh không có pháp tử, chỉ dùng những lời nói thông dụng dạy bảo mọi người, hy vọng các bạn tôn Phật là bậc thượng nhân trong tâm, được vậy tức là đã thành công. Miệng không chấp trước, tâm thực sự có Phật. Chúng ta thường niệm A-di-đà Phật, phát nguyện như thế, phát tâm như thế, tu hành như thế. Chúng ta thường niệm điều này, học tập theo Ngài. Đó là chân niệm Phật, công đức lợi ích không thể bàn, cũng là điểm tốt đẹp của sự niệm Phật.

Có nhiều người nói: “Tôi niệm Phật đã lâu lắm rồi mà không có được một chút gì tốt đẹp”. Như thế là bạn đã niệm sai. Bạn chỉ niệm bằng miệng, trong tâm không hề niệm. Nếu trong tâm thực sự có Phật, rồi niệm theo những phương pháp mà tôi giảng đây, cảm ứng thật không thể nghĩ bàn. Chúng ta niệm Phật có cầu cảm ứng hay không? Không cầu cảm ứng. Tuy không cầu cảm ứng, nhưng nhất định có cảm ứng. Bạn gieo trồng nhân nào thì nhất định có quả báo ấy.
4. Tất cả pháp từ tâm sinh, niệm Phật rốt ráo thành Phật.

Câu thứ hai trong điều thứ ba của Tam phước là “Tin sâu Nhân Quả”. Khi xưa, lúc tôi cầu học, câu nói này đã làm khổ tôi suốt ba, bốn năm trường, không biết câu nói này có ý nghĩa gì? Nếu câu: “Tin sâu Nhân Quả” đặt vào điều thứ nhất, thì tôi không hoài nghi. Chúng ta đều biết “Nhân lành có quả báo lành, nhân ác có quả báo ác”, chúng ta đều hiểu đạo lý này, lẽ nào Bồ-tát không hiểu?

Điều thứ nhất, trong Tam phước là phước báo của người trời; điều thứ hai là phước của Bồ-tát tiểu thừa; điều thứ ba là phước của Bồ-tát đại thừa; Bồ-tát đại thừa làm sao không hiểu lý nhân quả mà vẫn có Phật đến giáo hóa? Sau đó giảng kinh Hoa Nghiêm, tôi mới vỡ lẽ ra, hiểu được chân tướng sự thật: Tin sâu nhân quả, không phải là loại nhân quả “Làm lành có quả báo lành, làm ác có quả báo ác”. Loại nhân quả này, Bồ-tát vẫn còn phải học ư? Vậy nó là nhân quả gì? Đó là “Niệm Phật là Nhân, thành Phật là Quả”, loại nhân quả này có nhiều Bồ-tát vẫn không biết!

Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật đã nói: “Nếu Bồ-tát không niệm Phật thì không thể thành Phật”. Trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta cũng đã xem qua, Bồ-tát Thập địa tu hành, chuyên niệm pháp môn niệm Phật, Bồ-tát Thập địa hiểu rõ nhân quả này. Tin sâu nhân quả chính là tin “Niệm Phật là Nhân, thành Phật là Quả”. Chúng ta hiểu rõ chân tướng sự thật này. Hơn nữa nghĩ lại đạo lý mà Đức Phật nói, trong kinh điển Đại thừa đã nói rất nhiều, đáng tiếc chúng ta đều sơ ý, bỏ lỡ cơ hội. Nguyên lý của nó chính là “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Trong kinh Vô Lượng Thọ Phật, Đức Phật nói: “Khi tâm tưởng Phật, tâm ấy tức là ba mươi hai tướng, tám mươi loại tùy hình tốt đẹp”, tưởng Phật thì làm Phật, điều này rất quan trọng! Đức Phật dạy chúng ta niệm Phật, nếu trong tâm bạn thật sự có Phật thì đã thành Phật rồi.

Trong tâm nghĩ gì sẽ hiện ra cái ấy, đây là chân tướng sự thật. Trong tâm của người thế gian, nếu là tham, sân, si thì quả báo chính là ba đường ác. Trong tâm chúng ta có tứ đế thì sẽ biến thành A-la-hán; trong tâm có lục độ thì sẽ biến thành Bồ-tát; trong tâm có Phật sẽ biến thành Phật. Tin sâu nhân quả là quay lại sự việc ấy. Trong cuộc sống thường ngày, ứng sự, đối người, tiếp vật, chúng ta hành đạo Bồ-tát, tự mình giữ tâm, một mực niệm Phật, chuyên niệm Phật A-di-đà, thì vãng sinh thành Phật sẽ nắm chắc trong tay.

Đạo lý nhân quả đã rõ ràng, phương pháp cũng đã rõ, phải nỗ lực hết mình thực hành. Điểm chính của nỗ lực thực hành, điều quan trọng là “đọc tụng đại thừa”. Đọc tụng làu thông kinh điển đại thừa thì tâm bạn mới có thể giống như Phật. Nếu không làu thông, không nhớ, dù cho có lòng muốn học Phật nhưng trong tâm lại lộn xộn, mơ hồ, không rõ ràng, như thế làm sao tu học?

Vì vậy, kinh văn phải đọc thuộc, hiểu rõ ràng, thông suốt. Người học Phật A-di-đà, giữ trong tâm chính là kinh “Vô Lượng Thọ”; kinh Vô Lượng Thọ chính là chân tâm của chúng ta. Thế nên, đọc tụng kinh điển đại thừa rất quan trọng.

Bản thân mình đã thành tựu thì phải giúp đỡ người khác. Bản nguyện của Đức Phật A-di-đà, chính là phải tiếp dẫn tất cả chúng sinh trong pháp giới vãng sinh Tịnh Độ, đồng thành Phật đạo. Vì thế chúng ta nhất định phải phát tâm rộng lớn, phải phát tâm thanh tịnh, bình đẳng giúp đỡ tất cả chúng sinh khổ nạn. Chúng ta khuyên người học pháp môn này thì phải đầy đủ ba nghiệp thân, khẩu, ý. Tâm chân thành khuyên dạy họ, đó là ý nghiệp; miệng dùng lời nói giới thiệu rõ ràng pháp môn này, khiến người nghe được hoan hỷ, không nghi ngờ, đây là khẩu nghiệp; thân phải thanh tịnh, tâm thanh tịnh biểu hiện ra ngoài, dáng vẻ hạnh phúc an vui, tự nhiên, đó là thân nghiệp. Đời sống nơi Cực Lạc sẽ hiện ngay trong cuộc sống hiện tại của chúng ta, rất an vui, rất hạnh phúc. Mọi người nhìn thấy dáng vẻ này của bạn, họ sẽ tin tưởng ngay. Khuyên người niệm Phật, nếu mọi người nhìn thấy vẻ mặt rầu rĩ, khổ sở quá mức của bạn thì dù cho có khuyên dạy như thế nào, người ta cũng không tin.
5. Niệm Phật, hiện đời được sống lâu, thanh tịnh, an vui.

Khi tôi ở (Daldas) nước Mỹ, láng giềng là người nước ngoài. Họ hỏi thăm thầy Ngộ Học: “Các vị đã tu hành nghiệp gì, vì sao mỗi ngày đều được sự an vui như thế?” Họ rất hâm mộ, chúng tôi liền giới thiệu pháp môn Tịnh Độ cho họ, họ rất hoan hỷ, vui vẻ tiếp nhận. Chúng tôi mời họ đến tham quan đạo tràng. Nhìn thấy tượng Phật chúng tôi đang thờ, họ hỏi đó là Đức Phật nào? Phật có ý nghĩa gì? Họ cũng biết Thiền tông, thiền ở Mỹ rất hưng thịnh. Họ hỏi có phải chúng tôi tu Thiền không? Tôi liền nhờ thầy Ngộ Học nói với họ. Tôi bảo thầy không cần giảng Tịnh Độ, giảng Tịnh Độ người nước ngoài nghe không hiểu, sẽ làm cho họ mờ mịt, không thu được hiệu quả gì.

Thầy Ngộ Học bảo họ: “Pháp môn mà chúng tôi học là tông của A-di-đà Phật”.

Người ngoại quốc liền thỉnh giáo: “Đức Phật A-di-đà là ý nghĩa gì?”.

Phật A-di-đà có ba ý nghĩa:

1. Trường thọ.

2. An vui.

3. Thân tâm rất thanh tịnh.

Ba thứ này chúng tôi đều cần, họ nói.

Tôi bảo họ: “Thứ bảy, chúng tôi rảnh rỗi, hoan nghênh quý vị đến, tôi sẽ dạy quý vị phương pháp trường thọ, thanh tịnh, an vui”.

Vì họ là tín đồ của Cơ-đốc giáo, ngày chủ nhật phải đến giáo đường. Thứ bảy đến chùa, không có sự xung đột nhau.

Bạn đến chùa của chúng tôi, có thể học được sự thanh tịnh, trường thọ, an vui. Hình dáng của chúng tôi được thể hiện hôm đó, làm tự nhiên họ tin. Họ hiếu kỳ hỏi tuổi của tôi. Tôi đáp: “Tôi đã 70 rồi”. Vừa nghe, họ đều ngẩn ngơ, không dám tin! Đây chính là sự thật chứng minh, tôi học được pháp môn của Đức Phật A-di-đà. Vì vậy phải biểu hiện ngoại hình cho mọi người thấy họ mới tu. Ngoại hình hiện ra không đạt, dù có nói thế nào, mọi người cũng không thể tin.

Trước đây, lúc tôi ở Đài Trung thân cận thầy Lý, ngài đã 71 tuổi mà nhìn ngoại hình vẫn còn rất trẻ. Lúc ngài làm việc nơi giảng đường Phật học, học sinh đều còn rất trẻ. Khi ấy tôi cũng xấp xỉ 40 tuổi. Họ nhìn tôi tưởng là gần bằng tuổi họ, còn cho rằng thầy Lý giống như người 50 tuổi, tuyệt đối nhìn không ra ngài 70 tuổi. Ngài đi rất nhanh, người trẻ tuổi không bằng ngài. Lúc đó, chúng tôi dạo chơi vùng ngoại thành leo lên núi Bát quái. Thầy Lý là người đầu tiên lên đến đỉnh núi. Những học trò ở phía sau còn cách ngài rất xa. Công phu từ đâu đến? Đến từ niệm Phật.

Trong kinh Đại Tập, Đức Thế Tôn nói: “Đời mạt pháp có hàng ức người tu hành, nhưng hiếm người đắc đạo. Chỉ nhờ nương vào niệm Phật mà được độ”. Hơn nữa trong kinh Vô Lượng Thọ tán thán Đức Phật A-di-đà: “ Tột cùng trong mọi ánh sáng, vua của tất cả chư Phật”. Pháp môn niệm Phật của tông Tịnh Độ được mười phương chư Phật cùng khen ngợi. Đệ tử niệm Phật của tông Tịnh Độ được sự hộ niệm của tất cả chư Phật trong mười phương. Pháp môn thù thắng, dễ học, dễ tu như thế phải là người có đầy đủ nhân duyên, phước đức, thiện căn mới có thể tin nhận. Hôm nay, ba điều kiện này, chúng ta đều có đủ, chỉ cần chúng ta nương theo Đức Phật A-di-đà làm thầy, tu học theo kinh Vô Lượng Thọ, thanh tịnh, an vui thì vãng sinh thành Phật tự nhiên sẽ nắm chắc trong tay! Chúc mọi người sớm thành Phật!

Niệm Phật tức là tu Giới-Định-Huệ.

Đại sư Liên Trì nói: “Chỗ thiếu của Đại Tạng kinh chẳng qua là Giới-Định-Huệ mà thôi”. Niệm Phật tức là Giới-Định-Huệ, cần gì đuổi theo văn tự, xem qua tạng kinh này. Thời gian trôi nhanh, mạng sống không bền, xin các nhân giả hãy lấy Tịnh Độ làm sự nghiệp, chóng lo tu hành.

Niệm Phật Công Đức phần giới thiệu
Niệm Phật Công Đức phần 1
Niệm Phật Công Đức phần 2
Niệm Phật Công Đức phần 3
Niệm Phật Công Đức phần 4
Niệm Phật Công Đức phần phụ lục

Triệt Ngộ Đại Sư Thị Chúng phần 1/2

Triệt Ngộ Đại Sư Thị Chúng phần 1Đại sư húy Tế Tĩnh, tự Nột Đường, hiệu Mộng Đông, người ở huyện Phong Nhuận, Kinh Đông,Trung Quốc; họ Mã, cha húy Vạn Chương, mẹ họ Cao. Đại sư là Tổ thứ 12 của tông Tịnh độ. Lúc nhỏ Sư rất thông minh, dĩnh ngộ. Lớn lên Sư theo Nho học, làu thông kinh sử. Năm 22 tuổi, sau một cơn bệnh nặng, Sư ngộ được thân này là vô thường, nên phát chí xuất thế. Hết bệnh, Sư đến huyện Phòng Sơn lễ ngài Vinh Trì ở am Tam Thánh xuất gia, năm sau đến chùa Tụ Vân cầu Luật sư Hằng Thật thọ giới Cụ túc. đọc tiếp ➝

Bạn Đã Thật Sự Biết Cách Cung Kính Kinh Điển Chưa?

Bạn Đã Thật Sự Biết Cách Cung Kính Kinh Điển ChưaLà người nghiên cứu Phật pháp, đầu tiên chúng ta phải học biết cách đặt để Kinh sách. Như tất cả Kinh điển trong 12 bộ 3 tạng, bất luận là bộ nào, chúng ta đều phải trân trọng hơn cả mạng sống của mình, quý trọng hơn bất kỳ những thứ gì quý giá trên đời. Kinh Kim Cang nói: “Nơi nào có mặt Kinh điển, nơi đó có Phật.” Cho nên nói Kinh điển là nơi mà pháp thân Phật hiện hữu.

Phát tâm in ấn Kinh điển, đọc tụng, cung kính Kinh sách đều là điểm khởi nguồn phát sanh vô lượng trí tuệ; nhưng nếu có tâm bất kính cũng khiến người ta đọa lạc vào nơi không như ý. Khi đặt để Kinh sách, chúng ta phải lưu ý những điều sau đây:

+ Kinh Phật là Pháp bảo, là kim chỉ nam dẫn đường cho chúng sanh thoát khổ, nên phải cung kính tôn trọng, nếu có hư rách phải kịp thời tu bổ, không được đốt bỏ hoặc vứt đi. Nơi nào có Kinh điển, nơi đó có long thần hộ pháp bảo hộ, nếu vì Kinh điển hư rách mà chúng ta bỏ mặc, vứt vào một xó thì tội lỗi cũng sẽ vô lượng.

+ Kinh Phật phải được đặt lên trên tất cả sách vở khác. Những kinh, luật, luận của thế gian đặt ở tầng kế. Kinh sách đặt từ trên xuống dưới theo thứ tự như sau: Bản gốc Kinh điển, sách chú thích Kinh điển, những sách vở Phật học thông dụng, sách ngôn luận của các bậc Thánh hiền, những sách vở có tính cách giáo hóa, cuối cùng là những sách vở thông thường.

+ Không được vẽ, viết lung tung trên Kinh sách; không được vừa nói chuyện, ăn uống vừa xem Kinh.

+ Phải cung kính đặt kinh sách lên chỗ cao ráo sạch sẽ, không được tùy ý vứt trên giường, trên ghế và những chỗ không thanh tịnh.

+ Khi dùng tay cầm hoặc đặt Kinh sách vào trong túi mang đi không được để thấp hơn thắt lưng, không được cặp nách.

+ Không được bày biện lung tung trên bàn đọc Kinh, hoặc nằm dài xem Kinh, càng không được tay dơ đụng vào Kinh.

+ Không được dùng miệng thổi bụi trên Kinh, phải dùng khăn sạch chuyên dụng để lau bụi.

+ Nếu phòng học và phòng ngủ chung với nhau (ở đây chỉ cho phòng đơn) thì khi ngủ phải dùng khăn sạch đậy lên trên Kinh và phải đặt ở phía trên đầu của mình.

+ Không được ở nơi có Kinh điển có những hành vi nhơ uế.

+ Khi xem Kinh đến đâu nên dùng mảnh giấy nhỏ ngăn ra làm dấu. Không được xếp trang, xếp góc hoặc lật úp mặt Kinh xuống theo kiểu hình chữ “人”。

+ Khi xem Kinh phải chuyên tâm, nếu khởi tạp niệm phải đóng Kinh lại, đợi có chánh niệm mới tiếp tục xem.

+ Nếu không có thời gian rảnh để đọc nên cúng dường quyển Kinh lại cho người khác, đó cũng là một cách làm cho Phật pháp được lưu thông.

+ Không được xem Kinh trong phòng vệ sinh.

+ Không được dùng tay thấm nước miếng lật Kinh.

Huệ Trang dịch

Bổn Phận Người Phật Tử Tại Gia

Bổn Phận Người Phật Tử Tại GiaA. Mở Ðề

1. Người đời ai cũng có bổn phận:

Người ta sanh ra trên hoàn vũ này, ai cũng có bổn phận. Nói một cách tổng quát, thì đã có cái danh, tất phải có cái phận. Con kiến, con ong, có cái phận của kiến, của ong; mặt trăng, mặt trời có cái phận của mặt trăng, mặt trời. Dù nhỏ dù lớn, mọi vật mọi người đều có cái phận riêng của mình. Những điều cần phải làm, đối với cái phận ấy, chính là bổn phận.

Danh càng lớn, thì phận càng nhiều; phận càng nhiều thì bổn phận càng nặng. Hễ có thêm một cái danh là có thêm bổn phận. Càng nhiều danh lại càng nhiều bổn phận…Người có bổn phận của người; nhưng khi người + làm quan, tất nhiên ngoài bổn phận người, có thêm bổn phận làm quan,Nếu muốn có nhiều danh, mà lại muốn trút bớt bổn phận, thì là gian lận, lừa bịp. Và khi ấy, cái danh ấy chỉ là hư danh. Và khi danh đã hư, thì mọi viẹc đều hư cả. Cho nên người xưa đức Khổng Tử nêu lên thuyết “Chính danh” để chỉnh đón xã hội là vì thế.

2. Người Phật tử tại gia lại có nhiều bổn phận hơn ai cả:

Dựa vào lý luận trên mà suy diễn, chúng ta thấy bổn phận của người Phật tử tại gia thật là nặng nề. Cái danh của chúng ta gồm có đến năm chữ: Người + Phật tử + tại gia. Như thế, tất nhiên chúng ta có những bổn phận của người + bổn phận của Phật tử +bổn phận tại gia. Ðó là chưa kể người Phật tử tại gia ấy còn có những cái danh khác như: Công chức, Giáo sư, Tỉnh trưởng v.v…Nhưng để cho vấn đề này khỏi đi vào chi tiết quá; dưới đây chúng ta chỉ nói đến bổn phận người Phật tử tại gia mà thôi. Nhưng nếu muốn vấn đề được đặt một cách sáng sủa, giản dị, và sát sề hơn nữa, chúng tôi đề nghị nên bỏ bớt chữ người nữa. Nghĩa là chúng ta sẽ không nói đến bổn phận của người ở đây; bổn phận ấy mọi người, vì đã là người đều biết cả rồi (trong mọi sách luân lý, công dân đều có nói đến).

Như thế dưới đây, chúng tôi chỉ xin đề cập đến “bổn phận của Phật tử tại gia” mà thôi.

B. Chánh Ðề

Bổn phận của Phật tử tại gia là những gì?

Phật là bậc toàn trí, toàn năng, toàn đức, đã dứt sạch ngã chấp, pháp chấp tất cả việc lành gì cũng được, nên công đức được đầy đủ và Phật đã biết rõ các phép đều tuân theo luật nhân quả, nên bao giờ cũng chỉ biết gieo nhân lành, làm việc lành.

Phật tử , muốn được làm con Phật , muốn theo dấu chân Phật , muốn xứng đáng với danh từ Phật tử , tất phải làm tròn bổn phận của Phật tử nghĩa là nghe những lời Phật đã dạy, làm theo những việc Phật đã làm, đi theo con đường Phật đã đi.

Phật tử , đáng lẽ phải làm y như thế đó. Nhưng bởi vì chúng ta là Phật tử tại gia, nên chưa có thể hoàn toàn theo đúng như Phật. Hai chữ tại gia ràng buộc chúng ta trong những bổn phận mà chúng ta phải làm tròn.

Do đó, Phật tử tại gia, có những bổn phận như sau:

Bổn phận đối với tự thân

Bổn phận đối với gia đình, quyến thuộc

Bổn phận đối với người ngoài gia đình.

I. Bổn Phận Ðối Với Tự Thân

Tu tâm đương tánh Ngoài bổn phận làm người cho xứng với danh nghĩa con người, cho tròn nhân cách, Phật tử còn luôn luôn cố gắng trau dồi đức hạnh, tu tâm dưỡng tánh, để cho thân tâm được an lạc, thanh tịnh, hầu hưởng được hạnh phúc trong hiện tại và bước lên đường giải thoát trong tương lai.

Mỗi Phật tử phải luôn luôn cố gắng vượt lên khỏi kiếp người, vượt ra ngoài lục đạo. Chúng ta từ vô thỉ đến nay, vẫn sống say chết ngủ trong trường giả danh mộng huyền, luân hồi đã nhiều đời nhiều kiếp mà chúng sanh cũng hoàn lại chúng sanh. Ngày nay, chúng ta may nhờ phúc báo đời trước, được làm học trò Phật , mắt được trong vào quyển kinh, tai được nghe Phật pháp, cũng như đêm tối sẵn có đèn, trong bể khổ gặp thuyền tế độ. Nếu chúng ta không gắng sức tu tập, dứt bỏ những thói quen mê lầm phiền não, để cho tâm tánh chúng ta được tiến hóa dần đến chỗ hoàn toàn viên mãn, thì sao cho khỏi phụ duyên lành đời trước của chúng ta và phụ công ơn đức Thích Ca , đấng Từ phụ đã hiện thân thuyết pháp, chỉ bày cho chúng ta những phương pháp tu hành để thoát khỏi sanh tử luân hồi. Phương pháp tu hành mà một Phật tử tại gia phần giải quyết tâm thực hiện là: giữ Ngũ Giới, tu Thập thiện, sám trừ các phiền não, chuyên tâm niệm Phật , phát tâm từ bi tế độ. Có như thế thì chúng ta mới có thể vượt ra khỏi kiếp người, bước thêm một bước dài trên con đường giải thoát.
II. Bổn Phận Ðối Với Gia Ðình

Phật tử tại gia còn có gia đình quyến thuộc, nên còn nhiều bổn phận không thể làm ngơ được. Phật tử có cha mẹ, vợ hay chồng, con cái, bà con thân thích, người giúp công hay kẻ mướn việc…Ðối với mỗi hạng người ấy, Phật tử đều có mỗi cách đối xử, mỗi bổn phận.

Theo kinh Thiện Sanh, thì Phật tử tại gia có những bp như sau đối với những người trong nhà:

1. Bồn phận con đối với cha mẹ, phải đủ năm điều:

a) Làm con phải hết lòng hiếu kính đối với cha mẹ, tùy theo mùa tiết hàn, nhiệt, mà chăn nom mền chiếu, ấm áp hợp thời, để cha mẹ được nghỉ ngơi yên giấc.

b) Làm con mỗi ngày phải dậy sớm, để phân công việc cho người làm lụng đúng giờ, và lo sắp đặt miếng ăn thức uống cho cha mẹ được vừa miệng đẹp lòng.

c) Làm con phải gánh vác tất cả công việc nhọc nhằn, thay thế cho cha mẹ, để cha mẹ được thư thới, vui vẻ trong tuổi già.

d) Làm con phải nhớ nghĩ luôn luôn đền ơn sanh thành, dưỡng dục, để lo báo đáp cho kịp trong lúc cha mẹ còn sanh tiền.

đ) Làm con, khi cha mẹ đau ốm, phải hết lòng săn sóc, hầu hạ bên giường, không nài khó nhọc và ân cần rước thầy xem mạch, thuốc thang điều trị không sợ hao tốn.

2. Bổn phận cha mẹ đối với con, cũng phải đủ 5 điều:

a) Phải dạy dỗ con dứt trừ tất cả điều hung ác, làm tất cả điều lành, để trở nên người có đức hạnh.

b) Phải khuyên răn con cái, nên gần gũi người trí tuệ.

c) Phải nhắc nhở con cái, cần mẫn học hành.

d) Phải liệu định cưới gả con cái cho kịp lúc xuân thời.

đ) Phải cho con cái bàn tính tham dự việc nhà, cùng góp công trong sự xây dựng hạnh phúc gia đình.

3. Bổn phận vợ đối với chồng, phải đủ 5 điều:

a) Phải kính yêu và hòa thuận với chồng, khi chồng ra đi hay trở về, phải đưa đón niềm nở.

b) Khi chồng đi vắng, ở nhà phải lo quét dọn, may vá, cơm nước sẵn sàng, đợi chồng về mới cùng ăn uống.

c) Phải giữ gìn tiết hạnh, không được ngoại tình.

d) Lúc chồng nóng giận nặng lời, không nên bừng mặt cãi lẫy, làm mất hòa thuận và có khi phải rã rời giềng môí. Lại khi chồng có lời khuyên bảo chánh đáng, vợ phải vâng theo; kho có món ngon vật quí, không nên dùng riêng cho mình.

đ) Mỗi đêm, khi chồng ngủ rồi, phải xem xét cửa nẻo, trước sau đóng gài kín đáo, cất đặt cẩn thận, soi rọi khắp cả trong nhà, rồi mới đi ngủ sau.

4. Bổn phận chồng đối với vợ, cũng phải đủ 5 điều:

a) Khi vợ ra đi hay lúc trở về, phải đưa đón niềm nở.

b) Phải ăn uống cho có giờ khắc, và đừng quá khó khăn, để vợ khỏi phải làm phiền lòng nấu nướng không chừng, và lo lắng cực nhọc.

c) Phải tùy phận giàu nghèo của mình, để vợ mua sắm áo quần và đồ trang sức vừa theo sở thích, không hẹp lòng làm vợ buồn phiền.

d) Phải tin cậy phó thác cho vợ các công việc nhà.

đ) Không được sanh tâm tà vạy, sớm mận tối đào, làm cho vợ ghen tuông sầu não.

5. Bổn phận đối với bà con thân thích, phải có đủ 5 điều:

a) Khi thấy bà con có người làm việc chẳng lành, thì phải thượng xót khuyên can, răn nhắc.

b) Trong bà con thân thích, có người nào bị đau ốm, tai nạn, tật nguyền, thì phải hết lòng giúp đỡ, hoặc cơm cháo thuốc men, hoặc áo quần, tiền bạc v.v..

c) Những việc kín đáo, riêng tư của người này, mình có biết cũng không nên tiết lộ cho người khác biết.

d) Bà con thân thích, phải năng tới lui thăm viếng, nhắc nhở nhau tránh dữ làm lành. Ðôi khi có ý kiến chẳng đồng, cũng nên hoan hỷ, đừng cố chấp giận hờn nhau.

đ) Trong thân bằng quyến thuộc, có kẻ giàu người nghèo, lẽ cố nhiên người dư ăn dư để, phải giúp đỡ cho kẻ thiếu hụt.

6. Bổn phận chủ đối với người giúp việc trong nhà, phải có đủ 5 điều:

a) Chủ nhà trước khi sai khiến người giúp việc làm gì, trước phải biết họ, đói, no, ấm, lạnh thế nào để họ có đủ sức khỏe và vui lòng làm lụng.

b) Lúc nào người giúp việc làm gì, trước phải biết họ, đói, no, ấm, lạnh thế nào để họ có đủ sức khỏe và vui lòng làm lụng.

b) Lúc nào người giúp việc bị bịnh loạn, phải chăm non thuốc thang và để cho họ được nghỉ ngơi, để bồi bổ sức khỏe lại.

c) Khi họ có phạm lỗi gì, phải xét coi họ cố ý hay vô tình. Nếu vô ý lầm lỡ, thì nên dung thứ; nếu họ quyết lòng phá hại, thì phải làm nghiêm trách hẳn hoi, với lời lẽ thanh nhã, cho họ biết lỗi để chừa.

d) Khi họ tiện tặc tích góp được số tiền riêng, không nên tìm cách thâu đoạt.

đ) Khi muốn thưởng công lao cho họ, phải giữ mực công bình, tùy công lao của mỗi người mà phân chia cho cân xứng.

7. Bổn phận người giúp việc đối với chủ nhà, cũng phải có đủ 5 điều kiện:

a) Mỗi buổi sáng phải thức dậy trước chủ nhà, không đợi kêu.

b) Phải biết phần việc nào của mỗi ngày, cứ y như thường lệ mà thi hành, không đời chủ sai bảo.

c) Khi làm việc phải thận trọng đồ dùng của chủ, không làm vụt chạc, hư hao.

d) Phải hết lòng kính mến chủ nhà, lúc chủ ra đi, phải ân cần đưa tiễn, lúc chủ trở về, phải vui mừng tiếp đón.

đ) Không nên chỉ trích, nói xấu chủ với người ngoài.

III. Bổn Phận Ðối Với Người Ngoài Gia Ðình

Những người ngoài gia đình, chúng tôi muốn nói ở đây, không phải những người xa lạ, hay hàng xóm láng giềng, mà chính là những người có sự liên quan mật thiết với chúng ta, nhưng không cũng quyến thuộc, không ở chung dưới một mái nhà, nên tạm gọi là những người ngoài gia đình.

Những người nầy giữ vai trò quan trọng trong đời sống của chúng ta, lái chúng ta đi trên con đường hiểu biết đạo đức, góp một phần lớn lao trong việc xây dựng hạnh phúc cho chúng ta. Ðó là những vị thầy dạy dỗ và những vị Tăng già và thiện hữu tri thức.

1. Bổn phận học trò đối với thầy, phải đủ 5 điều:

a) Phải kính mến thầy như cha mẹ

b) Phải vâng lời thầy dạy bảo.

c) Phải giúp đỡ thầy trong cơn hoạn nạn.

d) Phải siêng năng học tập cho vui lòng thầy.

đ) Khi thôi học rồi, cũng phải năng tới lui thăm viếng thầy, để tỏ lòng cảm mến công ơn dạy dỗ và quý trọng tài đức của Thầy..

2. Bổn phận thầy đối với trò, cũng phải đủ 5 điều:

a) Phải cần mẫn dạy dỗ học trò.

b) Phải cố gắng làm sao cho học trò mình mau tiến bộ hơn học trò khác, về tài năng cũng như về đức hạnh.

c) Phải để ý đến những điều cấn yếu làm sao cho học trò in sâu mãi vào tâm trí.

d) Phải giảng giải rõ ràng các lý thuyết mắc mỏ và hỏi lại nhiều lần cho học trò không lầm lạc.

đ) Phải có lòng rộng rãi, mong muốn làm sao cho học trò mình được trở nên giỏi hơn mình.

3. Bổn phận Tín đồ đối với chư Tăng và thiện hữu tri thức phải đủ 5 điều:

a) Phải hết lòng thành thật đối với chư Tăng và thiện hữu tri thức.

b) Phải cung kính và vâng lời dạy bảo của quí vị minh sư và các thiện hữu.

c) Phải chăm chỉ nghe lời giảng dạy của các vị Tăng già đức độ, thẩm xét cho kỹ lưỡng rồi như pháp mà tu hành.

d) Phải cầu học với chư Tăng và thiện hữu những chỗ bí yếu về đạo lý mà mình chưa hiểu.

đ) Phải cầu thỉnh các vị minh sư chỉ dạy cho mình những pháp môn cần yếu, như “tham thiền”, “niệm Phật ” để ngày đêm chuyên tâm tu trì, không gián đoạn.

IV. Cách Xưng Hô Và Một Số Nghi Thức Cần Thiết Của Người Phật Tử Tại Gia

Ngoài những bổn phận nói trên, Phật tử tại gia còn cần phải biết cách xưng hô khi tiếp xúc với quý vị Tăng già, và những nghi thức cần thiết khi đến chùa, khi lễ Phật , cầm kinh v.v…Ðã là Phật tử , thì những điều này, mặc dù là hình thức, cũng không thể không biết đến.

Cách chào hỏi và xưng hô với Tăng già:

Phật tử phải biết cách đối xử, xưng hô với chư Tăng cho phải phép:

a) Khi gặp một vị hay nhiều vị Tăng tại chùa hay ngoài đường, nên chắp tay kính cẩn chào, bằng cách niệm: “Nam mô A Di Ðà Phật “, với vẻ mặt hoan hỷ với mình. Lối chào ấy biểu lộ một tình cảm đậm đà, còn hơn lối chào bắt tay của người Âu Tây. Sở dĩ chào nhau bằng một câu bảo hiệu Phật , là để nhắc rằng ai cũng có Phật tánh (bản tánh A Di Ðà), nếu quyết chí tu, rồi cũng đến được cảnh giới Tịnh độ và cuối cùng sẽ thành Phật.

b) Về cách xưng hô, Phật tử tại gia không nên kêu chư Tăng bằng Huynh hay Sư huynh hay Ðạo hữu mà nên kêu bằng thầy, mặc dù vị ấy là đồng sư.

Những tiếng Thượng Tọa, Ðại Ðức không nên quá lạm dụng, không phải đối với vị sư nào cũng gọi là Thượng Tọa hay Ðại Ðức được cả. Chỉ đối với những vị sư có đạo hạnh, nhiều niên lập (tuổi Ðạo), và đối với mình chưa quen thân lắm, mới nên dùng chữ Thượng Tọa hay Ðại Ðức. Ðối với các vị Bổn sư, các vị Tăng già mình thường quen biết, dùng chữ “Thầy” là phải cách và đầy đủ ý nghĩa nhất. Thầy là có ý tôn kính như cha (quân, sư, phụ) và là người thường dạy bảo mình trên đường tu tập. Thầy có vẻ vừa tôn kính, vừa thân mật, vừa chân thật, chứ không như chữ Thượng Tọa hay Ðại Ðức có vẻ xã giao kiểu cách, đãi bôi, bề ngoài. Hiện nay đang lan tràn cái dịch, dùng danh từ Thượng Tọa và Ðại Ðức. Chúng ta nên thận trọng mỗi khi dùng những chữ ấy, để khỏi bị người ngạo đạo hiểu lầm là quí vị Tăng già muốn được gọi như thế, vì còn thích chức tước, hư danh.

c) Trước khi vào Chánh điện lễ Phật , phải rửa mặt, súc miệng, rửa tay cho sạch sẽ, để giày gút ngoài thềm cửa, đừng mang vào Ðiện mà tổn Phước. Khi tiến tới Ðiện thì đi ở phía trái, khi ra thì đi về phía hữu, theo cách “hữu nhiễu” của nhà Phật (đi quanh theo chiều hữu, ba hay bảy vòng, để tỏ lòng kính mến Phật ).

Khi đi ra, phải chú ý coi chừng dưới chân, để tránh khỏi sự dẫm đạp trùng kiến. Giữ được như thế, được phước đức hơn là phóng sanh mà không biết giữ.

d) Khi tụng kinh, phải chắp hai tay ngang ngực, mười ngón tay từng cặp bằng nhau, không so le, hai lòng bàn tay khít lại, đừng để trống giữa. Chân đứng ngang bằng, hình chữ “bát”, mắt ngó xuống, chăm chỉ tụng cho các câu rành mạch, không nên ỷ giọng hay, tụng to tiếng động chúng. Phải tụng cho ăn nhịp, theo tiếng mõ và tiếng tụng của ông Duy na (dẫn đầu).

Khi lễ Phật , năm vóc phải sát đất, nghĩa là đầu, hai tay, hai gối, phải sát chiếu, hết lòng thành kính mà lễ. Khi lạy phải xích qua một bên, vì phía sau còn có chùa thờ Hộ pháp hay tượng Phật và nhương chỗ cho ngôi Trụ trì. Khi lễ Phật xong, đi ra phải bước lui, mắt ngó tượng Phật , đừng quay lưng lại.

đ) Trước khi cầm kinh hay tụng phải rửa tay. Cầm kinh sách đem đi đâu, nên ôm trên ngực, đừng cặp bên nách như quyển sách thường, vì kính kinh như kính Phật. Nếu cầm kinh mà muốn chào người, thì phải để kinh trên bàn trước khi chào. Gặp trường hợp không có chỗ để kinh, thì ôm vào ngực mà chào: “A Di Ðà Phật ” là được. Kiêng nhất là cầm quyển kinh mà xá chào người.

Trên đây là kể sơ lược một số oai nghi tế hạnh mà Phật tử tại gia phải giữ gìn. Oai nghi của người xuất gia thì nhiều lắm, nhưng không phải phạm vi của bài này, nên không nói đến.

C. Kết Luận

Khuyên Phật tử tại gia giữ tròn bổn phận.

Bổn phận của Phật tử tại gia như vừa trình bày ở trên, tuy kể ra thì nhiều, nhưng không có gì là cao kỳ khó khăn phức tạp. Những điều ấy, một người chưa phải là Phật tử , nhưng có chút đức hạnh, cũng đã hiểu rồi, biết rồi.

Nhưng điều quan trọng ở đây, không phải là hiểu biết mà là thực hành, những điều đã hiểu biết ấy. Trong cuộc sống tầm thường hằng ngày, làm tròn bổn phận có nhiều khi còn khó hơn là ra trận giết quân thù, hay trèo non lội suối. Những công việc khó khăn như bất thường này chỉ cần vận động sự cố gắng và hăng hái trong một khoảng thời gian nhất định, chứ những bổn phận tầm thường hằng ngày, muốn làm cho tròn, phải vận dụng sự kiên nhẫn và cố gắng suốt cả đời. Vì lý do ấy mà tục ngữ ta có câu: ” Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa”.

(bổn phận người + bổn phận quan). Và nếu người làm quan ấy lại làm quan đầu tỉnh, (người + quan + đầu đỉnh) thì tất nhiên ngoài hai bổn phận trên, còn thêm bổn phận cai trị cả tỉnh nữa (bổn phận người + bổn phận quan + bổn phận cai trị cả tỉnh).

Vậy chúng ta không nên xem thường những bổn phận tầm thường của chúng ta, mà phải luôn luôn cố gắng làm cho tròn. Sự cố gắng này sẽ đem lại cho chúng ta một phần thưởng chắc chắn thật là đưa dần chúng ta lên đường giải thoát.

Thích Thiện Hoa

Hỏi Đáp Thắc Mắc Về Thiền Tịnh Của Trần Sương Phụ

Hỏi Đáp Thắc Mắc Về Thiền Tịnh Của Trần Sương PhụHỏi: Tham thoại đầu có giống niệm Phật Di-đà không? Hiệu dụng của thiền tịnh khác nhau chăng?

Đáp: Thoại đầu là dùng nghi tình để nhiếp niệm của Thiền Tông. Nghi nhỏ ngộ nhỏ, nghi nhiều ngộ nhiều, đốn nghi đốn ngộ, tiệm nghi tiệm ngộ, không nghi không ngộ. Có người tham câu: “Trước khi cha mẹ chưa sinh, bản lai diện mục của ta là gì?”; có người tham câu “Niệm Phật là ai?”; có người tham câu “Cây bách trước sân”; có người tham câu “Que cứt khô” (Càn thỉ quyết), “Ba cân mè”, “Con chó không có Phật tánh”… Công án không phải một. Hành nhân chỉ cần nắm chắc một câu thoại đầu, sớm tối tham tìm, từng khắc chiếu cố, gấp rút cũng vẫn như thế, ào ạt cũng vẫn như thế, như gà ấp trứng. Đến khi thời tiết nhân duyên chín mùi, bỗng nhiên òa vỡ một tiếng, khám phá thoại đầu bổn tham giống như thùng sơn lủng đáy, rỗng rang biết được tâm mình, thấy được tánh mình, thì trong ngoài tinh thô của mọi vật đều đến được mà toàn thể đại dụng của tâm ta đều thấu tỏ. Đây là pháp môn phương tiện của Thiền Tông chớ không thuộc về pháp môn niệm Phật của Tịnh độ tông. Tông thú không đồng, tác dụng tự có khác. Nhưng hành nhân Tịnh độ tông niệm niệm Di-đà, tịnh niệm nối nhau, đến khi công phu thuần thục, động tịnh nhất như, thì tâm năng niệm và Phật sở niệm trọn vẹn không thể được, thấy ngay tự tánh Di-đà, công dụng cũng không khác gì Tham thoại đầu. Đó gọi là “Giữ tâm một chỗ, không việc gì chẳng xong”. Cho nên niệm Phật A-di-đà lại thêm nghi tình “Niệm Phật là ai?”, cũng có thể coi là dụng công thoại đầu. Dùng pháp Thiền Tịnh song tu này thì nói Phật A-di-đà là thoại đầu có gì lại không được.

Hỏi: Tâm Kinh và Chú, nếu niệm tụng thường thì diệu dụng như thế nào, trị ma? hay cứu nạn?

Đáp: Tất cả kinh chú, diệu dụng vô cùng. Như thường niệm không dứt lâu ngày thành khối, hễ niệm đến thì ma nạn đều tiêu ngay. Ma do tâm sinh, thường trì tụng, Phật tướng còn không thì làm gì có việc ma? Cho nên có người hỏi Lục Tổ về việc ma, Tổ Đáp: “Trong chánh pháp ta không có những việc như thế”. Nạn là do nghiệp đời trước, tâm thường trì tụng thì năng sở đều không, thọ như không thọ. Vì thọ ấm không, nên nói: “Hay trừ tất cả khổ, chân thật không luống dối”.

Hỏi: Cái gọi là phàm thánh, cái gọi là thành Phật và chưa thành Phật, phải đến bao giờ mới có chứng nghiệm phân biệt, do cá nhân trực giác hay là lúc viên tịch lưu lại nhục thân để biểu hiện?

Đáp: Khắc niệm làm thánh, theo vật thành phàm, mê là chúng sinh, giác tức là Phật. Phật không thành hoại vì không hình tướng. Nếu cầu chứng nghiệm tùy phần tự biết. Lục Tổ nói: “Thường thấy lỗi chính mình, cùng đạo tức tương đương”. Cho nên nói: “nghinh tân tiếp khách, gánh nước bửa củi, ăn cơm mặc áo, đi đại tiểu tiện, đều là đạo cả”. Khổng Tử nói: “Nhân là người”, cũng đồng với ý này. Nếu lấy lục thông (Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông, Như ý thông, Lậu tận thông) để chứng nghiệm thì cách đạo càng xa.

Tôi có lần gặp gỡ các bậc Dị tăng, chỉ luận về tâm tánh, chẳng hy vọng ở sự kỳ lạ của các vị ấy. còn như phàm phu chơn giác, thất thức chưa chuyển, thì không thoát khỏi căn trần. Còn nói chơn giác vẫn là vọng sinh, nhục thân biểu hiện như được xá-lợi sau khi trà-tỳ hay nhục thân bất hoại…, đó chỉ là biểu hiện sự thành tựu của tâm hạnh kiên cố chớ nào có can hệ gì đến tánh phận. Cho nên hàng ngoại đạo cũng có người lưu lại nhục thân nữa là. Từ trước, hễ là Tổ sư quyết định phải kiến tánh, nên sự biểu hiện của đãi da hôi đâu đủ gây chú ý đến mọi người. Xưa có một vị Đại đức nói với vị Phạm tăng từ không trung giáng xuống rằng:

Thần thông tôi không bằng Xà-lê
Phật pháp lại cần đến lão tăng này.

Lại có một Đại đức khám nghiệm một vị tăng, vị tăng này không đáp lời nào, rồi liền viên tịch, khi trà-tỳ được mấy mươi hạt xá-lợi. Chúng nghi ngờ không giải thích được. Đại đức nói: “Dầu ông ta có 8 hộc 4 đấu đi nữa cũng không bằng lúc ấy hạ một chuyển ngữ”. Lời nói này thật đáng suy gẫm.

Hỏi: Nhiếp tâm tịnh tu, đến lúc cảm thông, cảnh giới ấy như thế nào? Điểm cảm thông ra sao?

Đáp: Cảnh giới thiền định, một lời khó nói hết, đọc Kinh Lăng Nghiêm có thể biết đại khái, việc này mỗi người một khác vì căn khí không đồng. Thông thường là sau khi ngồi thiền được 100 ngày thì thấy huyết mạch lưu thông, vọng tưởng lần ít, lần sinh thiền duyệt, các bịnh không sinh, người chấp tướng hoặc thấy hình tướng Phật, Bồ-tát. Đến lúc đó chớ vội tự mừng, nên nhớ lại Kinh Kim Cang: “Phàm hễ có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức là thấy Như Lai” để soi rọi tâm mình, nhiếp niệm không dính mắc, các tướng cũng theo đó ẩn mất thì ma sự không khởi được. Ma cùng Phật chẳng lìa tâm này, đồng là cảnh huyễn, quyết chớ tham trước nhằm cho là Thánh chứng. Nếu cho Thánh cảnh liền lạc nẻo tà, phải nên cẩn thận!

Hỏi: Gọi là liễu triệt sinh tử, cảnh giới ấy như thế nào? Dùng chơn giác giác tri nó hay là còn có một cảnh giới nào khác?

Đáp: Khi chứng đến liễu triệt sinh tử, tự có cảnh giới của nó, như người uống nước lạnh nóng tự biết, thật khó nói dụ. Vì không thể dụ, như kiến trúc sư nói cảnh giới kiến trúc của mình, cần phải sinh viên chuyên khoa mới có thể dụ hiểu; bậc tiểu học hỏi đến khó mà đáp được. Cho nên các tác gia của tông môn gặp nhau, trợn mày chớp mắt đã dụ nhau không lời. Tại vì sao? Vì xứ tâm hành diệt, đường nói năng bặt rồi.

Hỏi: Tiếng ngộ đạo đó phải hiểu như thế nào? Cảnh giới lại ra sao?

Đáp: Đạo vốn chỉ có một, ngộ có cạn sâu. Cổ đức có câu này: “Đại ngộ 18 lần, tiểu ngộ không kể hết số”. Bây giờ người ta theo các lời câu trong kinh sách, hơi có chút hiểu, vội cho là ngộ đạo. Đó chỉ là việc của thức thần không thể can thiệp đến được. Nếu như không gặp được thiện tri thức mở lối cho sẽ trở thành “Tri giải chướng”.

Kinh Tịnh Danh nói: “Pháp lìa kiến văn giác tri”. Tri giải chướng sâu, càng thêm cuồng huệ, hý luận tranh luận, nhiễu loạn thức điền. Ngã mạn cống cao, tà kiến tăng trưởng, còn hại hơn là vô tri. Phải biết là ngộ thuộc Chứng phần, chớ không phải Kiến phần, Tướng phần. Đến như cảnh giới ấy thế nào đã đáp ở câu trên, không phiền phải lặp lại.

Trích: Cát Đằng Tập Thập Di
Dung Hy pháp sư