Chúng ta niệm Phật là để vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Ta muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc nên ta niệm Phật. Người không muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc nên không muốn niệm Phật. Vì không niệm Phật nên họ không được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc!…
Người niệm Phật được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc là do Thiện-Căn Phước-Đức và Nhân-Duyên đã hội tụ đầy đủ. Người không được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc thì nhất định, nếu không thiếu thiện-căn thì cũng bị khiếm khuyết phước-đức. Nếu có thiện-căn có phước-đức thì cũng mất nhân-duyên.
Người trong đời này gặp được pháp môn “Niệm Phật” là có “Nhân-Duyên”. Có nhân-duyên mà không muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc thì nhất định một là họ thiếu phước-đức hai là họ thiếu thiện-căn. Hồi trưa mình có nói sơ qua vấn đề phước-đức. Muốn biết phước-đức thì coi cách hành trì của họ. Phước-đức chính là làm thiện làm lành.
Kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ đã xác định cái phước-đức của người vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc là:
– Thứ nhất là phước Nhân-Thiên: Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm không sát sanh, tu thập thiện nghiệp.
– Phước của Nhị-Thừa là: Thọ trì tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm uy nghi.
– Phước của Đại-Thừa là: Phát Bồ-Đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả.
Những người làm phước họ sẽ được phước. Người được phước vãng sanh tức là trước những giờ phút lâm chung, họ cười hè hè, bớt đau, bớt bệnh… Những người mà cười hè hè ra đi, ngồi xếp bàn ra đi… đúng là những người có phước. Còn chúng ta thì thiếu phước một chút cũng ráng cố gắng phóng sanh, cố gắng làm thiện, cố gắng buông xả… để bớt cái nghiệp xấu đi. Chúng ta cũng được cái phước để vãng sanh, cũng cười mà cười trong cơn đau một chút cũng được…
Còn Người thiếu thiện-căn là như thế nào?… Những Người mà trí huệ đã bắt đầu khai mở thì thuộc về người có thiện-căn. Khi mà trí huệ đã bắt đầu khai mở cũng dễ thấy lắm.
Thứ nhất là người ta tin vào pháp môn Niệm Phật. Điều đầu tiên là họ tin vào câu A-Di-Đà Phật, đó thuộc về thiện-căn. Người mà giảng giải kinh điển Phật đúng liễu nghĩa của Phật, đó là người có thiện-căn. Người giảng giải kinh Phật không đúng theo chơn nghĩa của Phật, nghĩa là nói lệch đi, giảng sai đi, tức là thiếu thiện-căn. Dựa vào đây mà truy nguyên thì mình có thể biết một người bị mất vãng sanh về Tây-Phương thuộc về phần nào…
Ví dụ như những người gặp được pháp môn Niệm Phật, gặp được câu A-Di-Đà Phật, gọi là họ có nhân-duyên, nhưng mà họ không tin, thì ta biết ngay rằng, “À! Người đó có nhân-duyên mà thiếu mất thiện-căn rồi”. Thiếu thiện-căn thì bắt buộc phải tu bồi thiện-căn. Tu bồi thiện-căn ở đâu?… Giới-Định-Huệ sẽ có thiện-căn.
Có những người nghe được câu A-Di-Đà Phật tức là có nhân-duyên. Tin vào câu A-Di-Đà Phật là có thiện-căn. Nhưng khi tu hành thì bị người này phá, người kia phá, người kia chống, người nọ chống, tạo mọi điều kiện để ngăn cản con đường tu hành của họ… thì ta biết người này có thiện-căn, có nhân-duyên, mà thiếu phước-đức. Tại sao thiếu phước-đức?… Trong đời trước, nhiều đời trước tu huệ thì nhiều mà tu phước thì ít. Vì tu phước ít cho nên thiếu phước. Thiếu phước cho nên bị cái vô-phước nó ngăn cản.
Hiểu được chỗ này rồi, mình mới thấy một người mất phần vãng sanh nguyên do nằm ở chỗ nào? Dễ dàng, rõ ràng vô cùng, không còn lơ mơ lờ mờ nữa. Chính vì vậy mà đừng bao giờ thấy một bà già hiền hậu chất phát ngày ngày cầm tập vé số đi bán ngoài đường mà ta cho họ là người thiếu thiện-căn. Không phải! Nếu mình đến hỏi: Bác có tin câu A-Di-Đà Phật không? Ồ! Bác tin sống tin chết!… Thì nhất định bà này có thiện-căn, vì “Tín năng trưởng dưỡng chư Thiện căn” mà.
Nghĩa là trong nhiều đời nhiều kiếp bà đã tu phước thiện, bà đã đọc kinh điển và thật ra cái tâm của người ta đã khai mở chút chút rồi, khai hơn những người không tin trong đó mà mình không hay. Tâm trí khai mở trong hoàn cảnh thiếu phước, nên dù có khai mà Bà vẫn phải cầm vé số đi bán! Bà cầm vé số đi bán, nhưng tối lại thì sẵn sàng đi hộ niệm cho người bệnh, nhất định bà ngồi từ đầu đêm cho đến cuối đêm niệm Phật. Vì thiếu phước-đức nhưng lòng tin của họ lại vững vàng, họ có thể niệm Phật trợ duyên cho người bệnh vãng sanh, niệm Phật từ đầu đêm đến cuối đêm không cần thay ca. Vô tình câu niệm Phật của họ sẽ tu bồi phước-đức cho họ.
– Tín năng trưởng dưỡng Thiện-Căn.
– Tín năng trưởng dưỡng Công-Đức.
– Tín năng trưởng dưỡng Phước-Thiện của họ.
Cho nên sau cùng rồi người này nhờ được thiện-căn, nhờ được cơ duyên niệm câu A-Di-Đà Phật. Dù thiếu phước nhưng nhờ trong thời gian họ thành tâm tu hành, thành tâm niệm Phật, niệm trước người bệnh. Một câu A-Di-Đà Phật là vạn đức, vạn phước, nhờ thế mà sau cùng họ lại được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, nhiều khi được vãng sanh tự tại, không còn đau bệnh nữa. Không còn đau tức là có hưởng phước.
Chúng ta cứ lấy căn bản của lời Phật dạy ra để xác định rằng ta là hạng người bị thiếu thiện-căn? Ta là hạng người bị thiếu phước-đức? Ta là hạng người bị thiếu nhân-duyên hay là được đầy đủ?…
Còn về hình thức thì dù như thế nào đi nữa, chúng ta cũng chớ vội vã đánh giá sớm. Ví dụ như những người có phước, biết tu phước. Quá khứ có tu phước thì hiện đời đường tu của họ êm xuôi phẳng lặng, không ai ngăn cản. Người ta muốn lập một cái nơi ngon lành để tu hành là tự nhiên có khả năng lập liền. Ấy thế mà khi nghe đến câu A-Di-Đà Phật thì họ lặng lờ bỏ đi, họ không thèm nhìn tới. Mình biết ngay người này có phước nhưng mà thiện-căn của họ không có.
Cho nên quý vị đừng bao giờ sơ ý thấy một người tu hành có vẻ êm xuôi thì cho rằng, “À! người này thiện-căn lớn quá”. Không phải! Không phải! Không phải!… Thiện căn nó được thể hiện qua “Niềm Tin” vào câu Phật hiệu của người đó. Cho nên:
– Có nhiều người có phước-đức lại thiếu thiện-căn.
– Có người có thiện-căn nhưng lại thiếu phước-đức.
– Có nhiều người gặp nhân-duyên mà có thiện căn thì người ta tin.
– Có nhiều người có nhân-duyên gặp câu A-Di-Đà Phật mà không tin, chứng tỏ rằng trí huệ chưa chắc gì đã khai mở.
Có thiện-căn tức là có trí huệ, dù trí huệ ở một trình độ nào đó chưa biết?… Chính vì vậy, chúng ta cần nên xác định rõ rệt. Tại sao trong đời này ta là một phàm phu, danh phận thì không có, nhưng mà ta quyết lòng chết sống vì câu A-Di-Đà Phật, nhất định quyết một đời này vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc?… Xin thưa thật ra là:
– Nhiều đời nhiều kiếp chúng ta đã vun bồi phước-đức rồi,
– Nhiều đời nhiều kiếp chúng ta đã có tu Giới-Định-Huệ rồi.
– Nhiều đời nhiều kiếp chúng ta đã cúng dường hằng sa Thánh rồi.
Cho nên mới kết lại trong đời này ta được nhân-duyên gặp câu A-Di-Đà Phật và ta bám chắc, ta bám sát, ta bám vững để về Tây-Phương.
Xin thưa với chư vị, thế gian có câu: “Đắc thất nan truy họa phước”. Ta ngồi ở đây tu hành như vầy, ta cũng có bị thất…
– Ta thất là thất cái gì?… Thất Casino. Ta không có giờ đi Casino.
– Ta thất là thất cái gì?… Không có giờ đi coi xi-nê.
– Ta thất là thất cái gì?… Ta không có được tới chỗ nào đó ngắm cảnh xem hoa…
Ta bị thua người đời ở những chỗ đó.
Còn những người được những thứ đó, họ tưởng rằng họ được hưởng nhiều quá? Nhìn những người niệm Phật, họ than rằng: “Trời ơi!… Những người đó sao cứ chui vào trong cái nhà mà tụng niệm làm chi cho nhức đầu vậy?…” Người ta tưởng rằng người niệm Phật bị thua thiệt. Thật sự ra chúng ta chỉ thua họ những thứ hưởng thụ đó, nhưng mà ta được là được có Thiện-Căn, ta hơn họ là hơn cái Thiện-Căn này. Họ không tin câu A-Di-Đà Phật nhưng ta tin được vào câu A-Di-Đà Phật.
Một người bài bác câu A-Di-Đà Phật, họ nói, Trời ơi!… Người trí huệ thông minh như vậy tại sao lại niệm câu A-Di-Đà Phật?…
Như vậy họ thấy chúng mình bị mất! Mất chỗ nào? Mình mất ở chỗ không tu được những pháp cao quá! Không có nói năng được gì cho hay ho! Nhưng mà ta được chỗ nào?… Ta được câu A-Di-Đà Phật. Ta niệm câu A-Di-Đà Phật, chân thành thanh tịnh, để quyết lòng đi về Tây-Phương.
Còn họ mất cái gì? Họ mất câu A-Di-Đà Phật! Họ có thể được phước của thế gian, tức là được nhiều người ủng hộ, yểm trợ, sự nghiệp có thể đề huề, thịnh vượng.
Ta mất cái phước trước mắt này. Nhưng mà ta được cái gì?… Ta được là được đến lúc lâm chung ta hưởng cái phước đi về Tây-Phương. Còn họ không biết hưởng cái phước ở lúc lâm chung, nên họ không được đi về Tây-Phương đâu chư vị! Mà khi lâm chung họ hưởng cái cảnh… Tùng nghiệp thọ báo!…
Vì thế, Ngài Tịnh-Không dạy như thế này, “Ta tạo phước không được hưởng phước”. Đừng nên nghĩ làm phước thì phải cầu hưởng phước. Hưởng được phước hữu lậu thì sau cùng trụi lủi!… Bây giờ ta hãy cứ chịu thiệt thòi đi. Hòa Thượng Tịnh-Không nói, đời này càng chịu thiệt chừng nào ta càng được phước chừng đó. Có nghĩa là, ta chịu thiệt bây giờ, để cuối cùng khi nằm xuống ta đem tất cả cái phước đó hỗ trợ cho con đường vãng sanh của chúng ta. Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên hội tụ ngay thời điểm lâm chung để chúng ta an toàn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc…
Còn nếu chúng ta vội vã hưởng cái phước này thì lúc lâm chung chúng ta mất hết phước. Nghĩa là đau bệnh! Đau đến quằn quại! Đau quằn quại mà không có người hướng dẫn nữa, thì chúng ta muốn cất lên nửa câu A-Di-Đà Phật cũng cất không được!
Ta quyết định giữ lấy “Thiện-Căn”. Những lời nói nào sai kinh Phật nhất định đừng để nhập trong tâm. Nếu để nhập những lời nói sai kinh Phật trong tâm, thì ta thuộc vào hạng người không có thiện-căn!
Như vậy hôm nay chắc quý vị đã rõ thế nào gọi là Thiện-Căn? Thế nào gọi là Phước-Đức? Thế nào gọi là Nhân-Duyên rồi chứ?… Nhân-duyên là cơ hội ngồi tại đạo tràng này niệm Phật. Thiện-căn là lý giải kinh Phật phải đúng. Nhất định không được sơ ý một điều. Phật nói niệm Phật vãng sanh, thì ta quyết lòng tin niệm Phật vãng sanh. Dù một vạn người đem tất cả những lý lẽ gì để bài bác, ta tin vẫn cứ tin, thì thiện-căn chúng ta đã có đầy đủ.
Còn người nào nói: “Làm gì mà có chuyện hộ niệm vãng sanh?”. Người ta nói sai kinh Phật kệ họ. Nói sai kinh Phật thuộc về hạng người không có thiện-căn, dù hình thức tu hành có gì đi nữa, thì cũng là sai! Ly Kinh Nhất Tự Tức Đồng Ma Thuyết!…
Τrong kinh Phật thuyết A-Di-Đà, Phật dạy rằng: “Người nào niệm Phật thì lúc lâm chung A-Di-Đà Phật cùng chư Thánh Chúng hiện ra trước mặt người đó, tiếp dẫn người đó vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc”. Ta căn cứ vào đây mà niệm Phật đi về Tây-Phương. Ta quyết lòng cầu nguyện vãng sanh Tây-Phương. Trong kinh A-Di-Đà Phật dạy bốn lần, nhất định bốn lần chứ không phải là ba lần, phải cầu nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Phải nguyện vãng sanh về Tây-Phương thì tất cả những nguyện khác chúng ta cho nó là thứ yếu. Nghĩa là, có duyên thì ta làm, không có duyên thì ta không để trong tâm. Còn lời nguyện vãng sanh thì nhất định phải giữ trong tâm này, không bao giờ ly ra. Giả sử dù có một người nào đó cũng đem kinh Phật ra chứng minh rằng, “Cầu là vọng”, thì ta cũng phải giữ vững tâm ý:
– À!… Anh nói cầu là vọng! Còn tôi nói cầu vãng sanh không phải vọng, mà đây là Chánh-Cầu… Nhất định Phật không cho ta cầu cái gì khác, nhưng Phật lại dạy cầu vãng sanh Tịnh-Độ. Nhất định ta phải cầu vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc.
Tâm nguyện vãng sanh vững vàng như vậy, thì chứng tỏ thiện-căn chúng ta đã có.
Nếu một người nào đó phước-báu tràn trề mà họ không chịu niệm Phật, thì chứng tỏ rằng họ đã dùng phước-báu đó để cầu danh cầu lợi gì đó, chứ không phải sử dụng nó để khi xả bỏ báo thân này được hưởng cảnh đời đời cực lạc tại cõi Tây-Phương, thì phước-báu đó dù lớn cho mấy đi nữa cũng chẳng qua là đem tiền mà gói lấy cái quan tài đắc giá dưới nấm mồ mà thôi!…
Vậy thì những người nào tiền bạc nhiều quá hãy lo tu hành đi, đừng sơ ý coi chừng đến khi chết xuống vì vướng vào đống tiền đó mà bị đại họa! Quý vị có nghe Hòa Thượng Tịnh-Không kể chuyện ở bên Hồng-Kông có người tới khoe vàng với Ngài không? Vì chấp vào đó thì khi chết rồi dễ gì mà được siêu sanh! Dễ gì mà thoát ách nạn thành một con mọt chui vào đó mà giữ tiền! Có phước-báu tưởng là ngon, ai ngờ sau cùng thành đại họa!…
Cần phải hiểu rõ đạo lý này. Ta có thiện-căn nên mới tin câu A-Di-Đà Phật. Ta có phước-đức nên mới ngồi với nhau niệm Phật, và làm những việc thiện lành nhưng lặng lẽ không cần một người biết. Hãy âm thầm đem cái phước đó gởi về Tây-Phương. Gởi về Tây-Phương thì lúc lâm chung A-Di-Đà Phật sẽ đem cái phước đó xuống đón ta về Tây-Phương để hưởng. Cơ hội hôm nay chúng ta đã gặp câu A-Di-Đà Phật, thì Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên đúng như trong kinh A-Di-Đà, đức Thế-Tôn nói, người có đủ Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên sẽ được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.
Ta phải gom trọn tất cả Thiện-Căn, Phước-Đức và Nhân-Duyên này đưa vào lúc xả bỏ báo thân nhất định không trở lại trong cõi Ta-bà này nữa. Một đời này vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.
Nếu những lời này làm cho chư vị vững tin, thì xin chúc mừng cho chư vị. Nhất định chư vị được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.
Lòng chí thành chí kính có thể hóa giải được chướng nạn. Cái điểm quan trọng là mình có thật sự thành tâm chí thành để điều giải hay không?
Hôm nay nói về “Nhân Duyên”, Diệu Âm xin kể thêm một câu chuyện nữa thuộc về một phương diện khác, nhưng cũng có thể hóa giải được. Câu chuyện này liên quan đến không phải là oán thân trái chủ, cũng không phải là chữ ái, mà là thuận duyên.
Đó là vào năm 2005 khi Diệu Âm về Việt Nam, có một vị Phật tử phụ nữ, đi xe Honda tới gặp Diệu Âm tại nhà. Sau lúc nói chuyện tu hành, thăm hỏi qua lại cỡ chừng bốn mươi lăm phút, thì cuối cùng trước khi ra về, vị Phật tử đó có nói như thế này:
– Thưa thật với anh Diệu Âm, tôi tới thăm anh là do đứa em của tôi dẫn tới đây gặp anh.
Diệu Âm mới hỏi:
– Tại sao đứa em của chị không đến đây, và làm sao cô đó lại biết tôi?
Thì chị đó mới nói:
– Đứa em của tôi đã chết rồi!…
– Chết bao lâu?…
– Chết bảy năm nay. Chết từ lúc còn nhỏ.
Đứa em của chị đó chết trong lúc còn nhỏ. Người chị này vì quá thương đứa em, ngày đêm sầu khổ, khóc than! Có thể vì nỗi thương nhớ quá mạnh, nên cảm ứng sao đó không biết… đứa em mới nhập vào người chị. Trong khoảng thời gian đầu nhập thân, thường làm cho chị nóng nảy, buồn bực, không an. Gia đình có mời một vài vị nào đó tới giúp đỡ. Nhưng đứa em đó ngỗ nghịch quá, thường phá phách! Phá dữ lắm! Một lần nổi cơn phá phách như vậy làm cho chị cảm thấy nóng nảy, giận tức… Nhiều khi sợ, nhiều khi giận, nhiều khi buồn… Nói chung, tâm trí bất an!
Thì sau khi gặp một số vị Sư khuyên cái vong đó nên tu hành. Chị đó cũng được các vị khuyên cứ an tâm lo tu hành niệm Phật hồi hướng công đức. Chị mới phát cái tâm thành ra, (Đây là lời chị đó chỉ kể lại), là chị khuyên người em đó như vầy:
– Thôi bây giờ em lo tu hành đi, lo niệm Phật đi. Chị cũng niệm Phật và hồi hướng công đức cho em.
Sau khi thành tâm khuyên như vậy, thì theo như chị nói, cỡ chừng sáu-bảy tháng nay đứa em không còn quậy phá chị nữa. Bây giờ đứa em cũng chấp nhận lo tu hành niệm Phật và chị cũng lo niệm Phật để hồi hướng công đức cho đứa em. Đứa em cũng hứa sẽ hộ pháp cho chị để cùng tu hành luôn. Câu chuyện xảy ra đại khái như vậy…
Lúc đó Diệu Âm cũng lấy lòng thành ra khuyên chị đó tiếp tục niệm Phật. Chị đó nói, đó là cái duyên của chị với đứa em. Đứa em là tình ruột thịt, nhập vào chị có lẽ cũng do cái duyên đặc biệt. Nhân gặp duyên mới thành ra sự việc này.
Cái nhân chính có lẽ vì chị quá thương mến đứa em. Vì quá thương nhớ nên thường buồn khóc, có thể chị đã thầm khấn cầu: “Em ơi! Hãy ứng mộng cho chị thấy, hay là về báo cho chị biết em ở đâu?… Khổ sở như thế nào?”…
Khi đứa em chết, gia đình không có một người nào biết hộ niệm, mà chỉ lấy lòng thương tiếc, khóc than đối xử với nhau!… Có lẽ nhiều khi chính vì tình thương của người chị quá mạnh, nên đứa em cũng không đành đi đầu thai. Đó là cái nhân mà sinh ra chuyện này. Đứa em lúc chết cỡ chừng bốn-năm tuổi thôi.
Bây giờ đã là nhân duyên, là chị em với nhau, nên tôi khuyên người chị đó hãy cố gắng niệm Phật tu hành. Rồi tôi cũng thành tâm khuyên người em đó luôn. Lúc đó tôi không biết đứa em có đang ở đó hay không? Nhưng tôi thầm nghĩ rằng đứa em đang ở tại đó. Tôi có hỏi chị:
– Hiện giờ đứa em của chị có ở trong mình của chị hay không?
Chị nói:
– Có.
Có! Như vậy thì những lời nói chuyện với nhau này đứa em của chị đã biết hết. Tôi cũng nghiêm chỉnh và thành tâm khuyên người em rằng:
– Bây giờ nếu chị em đã có duyên như vậy, thì Diệu Âm này xin thành thật khuyên em cố gắng lo tu hành đi. Trở về cảnh giới của mình lo tu hành. Nếu thương chị thì chớ nên ứng nhập trong thân của chị nữa, nhiều khi hai cái cảnh giới khác nhau không được tốt! Hơn nữa, còn làm cho chị mình bất an và làm chính em cũng không biết đường nào để siêu thoát.
Tôi khuyên người em có thể nên tìm đến những đạo tràng, những cảnh chùa… Lúc nào ở đó người ta cũng rộng mở để cho mình tới tu hành. Thuận theo duyên của mình thích ở đâu, hãy nói với người chị tới chỗ đó để hỏi xin, hầu giúp mình có thể tới đó tu hành niệm Phật…
Rồi tôi nói với người chị cũng đừng có sợ. Đây là cái duyên lành, chứ không sao đâu. Em của mình không nỡ nào làm hại mình đâu. Tôi khuyên người chị hãy cố gắng niệm Phật. Trong thời này, công đức lớn nhất là niệm Phật. Phải niệm Phật. Cứ dùng lòng thương hại khuyên em niệm Phật cầu nguyện vãng sanh. Chị cũng phải niệm Phật nguyện vãng sanh. Nếu chị có cơ duyên đi về Tây-Phương trước, thì công đức của chị lớn vô cùng, chị sẽ hồi đáp cho đứa em thì đứa em nhiều khi cũng được siêu sinh Tịnh-Độ. Hiện tại bây giờ chị có công đức nào thì hồi hướng cho em công đức đó, và xin đứa em cũng lo niệm Phật đi, lo tu hành đi để cùng vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc. Câu chuyện đã xảy ra như vậy.
Quý vị thấy đó, vấn đề chướng duyên liên quan đến oan gia trái chủ, do lòng chí thành chí kính, ba ngày giải quyết cũng xong. Vấn đề tình ái giữa âm và dương xảy ra mười mấy năm trường, mà thành tâm hòa giải, thật sự hòa giải, chí thành hòa giải, đừng nên lưỡng lự, thì cũng trong ba ngày giải quyết xong…
Trở lại chuyện này, khi nói chuyện xong, thì chị đó đi về. Sau đó tôi không biết kết quả như thế nào? Nhưng có điều chắc chắn là đã hơn gần mấy tháng trước, đứa em không còn quậy phá chị nữa. Tại sao người em lại dẫn người chị đó tới gặp tôi?… Để làm gì? Tôi không biết!… Có duyên thì tôi cũng thành tâm tôi khuyên nhau như vậy.
Đây cũng là một lời khai thị khá hay cho chúng ta. Tất cả đều có nhân duyên trong đó. Có nhân duyên mới kết thành sự việc. Ta không nên buồn phiền, lo sợ thái quá nếu khi có sự việc tương tự xảy ra.
Giả sử, khi người chị gặp cái “Duyên” là người em nhập vào thân, nhưng người chị quá lo sợ, hoảng kinh chạy tìm pháp này pháp nọ để trục cái vong của người em ra, thì coi chừng cái “Thuận Duyên” này có thể biến thành “Nghịch Duyên”, tình cảm chị em sẽ biến thành thù hận!
Từ nguyên nhân vì trước đó mình quá thương đứa em, một đứa em bị chết lúc còn quá trẻ. Vì quá thương em, tình cảm chị em quá mạnh, cho nên người chị thường thường khóc và nghĩ tới đứa em nhiều quá. Trong khi đó, đứa em chết đi đáng lẽ cũng được đầu thai chuyển thế rồi, nhưng chuyển thế không được vì quyến luyến đến tình thương quá nặng của người chị. Còn người chị thì cứ cầu này cầu nọ, mong sao cho em mình hiện thân về báo cho biết rằng em ở đâu để chị được yên tâm!… Không ngờ, vì tình thương này mà đưa đến đứa em nhập vào người chị, làm cho người chị cũng khó khăn trong vòng mấy năm trường!…
Nhưng cũng may mắn, gặp được vị Sư khuyên tu hành. Khi gặp Diệu Âm, thì Diệu Âm cũng chỉ thành tâm khuyên tương tự như vậy mà thôi. Diệu Âm cũng thành tâm khuyên đứa em đang ở trong thân của người chị, hãy nên tu hành đi, đừng nên bám víu vào cái cảnh vô thường này nữa. Đối với người em đã bị vô thường rồi, người chị cũng sẽ bị vô thường theo! Người em đang bị vô thường, không có chỗ nương dựa, phải nương nhờ vào thân người chị. Nương vào người chị thì sẽ làm cho người chị đau khổ không tốt, mà cuộc đời của người chị sau khi mãn rồi… Chẳng lẽ?… Chị em sẽ đi đâu đây?… Phải không?…
Cho nên, những chuyện này mình có thể dùng lời chân thành khuyên giải nhau được.
Thật sự, mình thấy rõ ràng là người âm cũng có tình cảm, người ta cũng có lý trí, người ta cũng có đủ tất cả những cái nào là: buồn, thương, nhớ… như chúng ta, chứ họ cũng không có gì gọi là quá đáng đâu.
Tôi ví dụ, như chuyện tại Niệm Phật Đường Liên-Hoa bên tây Úc, chắc quý vị đã nghe qua rồi chứ gì? Một ông chú chết rồi, chết vì xì-ke, mới ứng hiện về nhập vào thân người cháu, rồi dẫn người cháu đi đánh bài kiếm tiền để hút xì-ke. Mình thấy khi chết rồi, sống trong cảnh giới đó mà họ cũng có những cơn ghiền như người ở thế gian. Nhưng sau khi khuyên giải, khuyên tha thiết rằng hãy lo niệm Phật cầu vãng sanh. Người chú cũng chấp nhận tìm đường giải thoát. Một tuần sau ứng về nhập lại vào thân người cháu một lần nữa, dẫn tới đạo tràng đó để báo cáo: “Xin cám ơn chư vị, chư vị đã giúp cho tôi con đường siêu thoát. Bây giờ tôi đã biết đường siêu thoát rồi”… Diệu Âm không biết là đã siêu thoát về đâu, chỉ biết người chú đã trả lại cuộc sống bình thường cho người cháu.
Gặp trường hợp này nếu mình vội vã dùng những thế lực mạnh mẽ để xua đuổi họ, để đàn áp họ, nhiều khi nói những lời lỗ mãng với họ, thì từ “Cảnh Thuận” dễ biến thành “Cảnh Nghịch” hồi nào không hay!…
Như trường hợp vị ở gần chùa Hoằng Pháp là một ví dụ. Tôi dặn vị đó không được cho họ là những người ác, không được cho họ là ma, hay gọi là ma chướng, hay là oan gia trái chủ. Hoàn toàn trường hợp này không phải là oan gia trái chủ, mà họ chỉ vì chữ ái. Trong kinh Phật nói “Bất cát ái, bất ly Ta-bà”. Chữ Ái mà không buông thì nhiều khi mình đành phải chịu nhiều đớn đau lắm! Họ vì chữ ÁI của thế gian, thì bây giờ mình nên dùng chữ ÁI của nhà Phật để hóa giải.
Chữ “ÁI” của thế gian là “Tình Ái”. Chữ “ÁI” của nhà Phật chính là “Từ Bi”. Mình lấy lòng từ bi ra khuyên giải. Cái duyên “ÁI” thì mình lấy chữ “ÁI” để giải. Chữ “ÁI” này chính là “TỪ BI, THƯƠNG YÊU, BẢO BỌC, KHUYÊN NHẮC…”. Người ta thương mình, mình cũng dùng cái tình thương này để khuyên họ một câu. Khi người ta cảm động, họ có thể hồi đầu tỉnh ngộ. Khi họ hồi đầu tỉnh ngộ rồi, mình vẫn tiếp tục tu hành thoải mái, rồi đem tất cả công đức bồi đắp cho họ, hồi hướng cho họ. Được vậy, họ hộ pháp cho mình, mình thì hồi hướng công đức cho họ, thành ra âm dương lưỡng lợi. Đừng bao giờ thấy những tình cảnh này mà vội vàng tung những đòn thế quá ư nghiệt ngã, vô tình biến “Thuận Duyên” thành “Ác Duyên”.
Hiểu được như vậy rồi, ta tu học Phật thì lấy cái tâm đại từ đại bi của Phật mà hóa giải người hữu duyên, khuyên họ phát tâm Bồ-Đề cùng nhau tu hành. Xin thưa chư vị, không có chuyện gì mà phải khó khăn điều giải đâu.
Trong những ngày sau nếu có duyên, Diệu Âm sẽ kể thêm những chuyện mà thật sự Diệu Âm đã gặp qua. Lấy những kinh nghiệm đó, mình thấy hình như điều giải không phải là khó khăn lắm. Cái khó là:
– Chính mình thật sự có tấm lòng từ bi hay không?…
– Chính mình thật sự có phải là dùng chánh pháp để điều giải hay không?…
Nếu mình không chịu dùng chánh pháp, mình lại dùng những cái gọi là bất bình đẳng, nói rõ hơn tức là ghét người này, ghét người kia, khinh người nọ, chê người kia… Mình lấy tham sân si mạn… ra mà đối đãi với chúng sanh, thì chúng sanh sẽ dùng đến tham sân si mạn để đối đãi lại với chúng ta. Từ đó, bạn bè trở nên thù địch! Yêu thương biến thành hận thù! Điều này hoàn toàn không tốt!…
Nguyện mong cho chư vị hiểu được lý đạo này, đem cái nhân duyên của Phật ra để giảng giải cho nhau. Nhất định chúng ta có thể hóa giải trong vòng một-hai ngày là hết!…
Lúc lâm chung là lúc oan gia trái chủ xuất hiện mạnh mẽ nhất vì lúc này gia đình rơi vào hoàn cảnh rối ren nhất, bao nhiêu việc cần phải giải quyết cùng một lúc NHƯNG VÃNG SANH ĐƯỢC HAY KHÔNG CŨNG CHÍNH TẠI THỜI ĐIỂM NÀY.
Nếu gia đình biết rằng trong tất cả những việc phải làm thì việc niệm Phật cầu cho nguời lâm chung vãng sanh cực lạc là việc tối quan trọng. Các công việc khác phải tạm gác lại. Mọi người nhiếp tâm niệm Phật, sự giao cảm sẽ giúp người lâm chung sẽ nương theo đó mà niệm theo thì vãng sanh cực lạc là điều chắc chắn.
Ban hộ niệm Hoa Sen Đà Nẵng
Giảng sư: sư cô thích nữ Như Lan
Năng lực của mình (tự lực) có thể giúp cho chính mình được giải thoát vào lúc lâm chung:
Mọi người đều có năng lực tiềm tàng có thể giúp chính mình vượt qua khó khăn trắc trở lúc lâm chung. Phật Bồ Tát và các chư Tổ Sư thông rõ việc này nên các ngài bày ra pháp môn niệm Phật làm phương tiện giúp chúng sanh khai mở và sử dụng cái năng lực tiềm tàng vô biên mà nó có sẵn ở trong mỗi chúng sanh.
Phương tiện của các ngài là gì? Đơn giản, gọn gàng và dễ hiểu, đó chính là Tín – Nguyện – Hạnh. Đơn giản như thế đó mà nó lại có công năng độ trọn ba căn (thượng, trung và hạ) thì mới biết nó thù thắng như thế nào. Một giáo pháp viên đốn và thù thắng bậc nhất mà chính các Đẳng Giác Bồ Tát như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền ….v…v… cũng phải áp dụng nó mà sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc để có thể thành Phật.
Thế Tôn đã khai thị rõ ràng trong kinh Vô Lượng Thọ, kinh Thủ Lăng Nghiêm và kinh Hoa Nghiêm rồi, không cần nói rộng ra thêm. Vậy, cái công năng của Tín-Nguyện-Hạnh là gì? Nó chính là cách thức giúp qui động năng lực sẵn có của bạn để đạt được trạng thái thiền định ở trong bất cứ sinh hoạt nào (đi, đứng, nằm, ngồi và ngay trong khi đang ngủ). Vì vậy, pháp môn niệm Phật còn gọi là “Thâm Diệu Thiền”.
Dưới đây tôi xin trình bày cho bạn, làm sao mà Tín – Nguyện – Hạnh có thể giúp bạn quy động được toàn bộ năng lực Thiền Định của bạn để lúc lâm chung bạn có thể liễu sanh, thoát tử, vãng sanh Cực Lạc, một đời thành Phật.
Năng lực (Tự Lực) quy động từ Tín-Nguyện-Hạnh
• Tâm tín thành nơi Phật A Di Đà, cõi nước Cực Lạc chính là năng lực vô biên giúp bạn vượt qua tất cả khó khăn trở ngại trong việc niệm Phật để đạt thành tâm nguyện vãng sanh. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật dạy “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Khi bạn đặt một niềm tin tuyệt đối vào cái gì, thì cái đó nó sẽ thành. Tín có năng lực không thể nghĩ bàn; ví dụ, nếu bạn tin rằng bạn có thể trở thành một bác sĩ, thì chính niềm tự tin này là năng lực thúc đẩy bạn chăm học, chăm làm, vượt qua mọi khó khăn để đạt thành tâm nguyện.
• Nguyện lực tha thiết muốn sanh về nước Cực Lạc chính là năng lực vô lượng kéo bạn phải nhất tâm niệm Phật tha thiết ngày đêm không ngừng dứt. Cũng giống như một học sinh hiếu học vì muốn (nguyện) đạt thành công danh mà phải ngày đêm miệt mài bên đèn sách.
• Hạnh: Hạnh là năng lực kết tụ do công phu tu tập từ trong quá khứ cho đến nay; quá khứ có thể là từ nhiều đời nhiều kiếp về trước hay chỉ là quá khứ ở trong đời này. Người có công phu tu tập thì phải đoạn trừ tật đố tham lam, sân si, nghi mạn. Vì đây là chướng ngại làm cho tâm bạn bị dính mắc, không thể buông xả. Và chính nó là nguyên nhân và yếu tố đưa bạn vào trong trạng thái u-minh, mất chánh giác, rồi sau đó nó dẫn dắt bạn vào trong ba đường ác đạo (địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh).
Muốn cho tâm của bạn an trú không dính mắc, thư giãn, thư thái, thanh thản, thì bạn phải thực hiện các pháp như sau:
(a) Đoạn trừ bất cứ nghi hoặc, hối hận hay do dự trong lòng, Ngay cả những việc làm ác đã phạm cũng không cho nó vướng bận tâm bạn. Biết mình đã làm lỗi là giác. Biết lỗi rồi thì sửa lỗi quyết không phạm nữa, như vậy là làm xong cái công việc sám hối rồi. Làm xong rồi thì buông xả nó ra một cách rốt ráo, không để cho một chút gì còn sót lại, còn dính mắc lại trong tâm của bạn nữa.
(b) Ngay cả những việc thiện lành, khi làm xong rồi cũng buông nó ra luôn, không để cho nó dính mắc trong tâm, vì những suy nghĩ đều là vọng tâm làm tâm bạn không được rỗng lặng thanh tịnh. Đừng để những việc thiện này làm cho tâm bạn đắc ý mà sanh ra cái niệm hay hành động cống cao ngã mạn mà luống uổng tất cả công phu và công đức mà bạn đã tạo.
(c) Buông bỏ tất cả sự dính mắc đối với bất cứ ai mà bạn có mối quan liên mạnh mẽ nhất trong đời này, kể cả sự quan hệ thương hay ghét, thân hay oán.
(d) Nhiếp tâm niệm Phật không tán loạn, không vọng tưởng. Lấy danh hiệu Phật A Di Đà làm công cụ phá vọng, phá mê để đạt được và giữ được trạng thái thanh tịnh thư thả của tâm. Nếu bạn làm được như thế, thì mặc dầu thân bạn vẫn ở trong hình tướng con người, tâm bạn thì bình-đẳng với tâm Phật A Di Đà – rỗng lặng như hư không. Muốn làm được như vậy thì lúc niệm Phật nên dừng tất cả chuyện nói (làm người bị câm) mà niệm “A Di Đà Phật”. Niệm theo từng nhịp thở, từng cơn đau, từng cơn lạnh buốt giá, ngay cả lúc vui hay buồn …v…v… Khi bạn đang được an trụ vào trong câu Phật hiệu cũng chính là bạn đang được an trụ vào trong tự tánh của chính mình, không dính mắc và thư thái, không vọng tưởng. Lúc đó, bạn cố giữ cho tâm của bạn ở trong trạng thái vắng lặng, trống rỗng, chỉ còn giữ một niệm “A Di Đà Phật” ở trong tâm.
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn (viên minh), đó là tự tính của tâm bạn. Nhận biết tâm như thế, trở thành chắc chắn về tâm, đó là kiến (thấy/biết). Để duy trì không bị tán loạn trong trạng thái tịnh chỉ, không vọng niệm hoặc chấp thủ, đó là trạng thái thiền định. Ở trong trạng thái đó, không bị dính mắc vào chấp thủ hoặc tham luyến, chấp nhận hoặc đối kháng, mong cầu hoặc sợ hãi, đối với bất cứ vọng thức nào cả.
(e) Đừng gửi lòng ở các nơi cư trú của người sống bình thường; chỉ gửi lòng mình nơi cõi Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà mà thôi.
Vào thời điểm chết, bạn nên phải biết là bạn sẽ phải trải qua những cảm giác gì?
Vào lúc sắp lâm chung bạn phải trải qua nhiều cảm giác khổ đau cùng cực, những cảm giác này gây ra bởi những nguyên như sau:
1. Vào lúc địa đại hoà nhập (tan biến) vào trong thủy đại, thân thể trở nên nặng nề và thân không thể tự nương nhờ thân.
2. Vào lúc thủy đại hòa nhập vào trong hỏa đại, miệng và mũi khô khan, ngưng nói bí lời.
3. Vào lúc hỏa đại hòa nhập vào trong phong đại, thân nhiệt biến mất.
4. Vào lúc phong đại hòa nhập vào trong thức đại, bạn chỉ có thể thở ra khò khè và hít vào nấc nghẹn.
Vào lúc đó, bạn sẽ có cái cảm giác như: đương bị đè bởi một ngọn núi rất lớn, đương bị sập bẫy trong bóng tối, đương bị buông rơi vào vô tận của hư không. Nếu tâm bạn nghe nhận và niệm được câu Phật hiệu một cách thanh tịnh thì toàn thể bầu trời sẽ tự nhiên tươi sáng rực rỡ như một tấm gấm trải rộng. Những bóng tối và sự đè nặng trong tâm liền được tan biến. Nhiều hơn thế nữa, hình tướng của Phật A Di Đà tự nhiên hiện ra ở trong tâm của bạn, với những quang minh sáng diệu vô thượng như trăm nghìn mặt trời chiếu sáng cùng một lúc. Quang minh sáng rực, nhưng minh diệu lạ thường nó không làm bạn chói mắt khó chịu, mà ngược lại nó làm cho bạn tươi tĩnh, sáng suốt và rỗng lặng lạ thường. Tự nhiên bạn không còn cái cảm giác khổ đau gây ra do tứ đại của bạn đang phân ly nữa. Đây chính là thành quả của năng lực niệm Phật của bạn (tự lực) cùng năng lực tiếp dẫn của Phật A Di Đà (tha lực).
Vào lúc này, tính giác (viên minh) của bạn sẽ nhắc nhở bạn: Đừng bị tán loạn! Đừng xúc động! Không lâu nữa Phật A Di Đà sẽ đến tiếp dẫn bạn về cõi Cực Lạc. Bạn phải ráng giữ cho tâm của bạn luôn rỗng lặng tự nhiên và tiếp tục niệm Phật không ngừng, ngay cả khi gặp được Đức Phật A Di Đà xuất hiện. Tại sao vậy? Vì nếu bạn giữ được tâm rỗng lặng như hư không (không xúc động vì vui mừng theo thói tục của thế gian chúng sanh) khi gặp Phật, thì bạn sẽ sanh về cõi Cực Lạc với phẩm vị rất là cao. Vì ngay lúc này với sự trợ lực của Phật A Di Đà, bạn đã đạt được niệm Phật Tam Muội hay Nhất Tâm Bất Loạn. Nếu bạn còn có cái niệm vui mừng xúc động khi gặp Phật, phẩm vị vãng sanh của bạn bị hạ thấp xuống vì bạn còn dính mắc vọng tâm của người phàm phu.
Khi bạn thấy Phật A Di Đà xuất hiện, bạn cũng đồng thấy vô số Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng đồng xuất hiện để nhiếp thọ tiếp dẫn bạn. Hình tướng và dung mạo của các vị Phật ở cõi Tây Phương cũng giống hệt như Phật A Di Đà. Hình tướng và dung mạo của các Bồ Tát cũng đồng giống hệt như Quán Thế Âm và Đại Thế Chí không có tướng sai khác. Bạn cũng được nghe tiếng của thánh chúng niệm Phật vang động cả bầu trời với những âm thanh vi diệu hòa nhã và tuỳ hỷ.
Nên lưu ý, trước khi gặp Phật, ma chướng (nghiệp chướng) cùng sinh của bạn sẽ loạn động cái tâm của bạn, làm chánh niệm của bạn bị sụp đổ, bạn muốn niệm Phật cũng rất là khó khăn hay chẳng niệm được; nó phát ra những âm thanh chói tai và uy mãnh và làm mê mờ bạn. Ở vào thời điểm này, bạn hãy tuệ tri điều này:
1. Cái cảm giác đương bị đè ép xuống bởi một ngọn núi thì không phải là đương bị đè ép xuống bởi một ngọn núi. Đó là chính các đại của bạn đang hòa nhập. Hãy đừng sợ hãi chuyện đó!
2. Cái cảm giác đương bị sập bẫy trong bóng tối thì không phải là bị sập bẫy trong một bóng tối. Đó là năm quan năng của bạn đang hòa nhập!
3. Cái cảm giác đương bị buông rơi vào trong vô tận của hư không thì không phải là đương bị buông rơi. Đó là tâm của bạn không có cái gì để nương nhờ bởi thân và tâm của bạn đã ly biệt và hơi thở của bạn đã ngừng lại.
Vậy bạn phải cố gắng nương vào câu Phật hiệu không gián đoạn để tâm của bạn không bị mê mờ bởi những cảm giác hư vọng này. Tất cả những quang cảnh, các hình tướng, các âm thanh, ánh sáng đều là của chính bạn đều là do tâm của bạn ảnh hiện do nghiệp lực chiêu cảm. Hãy đừng nghi hoặc gì về điều đó. Nếu bạn cứ cảm thấy nghi hoặc, bạn sẽ bị ném vào trong sinh tử luân chuyển. Quyết định sáng tỏ hơn để thấy chỉ là chuyện tự diễn-hiện, nếu bạn nương nhờ an trú vào câu Phật hiệu (nó cũng chính là tính viên minh trong chân không diệu hữu quang minh biến chiếu), thì trong tính chân không diệu hữu quang minh biến chiếu đó bạn sẽ chứng đạt ba thân – pháp thân, báo thân, ứng hoá thân – và trở thành giác ngộ. Ngay lúc đó nếu bạn có bị ném vào trong sinh tử luân chuyển, bạn cũng sẽ không đi vào đó.
Bạn nên biết rằng A Di Đà Phật chính là vị Phật bảo hộ và cũng là tự tánh hiện hữu của bạn để duy trì tâm bạn với chánh niệm không bị tán loạn. Từ thời điểm này, điều rất quan trọng là ở trạng thái không mong cầu và sợ hãi gì cả, không chấp và thủ cái gì cả đối với tất cả các đối tượng của những quan năng của sáu thức cũng như đối với những dẫn dụ mê đắm, hạnh phúc và sầu muộn. Và từ bây giờ trở đi, nếu bạn đã đạt “tịnh chỉ an định”, bạn sẽ có thể bắt đầu có khả năng đảm lĩnh bản tính ở trong trung hữu và trở thành giác ngộ. Thế nên điểm tối yếu cho sinh mệnh (của tuệ mệnh) là chấp trì câu hồng danh A Di Đà Phật liên tục, không gián đoạn, không tán loạn từ chính thời điểm này.
Ma chướng cùng sinh là tập khí hiện tại đưa đến vô minh, nghi hoặc và do dự của bạn. Vào lúc đó, lúc ở tử địa, bất cứ hiện tượng dễ sợ nào xuất hiện; Thí dụ: những âm thanh, những màu sắc và những ánh sáng, hãy đừng bị mê đắm dẫn dụ, hãy đừng nghi hoặc và hãy đừng sợ hãi. Nếu bạn bị rơi vào nghi hoặc dù chỉ một thời điểm, bạn sẽ lang thang trong cõi sinh tử luân chuyển, vì thế nên hãy đạt được “tịnh chỉ an định” hoàn toàn (không thay đổi và không bị chấm dứt bất thình lình).
Ở thời điểm này, những lối dẫn vào tử cung (cửa ngõ tái sinh) hiện ra như những cung điện cõi trời. Hãy đừng bị tham luyến đối với chúng. Hãy tin chắc chắn vào điều nhận biết sáng tỏ thấu suốt đó. Hãy tự tại không còn mong cầu và sợ hãi! Vào thời điểm đó, tính giác viên minh trong sáng thấu suốt của chính bạn (tự lực) cùng với quamg minh tiếp dẫn của Phật A Di Đà (tha lực) sẽ là cộng lực cứu độ bạn.
Khi đạt được pháp thân giống như hư không cho lợi ích chính mình, bạn sẽ thành tựu lợi ích cho tất cả hữu tình trong tận hư không vô lượng pháp giới. Bạn có thể hóa hiện các thứ báo thân và ứng hoá thân làm lợi ích cho tất cả hữu tình trong tận hư không vô lượng pháp giới, và lúc ấy tâm của bạn sẽ lan tỏa vạn hữu vô tận xứ.
Kết Luận:
Do vì tâm của chúng ta quá xa rời với giác ngộ và tỉnh thức, do vì nghiệp chướng và tội ác của chúng ta quá nhiều đến không thể tính kể, mà phước báu thì quá nhỏ bé như hạt mè. Do vì tập khí tham, sân, si, nghi, mạn của chúng ta quá nặng nề tạo thành một màn vô minh dầy đặc bao trùm che phủ Như Lai tánh thường chiếu. Cho nên, ở ngay trong cuộc sống hiện tại, chúng ta phải gặp nhiều ngang trái khổ đau, gặp các thứ hồ đồ lộn xộn. Cho đến lúc lúc lâm chung, chúng ta không biết nơi nào để đi để đến, bỏ mặc cho nghiệp lực dẫn dắt lang thang trong sáu nẻo luân hồi sanh tử. Nay nhờ chút phước mọn sót lại mà chúng ta gặp được pháp môn quảng đại thù thắng của Phật A Di Đà do Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tự trao truyền chỉ dạy. Những người có đại tín thành, đại nguyện lực, tinh tấn dũng mãnh, và thông tuệ, những người luôn luôn nhớ đến thầy của họ là Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, những người luôn luôn tín nhiệm vào Phật A Di Đà, những người thân tâm nỗ lực trong thực hành, những người có tâm an tịnh, và có khả năng buông bỏ các mối quan tâm đối với thế giới này. Chính những người này là những người được tất cả các đức Như Lai đồng thanh khen ngợi; vì họ, ở trong đời trước, đã từng gặp Phật quá khứ quy y, chiêm bái, cúng dường và họ cũng đã từng được Phật thọ ký Bồ Đề. Những người tin nhận và chân thật tinh tấn tu tập giáo pháp này chính là những người được thừa hưởng của cải vô tận của các đức Như Lai trong mười phương ba đời. Tại sao? Vì giáo pháp này đều được tất cả các đức Như Lai trong Mười Phương Thế Giới, mà mỗi Thế Giới có vô số vô lượng các đức Như Lai nhiều như cát của sông Hằng, đồng thanh khen ngợi và tán thán không thể nghĩ bàn, không có sai khác.
Đệ tử tục gia của Tam Bảo: thế danh Lưu Minh Trí, pháp danh Trí Thành, pháp hiệu: Giác Hiển.
Phục nguyện cho tất cả hữu tình trong thập phương pháp giới, tất cả ông bà, cha mẹ, họ hàng quyến thuộc và bạn hữu …v….v…. ở trong vô lượng kiếp quá hiện vị lai đều gặp pháp môn niệm Phật của Phật A Di Đà và đều sanh tâm hy hữu, tín, nhận và phụng hành.
Phục nguyện cho tất cả chúng sanh trong thập phương pháp giới đồng vãng sanh Cực Lạc, đồng thành Phật đạo, dứt trừ tận gốc cội rễ sanh tử khổ đau.
Lưu Minh Trí, Diệu Âm Trí Thành
Viết xong ngày 12 tháng 01, 2011 (Tây Lịch)
Các Phúc Đáp Gần Đây