Niệm Phật Công Đức phần 1

Niệm Phật Công Đức phần 1I. PHẬT PHÁP LÀ GIÁO DỤC, CHẲNG PHẢI LÀ TÔN GIÁO, CHẲNG PHẢI LÀ TRIẾT HỌC.
1. Phật pháp là giáo dục.

Những năm gần đây, Phật pháp ở Đài Loan có thể nói là rất phổ biến, nhất là pháp môn niệm Phật. Kể ra người niệm Phật tuy nhiều mà vì sao phải niệm Phật? Phải niệm như thế nào? Lợi ích niệm Phật có nhiều không? Thông thường mọi người đối với những vấn đề này hầu hết đều vẫn còn một số nghi ngờ. Lần diễn giảng này của chúng tôi, đặt nặng vào phương diện công đức của niệm Phật.

Trước hết, chúng ta phải có nhận thức chính xác đối với Phật pháp, sau đó mới có thể sinh khởi lòng ưa thích việc học Phật, thì lợi ích của công đức học Phật pháp rất dễ thành tựu. Dân Quốc năm thứ nhất (1911), tiên sinh Âu Dương Cánh Vô ở trường đại học Trung Sơn Đệ tứ của Nam Kinh[1], lần đầu tiên đã có một bài diễn thuyết rất quan trọng với đề tài là: “Phật pháp chẳng phải là tôn giáo, chẳng phải là triết học mà là nhu cầu cần thiết cho xã hội hiện nay”. Nội dung của đề tài bảo chúng ta rằng: Phật pháp quả là nhu cầu cần thiết cho xã hội này, chúng ta không thể nhìn Phật pháp như là tôn giáo; vì tôn giáo mang nghĩa hạn hẹp, không thể bao quát Phật pháp, còn Phật pháp bao quát tôn giáo. Phật pháp giống như là một trường đại học hoàn chỉnh. Tôn giáo và triết học đều là một khoa trong trường học. Một khoa không thể đại biểu cho cả trường.

Phật pháp rốt cuộc là thế nào? Tiên sinh Âu Dương nói: “Phật giáo chính là giáo dục”. Đương nhiên, cách nói này chắc chắn không sai nhưng chúng ta vẫn cảm thấy hoang mang, thần bí. Thế nên, chúng ta phải quan sát tỉ mỉ hơn, phát hiện Phật giáo rất giống sự giáo dục mà chúng ta đã nói. Nói đúng hơn, Phật giáo là sự giáo dục xác thực. Khi còn tại thế, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni[2] đã sáng lập cách giáo dục này, giống như cách giáo dục gia giáo được Khổng Tử[3] thành lập ở Trung Quốc. Chúng ta đã đọc lịch sử, biết rằng: Khổng Tử là một người sau khi bất đắc chí mới lui về ẩn cư, chuyên tâm vào công việc dạy học; Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thì bỏ chính trị mà theo việc dạy học, không giống như tình trạng của Khổng Tử nhưng sự thành tựu của các ngài trong giáo dục đều rất huy hoàng vĩ đại giống như nhau.

Sau khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, đệ tử Phật tôn xưng Đức Phật Thích-ca là “Bổn sư”, giống như những thư sinh ở Trung Quốc tôn xưng Khổng Tử là “Tiên sư”. Bổn sư là thầy giáo chính, là người đầu tiên sáng lập nền giáo dục này. Chúng ta tự xưng là đệ tử, đệ tử có nghĩa là học trò, đủ thấy chúng ta và Phật có mối quan hệ thầy trò. Chúng ta tôn kính Phật, xem Ngài là thầy của mình, hoàn toàn không phải là thần minh. Nếu nhìn Phật như nhìn thần minh thì đã biến thành tôn giáo. Người thời nay nói Phật giáo là tôn giáo, chúng ta cũng không có cách nào bác bỏ, bởi vì Phật giáo quả thật đã biến chất rồi. Vì vậy, mọi người trong xã hội đều xem Phật, Bồ-tát như thần minh. Phật giáo mà chúng ta cần học không phải là tôn giáo, mà là một bộ phận giáo dục. Như thế mới có thể được lợi ích chân thật, các Bồ-tát trong quá khứ cũng đều là học trò của Đức Phật. Các ngài đều là bậc trưởng bối của chúng ta, là những người học trò vào những năm đầu tiên học tập theo Đức Phật. Những quan hệ này mà có thể nhận thức rõ ràng thì không đến nỗi mê tín.

Phật giáo dạy chúng ta phải nên tin thật chắc chắn. Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Lòng tin là cội nguồn của đạo, là mẹ của công đức”. Nhà Phật thường đề cập đến: “Tu hành chứng quả”. Nói theo hiện nay chính là: Hoàn thành học nghiệp, thành tựu đức năng, tức là năng lực của Như Lai, trí huệ của Như Lai là trí huệ viên mãn. Trong đây, nhân tố quan trọng nhất chính là “Tín”. Phật giáo nói đến “Tin”có hai cách. Một là tin ở chính mình, hai là tin ở thầy. Phải có lòng tin chân chính đối với thầy, có thầy hướng dẫn chúng ta mới có thể nhận biết để học tập; nếu không có lòng tin đối với thầy thì dù cho thầy có giỏi đến mấy, bạn cũng không muốn học theo. Nói cách khác, nội dung chân thật của Phật pháp, bạn học không đến nơi, rốt cuộc bạn vẫn là một mảng rỗng không!
2. Mục tiêu giáo dục của Phật pháp: Vô thượng Chính đẳng Chính giác.

Chúng ta và Phật có mối quan hệ thầy trò. Đức Phật chân thành dạy dỗ chúng ta, thế thì đối với mục tiêu, nội dung dạy học của Phật pháp, chúng ta không thể không biết. Phật giáo tức là sự giáo dục của Đức Phật. Những điều chúng ta theo đuổi chỉ nhằm một mục tiêu A-nậu đa-la tam-miệu tam-bồ-đề[4]. Đây là mục tiêu chính của việc dạy học trong Phật giáo, câu này được dịch âm từ tiếng Phạn. Những đại đức phiên dịch kinh thời quá khứ tôn trọng câu ấy không dịch, ý nghĩa của điều đó là Vô thượng Chính đẳng Chính giác.

“Vô thượng Chính đẳng Chính giác”, nói theo từ hiện đại chính là “Trí huệ rốt ráo viên mãn”. Trí huệ này là “không có gì không biết, không có gì không làm được”, đối với hiện tại, quá khứ, vị lai đều có thể biết rõ ràng chính xác, rốt ráo viên mãn. Đây là mục tiêu chung của việc dạy học trong Phật giáo. Vì thế, điều mà chúng ta tìm cầu trong Phật pháp là trí huệ. Phật pháp là giáo dục trí huệ, dạy học trí huệ. Mới nghe qua, chúng ta không tránh khỏi nghi ngờ, điều đó có thể xảy ra không? Một con người mà đối với quá khứ, hiện tại, vị lai, nơi thế giới này hay ở nơi khác đều có thể biết rõ hết sao? Trong tôn giáo, chúng ta thường nghe ca ngợi thượng đế: “Không điều gì không biết, không điều gì không làm được”, con người cũng có thể làm được như thế sao?

Nếu các vị có chút quan tâm đến Phật giáo thì có thể hiểu rõ, thượng đế quả thật có những điều không thể làm, đó chỉ là lời khen ngợi mà thôi. Con người chỉ cần tu học theo Phật pháp, thật sự có thể đạt đến mục tiêu này. Việc dạy học của Phật pháp chỉ nhằm khôi phục lại đức năng, trí huệ vốn có mà thôi.

Kinh Kim Cang ghi: “Đức Phật độ tất cả chúng sinh nhưng thật sự không có chúng sinh để Như Lai độ”.

Đức Phật độ tất cả chúng sinh nhưng lại nói không độ một chúng sinh nào? Câu nói này có ý nghĩa thế nào? Bởi vì trí huệ là cái sẵn có của chúng sinh, không phải do Đức Phật ban cho. Lúc chúng sinh mê lầm, Đức Phật chỉ cho họ giác ngộ, trí huệ là cái sẵn có của mình.

Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Tất cả chúng sinh đều có đủ đức tướng, trí huệ của Như Lai”.

“Trí huệ” là chỉ cho trí huệ rốt ráo viên mãn, thấy hiểu cõi nhân sinh cả vũ trụ, đây là trí huệ vốn có của bạn, xưa nay đầy đủ.

“Đức năng” là chỉ cho tác dụng. Tác dụng của trí huệ rộng lớn vô biên, chân thật không thể nghĩ bàn, tận cùng hư không, biến khắp pháp giới đều là do đức năng của mình biến hiện.

Trí huệ và Đức năng của chúng ta có thật sự mất đi không? Quyết định là không. Đã không mất đi tại sao hiện giờ chúng ta trở nên khổ sở thế này? Bởi vì chúng ta mê. Nhưng mê như thế nào?.

Đức Phật nói: “Chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên không thể chứng đắc”. Đây là Đức Phật nói ra căn bệnh của chúng ta. Chỉ cần trừ bỏ vọng tưởng, chấp trước, sẽ khôi phục được trí huệ, đức năng. Vọng tưởng đã không thì trí huệ sẽ hiện tiền; chấp trước đã không thì trí huệ sẽ có mặt.

Về Trí huệ và Đức năng, trong quyển Vãng Sinh Luận, Bồ-tát Thiên Thân[5] đã nói: “Trí huệ chân thật, vô vi pháp thân”. Vọng tưởng đã không, trí huệ chân thật liền hiện tiền; chấp trước đã phá trừ thì pháp thân vô vi sẽ có mặt. Thành tựu cảnh giới này chính là quả vị Phật rốt ráo viên mãn, đó là thật sự tốt nghiệp trong giáo trình của Phật pháp.

Giáo trình của Phật pháp chia làm ba giai đoạn, giống như ba học vị của chế độ giáo dục đại học hiện đại, tốt nghiệp đại học là cử nhân, học nghiên cứu thêm những gì đã tốt nghiệp là thạc sĩ, tiến sĩ. Sự giáo dục của Đức Phật cũng có ba học vị. Học vị thấp nhất là A-la-hán[6]. Học vị cao hơn A-la-hán là Bồ-tát[7]. Học vị cao nhất là Phật[8].

Phật pháp nói: “Mọi người đều có Phật tính, mọi người đều sẽ thành Phật”. Điều này không có trong các tôn giáo khác, vì nhất định không thể ai cũng sẽ là thượng đế, còn Phật pháp đều là pháp bình đẳng, tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật. Chúng ta phải nhận thức rõ ý nghĩa A-la-hán, Bồ-tát, Phật. Danh từ ấy không phải thần minh mà là danh xưng học vị, đại biểu cho một giai đoạn đạt đến của tu đạo, chứng đắc Chính giác, gọi là A-la-hán; chứng đắc Chính đẳng Chính giác, gọi là Bồ-tát; chứng đắc Vô thượng Chính đẳng Chính giác, gọi là Phật.

Chúng ta không phải là mới mê một đời này, mà đời quá khứ đã mê, càng mê càng sâu, không cách nào giác ngộ. Thật ra, giác ngộ hoàn toàn không khó, khó ở điểm nào? Đó là không chịu buông bỏ vọng tưởng, chấp trước. Vọng tưởng, chấp trước chịu buông thì thành Phật rất dễ. Sự việc này không thể cầu nơi người khác, mà là cầu nơi chính mình. Nếu như không chịu buông bỏ vọng tưởng, chấp trước thì quả là khó, khó hay dễ do bàn tay ta điều khiển, không phải là do ngoại cảnh, hay người khác chi phối.

Mục tiêu tu học của Phật pháp là đi tìm nguồn gốc của mê, chúng ta phải thấy rõ điều này, sau đó chúng ta mới hiểu rõ giáo trình một đời của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, tức là Đại Tạng kinh được lưu truyền hiện nay. Nội dung của kinh chính là nói rõ chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Đây là giác ngộ rốt ráo viên mãn, thấu rõ thật tướng.

Mỗi người không phải chỉ có đời này, chúng ta có đời quá khứ; đời quá khứ còn có đời quá khứ nữa; chúng ta có đời vị lai, đời vị lai còn có đời vị lai nữa; sinh mạng vĩnh hằng, bất sinh bất diệt. Không gian hoạt động, phạm vi đời sống của chúng ta là vô lượng vô biên, không hạn cuộc nơi địa cầu bé nhỏ này.

Kinh Phật ghi: “Hư không pháp giới có vô lượng vô biên cõi nước của chư Phật Như Lai”. Cõi nước của Đức Phật là chỉ cho khu vực phạm vi giáo hoá của một Đức Phật. Kinh Phật gọi là Tam thiên đại thiên thế giới, mà trong kinh nói đại khái đó là một dãy ngân hà. Những năm gần đây, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ thuộc ngành khoa học nghiên cứu đại lục ở Trung Quốc bảo chúng ta rằng: Một dãy ngân hà, chính là một đơn vị thế giới, một tiểu thế giới mà Phật pháp đã giảng. Tam thiên đại thiên thế giới là mười ức dãy ngân hà. Đây là khu vực giáo hóa của một Đức Phật.

Các vị nghĩ xem: Nếu như không có trí huệ và đức năng rốt ráo viên mãn thì làm sao Đức Phật có thể giáo hóa một khu vực rộng lớn như thế? Khu vực mà Đức Phật nói giống như vậy ở trong thái không là vô lượng vô biên. Thế giới vô lượng vô biên, chư Phật cũng vô lượng vô biên, chúng sinh càng vô lượng vô biên. Đây đều là phạm vi hoạt động, không gian đời sống của chúng ta. Chúng ta phải làm thế nào để khôi phục lại trí huệ bản năng và không gian cuộc sống đại tự tại của chúng ta? Đây chính là những điều mà Phật pháp muốn dạy chúng ta. Vì vậy, tâm lượng của chúng ta phải mở rộng. Giống như Đức Phật: “Tâm trùm thái hư, lượng đồng sa giới”.Tâm lượng này có lớn không? Bằng hư không pháp giới!

Chúng ta thử nhìn lại chính mình, thử nhìn tất cả chúng sinh xung quanh, tâm lượng nhỏ thì không có cách nào bao dung; chỉ có hai vợ chồng mà vẫn còn tranh cãi, ly hôn náo loạn. Thế mới biết Đức Phật nói chúng ta mê, mê đến mức độ nào! Vì vậy, trong kinh Đức Phật thường than thở chúng sinh là: “Những người đáng thương”. Nếu như chúng sinh không có trí huệ mà mê hoặc điên đảo thì không đáng thương, không đáng xót; còn chúng sinh có trí huệ, có đức năng giống như chư Phật Như Lai mà hiện giờ vẫn cứ mê muội đến mức như vậy, đó mới thật là đáng thương xót!

Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài dạy học 49 năm, không biên soạn sách giáo khoa. Mỗi ngày giảng pháp cho đại chúng, có những pháp Ngài chủ động nói cho học trò nghe, còn đa số là học trò (đệ tử ) nêu câu hỏi, Đức Phật giải đáp; cho nên, kinh điển tức là sách giáo khoa. Tại sao đương thời Đức Phật không biên sách giáo khoa để lại cho người sau? Đức Khổng Tử cũng không biên soạn sách giáo khoa để lại cho người đời sau, đây là đạo lý gì? Chúng ta hãy thâm nhập để hiểu, thể hội, có thể đạt được một chút tin tức. Bởi vì từng chữ, từng câu mà Đức Phật đã nói đều là những lời nói sống động, không phải là lời nói chết cứng, vì vậy ghi chép rất khó khăn. Sau khi viết thành văn tự rất dễ biến thành vật chết. Đối với sự tu học của người sau thường nảy sinh nhiều chướng ngại. Then chốt vẫn là nảy sinh vọng tưởng, chấp trước, cũng chính là đối với Phật pháp đã nảy sinh vọng tưởng, chấp trước.

Cách dạy dỗ của bậc thánh nhân xuất thế gian, chúng ta cần phải thể hội ý của các ngài, không thể chấp trước vào lời nói văn tự. Cách dạy dỗ của thánh nhân là từ ngữ sống, không phải là lời nói chết. Đây mới là “trí huệ chân thật”. Nói theo cách hiện đại, ngôn ngữ của các ngài là vượt khỏi không gian, thời gian. Vì vượt khỏi thời gian nên ba nghìn năm trước, Phật dạy như vậy là chính xác. Vì vượt khỏi không gian nên đương thời Đức Thế Tôn dạy người Ấn Độ, người Ấn Độ được lợi ích, đến Trung Quốc dạy người Trung Quốc thì họ vẫn được lợi ích như vậy. Bất luận truyền đến quốc gia nào, chủng tộc nào thực hành theo lời dạy của Ngài đều có thể được lợi ích chân thật.

Chúng ta phải hiểu rõ nguyên tắc lớn, tiền đề lớn này mới có thể bàn luận đọc kinh, không cần tìm sự giải thích, vừa đọc vừa suy nghĩ xem ý nghĩa của đoạn này là gì? Đoạn kia có ý nghĩa gì? Đó chính là đã khởi vọng tưởng chấp trước. Vì kinh điển không có ý. Nếu như tìm ý trong kinh điển, há chẳng phải là vọng tưởng đó sao? Có ý thì không thể vượt khỏi thời gian, không gian, không có ý mới có thể vượt khỏi thời gian, không gian. Kinh là lời nói sống động, ba nghìn năm trước thì có cách giảng của ba nghìn năm trước, ở vào thời Trung Hoa Dân quốc hiện đại, thì có cách giảng cho Trung Hoa Dân quốc; với người Trung Quốc thì có cách giảng cho người Trung Quốc; đối với ngoại quốc thì có cách giảng cho người ngoại quốc. Tất cả đều được lợi ích. Nó không phải chỉ là một cách giảng. Nó không có ý nhưng khi vận dụng lại có vô lượng nghĩa.

Kinh Bát-nhã dạy chúng ta: “Bát-nhã vô tri” vì “không điều gì mà chẳng biết”. Kinh điển không có ý, vì nó có vô lượng nghĩa. Sự thật, mọi người phải nghĩ kỹ một chút mới có thể thấy được.

Lối chú giải mà chúng ta xem trong kinh điển chính là cách giải của thời đại ấy. Sự chú giải của triều Hán là cách giải của bộ kinh này ở thời kỳ triều Hán. Những cách giảng giải ở mỗi thời đại nhất định là mang lại lợi ích cho người đương thời. Mục tiêu chung của kinh chính là “chân thật trí huệ, pháp thân vô vi”. Cùng một bộ kinh nhưng sự chú giải của người đời Đường, nhất định là có cách giải của thời kỳ nhà Đường, không giống như cách giải của triều Hán; giả như tương đồng thì cần gì phải làm chú giải nữa? Cách giảng giải của triều Tống, triều Minh, triều Thanh đều không giống nhau, kinh văn một câu cũng không động nhưng cách giảng giải không như nhau. Đây chính là vô lượng nghĩa. Vì vậy kinh văn không có ý nhưng lúc dùng thì vô lượng ý nghĩa.

Nếu như kinh văn có ý thì chỉ có một ý, một cách giảng thì ý nghĩa đó là ý nghĩa chết, không thể giảng ra ý nghĩa thứ hai. Đây là chỗ khó của việc phiên dịch kinh điển. Người thời nay đề xướng việc phiên dịch kinh điển Phật thành văn bạch thoại, vừa dịch ra thì các kinh đều đã có ý. Chính là biến Phật pháp sống này thành Phật pháp chết. Từ điểm này, kinh văn không thể có nghĩa thứ hai. Đây là điều mà chúng ta cần phải nhận thức rõ ràng.

Những người phiên dịch qua các thời đại đều là bậc tu hành chứng quả, các vị không phải là nương theo mặt chữ để phiên dịch. Họ tự mình xác thật đã đạt đến cảnh giới đó, dù cho không thể đạt đến rốt ráo viên mãn thì cũng đạt đến cảnh giới Chính giác, Chính đẳng Chính giác[9]. Vì thế kinh văn được dịch ra không có sự thay đổi; tuy không thể phiên dịch được đến trăm phần trăm, đại khái cũng là tám chín mươi phần trăm. Quả thật, chúng ta có thể được thụ dụng.

Người thời nay phiên dịch kinh điển, họ có phải đã thâm nhập cảnh giới hay không? Nếu không thể vào cảnh giới này thì làm sao biết được chân tướng sự thật? Chân tướng sự thật mà Đức Phật đã chứng, các vị Bồ-tát, A-la-hán đã khế hội. Các ngài giảng ý nghĩa kinh cho chúng ta nghe, không phải là dùng tâm phàm phu, không phải là y văn giải nghĩa, cũng không phải là đem vọng tưởng, phân biệt chấp trước để giảng giải kinh, vậy các ngài dùng phương pháp nào để dịch kinh, giảng kinh? Đó là “chân thật trí huệ”.

Chân thật trí huệ từ đâu có? Nó đến từ sự khai ngộ của chính mình. Tại sao chúng ta không có cách nào khai ngộ? Tại sao các ngài có thể khai ngộ? Ngộ là vốn có, bản năng; Mê là vốn không. Trong “Đại Thừa Khởi Tín Luận”, Bồ-tát Mã Minh[10] đã nói: “Bản giác bản hữu, bất giác bản vô”.

Bất giác tức là mê, không có bản lai; còn trí huệ cứu cánh viên mãn là vốn có. Hiện tại vốn có đã không có. Nguyên nhân chính là do vọng tưởng chấp trước.
3. Đột phá chướng ngại của không gian và thời gian.

Sự tu hành của Phật pháp, then chốt ở ngay “thiền định”. Nhân giới được định, nhân định phát huệ; trí huệ đã mở thì bản năng khôi phục. Vì vậy, “định” là cầu nối trong sự tu hành của Phật pháp, ngay cả ba môn học “giới, định, huệ” trong Phật pháp cũng là cương lĩnh chung. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, bốn mươi chín năm giáo hoá tất cả chúng sinh chính là dạy giới, định, huệ.

“Giới” là dạy chúng ta tu phước, con người không thể không có phước báo, không có phước thì rất khổ, phước từ đâu mà có? Từ nơi đoạn ác tu thiện. Tất cả khổ nạn đều do ác nghiệp chiêu cảm ra. Hạnh phúc khoái lạc là quả báo có được từ thiện nghiệp. Nhân thiện nhất định có quả thiện, nhân ác nhất định có quả báo ác.

“Giới” là dạy chúng ta đoạn ác tu thiện. Vì vọng tưởng chấp trước trong ác nghiệp rất mãnh liệt, tâm thanh tịnh không dễ gì khôi phục. Thế nên đầu tiên Đức Phật dạy chúng ta “đoạn tất cả các ác, tu tất cả điều thiện”, nhập môn tại nơi đây và tu định tại nền tảng này.

“Định” là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, khởi lên tác dụng chính là trí huệ, nhất là tâm bình đẳng có mặt thì không điều gì không biết. Tại sao chúng ta không thể biết quá khứ vị lai? Vì sao không thể biết cõi nước này hay phương khác? Vì tâm của chúng ta không bình đẳng, có giới hạn. Giới hạn là chướng ngại. Giới hạn này không phải từ bên ngoài đến, mà là do chính mình tạo nên, làm dây buộc mình, do mình làm chướng ngại mình.

Phật pháp giảng giới học là nghĩa rộng, không phải là nghĩa hẹp. Ý nghĩa của sự trì giới, nói theo cách hiện đại, chính là tuân thủ pháp. Tuân theo phương pháp của thầy giáo dạy, không trái với nguyên tắc, nguyên lý của thầy, đây là “trì giới”. Chúng ta không thể xem trì giới như là trì năm giới, mười giới, tỳ-kheo giới, Bồ-tát giới. Nếu nhìn như thế thì phạm vi của nó rất nhỏ hẹp. Với cách nhìn này chẳng những không phá được chấp trước mà ngược lại càng thêm chấp trước; chấp vào năm giới, mười giới, Bồ-tát giới. Đức Phật dạy chúng ta phá chấp trước, chớ không phải dạy chúng ta tăng trưởng chấp trước.

Chúng ta không những vâng giữ lời răn dạy của Đức Phật mà cả pháp luật, đạo đức, phong tục tập quán của thế gian cũng đều phải tuân thủ. Như thế, xã hội mới có thể hài hoà, mọi người mới có thể sống hạnh phúc an vui. Trì giới là tuân thủ pháp, chúng ta nhất định phải nuôi dưỡng thành tựu quan niệm tuân thủ pháp, phải nhận chân được điều đó. Chúng ta có thể tuân thủ pháp thì tâm tự nhiên an. Tâm an, lý sẽ được hội. Tâm an, tâm thanh tịnh, con người sẽ thông minh; tâm thanh tịnh thì phiền não ít, vọng niệm ít, thấy sự lý tự nhiên sẽ hiểu rõ ràng hơn trước kia, đây chính là “khai trí huệ”. Sự lớn nhỏ của trí huệ và sự sâu cạn của công phu thiền định đã trở thành tỉ lệ thức; nói cách khác, có một phần tâm thanh tịnh thì có một phần trí huệ. Có hai phần tâm thanh tịnh thì có hai phần trí huệ. Tâm Phật là thanh tịnh viên mãn. Cho nên, trí huệ của Phật cũng viên mãn rốt ráo, năng lực của Ngài cũng vượt qua tất cả.

Các nhà khoa học hiện đại đã phát hiện ra trong không gian và thời gian quả thật có không ít sự chướng ngại. Thuật ngữ của khoa học là “thứ nguyên” “ba thứ nguyên”, “bốn thứ nguyên”, vô lượng thứ nguyên. Chướng ngại từ đâu phát sinh ra? Nó nảy sinh từ vọng tưởng, chấp trước. Phật pháp cao minh, sau khi được tâm thanh tịnh, vọng tưởng chấp trước sẽ không còn. Thời gian, không gian mà tất cả “thứ nguyên” có, hoàn toàn đều đột phá, mới thấy được rõ ràng chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Hiện giờ chúng ta chỉ có thể tiếp xúc được không gian ở cấp độ 3, độ 4 còn cấp độ 5 thì không tiếp xúc được. Thử hỏi không gian ở cấp độ vô hạn làm sao có thể đạt đến?

Thật ra, trong mộng thì có cảnh giới trong mộng, trong định thì có cảnh giới trong định. Tùy theo sự sâu cạn của công phu thiền định mà cảnh giới không giống nhau.

Chúng ta thấy trong kinh Địa Tạng, mẹ của cô Quang Mục đã qua đời. Cô biết mẫu thân khi còn sống tạo ra rất nhiều ác nghiệp, nhất định rơi vào đường ác, rốt cuộc bà đọa vào đâu? Cô không biết. Cô bèn cầu thỉnh A-la-hán giúp đỡ. A-la-hán nhập định liền thấy mẹ cô đang chịu khổ trong địa ngục. Điều này nói rõ thứ nguyên không gian của đường địa ngục và nhân gian không giống nhau. Nhập định thì có thể đột phá, có thể tiến vào không gian của độ thứ năm và độ thứ sáu, có thể đột phá thì có thể thấy được.

Từ trong điểm này, chúng ta quan sát, đây là sự thật, không phải là ảo giác. Khoa học đã chứng minh sự tồn tại của không gian ở cấp độ thứ 11. Công phu thiền định của bậc A-la-hán hoàn toàn không sâu lắm. Trong kinh Lăng-nghiêm, Đức Phật nói: “Sức định của bậc A-la-hán là Cửu thứ đệ định[11]. Công phu thiền định của Bồ-tát sâu hơn, Bồ-tát có rất nhiều cấp bậc”.

Nếu nhìn theo kinh Hoa Nghiêm thì từ Sơ trụ đến Đẳng giác[12], tổng cộng có bốn mươi mốt thứ bậc. Nói cách khác, công phu thiền định có bốn mươi mốt thứ bậc không đồng nhau. Thứ bậc càng cao thì thứ nguyên không gian bị đột phá càng nhiều. Như thế mới có thể thấy rõ ràng chân tướng của vũ trụ nhân sinh.

Những điều Đức Phật nói không phải là giả, những thế giới phương khác được miêu tả trong kinh điển, như thế giới Hoa Tạng của Đức Phật Tỳ-lô-giá-na trong kinh Hoa Nghiêm. Hay thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-di-đà trong kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ Phật. Những thế giới này và thứ nguyên của chúng ta nhất định không giống nhau. Vì thế giới này của chúng ta, những người tu hành trong quá khứ, tu “định” đạt đến trình độ tương đương quả vị Phật đã thấy được thế giới Cực Lạc. Trong truyện ký Cổ Đức của tông Tịnh Độ ghi rằng: “Đại sư Huệ Viễn[13] thuở đương thời, một đời đã từng ba lần thấy thế giới Cực Lạc, đều là thấy được ở trong lúc định”.

Đại sư Trí Giả[14] khi đọc kinh Pháp Hoa, ngài nhập định, thấy Đức Phật Thích-ca giảng kinh Pháp Hoa ở hội Linh Sơn trong một nghìn năm trước. Điều đó đã vượt qua thời gian, không gian. Núi Thiên Thai ở tỉnh Triết Giang Trung Quốc, cảnh giới mà đại sư thấy được là xứ Ấn Độ của hơn một nghìn năm trước. Sau khi xuất định, đại sư Trí Giả bảo đại chúng rằng: “Đức Phật Thích-ca giảng kinh Pháp Hoa, đến nay pháp hội vẫn chưa tan”. Những thí dụ kiểu này rất nhiều, rất nhiều.

Đạo lý này nhiều nhà khoa học đều khẳng định, nhưng họ nghĩ không ra là dùng cách nào có thể khiến cho thời gian đảo ngược, quay về quá khứ. Phật pháp có biện pháp, phương pháp dạy chúng ta tu định. “Định” là tâm thanh tịnh, trong Giáo quán gọi là “Chỉ quán”; Mật tông gọi là “Tương ưng”; pháp môn niệm Phật gọi là “Nhất tâm bất loạn”; Thiền tông gọi là “Thiền định”. Danh từ tuy khác nhau nhưng sự thật tương đồng.

Chúng ta hiện đang đề xướng kinh Vô Lượng Thọ là chọn lấy bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư. Bản này là bản hay nhất trong tất cả bản kinh của kinh Vô Lượng Thọ. Trên đề kinh nêu rõ ràng, người tu học Tịnh Độ hy vọng đạt đến “Đại Thừa,Vô Lượng Thọ, Trang nghiêm”. Ba điểm này là sở cầu, đặc biệt là “Vô Lượng Thọ”. Quả thật là vô lượng chứ chẳng phải là vô lượng của hữu lượng. “Trang nghiêm” là Chân-thiện-mỹ mà thế gian đã nói. Người thế gian nói Chân-thiện-mỹ là hữu danh vô thực, nhưng thế giới Tây phương Cực Lạc thật sự có Chân-thiện-mỹ. Vậy chúng ta dùng cách nào để cầu?

Đức Phật đã đề xuất cho chúng ta ba việc, đó là Thanh tịnh, Bình đẳng, Giác, tiêu chuẩn của tu hành. Người muốn được “Đại Thừa, Vô Lượng Thọ, Trang nghiêm” nhất định phải tu Thanh tịnh tâm, Bình đẳng tâm; chỉ cần tâm có thể làm được thanh tịnh, bình đẳng, tự nhiên được “Giác” đó. Trước mắt những việc mong cầu có thể được đáp đền như ý nguyện.

Vãng sinh thế giới Tây phương Cực Lạc, hiện tại có thể được hay không? Nhất định có thể được. Nếu như nói hiện tiền không thể làm được mà tương lai có thể được, thì sự việc này không những không thể bảo người khác tin được mà chúng ta cũng không tin nỗi. Hiện tại có thể làm được mà bạn không thể làm, chắc hẳn có lý do không thể làm.

Thuở xưa đại sư Chương Gia nói: “Hàng đệ tử Phật có cầu tất có ứng”. Có cầu mà không ứng là vì có chướng ngại. Nếu tìm ra chướng ngại, tiêu trừ sạch nó thì cảm ứng sẽ hiện tiền. Vì thế, ngay khi bạn cầu nguyện mà không có cảm ứng thì không thể trách Đức Phật và Bồ-tát không linh, điều đó không liên quan gì đến Phật và Bồ-tát cả.

Phật pháp hoàn toàn không có mê tín. “Mê” là điều Phật pháp cần phá trừ. Phật pháp là phá mê khai ngộ, có chỗ nào là mê tín?

Chẳng qua là chúng ta mê mà lại không tự biết còn cho rằng mình là Phật tử thuần thành, vì sao Phật và Bồ-tát không giúp đỡ chúng ta?

Phật và Bồ-tát như vị thần, đây hoàn toàn đã biến thành tôn giáo rồi. Vị thần có thể giúp đỡ chúng ta chăng? Thần không thể làm được điều đó.

Cổ nhân Trung Quốc từng nói: “Thông minh chính trực gọi là thần”.

Nếu chúng ta yêu cầu điều vô lý hoặc là cầu thần giúp đỡ thăng quan phát tài, mà ta lại còn tham ô phạm pháp thì chẳng lẽ thần cũng tham ô phạm pháp giống ta sao?

Chúng ta lễ thần, cúng dường ngài một ít ( hối lộ ngài), hy vọng ngài giúp ta phát tài một trăm vạn; đây quả là làm nhục thần minh, hết sức bất kính đối với thần minh. Từ đây mà quan sát, có thể biết người thế gian mê muội, điên đảo, nhầm lẫn, chúng ta hãy quay đầu lại nhìn xem, những lời Đức Phật đã nói trong kinh điển, bạn sẽ gật đầu chấp nhận từng chữ từng câu đều là lời chân thật.

Chúng ta đã biết pháp môn này, muốn nhận thức, muốn tu học, nhất định phải xem kỹ ý nghĩa chân thật của nó. Tôi đã từng làm một chuyên đề giảng giải tại Miami của nước Mỹ. Tựa đề là “Nhận thức Phật giáo”. Có vị đồng tu phát tâm ghi âm, chỉnh sửa xong văn chữ, in thành một quyển sách nhỏ, các vị hãy nên đọc kỹ.

Bản chất của Phật pháp, chúng ta đã nhận thức rõ thì phương hướng và mục tiêu của việc tu học mới không sai lầm. Sau đó mới có thể nói đến niệm Phật, thành Phật.
4. Pháp môn niệm Phật rất dễ thành tựu.

“Niệm Phật” là một trong những phương pháp tu hành của Phật pháp. “Thành Phật” là thành tựu trí huệ rốt ráo viên mãn.

Hiện giờ, sự nghiệp gia đình, cuộc sống mà chúng ta đang đối mặt, cho đến vấn đề sinh tử, chỉ có nương theo trí huệ chân thật, mới có thể giải quyết trọn vẹn. Không có trí huệ chân thật, hàng ngày dấy lên vọng tưởng, thế thì khổ càng chất chồng thêm khổ.

Chúng ta phải từ trong trí huệ chân thật, tìm lấy bản lai diện mục của chính mình, Thiền tông nói: “Bản lai diện mục trước khi cha mẹ sinh ra”, mới là cái ta chân chính. Phật pháp nói “vô ngã”. “Ngã” là quan niệm sai lầm của phàm phu. Cái này quả thật không có. Bốn đức: “Thường-Lạc-Ngã-Tịnh”, cái “Ngã” trong đó mới là Chân Ngã, tức là: Cái bản lai diện mục trước khi cha mẹ sinh ra mà thiền gia đã nói.

“Vô vi pháp thân” mà Bồ-tát Thiên Thân đã nói trong Vãng Sinh Luận cũng là Chân Ngã. Chân Ngã đã tìm được sẽ được đại tự tại. Dáng vẻ của tự tại là cái gì?

Ba mươi hai ứng thân đã nói trong phẩm Phổ Môn, chính là dáng vẻ của đại tự tại. Nếu có thể tìm được bản lai diện mục của mình thì sẽ có năng lực phân thân, có năng lực biến hoá, “Nên dùng thân nào để độ, sẽ hiện thân ấy”. Như thế thì tự tại biết bao! Hiện tại chúng ta rất đáng thương, không có pháp phân thân. Lần này tôi đến đây, các bạn đồng tu mong tôi ở lại một thời gian lâu hơn. Nếu như tôi có thể phân thân, Đài Nam phân một thân, Đài Bắc phân một thân, nước Mỹ một thân, suốt năm ở những địa phương ấy. Tự tại biết bao! Do đây có thể biết, tôi không chứng được “Vô vi pháp thân”. Chúng ta tin rằng đây là sự thật chính xác. Sự thật này tuy không thấy được, nhưng những lý luận này Đức Phật đã nói trong kinh điển. Chúng ta nghĩ kỹ có thể biết đó là điều chính xác, là điều có thể.

Nói cách khác, tâm thanh tịnh bình đẳng của chúng ta vẫn chưa đạt đến tiêu chuẩn này nên càng phải nỗ lực tu học hơn, chuyên cần hơn.

Phật pháp giống như trường đại học, trong đó có nhiều khoa, chúng ta nên chọn như thế nào? Nguyên tắc chọn lựa, không ở nơi bản thân của các khoa này, cũng chính là nói, không ở nơi pháp môn. Tại sao? Vì pháp môn bình đẳng, trong kinh thường nói: “Pháp môn bình đẳng, không hai không khác”. Bất kỳ pháp môn nào, tiêu chuẩn tu học đều là “Vô thượng Chính đẳng Chính giác”. Mỗi pháp môn đều có thể thông đạt, then chốt của sự lựa chọn ở nơi mình. Ví dụ như: Giảng đường này có nhiều cửa; mỗi cửa đều có thể bước vào, vì mỗi cửa đều như nhau, chọn cửa nào để bước vào đó là điều kiện của bản thân bạn. Ví như bạn đang đứng nơi cửa này, thuận tiện liền bước vào, vậy là quá dễ dàng. Nhưng nếu bạn chần chừ không bước vào cửa này, cứ đi vòng quanh muốn vào cửa kia, đến cửa lại hoài nghi, lại đi sang cửa khác, vòng tới vòng lui, quanh quẩn đã mấy mươi phút vẫn không bước vào cửa. Đây chẳng phải là tự chuốc lấy phiền não sao? Có rất nhiều người học Phật, phạm vào chứng bệnh này, đều quẩn quanh ngoài cửa, không biết “Nhất môn thâm nhập”.

Đương nhiên, cổ nhân nói: Pháp môn có khó có dễ, khó dễ cũng không ở tại pháp môn, mà ở ngay bản thân chúng ta. Chúng ta vọng tưởng nhiều, phiền não nặng, có một số pháp môn tu học sinh ra cảm giác dễ dàng. Đây là do căn tính của chúng sinh không đồng. Nếu như phiền não tập khí quá nặng, thì nên chọn lựa pháp môn nào để chúng ta học dễ thành tựu? Đó là “Pháp môn niệm Phật”. Pháp môn niệm Phật dễ dàng thành tựu. Đây là pháp môn mà tất cả chư Phật, Bồ-tát tiến cử cho chúng ta. Người có nghiệp chướng rất nặng cũng có thể thành tựu, tu học pháp môn khác thì không dễ thành tựu.

Trong nhiều pháp môn, tại sao chúng ta lại chọn pháp môn niệm Phật của tông Tịnh Độ để tu học? Điều này có hai nguyên nhân:

1. Vì căn tính của chúng ta và hoàn cảnh hiện tại, khiến cho chúng ta không có năng lực bước vào học thuật của tông phái khác. Kinh luận của những tông phái khác rất nhiều, phương pháp tu hành cũng không đơn giản. Trong thời đại này, chúng ta rất khó thích ứng, còn tông Tịnh Độ thì đơn giản hơn. Kinh điển của tông này chỉ có ba kinh một luận. Sau đó những bậc đại cổ đức lại bổ sung hai phẩm kinh, trở thành năm kinh Tịnh Độ, phân lượng đều rất ít, vô cùng thích hợp đối với người hiện đại.

Cư sĩ Ngụy Nguyên triều nhà Thanh đem phẩm “Phổ Hiền Bồ-tát hạnh nguyện” trong kinh Hoa Nghiêm đưa vào phía sau phẩm kinh thứ ba gọi là Tứ kinh Tịnh Độ. Sau đó Pháp sư Ấn Quang[15] lại đem chương “Đại Thế Chí Bồ-tát niệm Phật viên thông” trong kinh Lăng-nghiêm, đặt phụ lục phía sau phẩm kinh thứ tư thành năm kinh Tịnh Độ. Phân lượng của năm bộ kinh không nhiều. Đây là những kinh luận y cứ của tông Tịnh Độ, để cho chúng ta giảng giải quả thật rất tiện lợi; hơn nữa tông Tịnh Độ được sự khen ngợi của tất cả chư Phật. Chúng ta đi sâu vào kinh tạng, mới hiểu rõ pháp môn này là pháp môn vô thượng của sự tu hành chứng quả. Quả thật không thể nghĩ bàn! Theo hoàn cảnh hiện tại mà nói, đó là pháp môn tu học thích hợp nhất.

2. Theo lời dạy của Đức Phật, pháp của Đức Phật vận chuyển mười hai nghìn năm. Chính pháp một nghìn năm, Tượng pháp một nghìn năm, Mạt pháp mười nghìn năm. Theo sự ghi chép của lịch sử Trung quốc, năm nay (1994) là 3.020 năm sau khi Đức Phật diệt độ.

Nói cách khác, chúng ta đang ở trong giai đoạn mười nghìn năm thời kỳ Mạt pháp. Trong kinh Đại Tập, Đức Thế Tôn nói:

– Thời kỳ Chính pháp “Giới luật thành tựu”.

– Thời kỳ Tượng pháp “Thiền định thành tựu”.

– Thời kỳ Mạt pháp “Tịnh Độ thành tựu”.

Chúng ta sinh vào thời kỳ Mạt pháp, theo lời dạy của Đức Phật tu học Tịnh Độ, thì không nên trái lời Đức Phật dạy. Vì hai nhân tố này mà chúng ta quyết định chọn pháp môn niệm Phật.

Niệm Phật Công Đức phần 1
Niệm Phật Công Đức phần 2
Niệm Phật Công Đức phần 3
Niệm Phật Công Đức phần 4
Niệm Phật Công Đức phần phụ lục

Niệm Phật Công Đức phần 2

Niệm Phật Công Đức phần 2II. TRỌNG TÂM PHẬT PHÁP – HẠT NHÂN PHẬT PHÁP: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT.

1. Vui vẻ học tập – Học để ứng dụng.

Chúng ta biết rằng, Đức Phật thuyết pháp nhất định phải hợp với căn cơ của chúng sinh. Nói cách khác, nhất định phải khiến cho chúng sinh hiện tại được lợi ích nhất, tốt đẹp nhất. Giáo trình của thế gian cũng phải tuân thủ nguyên tắc “học để ứng dụng”. Nếu như những điều đã học không dùng được trong đời sống thì học thuật này không chân thật. Thật ra, Phật pháp hiện thực hơn loại học thuật này. Những điều mà Phật giáo dạy chúng ta nhất định phải có được lợi ích, được sử dụng ngay trong hiện tại. Nếu không thì ta học Phật pháp để làm gì? Vì căn tính, trí huệ, sở thích của mỗi chúng sinh không giống nhau, Đức Phật nói pháp cũng sẽ vô lượng vô biên. Pháp môn vô lượng vô biên, giống như có nhiều phân khoa trong trường học, mục đích là để thích hợp với nguyện vọng không giống nhau của học sinh. Nhờ đó, học sinh tu học mới có thể cảm nhận được sự hứng thú.

Cổ nhân Trung Quốc nói: “Đọc sách là niềm vui”, ý nói trong học tập có niềm vui. Học sinh thời hiện đại, học tập cảm thấy rất khổ sở, thậm chí bị ép học những điều không giống như sở thích và niềm say mê của chính mình, học tập kiểu này thì sẽ không được niềm vui. Phật pháp là tùy theo sự hoan hỷ và nguyện vọng chính mình, tu học pháp môn gì thì Đức Phật sẽ nói cho chúng ta pháp môn ấy. Đây là trí huệ và lòng từ bi vô lượng của Đức Phật.

Tất cả pháp môn mà Đức Phật đã nói, không cần chúng ta phải học toàn bộ. Ngay trong những phân khoa mà nhà trường đã mở, không phải là tất cả học sinh đều học hết. Đó là để bạn ngay lúc học, lựa chọn phân khoa mà mình yêu thích.

Đương thời, Đức Thế Tôn dạy học không có vấn đề chọn lựa khoa, bất cứ học trò nào thỉnh giáo, Đức Phật đều có năng lực quán sát căn tính và hoàn cảnh hiện tại của học trò, gồm cả đời quá khứ, hiện tại, vị lai của họ, Đức Phật đều biết. Vì vậy, Đức Phật thuyết pháp rất khế cơ, chỉ mấy lời khai đạo, học trò đã khai ngộ, hiểu rõ. Những ví dụ đó, chúng ta đã thấy rất nhiều trong kinh điển.
2. Kết tập và dịch kinh điển Phật.

Sau khi Đức Phật Niết-bàn, những học trò nhận thấy việc dạy học của Ngài có lợi ích rất lớn đối với chúng sinh và xã hội nhân loại. Nếu như những sự dạy dỗ này thất truyền thì thật đáng tiếc. Bấy giờ, các vị ấy liền đem bao lời dạy của Đức Phật đương thời, kết tập thành sách lưu truyền cho đời sau. Thuở ấy, Đức Phật dạy học không có sách giáo khoa, học trò cũng không có ghi chép vào nơi nào cả. Khi ấy, mọi người đặc biệt lễ thỉnh tôn giả A-nan[16] kết tập kinh điển. Tôn giả A-nan là người hầu Phật, thời gian theo Đức Phật lâu nhất. Trong học trình 49 năm của Đức Thế Tôn, ngài là người nghe Phật pháp hoàn chỉnh nhất. Thế là, Đức Thế Tôn liền giao cho tôn giả A-nan một sứ mệnh, muốn tương lai ngài phụ trách việc kết tập kinh điển.

Sức nhớ của tôn giả A-nan rất mạnh mẽ, ngài có khả năng trùng tuyên lại một lượt những lời kinh mà Đức Phật đã nói lúc ấy một cách rất hoàn chỉnh, không sai lầm. Khi kết tập kinh điển, mọi người liền đề cử ngài A-nan giảng lại, và chọn một số người để ghi chép. Mặt khác, có năm trăm vị A-la-hán đều là học trò của Đức Thế Tôn thời bấy giờ, nên thỉnh các ngài đến chứng minh. Những điều mà ngài A-nan đã giảng, nếu như có người đề xuất ý kiến: Câu nói này nên lược bỏ thì cần phải có mọi người đều đồng ý, đều tán thành. Như vậy, mới có thể được ghi chép lại thành kinh điển.

Câu đầu tiên trong kinh điển: “Tôi nghe như thế này”. “Tôi” là ngài A-nan tự xưng, chính ngài nghe Đức Phật thuyết pháp. Đức Phật nói thế nào thì ngài A-nan giảng như thế ấy. Sau khi ghi chép lại như vậy, gọi là kinh điển. Sự kết tập kinh điển, hết thảy có bốn lần. Lần thứ nhất, do tôn giả A-nan kết tập. Điều này không nói, lần kết tập sau cùng cách Đức Phật diệt độ 400 năm. Ai mà có sức nhớ tốt như thế? Khi ấy những kinh điển được lưu truyền lại, khó tránh khỏi có một số vấn đề tồn tại. Những vấn đề này đều là những điều mà chúng ta cần phải biết. Nếu người học khéo hiểu, nắm vững nguyên tắc, nắm vững cương lĩnh chung thì không có những sai lầm to lớn. Ngược lại, người không hiểu sẽ chấp trước kinh văn, chấp trước văn tự rất khổ sở.

Vận pháp của Phật có ba giai đoạn: Chính pháp, Tượng pháp, Mạt pháp.

Thời kỳchính pháp: Một nghìn năm sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn. Những nguyên tắc được lưu truyền, hướng dẫn mọi người tu học trên đại thể đều không có sự sai lầm. Vì vậy, người tu học đều có thể đoạn trừ phiền não, khai trí huệ, chứng quả vị.

Thời kỳ Tượng pháp: Một nghìn năm. Phật pháp càng truyền càng sai. Phật pháp sai lầm lẫn lộn trong đó đã dần dần biến chất. Phật pháp truyền đến Trung Quốc đúng một nghìn năm sau khi Đức Phật diệt độ, cũng chính là thời kỳ cuối củachính pháp, và là thời kỳ đầu của Tượng pháp. Những bậc đại đức Tổ sư thời xưa ở Trung Quốc từ trong công tác phiên dịch kinh điển, bất luận trong giao thông, nhân tài, vật lực, in ấn và lưu thông, đều có sự hạn chế rất nhiều, nhưng các ngài đã khắc phục được những khó khăn ấy, phiên dịch kinh điển Phạn văn thành Trung văn. Công việc này bắt đầu từ đời Hậu Hán mãi đến triều Tống, kéo dài tám trăm năm. Từ đời Tống về sau, số lượng kinh điển được phiên dịch đã ít hơn. Trong lúc ấy, số lượng kinh văn tiếng Phạn ở Ấn Độ được truyền đến Trung Quốc rất nhiều. Một phần là do những vị cao tăng ở Ấn Độ mang đến Trung Quốc để truyền bá; mặt khác là do các vị đại đức ở Trung Quốc đến Ấn Độ du học mang về. Người phiên dịch thành tựu nổi bậc nhất là đại sư Huyền Trang. Các ngài đã mang về nhiều kinh điển tiếng Phạn, và còn chọn những kinh điển hay nhất trong số đó, thích hợp nhất với sự tu học của người Trung Quốc để phiên dịch. Vì vậy vẫn còn nhiều kinh điển chưa được dịch ra. Đại Tạng kinh của Trung Quốc hầu hết không phải là toàn bộ kinh điển mà Đức Phật Thích-ca đã nói trong bốn mươi chín năm. Chỉ có thể nói là tinh hoa của tất cả kinh mà Đức Phật đã nói trong bốn mươi chín năm.

Người học Phật thường có một số nghi vấn: Kinh điển tiếng Phạn ban đầu, vì sao không được bảo tồn lưu truyền cho đời sau, mà chỉ bảo lưu bản dịch của Trung hoa? Nguyên văn bản Phạn vì sao lại mất?

Trong quá khứ, tôi đã từng thắc mắc với tiên sinh Phương Đông Mỹ: “Kinh điển tiếng Phạn đã đến nơi nào rồi?” Ngài bảo tôi: “Bản dịch Trung văn siêu việt hơn bản Phạn văn, ý tứ bản dịch được dịch rất chính xác, kỹ xảo biểu đạt văn tự cũng hay, đẹp hơn bản Phạn. Lòng tự tin của cổ nhân Trung Quốc rất mạnh, kinh Phật chỉ đọc bản dịch tiếng Trung Quốc, chứ không cần đọc bản văn tiếng Phạn”. Khẩu khí này lớn biết bao! Nghĩ xem, nó cũng đầy đạo lý.

Phương tiên sinh nói thế, tuy không nói ra căn cứ, nhưng nói rất hay, đã giải đáp vấn đề của chúng ta. Vì vậy, đối với bản dịch tiếng Trung Quốc, chúng ta nhất định phải có lòng tin. Đương nhiên bản dịch cũng có phần ưu liệt, hay và dở. Đạo tràng mà có nhiều nhân tài, trình độ văn học đạt đến chỗ sâu xa thì kinh được dịch rất hay, ngược lại sẽ dở. Chúng ta mở lần lượt Đại Tạng kinh ra thì có thể thấy.

Cùng một bản văn Phạn, cũng được phiên dịch nhiều lần. Ví dụ kinh Kim Cang cũng có sáu bản dịch giống nhau. Hiện thời những bản dịch được lưu hành rộng nhất là bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập[17]; Bát-nhã Tâm kinh cũng có mười mấy bản dịch nhưng nội dung đều không khác nhau bao nhiêu. Bất kỳ bản dịch nào cũng hay, cũng rất hiếm có. Nếu như chúng ta làm công tác nghiên cứu mà không phải là tu học thì có thể y cứ vào một bản dịch làm chủ yếu, còn lấy những bản dịch khác để tham khảo. Điều này có thể khiến cho chúng ta có thể lý giải đầy đủ ý nghĩa kinh. Được nhiều bản dịch đối với người theo công việc nghiên cứu, là có sự giúp đỡ rất lớn.
3. Tính tất yếu và nguyên tắc cần tuân thủ của việc hội tập bản kinh Vô Lượng Thọ.

Kinh điển chủ yếu nhất của pháp môn Tịnh Độ là kinh Vô Lượng Thọ. Căn cứ vào sự khảo chứng của bậc đại đức ngày xưa, Phật đã nhiều lần tuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ. Tất cả kinh, Phật nói chỉ một lần. Nếu như bộ kinh này không quan trọng thì Phật không nói nhiều lần. Như vậy, kinh Vô Lượng Thọ từ thời Hậu Hán đến giữa triều đại Tống, từng được phiên dịch qua mười hai lần. Do vì những kinh sách thời cổ đại không dễ gì gìn giữ, trong đó bảy loại đã thất truyền, chỉ còn lại năm loại. Hiện giờ đã đưa vào Đại Tạng kinh. Bản dịch của năm loại này không giống nhau, nội dung thêm bớt rất nhiều. Từ đó có thể đoán được không phải chỉ có một nguyên bản Phạn. Tuy nhiên, dù có nhiều cách phiên dịch khác nhau, cũng không đến nỗi thoát ra quá lớn. Sự thoát ra quá lớn có thể đoán không phải chỉ một lần tuyên giảng mà là đã giảng nhiều lần. Do vậy có thể biết, kinh Vô Lượng Thọ có nguyên bản Phạn không giống nhau. Đây là điều mà chúng ta phải đặc biệt chú ý!

Từ điểm này, chúng ta hiểu được, Đức Thế Tôn giáo hoá chúng sinh, đặc biệt dụng tâm đối với pháp môn Niệm Phật của tông Tịnh Độ. Đương nhiên đối với pháp môn này thì đặc biệt thù thắng.

Trong kinh Pháp Diệt Tận, Đức Phật đã nói, tương lai mạch pháp của Đức Phật, sau mười hai nghìn năm, những kinh điển đã có hoàn toàn tiêu mất hết, kinh Vô Lượng Thọ vẫn còn lưu lại một trăm năm. Sau một trăm năm, kinh Vô Lượng Thọ cũng biến mất. Hồng danh sáu chữ “Nam-mô A-di-đà Phật” còn lưu lại một trăm năm. Do đó có thể biết công đức lợi ích của danh hiệu Phật không thể nghĩ bàn. Trong thời kỳ đó, chúng sinh nào có thể nghe câu danh hiệu này, niệm tụng câu danh hiệu này, đều có thể đạt được lợi ích thật sự. Đây là điểm thù thắng nhất của tông Tịnh Độ trong tất cả pháp môn.

Bản dịch của kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều nên sự thêm bớt ấy lớn biết bao. Trên phương diện tu học của người xưa đã nảy sinh ra sự khó khăn, có một số ý bản này có, bản kia không. Có một số ý bản này không, bản kia có, cần phải đọc qua năm bản dịch thì nghĩa kinh mới có thể viên mãn. Nhưng muốn có được cả thảy năm bản dịch trong thời cổ đại rất khó. Thế nên, người xưa mới nghĩ ra cách làm bản hội tập.

Bản hội tập lần thứ nhất là do cư sĩ Vương Long Thơ triều Tống, được đưa vào trong Đại Tạng kinh, với tên là “kinh Đại A-di-đà”. Bản của cư sĩ Long Thơ là bản hội tập của bốn bản dịch nguyên tác, không có bộ “Vô Lượng Thọ Như Lai hội” trong kinh Đại Bảo Tích, được dịch vào đời Đường. Bộ kinh trong bản dịch ở đời Đường này có một số văn kinh quan trọng, mà trong bốn bản dịch kia đều không có. Vì vậy, bản hội tập của cư sĩ Long Thơ, nghĩa kinh vẫn chưa hoàn chỉnh. Đây là sự việc rất đáng tiếc. Cư sĩ Long Thơ tu hành rất thành tựu, ông đứng niệm Phật mà vãng sinh. Sự hiện thân thuyết pháp ấy minh chứng đầy đủ cho chúng ta thấy. Do đây có thể biết hội tập là điều cần thiết. Đối với sự kế thừa của tông Tịnh Độ, cư sĩ có một sự cống hiến nhất định.

Hội tập lần thứ hai là do cư sĩ Bành Tế Thanh, vào khoảng niên hiệu Càn Long, triều Thanh. Ông xuất thân từ dòng quý tộc, rất thông minh. Tuổi còn nhỏ đã đỗ tiến sĩ và đã có sự thành tựu nổi bật trong Phật pháp, quả thật là Bồ-tát hiện thân trở lại. Ông chọn bản của ngài Khương Tăng Khải[18], cắt bớt những chỗ khó đọc, trùng lặp, làm thành một quyển rõ ràng chi tiết. Ông lại chú giải cho quyển sách này tựa đề là “Vô Lượng Thọ kinh Khởi Tín Luận”.

Hội tập lần thứ ba do cư sĩ Ngụy Nguyên, vào giữa niên hiệu Hàm Phong triều Thanh, ông hội tập cả năm bản dịch, hoàn chỉnh hơn so với bản của cư sĩ Vương Long Thơ. Đây là bản hội tập rất tốt.

Các vị có thể xem trong “Ấn Quang pháp sư Văn sao”. Đại lão pháp sư Ấn Quang đều có lời phê bình đối với bản dịch của cư sĩ Ngụy Nguyên và Vương Long Thơ, nhưng quan sát kỹ, lão pháp sư hoàn toàn không phải phản đối sự hội tập mà là phản đối những chỗ không đúng. Những chỗ nào không đúng? Hội tập và dịch kinh không giống nhau. Dịch kinh có thể y cứ kinh văn, dùng ý của mình châm chước câu, từ, còn hội tập thì không được thế. Điều quan trọng của hội tập là lấy nguyên văn của kinh, không thể thay đổi một chữ. Hai vị cư sĩ thật là học gia đại học, thế pháp, Phật pháp đều thông suốt. Cư sĩ Vương Long Thơ sửa đổi nguyên văn khá hay. Còn cư sĩ Ngụy Nguyên sửa đổi cũng không có vấn đề. Nhưng pháp sư nói: “Nếu như được phép như vậy, người sau không hiểu rõ, cũng tùy tiện sửa đổi. Kinh Phật lưu truyền đến đời sau còn có thể xem được sao? Lại sửa đổi kinh văn”. Ví dụ này không được triển khai. Năm bản dịch nguyên tác có thể tập hợp lại biên tập bản mới, nhưng không thể động đến một chữ, điều này rất quan trọng. Sự việc này các vị hãy xem bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư trong bài văn tựa, Lão cư sĩ Mai Quang Hy nói rất rõ, hội tập là không thể sửa lại một chữ.

Hội tập lần thứ tư là do lão cư sĩ Hạ Liên Cư, vào Dân quốc năm thứ nhất (1911), cư sĩ Hạ đã bế quan ba năm hoàn thành bản hội tập này. Đoạn văn kinh Đức Phật A-di-đà phát 48 đại nguyện trong phần “Phát đại thệ nguyện”, phẩm thứ sáu của kinh Vô Lượng Thọ, đương thời do Hoà thượng Huệ Minh là người của Thông Tông, Thông giáo, cùng với cư sĩ Mai Quang Hy và Hạ Liên Cư, ba người đồng hợp tác làm. Họ phải mất thời gian ba tháng mới tập hợp xong đoạn kinh văn này. Do đó, chúng ta có thể hiểu được dụng tâm và sự cẩn thận của các ngài.

Sau khi bản hội tập ra đời, người hưởng ứng đầu tiên là pháp sư Từ Chu, ngài rất khâm phục bản hội tập này, hơn nữa còn làm bài phê và lời tựa cho bản hội tập. Bản hội tập đương thời chỉ phân làm 37 phẩm, bản hiện giờ là 48 phẩm. Đây là những phẩm sau này được sao lục và tu sửa đính chính. Mười năm mới tu sửa thành một bản cố định hiện tại. Đây là bản do cư sĩ Hạ Liên Cư đã dùng công phu mười năm để hoàn thành, quả thật không dễ dàng! Đáng tiếc là pháp sư Ấn Quang không thấy được. Nếu như ngài thấy được, có lẽ sẽ gật đầu nói: “Bản hội tập này thật tuyệt vời”. Lỗi hội tập của người xưa hoàn toàn không có, có thể lưu hành. Thật là mỗi chữ mỗi câu đều là nguyên văn, không thay đổi một chữ nào.

Hơn nữa việc lấy bỏ đều rất thỏa đáng, đích xác là sự tập đại thành lớn lao của năm bản dịch nguyên tác. Các vị đại đức đương thời, đều cho rằng bản này là bản tốt nhất của kinh Vô Lượng Thọ.

Pháp sư Từ Chu là vị đại đức rất có địa vị ở đại lục Trung Quốc. Ngài giới luật tinh nghiêm, đi đến khắp nơi giảng kinh, hoằng pháp lợi sinh. Ngài có hai vị học trò ở Đài Loan, chính là pháp sư Sám Vân và hoà thượng Đạo Nguyên được mọi người tôn kính.

Nếu cho rằng bản hội tập của cư sĩ Hạ có vấn đề, nhưng sư phụ của hai vị hoà thượng Đạo Nguyên và pháp sư Sám Vân đều thừa nhận bộ kinh này, còn làm bài phê cho bản kinh thì còn có vấn đề gì nữa? Vì vậy, chúng ta phải nên có đủ lòng tin sâu sắc đối với bản kinh này. Đây là pháp bảo chính xác, trước mắt chúng ta không thể bỏ lỡ.

Hơn ba mươi năm hoằng pháp, tôi đã giảng những bộ kinh như: kinh Hoa Nghiêm, kinh Lăng-nghiêm, kinh Kim Cang. Sau khi thầy Lý vãng sinh, tôi mới bắt đầu giảng bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ do chính mình thể nghiệm được, giảng kinh Hoa Nghiêm, sở đắc không bằng giảng kinh Vô Lượng Thọ. Tôi cảm nhận sâu sắc công đức hoằng dương kinh Vô Lượng Thọ không thể nghĩ bàn, được lực gia trì của chư Phật không thể nghĩ bàn, công đức tiêu trừ nghiệp chướng không thể nghĩ bàn. Vì vậy, lòng tin của tôi đối với bộ kinh này càng sâu sắc hơn, tu học theo bộ kinh này mà tiêu trừ nghiệp chướng, được lợi ích rất nhiều. Người được vãng sinh, điềm lành rất tốt, đủ để minh chứng công đức của bộ kinh này, quả thật là sự gia trì, oai thần của mười phương chư Phật Như Lai.

Nếu như chúng ta nảy sinh sự hoài nghi đối với bản hội tập này, không thể tiếp nhận, đó là vì thiện căn, phước đức ta quá ít. Nếu như không thể tiếp nhận, thì cũng phải đọc hết năm bản dịch nguyên tác. Như thế mới có thể đạt được nghĩa kinh hoàn chỉnh của kinh Vô Lượng Thọ. Bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư là sự tập đại thành của năm bản dịch nguyên tác. Điều này chúng ta phải nhận thức rõ ràng. Bản hội tập nơi hải ngoại, đại lục Trung Quốc đã được lưu hành trên toàn thế giới đều không chướng ngại. Vì vậy, nhờ đọc bản hội tập mà người niệm Phật rất nhiều. Đây là hiện tượng rất tốt, chúng ta thấy Phật pháp rất có tiền đồ, thật là rạng rỡ.
4. Pháp môn niệm Phật chẳng phải điều mà người tầm thường có thể tin.

Nội dung của kinh Vô Lượng Thọ, Đức Thế Tôn giới thiệu rõ ràng cho chúng ta về hiện thực của thế giới Tây phương Cực Lạc, có lý luận, có sự thật, có nhân, có quả, đầy đủ mọi mặt được Ngài giới thiệu khá hoàn thiện. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật là bổ sung cho kinh Vô Lượng Thọ, đặc biệt là bổ sung cho phương pháp tu học. Phương pháp tu học của kinh Vô Lượng Thọ chỉ nói giản lược cương lĩnh của “ba bậc vãng sinh”. Quán kinh giảng cho chúng ta “ba bậc chín phẩm” dạy chúng ta phương pháp niệm Phật như: Quán tưởng niệm Phật, Quán tượng niệm Phật, Trì danh niệm Phật. Những phương pháp trên được giảng rất tỉ mỉ, giới thiệu rõ nhân quả của chín phẩm, và nguyên lý vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”.

“Vãng Sinh Luận” là báo cáo tâm đắc tu học kinh Vô Lượng Thọ của Bồ-tát Thế Thân. Phương pháp niệm Phật của ngài là chọn dùng “năm pháp môn niệm Phật”. Năm pháp môn này có được từ kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Nội dung của pháp môn ấy là:

1. Lễ Phật.

2. Tán thán.

3. Tác nguyện.[19]

4. Quán sát, không phải là “quán tưởng” mà là “quán sát”( Sát là hiểu rõ ràng, ý tứ càng sâu sắc).
5. Hồi hướng.

Bồ-tát Thế Thân niệm Phật, mỗi mỗi câu danh hiệu Phật đều có đầy đủ năm ý này. Ngài do tu học năm pháp niệm này mà thành tựu. Sau đó truyền đến Trung Quốc, Pháp sư Đàm Loan[20] chọn lấy pháp môn này. Đại sư Thiện Đạo[21] không những chọn mà còn hoằng dương pháp môn này.

Phương pháp lý luận tu học của tông Tịnh Độ, đến đây đã khá đầy đủ. Bộ kinh sau cùng mà Đức Phật nói là kinh A-di-đà, mục đích Ngài muốn khích lệ chúng ta phải tu học pháp môn niệm Phật. Trong kinh A-di-đà, Đức Thế Tôn đã bốn lần khích lệ, có thể cho thấy tấm lòng ân cần khuyên bảo của Ngài đối với chúng ta. Quả nhiên chúng ta đã giác ngộ, nghe lời Đức Phật, chọn lấy pháp môn niệm Phật. Chân thành niệm Phật, một đời này nhất định sẽ thành Phật.

Đây là phương pháp “hiện đời thành Phật”, không cần quanh co vòng vèo. Tuy Đức Phật sách tấn khích lệ thiết tha khuyên bảo như thế, nhưng người học Phật được mấy ai tiếp nhận, chịu tin tưởng? Tại sao Đức Phật khuyến thỉnh như thế, mà mọi người vẫn không tiếp nhận? Điều này Đức Phật đã giảng rất rõ. Vì pháp môn niệm Phật là “pháp khó tin”. Nếu Đức Phật vừa khuyến thỉnh, mọi người liền tin ngay thì sao gọi là “khó tin”? Đức Phật khuyên như thế, chúng sinh vẫn không tin. Đó mới gọi là “khó tin”! Vì vậy, thông thường mới nghe khuyên mà có thể tin ngay, người này không phải là hạng tầm thường. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật nói: “Người này không phải phàm nhân”. Những người mà có thể tiếp nhận, chắc chắn đã có căn lành tu tập tích chứa trong vô lượng kiếp đến nay, phước đức vô lượng vô biên. Đời này gặp pháp môn này, căn lành thành tựu, hoàn toàn tiếp nhận. Thật tương ưng với câu được nói trong kinh A-di-đà: “Không thể dùng một ít nhân duyên, phước đức, thiện căn mà được sinh về cõi nước kia”.

Trong kinh A-di-đà nói “không thể nhờ một ít căn lành”. Chúng ta không biết mức độ căn lành nhiều đến mức nào? Nhưng xem trong quyển kinh Vô Lượng Thọ, vương tử A-xà-thế[22] cùng năm vị trưởng giả, vô lượng kiếp trong quá khứ từng cúng dường bốn trăm ức Phật. Thiện căn sâu dày như thế, mà khi gặp được kinh Vô Lượng Thọ, họ vẫn không chịu phát nguyện cầu xin về thế giới Tây phương Cực Lạc, chỉ phát nguyện: “Tương lai con thành Phật cũng sẽ giống như Đức Phật A-di-đà”.

Hiện giờ chúng ta khuyên một người niệm Phật. Nếu anh ta có thể không hoài nghi, lập tức tiếp nhận thì biết rằng căn lành anh ta đã tích lũy từ thời quá khứ, hơn sự cúng dường bốn trăm ức Phật. Thiện căn chưa thành thục, không cách nào tin Tịnh Độ, Đức Phật cũng không có biện pháp giúp đỡ cho; được căn lành thành thục có thể tin Tịnh Độ, điều này quả thật không thể nghĩ bàn!

Khi căn lành của bạn thành thục, không chỉ bổn nguyện của Đức Phật A-di-đà gia hộ bạn mà cả mười phương chư Phật, vị nào cũng gia hộ bạn. Hiện giờ trong hội này, mọi người nghe đều hoan hỷ, không phải vì tôi giảng hay, nên các vị mới hoan hỷ, mà là nhờ hào quang Phật gia trì; cũng chính là từ trường của chư Phật gia hộ chúng ta, để chúng ta vào đạo tràng liền sinh tâm hoan hỷ. Trong kinh thường nói, y báochính báo của thế giới Tây phương trang nghiêm, bậc Bồ-tát Đẳng giác hoàn toàn không cách nào hiểu rõ. Nếu như không được Phật lực gia hộ thì Bồ-tát cũng không thể nói, hạng phàm phu kém cỏi như chúng ta làm sao nói được.

Có thể nói, có thể nghe, đều do lực Phật gia hộ, đều là do căn lành thành thục từ vô lượng kiếp đến nay của mình. Đây là nhân duyên rất khó được, hiện tiền căn lành, phước đức, nhân duyên của chúng ta đầy đủ, như kinh A-di-đà ghi: “Không thể nhờ chút căn lành, phước đức, nhân duyên mà được sinh về cõi nước kia”. Ba điều này, chúng ta đều có đủ thì nhất định được sinh về Tịnh Độ.

Chúng ta phải quý tiếc cơ hội này, pháp duyên này, vì phàm phu chúng ta tập khí phiền não rất nặng, sẽ xoay chuyển theo cảnh giới. Nếu như không bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển thì một đời này quyết định thành tựu. Bị cảnh chuyển chính là tâm không làm chủ được mình, phải chịu sự mê hoặc của ngoại cảnh: tiền của, sắc đẹp, tiếng tăm, uống ăn và ngủ nghỉ. Tuy có căn lành phúc đức, nhưng do nhân duyên không tốt nên vẫn không thể vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Tập khí của chúng ta rất nặng, làm thế nào không bị ngoại cảnh mê hoặc? Chúng ta phải tiếp nhận sự khuyến cáo của Tổ sư. Tổ sư hướng dẫn chúng ta “Thâm nhập một môn, tu tập lâu dài”.Và theo một thầy chuyên tu một pháp môn, như vậy chúng ta mới nắm vững.

Then chốt của tu học Phật pháp ở chỗ “chuyên tinh”, không thể xen tạp, vừa xen tạp thì đã hư rồi. Những bạn đồng tu thời hiện đại, mang chứng bệnh chung, là tạp loạn: Tạp tu, loạn tu. Ngay như việc học trong trường có rất nhiều bộ môn, giờ này nghe môn này, giờ học sau nghe môn khác. Nghe như thế đến bốn trăm năm cũng không tốt nghiệp. Vì không chuyên nhất. Nếu như chuyên nhất một bộ môn, thì bốn năm sẽ tốt nghiệp, học vị sẽ nắm chắc trong tay. Còn không chuyên nhất, môn nào cũng muốn học, môn nào cũng muốn nghe, môn nào cũng muốn tiếp xúc, xào nấu thành một thứ lộn xộn. Thế thì đã hư rồi. Đây là căn bệnh chung của người học Phật thời hiện đại. Cương lĩnh chung của Phật pháp là ba môn học: Giới- định-huệ. Định là then chốt (Định là pháp môn đầu tiên) nhưng chúng ta đã lơ đãng. Đó là nguyên nhân chúng ta đã bỏ phí rất nhiều thời gian, tinh lực mà không có được sự thành tựu. Bây giờ đã hiểu rõ, chúng ta cần phải nhìn lại. Ngày xưa tôi ở Đài Trung cầu học. Thầy Lý đã khiêm tốn nói: “Năng lực của tôi chỉ có thể dạy ông năm năm”. Thầy khuyên tôi đến học với pháp sư Ấn Quang, nhưng Ấn Tổ đã không còn, làm sao học với ngài?

Tôn thờ tổ làm thầy, tôi chuyên đọc “Ấn Quang pháp sư Văn sao ”, chuyên tu theo lời dạy của ngài, Tổ Ấn Quang dạy người rất nghiêm. Có vị đệ tử đến chùa ở núi Linh Nham, tham bái Tổ, ngài mắng: “Ông chạy đến đây, lãng phí tinh thần, lãng phí tiền của, mau quay về mà thật tâm niệm Phật”. Ấn Tổ đã dạy người như thế. Tôi nghĩ đạo tràng của sư phụ mình không thể đi, thì đạo tràng ở nơi khác cũng không cần đi. Như thế, tâm mới có thể định, công phu niệm Phật mới có thể thành khối, mới có thể nhất tâm bất loạn. Nguyện vọng của pháp sư là mong mỏi chúng ta mai sau thật sự có thể vãng sinh, không phải đến để cho thêm phần náo nhiệt.

Học trò thời xưa ở Trung Quốc và học trò thời nay không giống nhau, xác thật là y chỉ một vị thầy, thành tựu dưới sự dạy dỗ của thầy. Những tông phái thiền tông thời xưa, đại triệt, đại ngộ, minh tâm kiến tính, học giáo lý phải thông suốt, hiểu rõ ràng mới có tư cách ra ngoài tham học. Nếu như không có đại triệt, đại ngộ, hiểu rõ thông suốt thì không có tư cách ra ngoài tham học, hãy thật thà theo thầy tham học, một bước cũng không được tách rời thầy. Cách dạy của Tịnh Độ tông và Thiền tông khác nhau. Tịnh Độ tông không có tham học. Dù cho niệm Phật, niệm đến lý nhất tâm bất loạn vẫn cứ thành tâm niệm. Ngoài một câu niệm “A-di-đà Phật” ra, vấn đề gì cũng không có. Trong chương: “Đại Thế Chí Bồ-tát niệm Phật viên thông”, cho chúng ta biết một câu “A-di-đà Phật” từ sơ phát tâm cho đến thành Phật đều “nhiếp sáu căn, tịnh niệm tương tục, không mượn phương tiện, tự tâm khai mở”, còn phải tham học cái gì nữa. Đây thật là điều thù thắng của tông Tịnh Độ.

Kinh Kim Cang, kinh điển nổi tiếng của Trung Quốc. Nội dung của kinh chính là hai vấn đề mà tôn giả Tu-bồ-đề[23] thỉnh giáo Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.

1. “Làm thế nào hàng phục tâm mình?” Đây là vấn đề lớn lao, phàm phu chúng ta tâm tán loạn, vọng niệm rất nhiều, làm thế nào có thể hàng phục vọng niệm, khiến cho chúng ta đạt đến thanh tịnh?

2. “Làm thế nào an trụ tâm?” Tâm của chúng ta phải an trụ nơi nào? Đây là vấn đề mà người tu hành đều có. Kinh Kim Cang chính là giải đáp hai vấn đề này. Kinh Kim Cang là cương lĩnh chung của kinh Bát-nhã. Nếu như hai vấn đề này không được giải đáp thì kinh Kim Cang chỉ là đọc tụng suông. Nói cách khác, pháp môn Bát-nhã, nếu bạn không có duyên phận thì không có năng lực để tu học. Tịnh Độ tông giải đáp hai vấn đề này tốt nhất.

“Làm thế nào hàng phục tâm mình?”.

“Nam-mô A-di-đà Phật”. So với thiền tông giáo hoá thì đây là phương tiện dễ dàng cứu cánh, triệt để. Chỉ dùng một câu danh hiệu Phật, hàng phục vọng tưởng tạp niệm ngay.

“Nên trụ tâm như thế nào?”.

“Nam-mô A-di-đà Phật”. Thật đơn giản biết bao! Đem tâm an trụ trong danh hiệu Phật, quyết định không có sai lầm. Vấn đề mà tôn giả Tu-bồ-đề hỏi, Đức Thích-ca trả lời như thế, chúng ta càng nghe càng mê hoặc. Một câu “A-di-đà Phật” của tông Tịnh Độ đã giải đáp hoàn toàn. Tất cả vấn đề mà Thiền tông giáo hạ dạy, một câu “Nam-mô A-di-đà Phật” đã giải quyết toàn bộ sự việc. Từ đây có thể biết, công đức của danh hiệu Phật thật sự không thể nghĩ bàn. Đây là chỗ thù thắng không gì sánh bằng của pháp môn Tịnh Độ.

5. A-di-đà Phật là đỉnh cao của Phật pháp.

Vô Lượng Thọ kinh giải của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, đem so sánh tất cả những pháp môn tu hành từ xưa đến nay mà Tổ sư đại đức đã thực hành viết ra khá rõ. Những bộ kinh mà các bậc đại đức xưa ở thời đại Tùy Đường đang cùng nghiên cứu so với tất cả bộ kinh mà Đức Phật Thích-ca đã nói trong 49 năm thì bộ nào thù thắng nhất? Bộ kinh nào đứng nhất? Mọi người đều công nhận kinh Hoa Nghiêm đứng nhất, kinh Hoa Nghiêm là cương lĩnh chung của tất cả pháp môn trong 49 năm Đức Phật Thích-ca đã nói. Giống như khái luận của sách học thời hiện đại. Kinh Hoa Nghiêm là Phật học khái luận, là pháp luân viên mãn nhất, kinh Hoa Nghiêm so với kinh Vô Lượng Thọ thì kinh Vô Lượng Thọ là bậc nhất. Bởi vì, kinh Hoa Nghiêm đến sau cùng, chỉ có mười đại nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền hướng dẫn quy về Cực Lạc mới viên mãn. Nếu như bốn mươi mốt pháp thân đại sĩ nơi thế giới Hoa Tạng không niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh Độ thì kinh Hoa Nghiêm không viên mãn. Vì vậy, kinh Vô Lượng Thọ là điểm đến của kinh Hoa Nghiêm, là nơi tổng kết của kinh Hoa Nghiêm, là tinh hoa của kinh Hoa Nghiêm.

Cư sĩ Bành Tế Thanh đời Thanh nói: “Kinh Vô Lượng Thọ là kinh Hoa Nghiêm trung bản, kinh A-di-đà là kinh Hoa Nghiêm tiểu bản”. Lời nói này rất có lý. Tuy kinh văn có nhiều ít khác nhau, nhưng nội dung của kinh thì không có chút gì sai biệt.

Kinh Vô Lượng Thọ gồm có 48 phẩm, trong đó phẩm kinh nào là bậc nhất? Đó là 48 lời nguyện trong phẩm thứ sáu. Chúng ta hãy xem kỹ kinh Vô Lượng Thọ, từng chữ, từng câu đều nói rõ ràng về 48 lời nguyện. Nguyện nào bậc nhất trong 48 lời nguyện? Đó là lời nguyện thứ 18. Nội dung lời nguyện thứ 18 là: “Mười niệm chắc chắn sinh Tịnh Độ”, biểu thị công đức của danh hiệu Phật không thể nghĩ bàn. So sánh như vậy, có thể tìm ra đỉnh cao nhất của Phật giáo, chính là một câu “A-di-đà Phật”. Một câu “A-di-đà Phật” đã giải quyết tất cả vấn đề mà Đức Thế Tôn đã nói trong bốn mươi chín năm. Không những tất cả pháp mà Đức Thế Tôn đã nói không rời câu danh hiệu này mà cho đến tất cả chư Phật Như Lai trong mười phương ba đời, vì tất cả chúng sinh nói vô lượng pháp môn, cũng không lìa câu “A-di-đà Phật” này. Thông qua đó, chúng ta mới thật sự hiểu rõ lời Cổ đức đã nói: “Công đức của danh hiệu A-di-đà không thể nghĩ bàn”. Chân tướng của kinh không thể nghĩ bàn, sâu xa không thể nghĩ bàn đó. Niệm câu A-di-đà Phật này sẽ được thành tựu. Tại sao? Vì không một mảy may hoài nghi, không một chút lo lắng, quyết lòng niệm Phật, biết câu danh hiệu này chính là kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Câu danh hiệu này là tất cả các pháp môn mà Đức Phật Thích-ca đã nói trong 49 năm, “Một là tất cả, tất cả là một.”. “Một” đã tìm được rồi. Làm sao mà không hoan hỷ! Bảo bối chân chính của Phật pháp đã tìm ra, tu học theo pháp môn đây, đời này quyết định thành tựu.

Niệm Phật Công Đức phần giới thiệu
Niệm Phật Công Đức phần 1
Niệm Phật Công Đức phần 2
Niệm Phật Công Đức phần 3
Niệm Phật Công Đức phần 4
Niệm Phật Công Đức phần phụ lục

Niệm Phật Công Đức phần 3

Niệm Phật Công Đức phần 3III. HIẾU DƯỠNG CHA MẸ, TÔN KÍNH SƯ TRƯỞNG LÀ CĂN BẢN TU HÀNH TRONG PHẬT PHÁP.

1. Sinh mệnh đổi thay theo nhân quả. Nhân quả là chân lý.

Định nghĩa sự tu hành, chúng ta phải làm sáng tỏ. “Tu” là sửa cho ngay; “Hành” là hành vi. Tu hành chính là tu sửa những hành vi sai lầm đã qua. Phạm vi của hành vi rất rộng lớn. Đức Phật xếp hành vi vào ba loại lớn: Thân, khẩu, ý.

“Thân” là sự tạo tác của thân. Nhất cử nhất động của chúng ta là hành vi của thân.

“Khẩu” là chỉ cho lời nói, lời nói là hành vi của miệng.

“Ý” là tư tưởng, kiến giải, chính là cách nghĩ, cách nhìn của chúng ta đối với tất cả sự vật và con người. Những hành vi này có sự sai lầm, thiên lệch thì sẽ chiêu cảm lấy những quả báo không như ý. Hành vi là nhân của tạo tác. Có nhân nhất định có quả; hành vi thiện cảm được quả báo thiện. Hành vi ác cảm lấy quả báo ác. Nhân duyên quả báo là chân tướng của sự thật, cũng chính là chân lý mà người thời nay đã nói.

Pháp thế gian bao gồm sáu đường, mà loài người là cao nhất. Thành phần trí huệ phước báo lớn hơn là thiên nhân; cõi trời có: Trời Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Chúng sinh trong sáu đường này không thể vượt qua phạm vi nhân quả. Pháp giới tứ thánh của xuất thế gian: A-la-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát, Phật vẫn nằm trong định luật nhân quả, không thể vượt qua. Vì vậy, “nhân duyên quả báo” là chân lý của thế gian và xuất thế gian, cũng là chân tướng của sự thật. Kinh Hoa Nghiêm nói “nhân quả của năm vòng”. Kinh Pháp Hoa nói “nhân quả của Nhất thừa”, cho đến Phật pháp cao tột vẫn không rời phạm vi nhân quả. Chúng ta nên nhận rõ sự thật này, sau đó mới biết tu sửa hành vi là điều tất yếu.

a) Nghiệp nhân trong sáu đường.

Chư Phật và Bồ-tát đều là phàm phu tu chứng, không phải tự nhiên trời sinh ra; chư thiên thần tiên cũng là chúng sinh tu hành thành tựu. Đức Phật nói pháp thế gian cho chúng ta, Ngài lấy riêng từng loại lớn để phân lập thành mười loại lớn. Chúng ta gọi là “Thập pháp giới”. Nghiệp nhân của mười pháp giới, nếu giảng kỹ thì giống như trong kinh Hoa Nghiêm đã nói. Bất luận một pháp giới nào cũng đều có vô lượng nhân duyên, vô lượng nhân duyên đó chúng ta rất khó hiểu, không cách nào thể hội. Bấy giờ từ trong vô lượng nhân duyên, Đức Phật đã nêu ra nhân tố quan trọng nhất, làm thế nào tránh khỏi tạo ra nhân duyên ác? Làm thế nào để tu học nhân duyên thiện? Những điều này Đức Phật đều giảng cho chúng ta nghe rất rõ ràng. Những điều mà Đức Phật nói không phải là dựa vào sự tưởng tượng rỗng không, hoặc là căn cứ vào lý luận, số học để suy đoán[24] mà Đức Phật hoàn toàn tận mắt nhìn thấy, trong nhà Phật giảng đây là cảnh giới hiện lượng, hoàn toàn chính xác. Trong pháp giới, pháp giới khổ nhất là địa ngục. Thật sự có địa ngục, chẳng phải là không. Vậy cõi người có không? Nếu chúng ta thừa nhận đời sống hiện tại là sự thật; nói cách khác, địa ngục, ngạ quỷ cũng là chân thật. Kinh Địa Tạng tuyệt đối không phải là dựa vào cái không mà nói, đều là chân tướng sự thật. Nghiệp nhân đọa địa ngục là “tâm sân hận”. Ý niệm tật đố, sân hận rất mạnh. Chúng sinh mà không vượt khỏi chính bản thân mình, thường dùng tâm sân hận tột đỉnh để báo thù. Ngay ý niệm này chính là nghiệp nhân đọa địa ngục. Thật là đáng sợ! Trong kinh Lăng-nghiêm, Đức Phật đã dạy cho chúng ta nghe cảnh tượng của sáu đường, đặc biệt là cõi địa ngục, Ngài nói rất tỉ mỉ. Trong văn kinh còn đề cập đến chân tướng địa ngục đã chiếm phân nửa quyển kinh. Đức Phật đã đem quyển sách lớn như vậy để nói rõ, chính là hy vọng chúng ta nhận thức rõ sự thật, quyết định không tạo nghiệp nhân này. Không tạo nghiệp nhân ấy, thì sẽ không thụ quả báo. Đây là tấm lòng chân thành của Đức Phật.

Nghiệp nhân của đường ngạ quỷ là “tâm tham”, người có tâm tham sẽ biến thành ngạ quỷ. Người Trung Quốc thường nói: “Người ta chết thành quỷ”. Thật ra, lối nói ấy hình như không hợp lý. Sáu nẽo luân hồi ngoài ngạ quỷ còn có năm đường khác, tại sao phải bắt buộc sinh vào ngạ quỷ? Nhưng mà nhìn lại các trạng thái xã hội thì lời nói ấy cũng không phải là vô lý. Các vị thử nghĩ xem: Ai mà không có tâm tham? Của tiền, sắc đẹp, tiếng tăm, miếng ăn, ngủ nghỉ, năm thứ đó nó làm phát khởi tâm tham lam, gian xảo rất nghiêm trọng, chắc chắn tương lai sẽ có phần nào tương ưng với đường ngạ quỷ.

Các vị đồng tu học Phật đến nghe Phật pháp, hiểu rõ một ít đạo lý thì năm dục, sáu trần trong thế gian bỏ hết không tham luyến, mà lại đi tham Phật pháp. Chúng ta nghĩ xem, tham Phật pháp rồi sẽ ra sao? Rồi sẽ đi vào đường ngạ quỷ, bởi vì nghiệp nhân của đường ngạ quỷ chính là lòng tham, hưởng được một chút phước trong đường ngạ quỷ. Trong đường ngạ quỷ có quỷ vương, được dân gian cung phụng cho chính là thổ địa, sơn thần, thành hoàng. Tham Phật pháp thì sẽ là quan chức quỷ vương trong đường ngạ quỷ. Vì vậy, pháp Phật cũng không thể tham. Đức Phật dạy chúng ta đoạn tâm tham, không phải là dạy chúng ta đổi đối tượng của tâm tham. Đổi đối tượng vẫn không cách nào vượt qua quả báo.

Nghiệp nhân của đường súc sinh là “ngu si”. Đối với tà chính, thị phi, thiện ác, lợi hại, không có năng lực phân biệt, xem giả thành thật, xem thật thành giả, tà trở thànhchính,chính thành tà, đây chính là ngu si. Người thế gian giống như kẻ ngu si đó. Chúng ta có thể nhìn thấy được khắp nơi, cho dù là học Phật. Phật pháp cũng có chân-giả, pháp đại thừa cũng có tà chính. Thật ra không phải là pháp có chân-giả, tà chính mà do tâm của người tu học có chân-giả, tà chính. Cho nên Phật pháp đã không còn thuần nhất. Nếu như chúng ta không thể phân biệt rõ, chính là ngu si. Quả báo của ngu si là rơi vào đường súc sinh.

Tóm lại, nghiệp nhân của ba đường ác là tham, sân, si. Tham, sân, si là “tam độc”. Trong lòng của chúng ta có tham, sân, si, thì tâm sẽ nhiễm độc. Tâm có độc thì thân không khoẻ mạnh, đời sống không được an vui. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật đã dạy rõ ràng, chúng ta phải “sái tâm dịch hành”, nghĩa là tẩy sạch ba độc trong tâm, sửa đổi tất cả những hành vi sai lầm.

Thật ra, sự mê hoặc của ngoại cảnh hoàn toàn không đáng sợ. Tam độc ở trong tâm mới là thứ đáng sợ nhất. Nội tâm không có tam độc, ngoại cảnh cũng không cách nào mê hoặc được bạn. Nội tâm có tam độc sẽ rất dễ bị ngoại cảnh lôi cuốn. Bên trong là Nhân, bên ngoài là Duyên. Nhân ác gặp duyên ác sẽ tạo nghiệp ác. Tạo nghiệp ác liền chiêu cảm quả báo ác, khổ báo của ba đường được chiêu cảm như thế.

Nghiệp nhân của cõi người là năm giới. Năm giới là: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Trên thực chất cần phải thực hành đúng đắn, không phải là tìm vị pháp sư để truyền giới, trao giới trên hình thức thì tự mình được giới. Chân chính đắc giới, không nhất định phải có hình thức này. Bạn đã hiểu rõ, thật sự chịu y giáo phụng hành, có thể làm được một điều thì sẽ được một điều giới; có thể làm được hai điều thì sẽ được hai điều giới. Lúc tôi bắt đầu học Phật, đại sư Chương Gia đã truyền dạy giới cho tôi. “Giới” phải do tự mình phát nguyện thụ trì, biết được sự thù thắng lợi ích của công đức mà Đức Phật đã dạy, nghĩ đến sự lợi ích của công đức đó, tự mình suốt đời này dốc lòng thụ trì. “Thụ” là tiếp nhận. “Trì” là giữ gìn. Dốc lòng thực hành, quyết định không bỏ giới. Đó mới là chân thật thụ giới.

Nội dung tinh thần của “năm giới” và “ngũ thường” của Nho gia Trung Quốc hoàn toàn giống nhau.

“Thường” là thường đạo, chính thường, lìa bỏ năm loại thường đạo này thì không bình thường, khi không bình thường thì vấn đề sẽ nảy sinh. Ngũ thường là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.

“Nhân” là nhân từ, không giết hại là nhân. Không trộm cắp là nghĩa; không tà dâm là lễ; không uống rượu là trí; không vọng ngữ là tín. Người đọc sách thời Cổ đại thực hành theo cách dạy của Nho gia, có thể được thân người, không rơi vào ba đường ác. Công phu tu học của Nho gia mà tiến lên cao thì có thể sinh lên cõi trời. Đây là pháp tu của trời người, tương đương với Nhân thừa, Thiên thừa trong Ngũ thừa Phật giáo.

Nghiệp nhân của cõi trời là Thập thiện nghiệp đạo, hết lòng thụ trì, học tập mười nghiệp lành, tương lai sẽ được sinh lên trời. Thọ mạng của cõi trời thì lâu dài. Ông trời mà người Trung Quốc nói đến hay Ngọc Hoàng đại đế mà người Đài Loan lễ bái, chính là thiên chủ Đao Lợi[25] đã từng tu mười nghiệp lành. Những tôn giáo khác như: Cơ đốc giáo, Thiên chúa giáo, những pháp mà họ đã tu học từ nội dung của kinh điển, và công phu tu hành để quan sát thì ước chừng họ cũng sinh về cõi trời Đao Lợi, vì “Mosheh thập giới” rất giống với “Thập thiện nghiệp đạo”. Cơ đốc giáo nói “Tin Thượng đế đều lên Thiên đường”. Câu nói này có vấn đề, dẫn dắt chúng sinh một cách sai lầm, đáng lẽ nói: “Tin thượng đế phải tuân thủ “Mosheh thập giới”, nghiêm chỉnh tu hành, quyết định lên thiên đường”.

Đây là điều mà chúng ta có thể tin. Nếu như không thụ trì thập giới thì lên thiên đường là điều không thể mong đợi. Trời vẫn có tầng trời cao hơn, như trời Sắc giới, trời Vô sắc giới, là phàm phu bậc cao trong sáu đường này; họ không những phải tu thập thiện mà còn phải tu thiền định và tứ vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ, xả, mới có thể lên đến thiên đường cao cấp.

b) Nghiệp nhân của Tứ Thánh đạo.

Phàm thánh lấy luân hồi làm giới hạn.

Lên cao hơn sáu đường là pháp giới của thánh nhân, không phải là phàm phu. Phàm thánh lấy luân hồi làm giới hạn. Cho dù phàm phu sinh lên cõi trời cao cấp, cũng không vượt khỏi luân hồi. Tuổi thọ ở cõi trời rất dài nhưng cũng sẽ có lúc hết. Lấy thọ mạng của con người chúng ta để xem tuổi thọ. Cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng[26] dài đến 80 nghìn đại kiếp. Đây thật sự là điều không thể nghĩ bàn!

Chúng ta hãy nghĩ xem, nếu lấy con phù du trên mặt nước để xem tuổi thọ của con người chúng ta, có lẽ cũng giống như chúng ta nhìn cõi Phi tưởng phi phi tưởng. Tuổi thọ của con phù du chỉ có mấy giờ, mấy tiếng đồng hồ là một đời của nó. Nó nhìn chúng ta sống đến mấy mươi năm, một trăm năm, há không phải là giống như chúng ta nhìn cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng hay sao?

Tuy thọ mạng của con người thời hiện đại đã đến 100 tuổi, nhưng chỉ khoảnh khắc thì qua đời. Dù cho chúng ta đến được cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng, cũng sẽ giống như cảm giác hiện tại, dường như thời gian qua rất nhanh, chưa sống được bao nhiêu thì đã hết tuổi đời. Chúng ta phải quán sát rõ chân tướng của sự thật này. Giác ngộ được sự đáng sợ của luân hồi. Luân hồi đúng thật là mê hoặc đảo điên, việc này không thể nào làm lại được nữa. Muốn vượt qua khỏi luân hồi cần phải dùng phương pháp tu hành của bậc cao.

Tại sao có luân hồi? Luân hồi xưa nay không hề có, chỉ vì có vọng tưởng, chấp trước mới biến thành hiện tượng này, giống như giấc mộng dữ. Muốn vượt qua khỏi luân hồi, Đức Phật bảo chúng ta: Hãy bỏ chấp trước, chấp trước là phiền não.

Bậc A-la-hán dùng pháp tu thiền định. Định là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh đạt đến trình độ khá thì vọng tưởng chẳng sinh. Tham, sân, si, mạn, tất cả những kiến giải hiểu biết đều không có hành vi sai lầm, như hành vi của khẩu nghiệp và thân nghiệp đều do ý nghiệp làm chúa tể. Tâm đã thanh tịnh thì thân, khẩu nghiệp đương nhiên thanh tịnh theo. Thân, khẩu, ý nghiệp hiện tiền thanh tịnh thì luân hồi không xảy ra.

Công phu thiền định loại này lại cao hơn cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ một tầng. Trong Phật pháp gọi là “Cửu thứ đệ định”. Bốn loại thiền định của trời Sắc giới, gọi là Tứ thiền; bốn loại thiền định của trời Vô sắc giới gọi là Tứ không định, tổng cộng là tám loại định. Tám loại định này là thiền định của thế gian, không thể vượt ra khỏi luân hồi, đến “Cửu thứ đệ định” thì mới vượt ra khỏi được. Định mà bậc A-la-hán đã tu chứng là “Cửu thứ đệ định”. Các ngài có công phu như thế này: Phiền não kiến, tư đã đoạn hết.

“Kiến” là kiến giải sai lầm. “Tư” là tư tưởng sai lầm, tất cả cách nhìn, cách nghĩ sai lầm đối với người, sự vật, đối với vũ trụ nhân sinh, bậc A-la-hán đều không có, đều xả bỏ. Tư tưởng kiến giải chính xác, không sai lầm, Phật pháp gọi là “Chính giác”[27]. Bậc A-la-hán là “Chính giác”. Còn pháp mà Đức Phật tu chứng là “Vô thượng Chính đẳng Chính giác”.

Kinh điển bảo chúng ta, khuyên chúng ta không nên tin vào ý mình. Nếu không sẽ rất nguy hiểm, vì cách nhìn cách nghĩ của bạn không được chính xác. Vậy lúc nào mới có thể tin vào ý mình? Đến khi chứng A-la-hán, Đức Phật mới gật đầu nói: “Ông có thể tin vào ý mình rồi”. Ngay cả thánh nhân chứng quả A-na-hàm, Đức Phật vẫn không chấp nhận vị ấy tin vào ý mình, huống gì phàm phu chúng ta. Đức Phật khai thị những điều này, đáng cho chúng ta phản tỉnh sâu sắc.

Bậc A-la-hán chứng đắc quả vị nhờ tu tứ đế “khổ, tập, diệt, đạo”. Nhân của Duyên giác là thập nhị nhân duyên. Hàng Duyên giác nhờ quán sát pháp nhân duyên mà giác ngộ, trí huệ cao hơn A-la-hán, đoạn kiến tư phiền não cũng triệt để hơn A-la-hán. Kinh Phật ghi: “A-la-hán phiền não đã đoạn sạch, nhưng vẫn còn tập khí”. Ví dụ, thấy sự việc không hay vẫn còn nổi giận. Họ có thật sự nổi giận không? Không có! Một chút cũng không có, nhưng vẫn còn dáng giận. Đó là tập khí[28]. Bậc A-la-hán quả thật không có tham, sân, si. Bích-chi-phật đã đoạn sạch phiền não hơn A-la-hán, tập khí đều không có. Chúng ta quan sát năm trăm pho tượng của A-la-hán, có rất nhiều hình dáng kỳ quái, biểu thị vẫn còn tập khí. Thật ra, tâm của các Ngài thanh tịnh, bình đẳng. Bích-chi-phật ngay cả tập khí cũng đều không có, hiện tướng từ bi viên mãn giống như Bồ-tát. Bậc cao hơn Bích-chi-phật là Bồ-tát, gọi là “Chính đẳng Chính giác”[29].

“Chính” là chính xác không có sai lầm. “Đẳng” là bằng với Phật; Bồ-tát chưa được như Phật, chỉ có một chút tương tự như Phật. Tư tưởng kiến giải của Bồ-tát không những chính xác mà còn có lòng từ bi thương xót tất cả chúng sinh, chủ động đi giáo hoá, giúp đỡ chúng sinh, không giống như A-la-hán và Bích-chi-phật. Các vị ấy tuy cũng rất từ bi, cũng thích giúp đỡ người nhưng chúng sinh không cầu mong họ, họ không thể chủ động đến giúp đỡ.

Bồ-tát tự hành hoá tha không ngoài sáu cương lĩnh lớn, gọi là lục độ[30].

Nhân của Bồ-tát là lục độ, tâm trụ trong lục độ, chính mình tu học lục độ, cũng khuyến hóa hướng dẫn tất cả chúng sinh tu học lục độ.

Độ thứ nhất “Bố thí”. Bố thí không phải đơn giản chỉ bỏ ra tiền của, điều đó không đủ, bố thí như vậy, quả báo đời tương lai là cái gì? Nói thật, đó là phước báo hữu lậu trong sáu đường, ý nghĩa bố thí này sai lầm. Ý nghĩa của bố thí là buông xả. Buông xả cái gì? Buông xả cách nhìn, cách nghĩ sai lầm; buông xả tâm tham lam, sân giận, ngu si; buông xả tâm hoài nghi thánh giáo. Đức Phật dạy bạn buông xả những thứ này, đây là sự bố thí đúng đắn. Bố thí như thế mới có thể thành Bồ-tát, xả bỏ một chút tiền của nào có gì đâu! Lại có người ngu si, nghe nói trong cửa Phật xả một được hàng nghìn phước báo, hôm nay vừa bố thí một trăm đồng, họ lại nghĩ đến ngày mai, Đức Phật và Bồ-tát có thể đáp lại cho họ mười nghìn đồng. Điều này quả là buôn bán, mặc cả giá với chư Phật và Bồ-tát, thật là ý tưởng sai lầm mà Đức Phật đã nói trong kinh điển. Vì vậy, bố thí là buông xả. Buông xả tất cả thân tâm và thế giới, thì tâm thanh tịnh sẽ hiển bày.

Độ thứ hai “Trì giới”. Trì giới là tuân thủ pháp luật. Trì giới trong lục độ là nghĩa rộng. Sự răn dạy của Đức Phật là tam tạng kinh điển. Lời giáo huấn, phương pháp, lý luận trong đó, đều phải tuân thủ. Đó là trì giới. Hành Bồ-tát đạo, Bồ-tát phải tự lợi, lợi tha, không thể xa rời xã hội, không được lìa đại chúng. Bồ-tát không những phải thông đạt Phật pháp, mà còn phải thông đạt thế gian pháp. Pháp luật, đạo đức, phong tục của thế gian đều phải hiểu rõ và tuân thủ, mới có thể sống hoà hợp với người thế gian, phá mê khai ngộ. Vì vậy, nội dung của sự trì giới rất rộng lớn.

Độ thứ ba “Nhẫn nhục”. Nhẫn nhục là vừa có thể nhẫn nhục vừa có tâm nhẫn nại. Bất luận chính mình tu hành, hay giúp đỡ người khác, đều phải có tâm nhẫn nại, phải có tâm nhẫn nại không giới hạn mới có thể thành tựu.

Kinh Kim Cang ghi: “Tất cả pháp thành tựu đều nhờ nơi nhẫn”. Nếu không thể nhẫn nhục thì không thành tựu.

Độ thứ tư “Tinh tấn”. “Tinh” là tinh thuần. Thuần là không lẫn lộn; “Tấn” là tiến bước. Bản thân tu hành phải thâm nhập nhất môn, giúp đỡ người khác, trước tiên phải nhận rõ căn tính của đối phương, giới thiệu pháp môn mà họ thích tu học, dạy cho họ thâm nhập một pháp môn. Đây là sự hành trì của Bồ-tát, hàng đệ tử chúng ta nhất định phải hiểu rõ… ( trên chỉ lược nêu bốn độ ).
2. Đạo tràng – Tòng lâm thời xưa, truyền hình vệ tinh thời nay.

Thời quá khứ và hiện tại cho đến thế kỷ 21 hoàn toàn không giống nhau. Do đó, hình thức phương pháp giáo hoá chúng sinh cũng khác nhau. Giao thông, xã hội nông nghiệp và tin tức thời quá khứ đều không phát triển, sự dạy học của Phật pháp cần phải thiết lập những đạo tràng nhỏ ở mỗi địa phương. Thành lập đạo tràng thuận lợi cho đại chúng tu học. Vì sao phải thiết lập nhiều đạo tràng như thế? Vì mỗi đạo tràng đều là trường học chuyên khoa, pháp môn trong Phật pháp rất nhiều, không thể tu lẫn lộn, tu lẫn lộn nhất định không thể thành công, cho nên phải đề xướng chuyên tu. Sở thích của mỗi người chúng ta không giống nhau. Thí dụ, người thích niệm Phật thì thành lập đạo tràng niệm Phật, thích tham thiền thì thành lập đạo tràng tham thiền; muốn nghiên cứu dạy học thì thành lập đạo tràng nghiên cứu dạy học, mỗi đạo tràng phải phân chia ra, không thể hợp lại một chỗ. Nếu không sẽ quấy nhiễu nhau, tâm thanh tịnh sẽ bị phá hoại, không thể thành tựu.

Thời đại Tùy Đường, các tông phái Phật pháp mọc lên như rừng. Mỗi tông phái đều có đạo tràng của mình chọn lựa một bộ kinh trong Phật pháp để tu học. Tất cả những người đồng học yêu thích những bộ kinh này, họ cùng tụ hợp một chỗ cùng tu. Bấy giờ, Ngũ Đài Sơn là đạo tràng của kinh Hoa Nghiêm, giống như trường đại học Hoa Nghiêm. Những người thích Hoa Nghiêm đến Ngũ Đài Sơn để học. Thiên Thai Sơn ở Triết Giang đề xướng kinh Pháp Hoa, những người thích kinh Pháp Hoa thì đến Thiên Thai để tu học. Những người yêu thích pháp tướng Duy Thức thì đến học ở chùa Từ Ân. Vì vậy, mỗi đạo tràng là trường đại học chuyên khoa. Trong “chuyên” còn chia ra nữa, càng chia nhỏ ra càng tinh thuần, giống như các phân hệ trong học viện hiện đại, trong các phân hệ lại có những phân khoa, chính là ý nghĩa này.

Ví như tông Tịnh Độ, kinh điển tu học của tông này gồm năm kinh một luận. Tôi thích kinh Vô Lượng Thọ, người khác thích kinh A-di-đà. Tuy cả hai đều là tông Tịnh Độ, nhưng hai người không hợp nhau. Thế thì phải làm sao? Tịnh Độ tông sẽ thành lập hai đạo tràng. Đạo tràng này chuyên tu kinh Vô Lượng Thọ. Đạo tràng kia chuyên tu kinh A-di-đà. Đồng chuyên tu kinh A-di-đà, có người theo bản Sớ sao của đại sư Liên Trì; có người theo Di-Đà Yếu Giải của đại sư Ngẫu Ích. Hai người này ở cùng một chỗ lại không hợp nhau, phải chia ra, lại thành lập hai đạo tràng. Các vị phải hiểu rõ nguyên tắc này. Ví như kinh Vô Lượng Thọ, hiện tại có người thích bản hội tập; có người thích bản của Khương Tăng Khải; có người thích bản kinh Hán dịch “Vô Lượng-Thanh Tịnh-Bình Đẳng Giác”. Như thế lại phải kiến lập đạo tràng khác.

Mỗi đạo tràng đều có học phong và đạo phong của nó. “Học phong” chính là kinh điển mà họ y cứ. “Đạo phong” là phương pháp tu hành. Phương pháp tu hành giống như là niệm Phật. Có người niệm danh hiệu Phật theo bốn chữ hiệu Phật; có người niệm theo sáu chữ hiệu Phật. Vì vậy niệm Phật đường cũng phải xây dựng hai cái. Người thích niệm Phật theo bốn chữ thì vào niệm Phật đường bốn chữ. Người thích niệm theo sáu chữ thì vào niệm Phật đường sáu chữ. Như vậy, họ mới có thể thành tựu, chỉ có chuyên tinh, mới có thể được lợi ích, mới có thể được tâm thanh tịnh, chứng đắc niệm Phật tam muội[31]. Vì sao đạo tràng nhà Phật nhiều như thế? Vì phải chuyên tu, chuyên nghiên cứu.

Cũng giống như thế, các vị đại pháp sư thời xưa không chỉ chuyên thông một bộ kinh, một bộ luận mà những bộ khác các ngài cũng thông suốt, đều có thể hướng dẫn chúng sinh. Đó gọi là Thông tông Thông giáo. Chúng ta mời pháp sư đến nơi này giảng kinh, hướng dẫn chúng ta tu học. Những điều pháp sư đã giảng nhất định phải tương ưng với pháp môn mà chúng ta đã học. Chúng ta mới có được lợi ích. Nếu như những điều đã giảng trái ngược với điều chúng ta tu học thì đạo tràng của chúng ta sẽ bị hỏng. “Đạo phong” và “Học phong” sẽ bị hư hoại. Thí dụ, đây là đạo tràng niệm Phật, mọi người niệm Phật đã nhiều năm, đều có một chút tâm đắc. Bây giờ chúng ta thỉnh một vị đại đức Thiền tông đến khai thị. Ông ta nói niệm Phật không tốt, rồi đề xướng tu thiền. Thế thì công phu niệm Phật mấy mươi năm của chúng ta, há chẳng phải là uổng công sao? Đó có phải là thiện tri thức không? Không phải.

Nếu là Thiện tri thức thì vị pháp sư này đến giảng đường niệm Phật khai thị. Nhất định cũng phải tán thán niệm Phật, tán thán kinh A-di-đà, tán thán kinh Vô Lượng Thọ, khiến chúng ta đối với những kinh luận mình đã tu học, đối với thầy và bạn học của mình càng tăng trưởng lòng tin. Vị pháp sư này chính là thiện tri thức đúng đắn. Nếu vị ấy phá hoại đạo tràng của chúng ta thì chính là ác tri thức. Đây là Phật học thường thức cơ bản nhất.

Tôi tu pháp môn Tịnh Độ niệm Phật. Năm 1977, tôi giảng kinh ở Hương Cảng, Pháp sư Thánh Nhất ở núi Đại Tự Hương Cảng mời tôi đến đạo tràng Thiền Tông của ông khai thị. Tôi đến thiền đường sẽ giảng cái gì? Quá khứ, tôi đã từng giảng qua các kinh như: Lục Tổ Đàn kinh, kinh Kim Cang nên vẫn có thể nói một chút về Thiền. Tôi tán thán pháp môn Thiền tông, tán thán pháp sư Thánh Nhất của họ, tán thán những người tu học thiền. Nếu nói Thiền không bằng Tịnh. Tịnh Độ mới chắc chắn. Đây chẳng phải là đã phá hoại sự tu hành mấy mươi năm của người ta sao? Đó là đã phạm lỗi lầm rất lớn, quyết định không thể được.

Lúc tôi ở Singapore, pháp sư Diễn Bồi mời tôi đến đạo tràng của ông diễn giảng. Đạo tràng của ông tu học pháp môn Di Lặc, còn tôi tu học pháp môn Tịnh Độ Di Đà. Tôi đến đó, một chữ Tịnh Độ Di-đà cũng không nhắc đến, chỉ tán thán Tịnh Độ Di Lặc; pháp môn Tịnh Độ Di Lặc, tôi chưa hề học qua. Tôi chỉ học kinh Hoa Nghiêm. Lầu các của ngài Di Lặc trong kinh Hoa Nghiêm không gì sánh bằng. Tôi tán thán Tịnh Độ của ngài Di Lặc, khiến cho đồ chúng của ông càng tin tưởng, càng tôn kính ông hơn. Đức Phật thường nói: “Muốn cho Phật pháp hưng thịnh, chỉ có tăng khen ngợi tăng”. Chúng ta đến đạo tràng của người khác, tán thán đạo tràng của họ, tán thán thầy và bạn đồng tu của họ. Đây là “Tăng khen ngợi tăng”. Không thể nói pháp môn Tịnh Độ tốt, đáng tin cậy vãng sinh. Điều kiện nơi nội viện Đâu Suất của Bồ-tát Di Lặc rất nghiêm khắc, không dễ thành tựu. Nếu bạn giảng như thế thì sẽ phá hoại niềm tin của người khác.

Tu học nhất định phải thâm nhập một pháp môn. Pháp môn trong Phật pháp rất nhiều. Kinh Đại thừa nói: “Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Tùy theo căn tính của mình để chọn pháp môn. Sau khi chọn xong, quý là ở chỗ thâm nhập một pháp môn. Quả nhiên có thể nương vào một vị thầy, nương vào một đạo tràng, thâm nhập một pháp môn để tu học, quyết định một đời thành tựu. “Nhất” này là thứ nhất trong nhiều môn, chúng ta cần phải hiểu rõ. Hoa Nghiêm là kinh điển mẫu của chúng ta. Thiện Tài đồng tử tham học 53 vị. Mỗi vị thiện tri thức mà đồng tử tham học đều không giống nhau. Nhưng mỗi vị thiện tri thức đều khiêm tốn, tán thán người khác. Bây giờ, bậc thiện tri thức không giống như vậy, họ đều đưa cao mình lên, chê bai người khác, hoàn toàn trái ngược với các bậc thiện tri thức đã thị hiện trong kinh Hoa Nghiêm.

Phật pháp ở Đài Loan rất ồn ào náo nhiệt trên hình thức. Trong pháp thế gian, mọi người so nhau tiền bạc. Phòng tôi lớn hơn phòng anh, xe của tôi cao cấp hơn xe của anh, chùa của tôi xây dựng đẹp đẽ và to lớn hơn chùa anh, cứ thi đua làm những việc này thì tu và học đạo sẽ lơ đãng. Làm thế nào kiến lập học phong và đạo phong? Đây mới là trách nhiệm quan trọng nhất trong việc hoằng pháp lợi sinh của người đệ tử Phật.

Thế kỷ 21 là thời đại khoa học kỹ thuật thông tin phát triển. Đạo tràng trong Phật pháp không phải là chùa tự viện trên hình thức. Hình thức của đạo tràng nên làm như thế nào? Sử dụng thông tin vi tính để truyền tải Phật pháp. Thời đại của thế kỷ 21, hầu như mỗi gia đình, mỗi người đều có vi tính. Vi tính là dụng cụ liên lạc khắp thế giới. Khi cần đọc kinh, bất luận kinh điển được cất giữ trong thư viện nào trên thế giới, chúng ta chỉ cần đến máy vi tính vừa nhấp chuột vào thì mục lục sẽ tìm ra hết; chúng ta muốn xem bộ kinh nào thì màn hình vi tính lập tức hiện lên, nâng cao sự tu học của bạn, không cần phải đến các chùa để tham học. Chúng ta có thể nghĩ xem đến thế kỷ sau, con người sẽ sống như thế nào? Phật pháp phải hoằng dương như thế nào? Hiểu được những sự thật này, tương lai nhân tài của Phật pháp sẽ bồi dưỡng ở đâu? Họ sẽ nghiên cứu ở các trường đại học mà không phải là Phật Học viện. Chúng ta phải có tầm nhìn trước mắt, xem hình thái phát triển của Phật pháp ở thế kỷ sau. Hiện tại thông tin vi tính ngày càng mới mẻ khác lạ, chắc chắn sẽ chạy theo xu thế như vậy. Hiện giờ ở Mỹ quốc, Đài Loan, đại lục Trung Quốc, có nhiều địa phương đã đem toàn bộ Đại Tạng kinh lưu vào vi tính, làm thành phần mềm của vi tính. Công cuộc hoằng pháp tương lai nhất định cũng là trên mạng vi tính. Mạng vi tính thay thế truyền hình. Chúng ta muốn nghe vị pháp sư nào giảng kinh, chỉ cần đưa vào tư liệu, bất luận ở địa phương nào, hình dáng pháp sư lập tức hiện ra trước mặt bạn. Còn có âm thanh, văn tự, quả là vô cùng tiện lợi. Phật pháp chân chính mãi mãi đi trước thời đại, lãnh đạo thời đại này.

“Thiền định” là chính mình có chủ tể, có lòng tin, có phương hướng, vị ấy không phải là tiến lên một cách hỗn loạn, mà có phương hướng, mục tiêu, bởi vì có đầy đủ “trí huệ”. Bồ-tát dùng lục độ tự hành hóa tha, đạt đến đỉnh cao cùng tột, chính là Vô thượng Chính đẳng Chính giác, tức thành Phật, thành tựu trí huệ, rốt ráo viên mãn. Phật pháp ngay cả nội dung dạy học không có một chút mê tín, rất phù hợp với khoa học, không hề trái với nguyên tắc, nguyên lý của khoa học. Nói thật, khoa học vẫn không đuổi kịp Phật pháp. Đây là những điều mà khi tu học, chúng ta cần nhận biết rõ.

Nhân thành tựu Phật quả là “Tâm bình đẳng”. Lục đạo[32], thập pháp giới[33], muôn pháp đều bình đẳng. Không một pháp nào không bình đẳng. Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí”. Viên là viên mãn, đồng viên chủng trí chính là vạn pháp bình đẳng, đây là địa vị quả chứng của Như Lai.

Đức Phật chia tất cả chúng sinh thành mười loại lớn. Mỗi nghiệp nhân quan trọng của từng loại, chúng ta cần phải biết, nắm vững nguyên tắc trọng yếu và tiền đề lớn lao này thì tu học mới có thể thành tựu. Tìm và phát hiện được căn bệnh tập khí của mình, đó là “khai ngộ”; có thể sửa đổi là “tu hành”. Đây chính là “công đức”. Tu hành là “công”, bạn có công phu tu tập, kết quả của sự tu hành là “đức”. “Đức” và “ đắc” ý nghĩa giống nhau. Bạn thật sự có thu hoạch kết quả, vừa cày bừa vừa thu hoạch; nhân thiện có quả thiện, nhân ác có quả báo ác. Những nguyên lý, nguyên tắc này, chúng ta phải hiểu rõ.
3. Thâm tín Tịnh Độ thật không dễ dàng.

Trong vô lượng pháp môn, chúng ta vô cùng may mắn nhận ra Tịnh Độ. Nhận thức được Tịnh Độ rất khó, người niệm Phật rất đông nhưng người thật sự nhận thức được Tịnh Độ thì không bao nhiêu. Nhận thức không rõ ràng thì niệm câu danh hiệu Phật không đắc lực. Vì sao? Vì bạn hoài nghi cho nên lòng tin không vững chắc! Gặp phải nghịch duyên, niệm “A-di-đà Phật” không linh cảm sẽ hoài nghi, sẽ thoái tâm, gặp pháp môn khác tâm liền dao động. Thấy người học thiền thành tựu liền muốn tham thiền; thấy người tu Mật tông lại muốn đi niệm chú. Trong lòng do dự không quyết đoán. Do đó, tuy niệm Phật nhưng chẳng có được công phu, tất nhiên không có thu hoạch. Nhận thức Tịnh Độ là điều kiện tiên quyết của người tu học Tịnh Độ. Nhưng muốn nhận thức rõ vô cùng khó khăn.

Đối với sự nhận thức về pháp môn Tịnh Độ, tôi đã tốn thời gian ba mươi năm, từ trong nhiều kinh luận đại thừa, tôi mới nhận thức rõ chân tướng của pháp môn Tịnh Độ. Tôi tâm đắc các kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng-nghiêm, Bát- nhã”. Từ trong những kinh điển này, tôi đã phát hiện sự thù thắng đệ nhất của tông Tịnh Độ. Vì vậy, tôi quay lại chuyên tu và chuyên hoằng dương Tịnh Độ.

Ngài Ngẫu Ích giảng “Tín-Hạnh-Nguyện” trong Di-Đà Yếu Giải chính là hướng dẫn chúng ta, lòng tin phải thanh tịnh, nguyện lực phải kiên định. Hạnh của chúng ta tương ưng thì niệm Phật sẽ tương ưng. Tôi giảng giải Tịnh Độ cho mọi người, nếu như các bạn vừa nghe liền tin, vậy là các bạn đã tiết kiệm thời gian hơn tôi ba mươi năm. Nếu như không tin, dẫm theo lối mòn của tôi. Nói thật, các vị bỏ mất thời gian hơn ba mươi năm, chưa chắc có được vận may như thế! Biết bao người cả đời nghiên cứu kinh luận, vẫn còn sơ sót, có thể biết chính xác được điều này thật không dễ dàng. Đã thật sự nhận thức rõ ràng, phải nhất tâm nhất ý chuyên tu.

Tu học nhất định phải hiểu rõ lý luận của kinh điển. Lý luận là nền tảng tin sâu không hoài nghi. Lý lẽ đã rõ ràng, phương pháp cũng rất quan trọng, phải bắt đầu từ chỗ nào?

Kinh Vô Lượng Thọ ghi: “Phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Sao gọi là phát Bồ-đề tâm? “Bồ-đề” tiếng Phạn, nghĩa là giác ngộ, không mê hoặc. Chúng ta có giác ngộ không? Người giác ngộ và người không giác ngộ, ý tưởng, lời nói và việc làm không giống nhau. Người mê mờ sống qua ngày theo mê tình của mình, tạo tác biết bao tội lỗi mà không biết; người giác ngộ hiểu rõ ràng đối với tất cả người, vật, sự việc. Đời sống của họ như lý như pháp, trong đời sống được tự tại an vui.

Thật sự giác ngộ không dễ dàng! Vì vậy, bồ-đề tâm cũng không dễ phát. Đức Thế Tôn dùng phương tiện khéo léo để dẫn dắt chúng ta, khai mở tính giác trong đời sống. Do đó, bồ-đề tâm không phải là lý luận, không phải là đàm luận nghĩa mầu, mà thuộc vào đời sống thực tế, đó là sự tu hành đúng đắn.
4. Nền tảng của Tịnh Độ là hiếu dưỡng cha mẹ và tôn kính sư trưởng.

Chúng ta bắt đầu tu từ điểm nào? Tu từ “Tam Phước” trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Đức Phật hướng dẫn chúng ta nền tảng của tu học là: “Hiếu dưỡng cha mẹ và tôn kính thầy”. Tại sao phải lấy điều này làm nền tảng? Cách giáo dục của Phật pháp là khôi phục Đức năng-Trí huệ, bản tính vốn có của chúng ta, cũng chính là “Triệt ngộ tự tính” mà thiền tông đã nói. “Hiếu kính” là tính đức, hiện tại chúng ta đã quên lãng điều này, không chỉ trong hành trì không thực hành mà ngay cả ý nghĩa cũng không hiểu rõ. Đây chính là “mê mất tự tính” mà Đức Phật đã nói. Chúng ta đã mê mờ đánh mất tính đức mới có sinh tử luân hồi, mới có biết bao khổ nạn. Chúng ta muốn khôi phục tính đức thì phải bắt đầu từ “Hiếu kính”, dốc sức để thực hành.

Thể tính của “hiếu”, chính là “Bản tính chân như” mà Phật pháp đã nói đến. Pháp Đại thừa nói: “Pháp thân thanh tịnh”; “chân thật trí huệ, vô vi pháp thân” mà Vãng Sinh Luận nói đến. Vô vi pháp thân là bản thể của hiếu đạo; trí huệ thanh tịnh là sự nhận thức và thực tính của hiếu đạo. Từ đó có thể biết, toàn bộ Phật pháp của đại thừa được xây dựng trên nền tảng của hiếu đạo. Sự viên mãn đại thừa chính là sự hoàn thành đạo hiếu.

Giảng đến tận cùng chữ ‘hiếu’ thật sự không dễ, ‘hiếu đạo’ viên mãn phải đến quả vị Phật mới rốt ráo. Bồ-tát Đẳng giác vẫn còn một phẩm sinh tướng vô minh chưa phá, tức là hiếu đạo chưa đạt đến rốt ráo viên mãn. Vì vậy, vô lượng pháp môn đường lối tu hành trong Phật pháp đều là để hoàn thành trong sự việc này.

Từ “hiếu kính tôn sư” phát triển cao hơn chính là “Từ bi”. Từ bi chính là “Bác ái” mà người thời nay đã nói. Bác ái, danh từ này đã sớm xuất hiện trong kinh Phật. Trong kinh Vô Lượng Thọ có câu nói “Nhân từ bác ái”. Từ bi với tất cả! Có sự thôi thúc của sức mạnh này, bạn mới thích thú tu hành thập thiện nghiệp đạo; nếu không, sẽ cho rằng làm thiện là khổ. Người thế gian cho rằng trì giới tu thiện là việc rất khổ sở, chịu rất nhiều ràng buộc, không được tự tại mà không biết trì giới tu thiện là sự tự tại, mát mẻ đúng đắn, an vui chân thật. Sau đó lấy điều này làm căn bản, như thế mới có thể bước vào sự tu học Phật pháp. Vì vậy, người thật sự phát Bồ-đề tâm, thật sự giác ngộ, nhất định hiếu thuận cha mẹ. Nếu như thấy cha mẹ mà hết sức chán ghét, đây là mê lầm điên đảo. Những người trẻ tuổi hiện nay không bằng lòng sống chung với ông bà cha mẹ, như vậy là mê muội. Người đã thật sự giác ngộ, sẽ thích sống chung và hiếu thuận với mọi người.

Câu thứ nhất trong Tam phước là “Hiếu dưỡng cha mẹ”. Người không hiếu dưỡng cha mẹ, dù một ngày niệm danh hiệu Phật, lễ bái mười nghìn lạy cũng phải luân hồi trong sáu nẽo, vẫn phải đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, không thể vãng sinh thế giới Tây phương Cực Lạc. Tại sao? Vì không phát Bồ-đề tâm, vì mê hoặc điên đảo.

Câu thứ hai là “Phụng sự sư trưởng”. Thầy đối với chúng ta có ân đức dạy dỗ. Ân đức của thầy và cha mẹ không sai khác. Dù thầy không còn nữa nhưng đối với ân đức của thầy cũng phải niệm niệm không quên. Lúc trước ở Đài Trung, tôi theo tôn sư Lý mười năm, giờ thầy đã không còn nhưng tôi đã xây nhà tưởng niệm ở tại quê hương của ngài. Chúng ta báo ân thầy, từng niệm không quên ân đức dạy dỗ của thầy, là đem sự dạy dỗ của thầy xiển dương mạnh mẽ rực rỡ.

Phật pháp được thiết lập trên nền tảng “Hiếu đạo”. Những bạn đồng tu thụ Bồ-tát giới, Thầy trên giới đàn sẽ nói cho các bạn “Phật pháp đại thừa, hiếu gọi là giới”. Hiếu thuận chính là giới đại thừa Bồ-tát. Hiếu thuận cha mẹ, hiếu thuận sư trưởng, hiếu thuận tất cả chúng sinh, đây là tinh thần của giới Bồ-tát. Sự giác ngộ chân thật, từ điểm này mà trí huệ phát sinh. Nếu như bạn nói: “Tôi không thể ở chung với người già, vì người già rất khó sống chung”. Nhưng người già là đại thiện tri thức của bạn, giúp bạn thành tựu nhẫn nhục Ba-la-mật, không có môi trường này thì bạn đến nơi nào tu nhẫn nhục Ba-la-mật? Không nhẫn nhục Ba-la-mật sẽ không có tinh tấn, thiền định và trí huệ. Người không thể nhẫn, vẫn phải đọa vào súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Không những Phật đạo không thể thành mà cõi người, cõi trời đều không có phần. Khuyên bạn sống chung với người già phải hiếu thuận, đó là tu hạnh nhẫn nhục Ba-la-mật. Người già là đại thiện tri thức, khiến cho bạn làm hết đạo hiếu, đem tập khí tri kiến sai lầm, bệnh hoạn mài giũa cho sáng rực rỡ. Như thế mới là Bồ-tát, tương lai mới có thể thành Phật.

Sự giáo dục của Trung Quốc được thiết lập trên nền tảng đạo hiếu. Sự giáo dục của đạo Phật cũng được thiết lập trên nền tảng đó. Phật pháp truyền vào Trung Quốc, lập tức nhận được sự hoan nghênh của các tầng lớp quan lại, trí thức, dân chúng khắp mọi nơi. Cổ nhân nói: “Chỗ thấy của anh hùng khá giống nhau”. Thánh nhân của Trung Quốc và thánh nhân của Ấn Độ không gặp nhau, không đàm luận, không có trao đổi ý kiến, nhưng nền tảng dạy học, điều kiện căn bản để bám trụ hoàn toàn giống nhau, đó là trí huệ chân thật.

“Hiếu” là chữ hội ý, từ phù hiệu này mà chúng ta thể hội được ý nghĩa của nó, phía trên là chữ “Lão”[34], phần dưới là chữ “Tử”[35], ý nghĩa là đời trên và đời dưới hợp thành một thể, không thể tách rời. Người ngoại quốc thời nay gọi là phân chia giới tuyến giữa các đời, hễ có ngăn cách thì không có đạo hiếu.

Người ngoại quốc không có đạo hiếu, nên họ học Phật, học thế nào cũng không thành, vì họ không có nền tảng này. Người Trung Quốc kỷ niệm tổ tiên, người ngoại quốc cảm thấy không thể hiểu được. Trong nền văn hóa của Trung Quốc, quá khứ vẫn có quá khứ, tương lai vẫn có tương lai. Quá khứ không có khởi đầu, vị lai không có kết thúc, là toàn thể một sinh mạng. Cha mẹ tổ tiên chính là mình, con cháu nam nữ chính là mình. Đối với cha mẹ, gái trai đều chăm sóc, thương nhớ, cũng giống như thương yêu chăm sóc bản thân mình, đây gọi là hiếu thuận.

“Hiếu” nhìn thẳng dọc thì không đầu không cuối, nhìn ngang thì rộng khắp mười phương. “Dọc cùng ba cõi, ngang khắp mười phương”, đó là toàn thể một pháp giới. Toàn thể pháp giới tức là toàn thân mình. Trong Vãng Sinh Luận của Bồ-tát Thế Thân có hai câu nói: “Chân thật trí huệ, pháp thân vô vi” hay tận hiếu là chân thật trí huệ, còn bản thể của hiếu chính là pháp thân vô vi. Trong nhà Phật, niệm Phật là niệm “Pháp thân Phật”. Nếu muốn chứng được pháp thân thanh tịnh mà ngay cả cha mẹ cũng bất hiếu, thì cũng không chứng đắc pháp thân thanh tịnh gì, vì đã quá đỗi điên đảo mê lầm.

Phật pháp tu hành được thiết lập trên nền tảng đạo hiếu này. Hiện giờ mấy ai hiểu được hiếu thuận cha mẹ? Mấy ai hiểu được tôn sư trọng đạo? Những vị thầy mà tôi học thuở nhỏ ở Đại lục, hiện nay vẫn còn hai vị. Mỗi lần đến Đại lục, tôi đều đi thăm thầy, vào ngày lễ tết, tôi đều gởi một ít phẩm vật cúng dường thầy. Tôi biết báo ân là tận hiếu. Trong Phật pháp tôi có được thụ dụng một chút là thực hành ngay, không phải chỉ nói miệng mà thôi.

Từ nền tảng hiếu đạo, mới có thể thực hành được “Tâm từ không sát, tu mười nghiệp thiện”. Đây là căn bản cơ sở của nền tảng tu hành. “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng. Tâm từ không sát, tu mười nghiệp thiện”. Làm được bốn câu này thì có thể được phước báo của trời người. Nói cách khác, nhất định bạn không rơi vào ba đường ác. Đó chính là thực hành “Phước thứ nhất”.

Tóm lại, cách dạy học của Phật pháp hoàn mỹ, sự giáo dục rất viên mãn, chính là được thiết lập trên nền tảng hiếu đạo.

Phước thứ hai là “Thụ trì tam quy, các giới cụ túc, không phạm oai nghi”. Đây là tiếp nhận sự giáo dục của Đức Phật. Sự giáo dục của Đức Phật được thiết lập trên nền tảng giáo dục của thế gian. Giáo dục của thế gian dựa theo tinh thần hiếu kính tôn sư. Vì vậy, kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện là bộ kinh số một của sự tu học tất cả các kinh điển đại thừa. Đây là bộ kinh hiếu của nhà Phật. Người không biết tận hiếu thì tu học Phật pháp chỉ tu suông, là giả dối.

Phước thứ ba là “Phát Bồ-đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyên người tu hành”.

Pháp môn niệm Phật lấy phước thứ ba làm nền tảng, thì sau đó niệm danh hiệu Phật mới có được công phu. Cổ nhân nói: “Một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”. Vì sao chúng ta niệm Phật từ sáng đến chiều lại không được tương ưng? Vì chúng ta không có nền tảng của tam phước. Đạo lý của tam phước chúng ta không hiểu rõ, phương pháp tu hành cũng không thực hiện, vì vậy niệm danh hiệu Phật không được tương ưng.

“Tam phước” là nền tảng của sự tu hành, có thể làm được thực sự thì sự tu hành của chúng ta mới có hiệu quả, công phu niệm Phật có đắc lực, học Phật pháp sẽ rất vui. Mục tiêu tu học Phật pháp là hiện tiền được lợi ích thù thắng, thân tâm mình được vui vẻ, gia đình hạnh phúc mỹ mãn, sự nghiệp thành công. Tiến thêm một bước là đạt đến xã hội huy hoàng, thế giới hòa bình, không những niệm Phật có thể đạt đến mục tiêu này mà bất kỳ một pháp môn nào của Phật pháp đại thừa cũng đều có thể đạt đến mục tiêu ấy. Chỉ cần tu học đúng như lý như pháp và tương ưng với phương pháp, lý luận mà Đức Phật đã giảng thì nhất định có thể đạt được.

Niệm Phật Công Đức phần giới thiệu
Niệm Phật Công Đức phần 1
Niệm Phật Công Đức phần 2
Niệm Phật Công Đức phần 3
Niệm Phật Công Đức phần 4
Niệm Phật Công Đức phần phụ lục

Niệm Phật Công Đức phần 4

Niệm Phật Công Đức phần 4IV: TÂM HỌC PHẬT VỚI NGUYỆN-GIẢI-HÀNH
1. Đạo Phật là sự thực tiễn của Tam quy y “Giác, Chính, Tịnh”.

Phật pháp tu học, ngay bước đầu là truyền thụ Tam quy y. Tam quy y là sự nhập môn của Phật pháp. Vì vậy, chúng ta nhất định phải nhận thức rõ ràng ý nghĩa của Tam quy y.

Tại sao học Phật phải quy y? Quy y ở đâu? Quy y cái gì? Mục đích của quy y ở đâu? Điểm tốt của quy y ở chỗ nào? Nếu như không nhận thức rõ được những điều này, quy y một cách mơ hồ, thụ giới một cách hồ đồ. Nói thật, đó là hồ đồ quy y, hồ đồ thụ giới, tương lai thành Phật hồ đồ!

Mới vào cửa Phật, thầy sẽ truyền thụ Tam quy y. Tam quy y chính là đem cương lĩnh chung, phương hướng chung truyền trao cho bạn. Sau này, bất luận bạn y cứ kinh điển nào, tu học pháp môn nào cũng đều không thể trái với cương lĩnh này, không thể tách rời phương hướng này. Vì đây là cương lĩnh thành Phật, phương hướng thành Phật.

“Tam quy y” là chỉ cho quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Một số người cho rằng: Phật là tượng Phật, Pháp là kinh điển, Tăng là người xuất gia, mà không hề biết đây là một nhầm lẫn rất lớn.

Trong sự ghi chép của kinh điển, chúng ta có thể phát hiện nguồn gốc của sự sai lầm đã lâu. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, đại sư Huệ Năng, tổ thứ sáu Thiền tông đã giảng Tam quy y, ngài không dùng “Phật, Pháp, Tăng” mà dùng “Quy y Giác, quy y Chính, quy y Tịnh”. Lục Tổ đại sư đã thay đổi những danh từ này, chúng ta nghĩ xem, nhất định là đã có sự sai lầm ở thời đại nào đó.

Ý nghĩa của Tam bảo: Phật là “Giác”, Pháp là “Chính”, Tăng là “Tịnh”. Giảng từng từ như thế chúng ta sẽ không đến nỗi sinh ra sự hiểu lầm. Đây là Tự tính Tam bảo, là nơi quy y đúng đắn của chúng ta. Phật pháp được gọi là “ Nội học”, là tìm cầu ở bên trong, không phải tìm cầu ở bên ngoài; nếu tìm cầu ở bên ngoài thì gọi là “ngoại đạo”. Tam quy y, nếu như quy y tượng Phật, kinh điển và người xuất gia ở ngoài tâm, thì quy y như thế chính là quy y ngoại đạo. Ngoại đạo hoàn toàn không phải là chỉ cho tôn giáo khác, mà là chỉ cho sự cầu pháp ở ngoài tâm. Phật pháp là dạy cho bạn tìm cầu ở trong tâm.

“Phật” là tự tính giác; giác ngộ là chính mình giác chứ không phải người khác. Người khác giác ngộ không liên quan gì đến ta. Đức Thích-ca Mâu-ni, Ngài đã giác ngộ, còn ta chưa giác ngộ. Quy y Ngài, ta không thể giác ngộ, quy y chính mình mới có thể giác ngộ. Vì vậy, Phật dạy chúng ta quy y tính của mình, không được quy y Đức Phật ở ngoài. Nếu các vị quán sát, tư duy kỹ sẽ biết không dối gạt người. Phật pháp là khai phát tự tính cho chúng ta, tuyệt đối không dạy ta chạy theo người khác. Đức Phật không hề dắt mũi chúng ta đi. Phật dạy mỗi người đội trời đạp đất. Tam quy chính là dạy bạn đội trời đạp đất. Vì chúng ta vốn là Phật, chẳng qua vì mê mà thôi. Đức Phật đến giúp đỡ chúng ta khôi phục tự tính. Cho nên, “Phật” chính là ý nghĩa của giác ngộ, chúng ta phải quy y tính giác của mình.

Quy là trở về, quay đầu lại. Chúng ta quay đầu từ chỗ nào? Quay đầu từ chỗ mê hoặc, điên đảo để nương về tính giác của mình. Đây là quy y Phật chân chính. Nói thì rất dễ nhưng trên thực tế chúng ta không hề quay lại; đối người, đối sự, đối vật, chúng ta vẫn cứ mê mờ không tỉnh giác.

Tiền đề lớn, phương hướng lớn mà Đức Phật dạy chúng ta, chúng ta phải tuân thủ ra sao? Làm thế nào để tu học. Thí như, Đức Phật dạy chúng ta hiếu cha mẹ, kính tôn sư, chúng ta không hiếu kính. Đây là mê mờ; hiếu kính chính là tính giác của mình; không tôn sư trọng đạo, đó là mê mờ. Tôn sư trọng đạo chính là tính giác của mình; đối với tất cả chúng sinh ta không có lòng từ bi, đó là mê muội; từ bi với tất cả chúng sinh chính là giác. Những điều này hoàn toàn thực hiện trong đời sống mới là sự tu học chân chính.

Tất cả những điều Đức Phật dạy chúng ta, tất nhiên là đạo lý cho tính giác của mình. Trái với lời dạy của Phật chắc chắn là mê hoặc điên đảo. Như vậy, những sự việc ấy chúng ta cần phải hạ thủ, biết cách làm thế nào để phá mê khai ngộ trong đời sống hằng ngày.

“Pháp” là chính tri kiến, chính là trí huệ Bát-nhã vốn có đủ của tự tính. Người xưa giảng “Chân thật trí huệ” chính là Pháp, pháp không phải từ bên ngoài đến. Kinh Pháp Hoa giảng “Nhập Phật tri kiến”. Tri kiến Phật chính là pháp, Phật là tính giác của mình, tự tính bản giác. Trí huệ sinh ra từ trong bản giác chính là Pháp.

“Tăng” là thanh tịnh, tự tính xưa nay thanh tịnh, thanh tịnh tức là Tăng bảo. Lục Tổ đại sư khi khai ngộ đã trình bày chỗ tâm đắc cho thầy Ngũ Tổ. Câu thứ nhất nói: “Nào ngờ tự tính, vốn sẵn thanh tịnh”. Tự tính xưa nay vốn thanh tịnh chính là Tăng bảo. Trong tự tính của chúng ta có đầy đủ Tam bảo. Đây là sự quy y đúng đắn, chúng ta nhất định phải hiểu rõ.

Ngày nay có nhiều người tu phát tâm làm đệ tử Phật, phát tâm học tập theo Phật, lĩnh thụ Tam quy y, chúng tôi có băng ghi âm và một quyển sách nhỏ “Truyền thụ tam quy”, hy vọng các vị nghe nhiều, xem nhiều. Quy y về đâu, nương vào cái gì, đều phải hiểu rõ ràng triệt để, mới có thể đạt được lợi ích công đức chân thật của Tam quy y.

Hình tượng Phật, kinh sách, người xuất gia, chính là hình tượng của Tam bảo, dáng dấp của Tam bảo. Nội dung thực chất đúng nghĩa của Tam bảo, tức là “giác, chính, tịnh” của tự tính. Hình thức cũng rất quan trọng, nó là sự truyền thừa của Phật pháp, một hình thái truyền nối.

Nếu như không có hình thức này tượng trưng cho sự tồn tại thì Phật pháp sẽ biến thành một cái hang rỗng không, trở thành học phái thần bí.

Đối với hình thức Tam bảo, chúng ta cũng phải tôn trọng. Tôn trọng Tam bảo chính là tôn trọng đạo. Nếu như chúng ta mong mỏi giáo pháp của Đức Phật Thích-ca, sự giáo dục của Ngài có thể thường trụ nơi thế gian, có thể lợi ích chúng sinh rộng khắp cả, thì hình thức của Tam bảo vô cùng quan trọng. Bất luận tượng Phật đúc hay vẽ, chúng ta đều phải tôn trọng, kinh sách và người xuất gia chúng ta cũng phải tôn trọng.

Cúng dường Tam bảo, nếu biết cúng dường như thế nào thì chính mình được lợi ích. Thấy tượng Phật, nhắc nhở mình phải giác ngộ tự tính, giác tỉnh không còn mê. Thấy kinh sách hoặc quyển kinh, tự thức tỉnh chúng ta phải chính tri, chính kiến, tư tưởng kiến giải phải chính xác, không thể có sai lầm. Thấy hình tượng của người xuất gia, thì phải thức tỉnh chính mình: “Sáu căn thanh tịnh, mảy trần chẳng nhiễm”, phải thanh tịnh, không được ô nhiễm. Nếu người xuất gia không thanh tịnh thì họ chẳng liên quan gì đến chúng ta. Cho nên công đức của trụ trì Tam bảo đối với chúng ta là vô lượng vô biên.

Từ nhiều kiếp lâu xa đến nay, chúng ta luân hồi trong sáu nẽo, mê mờ không tỉnh thức, sai lầm không chính kiến, nhiễm ô không thanh tịnh. Dù cho ngày nay đã thụ tam quy y nhưng thói xấu của chúng ta vẫn còn khá nặng, rất dễ bị lôi cuốn. May mà có Trụ trì Tam bảo thường xuyên, từng giờ từng khắc nhắc nhở chúng ta, giúp chúng ta giác không mê muội, chính kiến chẳng tà vạy, thanh tịnh không ô nhiễm, thử hỏi làm sao mà chúng ta không cung kính? Đây chính là lợi ích chân thực của Trụ trì Tam bảo đối với chúng ta.

Hiếu dưỡng cha mẹ, kính thuận sư trưởng và tôn trọng đạo, đây là bước khởi đầu của sự tu hành, phải tiến thẳng đến bồ-đề viên mãn, thì “giác, chính, tịnh” của chúng ta mới viên mãn. Vì thế, tu “giác, chính, tịnh” là bắt đầu từ hiếu dưỡng cha mẹ, kính thuận sư trưởng và tôn trọng đạo.

Tu hành là sửa đổi những hành vi lỗi lầm. Đối với thực chất, nội dung tu hành, chúng ta phải hiểu rõ nghìn vạn lần không được lầm lẫn, cho rằng tu hành là mỗi ngày đọc bao nhiêu bộ kinh, niệm bao nhiêu tiếng, lễ bao nhiêu lạy. Lầm rồi! Đó chỉ là hình thức mà thôi.

Nếu mỗi ngày đọc mười bộ kinh Vô Lượng Thọ, niệm mười nghìn danh hiệu Phật, lễ ba nghìn lạy, nhưng vẫn không hiếu dưỡng cha mẹ, không kính trọng sư trưởng thì tu hành kiểu này hoàn toàn là tu giả dối, không phải chân thật. Cổ nhân thường nói: “Hét bễ cuống họng cũng uổng công”! Nếu người này hiếu dưỡng cha mẹ, kính thuận sư trưởng và tôn trọng đạo, ghi nhớ sự hiếu thuận của chư Phật vào lòng, trong cuộc sống hằng ngày, đối người, xúc sự, tiếp vật, đều thực hành đúng như lý, như pháp thì dù cho người này cả ngày không đọc một bộ kinh, không niệm một câu Phật, Đức Phật vẫn nói người ấy là đệ tử chân thật; người ấy thật sự đang học Phật.

Các vị nên biết, tu hành không phải nơi hình thức mà quý nơi thực chất. Nói cách khác, trong cuộc sống hằng ngày, xử lý sự việc, đối đãi với người, tiếp xúc sự vật đều phải giống như Bồ-tát. Phật và Bồ-tát ứng sự, tiếp đãi người như thế nào? Đời sống của các ngài ra sao? Chúng ta phải học tập giống như Phật và Bồ-tát. Đức Phật dạy bạn đọc kinh, lễ Phật, đó là bài tập của lớp học trò tiểu học. Sự hành trì của sinh viên đại học không phải giống như thế. Các vị xem thấy 53 lần tham học với 53 vị Thiện tri thức của Thiện Tài đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm, họ đều là sinh viên đại học. Họ rất ít có hình thức kiểu này, họ hoàn toàn nói đến hành vi thân, khẩu, ý thanh tịnh, chính tri chính kiến và sự giác ngộ được biểu hiện trong đời sống. Đây mới là vị Bồ-tát chân chính.
2. Năm năm học giới, vâng theo lời dạy của sư trưởng.

Người mới học, nhất định phải hạ thủ công phu từ “trì giới”. Giới đây chính là lời răn dạy của thầy, Đức Phật dạy chúng ta, đạo nghiệp, học nghiệp, sự nghiệp có thành tựu hay không, then chốt ở nơi thầy! Nếu có sự hướng dẫn của vị thầy tốt thì nhất định chúng ta sẽ thành tựu. Vậy vị thầy nào là thầy tốt nhất?

Đại sư Thiện Đạo nói: “Vị thầy nào có duyên với bạn chính là vị thầy tốt”. Sao gọi là “có duyên”? Vị thầy mà trong lòng bạn tôn kính, ngưỡng mộ nhất, chính là vị thầy có duyên với bạn. Vì những lời thầy nói, bạn có thể tiếp nhận. Sự dạy dỗ của thầy, bạn sẽ cố gắng thực hành, đây gọi là có duyên. Với vị thầy không có duyên, dù cho vị ấy có học vấn, đạo đức cao hơn, bạn vẫn không tin tưởng. Sự hướng dẫn của vị ấy, sẽ trở thành gió lướt qua bên tai bạn, bạn không để ý, căn bản là không thực hành. Thế thì chẳng được lợi ích gì, và cũng không thể thành tựu.

Thiện tri thức của mỗi người không giống nhau, như tôi tôn kính người này, bạn tôn kính người khác. Vì vậy, chư Phật, Bồ-tát phải thực hiện nhiều thân phận khác nhau. Bồ-tát Quán Thế Âm trong phẩm Phổ Môn, thị hiện ba mươi hai loại thân tướng. Bạn thích thân tướng nào thì ngài sẽ hiện thân tướng đó, đây là có duyên với bạn. Nếu bạn thích Bồ-tát mà Phật thị hiện đến thì bạn không thích, đối với Phật, bạn sẽ không cung kính. Việc này xảy ra rất nhiều.

Có rất nhiều người không cung kính Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và Phật A-di-đà nhưng lại cung kính Bồ-tát Quán Thế Âm. Những lời Bồ-tát Quán Thế Âm nói, họ liền nghe theo, còn những lời Đức Phật nói, họ không nghe. Bạn muốn tìm thầy thì phải biết nguyên tắc này. Phải tìm vị thầy mà trong lòng bạn yêu thích nhất, tôn kính nhất. Vì trong sự yêu thích và tôn kính có một điều kiện rất quan trọng, chính là bạn tin tưởng, chịu thực hành theo những lời vị thầy ấy đã nói. Đây là một nhân tố rất quan trọng. Học như thế bạn sẽ có sự thành tựu.

Vẫn còn một nguyên tắc rất quan trọng khác, đây là đặc biệt nói với người mới học. Người mới tu học, không có chính tri, chính kiến, không có khả năng phân biệt tà chính, đúng sai. Đối với một số việc, cách nói dường như đúng mà lại sai, bạn không biết nó là tà pháp lại xem nó là chính pháp. Một khi thiệt thòi bị lừa thì rất khó dứt ra. Đây là nhân tố chủ yếu không cách nào thành tựu cho sự tu học đời đời kiếp kiếp của chúng ta, hy vọng đời này chúng ta không phạm nữa.

Tà chính rất khó phân biệt, trong kinh Lăng-nghiêm, Đức Phật giảng về năm mươi loại ấm ma, loại ma bậc cao hơn, thoạt nhìn không khác gì Phật và Bồ-tát, mà xem nó là Phật, Bồ-tát, thế thì đã hỏng rồi. Ma nói pháp, trong một trăm câu chỉ có một câu không giống với Phật. Một câu giả này tức là độc tố. Chúng ta có năng lực gì để phân biệt?

Vì vậy, người mới học không rời thầy giống như trẻ con không được rời mẹ hiền. Vì sao mẹ hiền phải mang con theo mình đến ba bốn năm? Trong ba bốn năm này, đứa trẻ không thể rời mẹ, vì nó còn nhỏ quá, không hiểu việc, giờ phút nào cũng có thể nguy hiểm đến tính mạng, nên cần người chăm sóc kỹ, một khắc cũng không được rời khỏi mẹ. Chúng ta mới học Phật pháp, cũng không khác gì trẻ con, chỉ cần trong một tích tắc không cẩn thận, bất tri, bất giác, liền bị yêu ma quỷ quái lôi kéo vào đường tà. Điều này thật đáng sợ! Vì thế ta nhất định phải nương theo bậc thiện tri thức.

Thời xưa, người học Phật phải 5 năm học giới, và trong 5 năm không được rời khỏi thầy. Vì người mới học tu không có chính tri, chính kiến, rất dễ bị ngoại cảnh mê hoặc. Năm năm học giới, không phải là học giới luật mà là học lời răn dạy của thầy. Học trò thời nay muốn họ 5 năm không được rời khỏi sự răn dạy của thầy thì khó quá! Thế nên, ngày nay học Phật khó, khó ở điểm không có thầy, không có bậc thiện hữu tri thức. Tại sao không có thầy? Vì không có học trò. Tất cả học trò miệng đều nói muốn học, thực tế trong lòng hoàn toàn không muốn. Đây là phước báo của chúng sinh trong thời đại này không bằng quá khứ.

Vào năm Dân quốc thứ 42 (1953), tôi tiếp xúc Phật pháp, vẫn còn thời vận rất may mắn, có thể nương tựa một chút bên thầy. Vị thầy mà tôi gặp vẫn dùng phương pháp cổ điển dạy cho tôi, tôi có thể tiếp nhận. Môn triết học tôi học đầu tiên nhất, do tiên sinh Phương Đông Mỹ dạy, ở tại nhà ông, một tuần gặp một lần, học trong hai giờ. Sau khi nhận thức Phật pháp, tôi gặp được đại sư Chương Gia. Đại sư rất từ bi, giống như thầy Phương Đông Mỹ. Mỗi ngày chủ nhật, thầy dạy tôi hai tiếng đồng hồ. Đại sư viên tịch, tôi đến Đài Trung lễ thầy, thân gần lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, thầy đã đưa ra cho tôi 3 điều kiện:

1. Bắt đầu từ hôm nay, ông chỉ có thể nghe một mình tôi giảng kinh thuyết pháp. Ngoài tôi ra, bất kỳ pháp sư, đại đức, cư sĩ nào giảng kinh thảy đều không được nghe.

2. Bất luận là sách Phật hay sách thế gian, nếu không qua sự đồng ý của tôi thì tất cả đều không được xem.

3. Những pháp ông đã tu, đã học trước đây, tôi không thừa nhận, thảy đều bỏ qua, bắt đầu từ ngày hôm nay phải học theo tôi.

Ba điều kiện này, thoạt nghe dường như rất hà khắc, tôi cảm thấy vị thầy này rất ngang ngạnh, giống như ngoài ông ta ra thì không có người nào khác. Bấy giờ, tôi suy đi nghĩ lại nhưng vẫn cứ tiếp nhận. Về sau, tôi mới biết, 5 năm học giới trong cửa Phật chính là học ba điều kiện này. Ba điều kiện này chính là phương pháp của mẹ hiền vỗ về con trẻ. Học trò phải nghe lời, phục tùng một trăm phần trăm. Thầy dẫn bạn đi trên con đường chính đáng, phụ trách bồi dưỡng nền tảng “giác, chính, tịnh” cho bạn, thời hạn là năm năm. Sau 5 năm, bạn có năng lực phân biệt tà chính, đúng sai thì thầy sẽ giải phóng bạn. Lúc này, bất luận người nào giảng kinh thuyết pháp bạn đều có thể nghe. Sách vở xuất thế gian, bạn đều có thể xem, vì bạn có năng lực phân biệt, nên nó không có tác hại cho bạn. Bạn có thể phân biệt tà chính, đúng sai, chân vọng, bạn có thể đi khắp nơi nghe pháp, thành tựu trí huệ viên mãn cho mình.

Năm năm học giới, thầy là người vận dụng tâm này bồi dưỡng chính tri, chính kiến cho bạn. Nếu bạn không vâng theo, không chịu nghe lời, thì không có pháp tử. Học sinh thời hiện đại không được như vậy. Thấy vị thầy đề xuất điều kiện này, họ sẽ nói: “Cái này không thể được, thiện tri thức rất nhiều”. Tâm trạng của học sinh thời nay không giống như chúng tôi ngày trước. Chúng tôi rất thật thà luôn vâng theo sự dạy dỗ của thầy. Thầy yêu cầu 5 năm đó, tôi rất cảm kích thầy, tự mình lại tăng thêm 5 năm, vì thế tôi hoàn toàn tuân thủ theo thầy trong vòng mười năm.

Chúng ta hãy xem giáo trình dạy học của kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử đã là tấm gương cho chúng ta thấy. Thầy của đồng tử là Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ-tát Văn Thù đã dạy đồng tử như thế nào? Cũng là ba điều kiện của thầy Lý. Đợi đến khi đồng tử có năng lực phân biệt tà chính, đúng sai thì thầy của ông mới chủ động cho ông ra ngoài tham học. Đó chính là 53 lần tham học. Ra ngoài tham học, người nào đồng tử cũng có thể tiếp xúc, pháp môn nào cũng có thể nghe, kinh sách nào cũng có thể xem. Những điều đó đã thành tựu trí huệ viên mãn cho Thiện Tài đồng tử. Vì thế, 5 năm học giới được trích từ kinh Hoa Nghiêm, nó là điều có căn cứ rõ ràng. Đây là giáo trình dạy học truyền thống của Phật môn, chúng ta không hiểu đạo lý, ý nghĩa, công đức chân thật của nó liền không chịu tiếp nhận, ấy là chúng ta không có tâm nhẫn nại học tập chân chính. Nói cách khác, căn cơ học Phật của chúng ta không tốt, thậm chí có thể nói là hoàn toàn không có căn cơ học tập. Vậy thì làm sao có thể thành tựu được? Người xuất gia học Phật không thể trái với nguyên tắc này. Người tại gia học Phật muốn thành tựu cũng không thể trái với nguyên tắc này. Người học Phật thời nay nhiều hơn thời xưa. Vì cơ hội học Phật nhiều hơn ngày xưa, theo sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, kinh điển không thiếu thốn. Thời xưa muốn có được một bộ kinh, thật sự không dễ dàng chút nào. Hiện tại dường như mỗi gia đình đều có thể cúng dường một bộ Đại Tạng kinh. Người xưa nào có phước báo nhiều như thế!

An Huy, quê hương tôi có một ngôi chùa, là đạo tràng rất cổ kính, thời kỳ hưng thịnh nhất có năm, sáu trăm người xuất gia ở đó. Đạo tràng ấy rất rộng lớn biết bao mà chỉ có một nửa bộ Đại Tạng kinh. Người xưa muốn đọc Đại Tạng kinh, đều phải đến chùa ở lại mấy ngày tìm kinh, mượn Đại Tạng kinh rồi chép ra. Họ chép kinh là nghĩ đúng, tu hành đúng. Người thời nay có thể thỉnh Đại Tạng kinh về nhà cúng dường. Tuy tiện lợi nhưng xem ra vẫn là uổng công. Người bây giờ phước báo rất lớn nhưng đó là cái lớn trên hình thức, trên thực chất vẫn là nông cạn, vì không có sự khiêm tốn, chân thành, cung kính của người xưa, cho nên sự học tập và thành tựu, tự nhiên không bằng người xưa.

Hiện giờ, thiện hữu tri thức đã ít, dù cho có thiện hữu tri thức cũng rất khó tìm được học trò. Sau khi tôi học thành tựu, quanh năm hoằng pháp ở nước ngoài, không có bạn học, bạn tu nên cảm thấy rất cô đơn. Sau đó, tôi gặp được cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, thật là vui sướng. Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ gặp được tôi cũng rất vui, vì ông đang hoằng dương kinh Vô Lượng Thọ ở Trung Quốc, tôi cũng đang hoằng dương kinh Vô Lượng Thọ ở nước ngoài, cả hai đều là người lẻ loi trơ trọi, nên vừa gặp nhau cảm thấy vô cùng may mắn có một người bạn đồng hành.

Mỗi lần từ nước ngoài trở về, tôi luôn đến Đài Trung thăm thầy Lý. Mỗi lần gặp thầy, tôi đều cầu thỉnh thầy bồi dưỡng thêm cho mấy đứa học trò. Huynh đệ cùng thầy chúng tôi ngày càng nhiều, lực lượng hoằng Phật pháp ở bên ngoài đã rộng lớn. Những lời này có lẽ đã nói mười mấy lần. Lần sau cùng, dường như thầy đã chán nghe, thầy nói: “Không phải là tôi không dạy học trò, ông hãy thay tôi tìm học trò đi”.

Sau khi nghe câu nói này, tôi không còn lý do gì để nói. Tôi thầm nghĩ, quả là tìm không được! Biết đến nơi nào để tìm được một người thật thà, hoàn toàn nghe lời thầy? Thử nghĩ xem tìm một người có thái độ tu học và cung kính đối với thầy giống như mình. Thật sự tìm không được! Tôi đã hiểu ra. Từ đó về sau, tôi không nói nữa, vì biết việc này rất khó khăn!

Người chân chính thích học, người chân chính muốn học, đương nhiên có, chỉ là tôi không gặp được. Hiện giờ, thầy cũng không còn nữa, làm thế nào đây? Tìm người xưa, làm đệ tử tư thục của bậc cổ đức, từ xưa đến nay đều chọn lấy phương pháp này. Vị thứ nhất là Mạnh Tử ở Trung Quốc. Mạnh Tử rất ngưỡng mộ đức Khổng Tử, ông phát nguyện làm học trò của Khổng Tử, nhưng Khổng Tử đã từ trần! Song những trước tác của Khổng Tử còn trên thế gian, ông liền đọc sách của ngài, tuân theo cố gắng thực hành đạo lý những lời dạy mà Khổng Tử đã nói, có chỗ nào không hiểu, ông liền thỉnh giáo học trò của Khổng Tử. Nhờ vậy sự học tập của ông đã thành tựu. Đó gọi là “đệ tử tư thục”. Ở Trung Quốc, Khổng Tử được tôn xưng là bậc “Chí Thánh Tiên Sư”. Mạnh Tử được gọi là “Á Thánh”, đây là ví dụ về các bậc cổ nhân làm thầy đứng đầu ở Trung Quốc.

Chúng tôi có ví dụ này để nêu ra, thầy giáo nhiều, cổ thánh tiên hiền do bạn chọn lấy, bậc đại đức nào bạn thích, có duyên với bạn thì bạn hãy theo vị ấy học tập, bạn sẽ thành công. Trong lịch sử, những ví dụ về thành công rất nhiều. Người nổi tiếng nhất là Tư Mã Thiên, tác giả bộ Sử Ký của triều Hán, ông cũng học theo người xưa, tôn Tả Khưu Minh, tác giả bộ Tả Truyện làm thầy, chuyên học Tả Truyện và ông đã thành công.

Trong nhà Phật, Ngẫu Ích đại sư tôn đại sư Liên Trì làm thầy. Ông vô cùng ngưỡng mộ, sùng kính đại sư Liên Trì, chuyên đọc sách của đại sư Liên Trì, làm học trò của ngài, ông cũng đã học thành công. Thầy Lý ở Đài Trung dạy tôi học theo đại sư Ấn Quang, tôn đại sư làm thầy, chuyên học “ Văn sao” của ngài, tu học theo những lời dạy trong “Văn sao”, và làm đệ tử của ngài. Thầy Lý là đệ tử của đại sư, thầy dạy tôi cũng làm đệ tử của ngài. Khuyến khích hướng dẫn tôi như vậy, đây là sự khiêm tốn của thầy, cũng là cách dạy dỗ từ bi chân thật của ông.
3. Tôn Phật A-di-đà làmThầy.

Vị đại thiện tri thức mà hôm nay tôi sẽ giới thiệu đến quý vị là Đức Phật A-di-đà, hy vọng mọi người có thể nương vào lý luận và sự giáo huấn trong kinh Vô Lượng Thọ, nỗ lực tu học, làm đệ tử của Phật A-di-đà, Đức Thích-ca Mâu-ni rất khâm phục Đức Phật A-di-đà đến nỗi năm vóc gieo sát đất. Ngài tán thán Đức Phật A-di-đà là “Vua của tất cả chư Phật, bậc tối tôn trong các ánh sáng”. Đức Phật giới thiệu Đức Phật A-di-đà cho chúng ta, tại sao chúng ta không làm đệ tử của Đức Phật A-di-đà?

Mọi người đã phát tâm quy y thì nên thực hiện sự quy y ngay trong đời sống. Quy y Phật là quy y Đức Phật A-di-đà, quy y Pháp là quy y kinh Vô Lượng Thọ, quy y Tăng là quy y Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí. Nếu như đem Tam bảo quy về tự tính để nói thì quy y Phật, Phật A-di-đà là tự tính giác, vô lượng giác. Đây là tự tính Phật bảo; quy y pháp, kinh Vô Lượng Thọ là bộ kinh nói rõ về thể, tướng, dụng của tự tính; quy y tăng, Bồ-tát Đại Thế Chí biểu hiện trí huệ, Bồ-tát Quán Âm biểu thị cho từ bi. Chúng ta phải học trí huệ của Bồ-tát Đại Thế Chí, lòng từ bi của Bồ-tát Quán Thế Âm, và thực hiện ngay trong đời sống thường ngày, đối người, đối sự, đối vật đều phải từ bi. Từ bi phải nương vào trí huệ, không được nương vào tình cảm. Từ bi mà nương vào tình cảm tức là phiền não. Nhà Phật thường nói: “Từ bi là gốc, phương tiện là cửa”. Còn nói: “Từ bi nhiều tai họa, phương tiện sinh kém hèn”. Nguyên nhân nào khiến cho từ bi, phương tiện biến thành tai họa, kém hèn? Vì xử lý việc bằng tình cảm làm hư việc. Từ bi nhất định phải nương vào lý trí, như thế mới chính xác, đó là giác mà không mê.

Các bạn tu học Tịnh Độ, trong nhà đều thờ cúng Tây phương Tam Thánh, ý nghĩa ở đây không phải là nhìn Bồ-tát, Phật thành thần minh để tôn thờ; chúng ta phải hiểu ý nghĩa chân thật của sự cúng dường. Đó là từng giờ từng khắc nhắc nhở chúng ta, sớm tối lễ Phật, chiêm ngưỡng hình tượng Phật sẽ nhắc nhở chính mình, hôm nay ta phải tỉnh thức không được mê, phải có từ bi, phải có lý trí. Đứng trước tượng Phật cung kính hành lễ là biểu hiện sự tôn trọng đức tính của chúng ta, xem trọng đạo đức của mình. Đây không phải là mê tín. Chúng ta tu học phải bắt đầu hạ thủ công phu từ điểm này, sau đó mới có thể tu học Đại thừa.

Pháp Đại thừa và pháp Tiểu thừa không giống nhau, tâm lý cũng khác, pháp Tiểu thừa không có sự phát Bồ-đề tâm, pháp Đại thừa phải phát Bồ-đề tâm. Trong “Tam phước” điều thứ ba là pháp Đại thừa. Câu thứ nhất chính là phát Bồ-đề tâm. Bồ-đề tâm là tâm giác ngộ chân thật. Dáng vẻ của giác ngộ chân thật là cái gì? Một người giác ngộ chân thật, quyết định sẽ thành Phật, đây mới là chân giác ngộ. Chúng sinh trong chín pháp giới đều mê mờ không tỉnh thức. So với Phật, Bồ-tát vẫn còn mê, Đức Phật mới thật sự giác. So với chúng ta, Bồ-tát đã giác còn chúng ta mê. Sự sai biệt của mười pháp giới, chính là do mức độ sâu cạn không đồng của mê và ngộ. Trình độ giác ngộ càng cao thì cảnh giới càng cao; mức độ mê mờ càng nặng thì càng rơi xuống thấp.

Người thực sự giác ngộ, chỉ có một mục tiêu, họ phải làm Phật, đây là người tu Đại thừa. Muốn làm Phật thì phải học Phật. Đức Phật là người đã giác ngộ. Đi theo dấu chân của Ngài, tuân theo phương hướng của Ngài, chúng ta làm rất ít việc, có thể thu được hiệu quả gấp đôi. Vì vậy, tôi đề nghị các vị hãy học tập theo Đức Phật A-di-đà của chúng ta.

Bản kinh Vô Lượng Thọ mà chúng tôi đã hiệu đính mới lại khác với tất cả bản tụng đang lưu hành. Một số kinh có trong tất cả bản tụng sáng, tối không áp dụng được trong đời sống hiện tại, vì vậy việc học tập rất khó được lợi ích.

Chúng ta tu học Tịnh Độ, học tập Đức Phật A-di-đà, kinh văn của khóa niệm buổi sáng nên chọn lấy 48 lời nguyện trong phẩm thứ 6 của kinh Vô Lượng Thọ. Mục đích của việc đọc 48 lời nguyện không phải là một mực tôn kính Đức Phật A-di-đà mà phải học tập Ngài. Đức Phật phát nguyện gì, chúng ta cũng phải nguyện như thế ấy. Nguyện của ta phát không được thì hãy đọc lời nguyện của Phật để dẫn phát ra lời nguyện của ta, dụng tâm ngay điểm này. Tâm nguyện của chúng ta và Phật A-di-đà cùng phát giống nhau, mục đích của bài kinh buổi sáng là ngay nơi lời nguyện này.

Tâm giống Phật, nguyện giống Phật. Phật A-di-đà là tấm gương của chúng ta, là bậc mô phạm cho chúng ta noi theo đó xây dựng bản thân mình, tạo cho mình một khuôn mẫu giống như Đức Phật A-di-đà. Các vị nghĩ xem, đạo lý ấy có vãng sinh không?

Bài kinh tụng buổi chiều, chúng tôi chọn sáu phẩm kinh văn. Từ phẩm thứ 32 đến phẩm thứ 37. Đoạn kinh văn này dạy chúng ta rất tỉ mỉ, trong cuộc sống hàng ngày nên dùng thái độ nào để đối nhân, đối sự, đối vật, dùng tâm thái nào để sống qua ngày, đây là giải-hạnh.

Chúng ta phải học làm Phật và Bồ-tát ngay trong hoàn cảnh hiện thực (giác mà không mê, chính mà chẳng tà, tịnh mà chẳng nhiễm), trải qua đời sống Giác- Chính-Tịnh, tâm nguyện giải-hạnh đều giống như Đức Phật, đây là học theo Phật A-di-đà. Sự học thành tựu, bạn chính là Đức Phật A-di-đà. Đó là thực sự tu học Phật pháp ngay trong đời sống thực tế. Bài khóa tụng của chúng tôi là y cứ vào cách ấy mà sửa chữa hiệu đính.

Nếu như công việc của các vị bận rộn, không có thời gian đọc tụng toàn bộ kinh điển thì có thể chọn lấy phương pháp này. Thời buổi sáng đọc tụng 48 lời nguyện, thời buổi chiều đọc tụng từ phẩm 32 đến phẩm 37. Thời buổi sáng phải phát nguyện nhắc nhở chính mình, ngày hôm nay không được quên lời dạy của Tam bảo, phải nương theo nguyên lý, nguyên tắc lời dạy của Tam bảo để tu hành. Thời buổi chiều phải nương vào kinh văn để kiểm thảo, phản tỉnh một cách cẩn thận: Ngày hôm nay ta có phạm lỗi gì không? Nếu có thì cần phải sửa đổi. Đức Phật dạy chúng ta những việc nào không nên làm, có phải là chúng ta đã không làm không? Đức Phật dạy chúng ta những việc nào nên làm, có phải chúng ta đã làm chưa? Những bài kinh sáng và chiều, chúng ta đọc tụng trước hình tượng Phật và Bồ-tát, cầu xin các Ngài chứng minh cho chúng ta, chúng ta phải sửa đổi để làm với mình ngày càng đổi mới. Thực hành công phu như vậy mới đúng pháp, mới có công đức.

Trong tất cả pháp môn, pháp môn niệm Phật của tông Tịnh Độ thù thắng nhất. Đây là pháp môn Đức Thế Tôn dạy chúng ta. Chúng ta phải nghe lời Đức Phật A-di-đà. Theo sự chỉ dạy của Ngài cố gắng thực hành. Điều này gọi là “Học Phật, niệm Phật”.

Niệm Phật không phải niệm trên đầu môi, mà phải thường ghi nhớ lời dạy của Phật trong lòng. Niệm là tâm niệm. Phần trên của chữ ‘niệm’ là chữ kim 今, phần dưới là chữ tâm 心, chỉ cho tâm hiện tại, trong tâm hiện tại thật sự có Phật. Những lời dạy của Phật, Ngài giảng đạo lý cho chúng ta nghe, mỗi niệm ta đều không quên, mỗi niệm tồn tại trong lòng, niệm để thực hành, đây gọi là niệm Phật, không phải là niệm trên đầu môi, niệm ngoài miệng, còn trong tâm thì không, cái đó không cần đến, nhất định phải thật sự có Phật ở trong tâm.

Bình thường tôi giảng kinh không có pháp tử, chỉ dùng những lời nói thông dụng dạy bảo mọi người, hy vọng các bạn tôn Phật là bậc thượng nhân trong tâm, được vậy tức là đã thành công. Miệng không chấp trước, tâm thực sự có Phật. Chúng ta thường niệm A-di-đà Phật, phát nguyện như thế, phát tâm như thế, tu hành như thế. Chúng ta thường niệm điều này, học tập theo Ngài. Đó là chân niệm Phật, công đức lợi ích không thể bàn, cũng là điểm tốt đẹp của sự niệm Phật.

Có nhiều người nói: “Tôi niệm Phật đã lâu lắm rồi mà không có được một chút gì tốt đẹp”. Như thế là bạn đã niệm sai. Bạn chỉ niệm bằng miệng, trong tâm không hề niệm. Nếu trong tâm thực sự có Phật, rồi niệm theo những phương pháp mà tôi giảng đây, cảm ứng thật không thể nghĩ bàn. Chúng ta niệm Phật có cầu cảm ứng hay không? Không cầu cảm ứng. Tuy không cầu cảm ứng, nhưng nhất định có cảm ứng. Bạn gieo trồng nhân nào thì nhất định có quả báo ấy.
4. Tất cả pháp từ tâm sinh, niệm Phật rốt ráo thành Phật.

Câu thứ hai trong điều thứ ba của Tam phước là “Tin sâu Nhân Quả”. Khi xưa, lúc tôi cầu học, câu nói này đã làm khổ tôi suốt ba, bốn năm trường, không biết câu nói này có ý nghĩa gì? Nếu câu: “Tin sâu Nhân Quả” đặt vào điều thứ nhất, thì tôi không hoài nghi. Chúng ta đều biết “Nhân lành có quả báo lành, nhân ác có quả báo ác”, chúng ta đều hiểu đạo lý này, lẽ nào Bồ-tát không hiểu?

Điều thứ nhất, trong Tam phước là phước báo của người trời; điều thứ hai là phước của Bồ-tát tiểu thừa; điều thứ ba là phước của Bồ-tát đại thừa; Bồ-tát đại thừa làm sao không hiểu lý nhân quả mà vẫn có Phật đến giáo hóa? Sau đó giảng kinh Hoa Nghiêm, tôi mới vỡ lẽ ra, hiểu được chân tướng sự thật: Tin sâu nhân quả, không phải là loại nhân quả “Làm lành có quả báo lành, làm ác có quả báo ác”. Loại nhân quả này, Bồ-tát vẫn còn phải học ư? Vậy nó là nhân quả gì? Đó là “Niệm Phật là Nhân, thành Phật là Quả”, loại nhân quả này có nhiều Bồ-tát vẫn không biết!

Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật đã nói: “Nếu Bồ-tát không niệm Phật thì không thể thành Phật”. Trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta cũng đã xem qua, Bồ-tát Thập địa tu hành, chuyên niệm pháp môn niệm Phật, Bồ-tát Thập địa hiểu rõ nhân quả này. Tin sâu nhân quả chính là tin “Niệm Phật là Nhân, thành Phật là Quả”. Chúng ta hiểu rõ chân tướng sự thật này. Hơn nữa nghĩ lại đạo lý mà Đức Phật nói, trong kinh điển Đại thừa đã nói rất nhiều, đáng tiếc chúng ta đều sơ ý, bỏ lỡ cơ hội. Nguyên lý của nó chính là “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Trong kinh Vô Lượng Thọ Phật, Đức Phật nói: “Khi tâm tưởng Phật, tâm ấy tức là ba mươi hai tướng, tám mươi loại tùy hình tốt đẹp”, tưởng Phật thì làm Phật, điều này rất quan trọng! Đức Phật dạy chúng ta niệm Phật, nếu trong tâm bạn thật sự có Phật thì đã thành Phật rồi.

Trong tâm nghĩ gì sẽ hiện ra cái ấy, đây là chân tướng sự thật. Trong tâm của người thế gian, nếu là tham, sân, si thì quả báo chính là ba đường ác. Trong tâm chúng ta có tứ đế thì sẽ biến thành A-la-hán; trong tâm có lục độ thì sẽ biến thành Bồ-tát; trong tâm có Phật sẽ biến thành Phật. Tin sâu nhân quả là quay lại sự việc ấy. Trong cuộc sống thường ngày, ứng sự, đối người, tiếp vật, chúng ta hành đạo Bồ-tát, tự mình giữ tâm, một mực niệm Phật, chuyên niệm Phật A-di-đà, thì vãng sinh thành Phật sẽ nắm chắc trong tay.

Đạo lý nhân quả đã rõ ràng, phương pháp cũng đã rõ, phải nỗ lực hết mình thực hành. Điểm chính của nỗ lực thực hành, điều quan trọng là “đọc tụng đại thừa”. Đọc tụng làu thông kinh điển đại thừa thì tâm bạn mới có thể giống như Phật. Nếu không làu thông, không nhớ, dù cho có lòng muốn học Phật nhưng trong tâm lại lộn xộn, mơ hồ, không rõ ràng, như thế làm sao tu học?

Vì vậy, kinh văn phải đọc thuộc, hiểu rõ ràng, thông suốt. Người học Phật A-di-đà, giữ trong tâm chính là kinh “Vô Lượng Thọ”; kinh Vô Lượng Thọ chính là chân tâm của chúng ta. Thế nên, đọc tụng kinh điển đại thừa rất quan trọng.

Bản thân mình đã thành tựu thì phải giúp đỡ người khác. Bản nguyện của Đức Phật A-di-đà, chính là phải tiếp dẫn tất cả chúng sinh trong pháp giới vãng sinh Tịnh Độ, đồng thành Phật đạo. Vì thế chúng ta nhất định phải phát tâm rộng lớn, phải phát tâm thanh tịnh, bình đẳng giúp đỡ tất cả chúng sinh khổ nạn. Chúng ta khuyên người học pháp môn này thì phải đầy đủ ba nghiệp thân, khẩu, ý. Tâm chân thành khuyên dạy họ, đó là ý nghiệp; miệng dùng lời nói giới thiệu rõ ràng pháp môn này, khiến người nghe được hoan hỷ, không nghi ngờ, đây là khẩu nghiệp; thân phải thanh tịnh, tâm thanh tịnh biểu hiện ra ngoài, dáng vẻ hạnh phúc an vui, tự nhiên, đó là thân nghiệp. Đời sống nơi Cực Lạc sẽ hiện ngay trong cuộc sống hiện tại của chúng ta, rất an vui, rất hạnh phúc. Mọi người nhìn thấy dáng vẻ này của bạn, họ sẽ tin tưởng ngay. Khuyên người niệm Phật, nếu mọi người nhìn thấy vẻ mặt rầu rĩ, khổ sở quá mức của bạn thì dù cho có khuyên dạy như thế nào, người ta cũng không tin.
5. Niệm Phật, hiện đời được sống lâu, thanh tịnh, an vui.

Khi tôi ở (Daldas) nước Mỹ, láng giềng là người nước ngoài. Họ hỏi thăm thầy Ngộ Học: “Các vị đã tu hành nghiệp gì, vì sao mỗi ngày đều được sự an vui như thế?” Họ rất hâm mộ, chúng tôi liền giới thiệu pháp môn Tịnh Độ cho họ, họ rất hoan hỷ, vui vẻ tiếp nhận. Chúng tôi mời họ đến tham quan đạo tràng. Nhìn thấy tượng Phật chúng tôi đang thờ, họ hỏi đó là Đức Phật nào? Phật có ý nghĩa gì? Họ cũng biết Thiền tông, thiền ở Mỹ rất hưng thịnh. Họ hỏi có phải chúng tôi tu Thiền không? Tôi liền nhờ thầy Ngộ Học nói với họ. Tôi bảo thầy không cần giảng Tịnh Độ, giảng Tịnh Độ người nước ngoài nghe không hiểu, sẽ làm cho họ mờ mịt, không thu được hiệu quả gì.

Thầy Ngộ Học bảo họ: “Pháp môn mà chúng tôi học là tông của A-di-đà Phật”.

Người ngoại quốc liền thỉnh giáo: “Đức Phật A-di-đà là ý nghĩa gì?”.

Phật A-di-đà có ba ý nghĩa:

1. Trường thọ.

2. An vui.

3. Thân tâm rất thanh tịnh.

Ba thứ này chúng tôi đều cần, họ nói.

Tôi bảo họ: “Thứ bảy, chúng tôi rảnh rỗi, hoan nghênh quý vị đến, tôi sẽ dạy quý vị phương pháp trường thọ, thanh tịnh, an vui”.

Vì họ là tín đồ của Cơ-đốc giáo, ngày chủ nhật phải đến giáo đường. Thứ bảy đến chùa, không có sự xung đột nhau.

Bạn đến chùa của chúng tôi, có thể học được sự thanh tịnh, trường thọ, an vui. Hình dáng của chúng tôi được thể hiện hôm đó, làm tự nhiên họ tin. Họ hiếu kỳ hỏi tuổi của tôi. Tôi đáp: “Tôi đã 70 rồi”. Vừa nghe, họ đều ngẩn ngơ, không dám tin! Đây chính là sự thật chứng minh, tôi học được pháp môn của Đức Phật A-di-đà. Vì vậy phải biểu hiện ngoại hình cho mọi người thấy họ mới tu. Ngoại hình hiện ra không đạt, dù có nói thế nào, mọi người cũng không thể tin.

Trước đây, lúc tôi ở Đài Trung thân cận thầy Lý, ngài đã 71 tuổi mà nhìn ngoại hình vẫn còn rất trẻ. Lúc ngài làm việc nơi giảng đường Phật học, học sinh đều còn rất trẻ. Khi ấy tôi cũng xấp xỉ 40 tuổi. Họ nhìn tôi tưởng là gần bằng tuổi họ, còn cho rằng thầy Lý giống như người 50 tuổi, tuyệt đối nhìn không ra ngài 70 tuổi. Ngài đi rất nhanh, người trẻ tuổi không bằng ngài. Lúc đó, chúng tôi dạo chơi vùng ngoại thành leo lên núi Bát quái. Thầy Lý là người đầu tiên lên đến đỉnh núi. Những học trò ở phía sau còn cách ngài rất xa. Công phu từ đâu đến? Đến từ niệm Phật.

Trong kinh Đại Tập, Đức Thế Tôn nói: “Đời mạt pháp có hàng ức người tu hành, nhưng hiếm người đắc đạo. Chỉ nhờ nương vào niệm Phật mà được độ”. Hơn nữa trong kinh Vô Lượng Thọ tán thán Đức Phật A-di-đà: “ Tột cùng trong mọi ánh sáng, vua của tất cả chư Phật”. Pháp môn niệm Phật của tông Tịnh Độ được mười phương chư Phật cùng khen ngợi. Đệ tử niệm Phật của tông Tịnh Độ được sự hộ niệm của tất cả chư Phật trong mười phương. Pháp môn thù thắng, dễ học, dễ tu như thế phải là người có đầy đủ nhân duyên, phước đức, thiện căn mới có thể tin nhận. Hôm nay, ba điều kiện này, chúng ta đều có đủ, chỉ cần chúng ta nương theo Đức Phật A-di-đà làm thầy, tu học theo kinh Vô Lượng Thọ, thanh tịnh, an vui thì vãng sinh thành Phật tự nhiên sẽ nắm chắc trong tay! Chúc mọi người sớm thành Phật!

Niệm Phật tức là tu Giới-Định-Huệ.

Đại sư Liên Trì nói: “Chỗ thiếu của Đại Tạng kinh chẳng qua là Giới-Định-Huệ mà thôi”. Niệm Phật tức là Giới-Định-Huệ, cần gì đuổi theo văn tự, xem qua tạng kinh này. Thời gian trôi nhanh, mạng sống không bền, xin các nhân giả hãy lấy Tịnh Độ làm sự nghiệp, chóng lo tu hành.

Niệm Phật Công Đức phần giới thiệu
Niệm Phật Công Đức phần 1
Niệm Phật Công Đức phần 2
Niệm Phật Công Đức phần 3
Niệm Phật Công Đức phần 4
Niệm Phật Công Đức phần phụ lục