Vào năm 1980, tai Phúc Kiến có một cậu bé chăn trâu nói với con trâu rằng: “Ngày mai mày sẽ bị bán cho người làm thịt.” Con trâu lập tức chảy nước mắt và quỳ hai chân trước xuống. Cậu bé chăn trâu nói cho cha mẹ và mấy người quan chức địa phương đến xem, sau đó trâu quỳ xuống và xin được tha mạng. Mọi người đều thương xót, quyên góp một số tiền để mua con trâu đó và đưa trâu đến một tu viện để phóng sanh. Sau khi trâu đến tu viện, trâu rất thích nghe giảng kinh và lạy Phật. Mỗi khi thấy những người tại gia đến tu viện, trâu thường lạy cảm ơn họ. Vào cuối cuộc đời, trâu biết trước giờ mất, nó đi chậm chạp ra đồng đọc tiếp ➝
Tôi đã được xem qua những đĩa của Sa Di Ni Diệu Hân! Sa Di Ni Diệu Hân kể lại cô là người đã tu hành trong nhiều kiếp nên kiếp này cô được các vị Quỷ Vương theo bảo vệ và giúp đỡ cho Cô (Trong đó có vị Bồ Tát Tiêu Diện Đại Sĩ), lúc cô chưa xuất gia còn ở trần tục thì cô cũng là một người phụ nữ lam lủ, cũng có chồng con và mưu sinh bằng đủ thứ nghề, trong đó có cả nghề bán vé số dạo! Nhưng nhờ tiền căn đã tu hành từ nhiều kiếp nên cô đã được các vị Quỷ Vương lúc nào cũng ở bên cạnh và dìu dắt cho cô, cô đã được khai nhãn quang nên cô luôn nhìn thấy được các vong linh đói khát vất vưởng.
Cô kể trong một lần đi bán vé số vì lúc đó đang đói mà chưa có gì ăn, sau đó cô thấy một người đem những đồ ăn ra vỉa hè đường để cúng kiến gì đó? Khi người này cúng xong cô liền đi tới và định lấy đồ cúng để ăn thì liền sau đó cô nghe nhiều giọng nói sau lưng (Cô ơi những đồ cúng đó người ta cúng cho chúng con mà!!!), cô liền quay lại thì thấy các vong hồn vất vưởng. Cô liền trả lời tôi xin nhường lại cho quý vị, liền sau đó cô nghe các vong hồn trả lời (Cô ơi chúng con không dám ăn trước cô, vì cô là người đã có tu hành từ nhiều kiếp nên chúng con không thể ăn trước cô được! Cô thương chúng con thì cô cứ ăn phân nửa còn phân nửa thì nhường lại cho chúng con, cô cũng nghe lời các vong hồn cô ăn phân nửa và nhường lại phần còn lại cho họ!).
Sau này nếu chỗ nào có cúng kiếng các vong hồn liền đi tìm cô và họ chờ cho cô ăn trước còn lại bao nhiêu thì họ dùng (Các vong hồn cũng thỉnh nguyện đến cô, sau này cô có xuất gia thì nhớ siêu độ cho các con!)
Rồi sau đó cô xuất gia tu hành, vào một đêm cô đang ngủ thì thấy linh quang của Phật sáng rỡ trong linh quang cô thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sau khi nhìn thấy ánh linh quang đó thì qua ngày hôm sau mắt mờ dần không còn thấy rõ nữa (Cô liền thắc mắc không lẽ cô nhìn thấy linh quang của Phật xong thì phải bị mắt mờ như thế hay sao??? ), cô liền mon men ra tiệm thuốc tây và mua vài viên thuốc ngủ về uống (Vì cô nghĩ chắc do mình mệt mỏi nên con mắt mới bị như thế, uống thuốc ngủ vào ngủ một giấc là sẽ khác thôi!).
Sau khi cô uống thuốc ngủ xong, cô thấy mình xuất hồn và được các vị Quỷ Vương dẫn cô xuống Địa Ngục, trong Địa Ngục cô đã được thấy 3 vị Bồ Tát đó là Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát nhiều tay nhiều mắt (Cô nghĩ đó là Bồ Tát Chuẩn Đề), sau đó cô được các vị Bồ Tát tham vấn về những tội lỗi của cô ở trên dương thế đã làm??? Bồ Tát Quán Thế Âm nói con phải kể hết những tội lỗi của con ra, thì sau đó con mới vào được các tầng Địa Ngục khác để tham quan và sau này về dương thế mà khuyên bảo chúng sanh đừng tạo nghiệp ác!
Sau khi cô khai tội lỗi của mình xong liền được các vị Quỷ Vương dẫn vào tham quan các ngục, trước khi bắt đầu vào thăm các cửa ngục vị Quỷ Vương đã nói với Sa Di Ni Diệu Hân con vào đây tham quan thì lúc nào con cũng phải niệm Phật và không được khóc! Sau đó các vị Quỷ Vương đã dẫn cô vào thăm các ngục hình, cô được chứng kiến tất cả tội hình ghê sợ nhất mà không thể tưởng tượng được, trong tất cả các cửa ngục tội nhân bị hành hình không thiếu bất cứ đối tượng nào trên trái đất này, từ những kẻ trí thức học cao hiểu rộng cho đến những người bần cùng của xã hội, trong đó thì có vô lượng người tu hành của tất cả đạo giáo trên thế giới, trong đó có vô số các vị Thượng Tọa và Đại Đức cùng các Phật tử của Phật Giáo mà lúc sống không giữ gìn giới hạnh, phỉ báng Tam Bảo, hại người hại vật, những người trụ trì thì lấy những tiền bạc của đàn na tín thí cúng dường đem về lo xây nhà xây cửa cho người thân của mình hưởng!
Sa Di Diệu Hân đã được các vị Quỷ Vương dẫn đến Địa Ngục A Tỳ, trong đây cô đã được gặp lại người cô ruột của mình đang bị hành hình trong đó bị các loại thủy quái cắn xé máu me khắp người, khi Sa Di Ni Diệu Hân được chứng kiến cô ruột của mình bị hành hình cô đã bật khóc nức nở và thỉnh nguyện các vị Quỷ Vương giúp đỡ, các vị Quỷ Vương trả lời chúng ta không thể giúp được (Ngay cả chúng ta đây nếu phạm tội thì cũng bị như thế thôi!).
Người cô ruột của Sa Di Ni Diệu Hân khi còn sống là người buôn ma túy bên CamPuChia rất là giàu có, nhưng cuối cùng vì nghiệp quả gieo những sự độc hại cho chúng sanh, sau một thời gian giàu có bà đã bị phá sản hoàn toàn bị con cái ruồng bỏ, sau đó bị bệnh tật trong đói nghèo mà chết (Chết rồi thì đọa vào ngục A Tỳ như trên đây). Cũng trong ngục A Tỳ này cô đã chứng kiến thêm một ông hàng xóm ở gần nhà cô lúc trước cũng đang bị hành hình trong đây ( Khi còn sống ông này là chủ của một hãng giấy, nhưng khi sống lại sản xuất tiền giả, nên bây giờ phải chịu hình phạt trong đây! Sa Di Ni Diệu Hân lúc trước là bạn thân của con gái ông này!).
Còn về Sa Di Ni Diệu Hân sau khi được đi tham quan các Địa Ngục để sau này về dương thế mà khuyên bảo chúng sanh tu hành xa lìa việc ác! Nhưng bản thân cô cũng không thoát khỏi tội mà mình đã tạo ra (Cô cũng bị các vị Quỷ Vương trừng phạt những tội lỗi của cô đã gây ra trước khi xuất gia, cũng rất thảm thương, sau khi cô trả những quả đó xong thì mới bắt đầu cho trở về dương thế để hoằng dương Phật pháp và khuyến hóa chúng sanh bỏ ác làm lành).
Từ Khánh mong những ai đã từng nghĩ chết là hết thì nên nhìn nhận lại vấn đề này nhé! Chết không phải là hết như các vị nghĩ đâu, hơn 90% con người sống trên trái đất này (Bất kể tôn giáo) sau khi chết thì đọa vào 3 đường ác rồi, chỉ còn một số ít người thì được tái sanh vào những cõi lành mà thôi! Nhưng Từ Khánh cũng rất vui vì chúng ta biết đến pháp môn Tịnh Độ hằng ngày tinh tấn niệm Phật bỏ ác làm lành, phóng sanh, bố thí, yêu thương mọi loài, tất cả công đức đó đem hồi hướng về Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà thì chắc chắn các bạn sẽ được vãng sanh và thoát khỏi tam đồ ác đạo (Thời gian không chờ đợi chúng ta đâu, hãy cố gắng tu hành, cửa Địa Ngục lúc nào cũng mở để chào đón cho dù người đó là Tăng hay phàm, nếu bây giờ không tinh tấn niệm Phật và giữ gìn giới hạnh thì sau này khó thoát cửa Địa Ngục)…!
HÃY BỎ ÁC LÀM LÀNH, KẺO NGÀY MAI KHÔNG KỊP
HÃY NIỆM PHẬT TINH TẤN, SỚM VÃNG SANH TÂY PHƯƠNG!
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI A DI ĐÀ NHƯ LAI
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai”, nghĩa là tất cả các bậc Thánh hiền có thể chuyển được vạn vật mà không hề bị vạn vật chuyển, tùy tâm được tự tại, chốn chốn đều chân như. Kẻ phàm phu chúng ta bị vọng tưởng làm chướng ngại, nên mới bị cảnh chuyển, giống như ngọn cỏ đầu tường, khi gió đông thổi lại thì ngã về hướng tây, gió tây thổi qua thì ngã về hướng đông, không thể tự làm chủ được mình.
Có người suốt ngày nhởn nhơ biếng nhác, không để tâm đến việc tu đạo; tuy cũng hành trì nhưng lúc có lúc không, ngày chồi ngày hụp, thường lẩn quẩn trong vòng mừng giận, buồn vui, phải trái, não phiền. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý phân biệt, sáu căn luôn rong ruổi theo sáu trần, chưa từng tỉnh giác phản chiếu lại mình; niệm niệm chạy theo nào là xanh vàng đỏ trắng, già trẻ trai gái v.v.. Gặp điều vừa ý hợp nhãn khởi tâm vui mừng tham đắm; đụng chuyện trái ý nghịch lòng sanh tâm buồn phiền chán ghét, lòng thường khởi lên vọng tưởng. Người vọng tưởng nhẹ, còn có thể để tâm tu đạo, làm thiện sự; người vọng tưởng quá nặng, sanh khởi vô số niệm tà bất chánh, lòng đầy uế trược, loạn tạp, đến nỗi không còn thuốc chữa.
Thiền sư Bạch Vân Đoan có bài tụng rằng:
Nhược năng chuyển vật tức Như Lai
Xuân noãn sơn hoa xứ xứ khai
Tự hữu nhất song cùng tướng thủ
Bất tằng dung dị vũ tam đài.
(Ai người chuyển vật tức Như Lai
Xuân đến khắp đồi hoa rộ nở
Buồn nỗi tay thô không mềm mại
Làm sao diễn đạt điệu Tam Thai).
Trong Kim Kim Cang cũng nói: “Ưng như thị giáng phục kỳ tâm” (nên như thế mà giáng phục tâm mình – tức trụ tâm vào không chỗ trụ). Hay như cách nói của Nho gia: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị.” (Tâm không đặt vào đó thì tuy nhìn nhưng không thấy, tuy nghe nhưng không biết, tuy ăn nhưng không cảm nhận mùi vị của thức ăn). Nhà Nho khi nổi giận còn có thể làm chủ được mình, không để cho cảnh chuyển như thế; huống chi chúng ta là con nhà Phật, sao không nghĩ đến việc sanh tử cấp thiết như cứu lửa cháy đầu mà buông bỏ các duyên, tinh tấn tu đạo, lợi dụng cảnh động để rèn luyện, khảo nghiệm bản thân cho đến khi tâm không còn chạy theo trần cảnh, có được thành tựu trong sự hành trì. Tu hành, không nhất thiết phải ở trong cảnh tịnh, cũng có thể tu trong cảnh động, cảnh động nhưng lòng không động, đó mới thực sự tu hành.
Vào năm đầu triều đại nhà Minh, ở đầm Hồ Nam có một người thợ rèn họ Hoàng, lấy việc rèn sắt làm nghề mưu sinh, mọi người đều gọi ông là Hoàng thợ rèn. Khi ấy nhằm lúc Chu Hồng Vũ khởi binh đánh trận, cần đến rất nhiều vũ khí, Hoàng thợ rèn lãnh mệnh tức tốc chế tạo binh khí, ông làm việc ngày đêm không nghỉ. Một hôm, có vị Tăng đi đến nhà khất thực, Hoàng thợ rèn mang cơm ra cúng dường, vị tăng thọ trai xong, bảo ông rằng: “Hôm nay thọ nhận sự cúng dường của thí chủ, không có chi báo đáp, chỉ có một lời tặng.” Hoàng thợ rèn thỉnh vị Tăng nói ra. Vị tăng hỏi: “Sao thí chủ không chịu tu hành?” Hoàng sư phụ trả lời: “Tu hành tuy là việc tốt, có điều tôi suốt ngày bận túi bụi, làm sao có thể tu hành được chứ?” Vị Tăng bảo: “Có một pháp môn niệm Phật, tuy trong cảnh bận rộn, vẫn có thể tu hành được. Khi thí chủ nện xuống một búa, có thể niệm một tiếng Phật, thổi một hơi ống thổi cũng niệm một tiếng Phật, cứ làm như thế trong một thời gian dài, sẽ được chuyên tâm vào câu Phật hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, đến khi mệnh chung, tất sẽ được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.” Hoàng thợ rèn y theo lời vị Tăng dạy, tay rèn sắt, còn miệng thì niệm Phật, rèn sắt suốt ngày, suốt ngày niệm Phật, không biết mệt mỏi, ngược lại còn cảm thấy khinh an tự tại. Cứ thế tu tập, công phu ngày một trở nên thâm hậu, miệng không niệm tâm cũng tự niệm, dần được tỏ ngộ. Trước lúc mạng chung, Hoàng thợ rèn biết rõ ngày giờ, bèn từ biệt bạn bè thân thích, nói là muốn đi đến Tây Phương. Lúc sắp đi, ông bàn giao hết công việc lại, tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, đến bên lò rèn gõ xuống mấy cái và nói bài kệ:
Đinh đinh đương đương
Cửu luyện thành cương
Thái bình tương cận
Ngã vãng Tây Phương.
(Lẻng xẻng lẻng xẻng
Luyện lâu thành thép
Thái bình sắp đến
Ta về Tây phương.)
Nói xong, an nhiên vãng sanh, lúc ấy trong nhà đầy mùi hương lạ, thiên nhạc trổi vang trời, xa gần đều nghe thấy, mọi người nhân đây mà được tỏ ngộ rất nhiều.
Hiện nay chúng ta cũng bận suốt ngày không ngơi, nếu có thể học theo như Hoàng thợ rèn, nổ lực tu hành trong cảnh động, thì còn sợ chi đến việc sống chết! Lúc trước, tôi ở núi Kê Túc – Vân Nam, có kể cho mọi người nghe việc thế độ Cụ Hành xuất gia. Khi Cụ Hành chưa xuất gia, mắc phải nhiều tật như hút thuốc, uống rượu…, trong nhà tám người đều làm công quả trong chùa Chúc Thánh. Về sau, cả nhà đều xuất gia, từ đó Cụ Hành dứt tuyệt những cố tật của mình. Tuy không biết chữ, nhưng Cụ Hành rất dụng công học tập, trải qua thời gian chưa bao lâu thuộc lòng hết cả hai thời công phu sớm tối, Phẩm Phổ Môn v.v.. Ban ngày chuyên lo trồng rau cải, ban đêm lễ Phật tụng Kinh, không ham mê ngủ nghỉ. Ở trong Đại chúng, ai thích, Cụ Hành không màng; ai ghét, Cụ Hành cũng không để ý. Thường ngày hay vá quần áo giúp cho mọi người, khi vá một mũi kim, niệm một câu Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, không mũi kim nào mà không niệm. Về sau, Cụ Hành đến bốn ngọn núi nổi tiếng của Phật giáo (Phổ Đà Sơn – Triết Giang, Nga Mi Sơn – Tứ Xuyên , Cửu Hoa Sơn – An Huy, Ngũ Đài Sơn – Sơn Tây) học tập Phật Pháp tám năm, sau đó về lại Vân Nam. Khi ấy, tôi đang xây dựng chùa Vân Thê, Cụ Hành không màng lao khổ, làm hết mọi việc lớn nhỏ, khiến cho ai nấy đều hoan hỷ. Lúc sắp mệnh chung, Cụ Hành đem bán hết những vật dụng của mình, thiết trai cúng dường Đại chúng, lo liệu hết mọi việc, sau đó cáo biệt mọi người. Cụ Hành ra sau vườn chùa Thắng Nhân, thuộc hạ viện chùa Vân Thê – tỉnh Vân Nam tự thiêu bằng những hạt cải xanh góp nhặt được trong suốt bốn tháng cùng vài bó rơm. Khi mọi người phát hiện ra thì Cụ Hành đã vãng sanh rồi. Chiếc áo dài trên thân bị cháy cong lên, tuy đã thành tro, nhưng vẫn giữ nguyên hình dạng như cũ, không hề rớt xuống; thân hình ngồi ngay thẳng trong đống tro, trong khi tay vẫn còn cầm mõ dẫn khánh, khiến ai nhìn thấy cũng đều hoan hỷ tán thán. Cụ Hành suốt ngày bận rộn không ngơi, nhưng không hề quên việc tu hành, cho nên đối với việc sanh tử khứ lai đều rất tự tại. Nếu quý vị tu được trong cảnh động sẽ dễ đạt kết quả hơn tu trong cảnh tịnh.
Một người tu đạo chân chánh là không nên nhìn lỗi của người khác. Nếu không thì lỗi của người cũng chính là lỗi của mình. Nói tâm tôi rất an tịnh, tôi không có như thế, trên thực tế, quý vị không biết rằng khi phát hiện ra khuyết điểm của người khác thì bản thân nó đã trở thành khuyết điểm của quý vị rồi. Sự thật này, chân lý này, người bình thường ít khi nhận ra. Có người nói tâm tôi rất an tịnh, tâm tôi rất tốt, hôm nay tôi rất vui, nhưng thật ra đó chỉ là cảm giác nhất thời của quý vị, hoặc là cách nghĩ tạm thời để khống chế mình có được những trạng thái tâm mong muốn. Một khi quý vị phát hiện ra khuyết điểm của người, thì ngay chỗ khởi tâm động niệm đó đã là khái niệm của phiền não rồi đấy!
Tâm trạng quý vị đang vui, nhìn thấy người khác lúc nào cũng rất tốt; khi tâm khởi phiền não, nhìn thấy người khác chỗ nào cũng không ưa nổi. Khi trạng thái tâm mình như thế nào, nhìn người khác cũng có những tính chất tương tự. Đó là những trạng thái của tâm tốt và xấu. Tâm khởi phiền não cũng là vì trong lòng chất chứa đầy những vấn đề tốt xấu. Nói mình tốt, người khác xấu, đó đều là phiền não,vì tốt hay xấu vốn đã là phiền não. Vấn đề là quý vị có chịu thừa nhận hay không mà thôi.
Quý vị không biết, những điều mắt quý vị thấy đều là hư vọng, không toàn diện. Mắt của chúng ta chỉ có thể nhìn thấy phía trước mà không nhìn thấy phía sau, nó không thể có được một cái nhìn thẩm thấu, cho nên luận về công đức, mắt có đến 800 công đức, nhưng không bao giờ nó đạt đến trình độ viên mãn. Nên nói khi quý vị muốn biết thật sự về mình thì trước mặt và sau lưng đều cần phải có một tấm kính, như thế mới có thể nhìn thông được phía sau.
Nguyên nhân gì khiến mình nhìn thấy lỗi của người khác? Đó là vì chúng ta có một cặp mắt, khi có cặp mắt thì cũng đồng thời phát sinh ra cặp tâm phân biệt. Cặp mắt chính là tâm phân biệt; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều là tâm phân biệt của quý vị. Thế nào là tâm phân biệt? Chỉ cần mắt quý vị nhìn thấy vấn đề, phát hiện vấn đề thì đó đều là tâm phân biệt. Phật và Bồ tát có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không? Không có. Trong “Tâm Kinh” nói rất rõ: không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và cũng không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có cảnh giới của mắt, cho đến không có cảnh giới của ý thức; không có vô minh, nên không có sự diệt tận vô minh, cho đến không có già chết… Khi chúng ta phát hiện ra vấn đề của người khác, dùng cái gì để phát hiện? Dùng phiền não để phát hiện. Quý vị tự đeo cho mình một cặp kính màu thành kiến, rồi dùng cặp kính màu này để phát hiện ra lỗi của người.
Chúng ta muốn thật sự hiểu rõ chính mình và cái gì gọi là phiền não thì đầu tiên quý vị phải buông bỏ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chính mình. Có người nói, như thế tôi chẳng phải trở thành một kẻ mù hay sao? Nếu quý vị thật sự trở thành “một kẻ mù” thì quá tốt, mấu chốt ở chỗ là sợ mắt quý vị không mù, tai quý vị không điếc, miệng quý vị không câm. Nếu quý vị có thể trở thành một “người mù, người điếc…”, buông bỏ hết tất cả những thứ này thì tự thân quý vị sẽ không còn khởi phiền não, sẽ không còn nhìn thấy phiền não của người khác. Vì sự xả bỏ đó mà ba ngàn thế giới này đều là của quý vị, tâm quý vị không khởi phiền não thì thiên hạ ắt sẽ được thái bình.
Như có người tu hành, chúng ta đến bên cạnh người đó, mặc dù trong lòng đang khởi tâm động niệm, đang rất phiền não, nhưng chỉ một thoáng sau tất cả phiền não đều không còn. Gặp người tu hành có định lực, bất luận trong lòng quý vị có bao nhiêu phiền não, khi được ở bên cạnh người ấy, tất cả phiền não của quý vị đều được hóa giải. Chúng ta vì chưa hóa giải được, nên còn phiền não. Phiền não khởi lên không phải từ bên ngoài, mà hoàn toàn ngay chính tự thân. Do đó, điều răn thứ nhất trong quy luật Thiền môn là: Không bao giờ được nhìn lỗi người khác, phải luôn luôn thông hiểu cho người.
Quý vị nói sự thật là như thế, đó chính là lúc mắt quý vị đang phát huy tác dụng, nó có thể nhìn thấy được một số vấn đề: Anh ta đang làm việc trái pháp…đó là căn bệnh của mắt từ xưa đến nay. Trong “Kinh Lăng Nghiêm” Đức Phật chẳng phải đã nói: Ánh sáng của ngọn đèn kia vì sao có một vòng tròn? Rốt cuộc là ngọn đèn kia phát ra vòng tròn hay chính cặp mắt của quý vị có vòng tròn? Kết quả phát hiện cho thấy do cặp mắt của quý vị có vấn đề, khi trị lành cặp mắt, vòng tròn kia sẽ không còn. Vòng tròn không phải do ngọn đèn sanh ra, mà do cặp mắt của quý vị tạo nên. Vì sao nói vòng tròn do mắt tạo ra? Là vì hạt giống phiền não trong tâm của quý vị đang có mặt và tất nhiên nó sẽ phát hiện ra được những hạt giống cùng loại nơi người khác.
Do sự thay đổi tư tưởng nơi chúng ta nên mới có lỗi lầm nơi người khác. Đó là tư tưởng gì? Ví dụ nói, chúng ta bây giờ xuất gia, tu đạo, giữ giới, khi nhìn thấy người khác không giữ giới, chúng ta phiền não. “Tại sao người ấy không giữ giới? Tại sao người ấy không nổ lực tu đạo? V.v..”, cứ thế không ngừng nhìn thấy lỗi của người. Đổi lại khi chưa xuất gia, chúng ta chưa nhận biết những lỗi này, vẫn cứ cho như thế là rất tốt. Nhưng thái độ giả lơ cũng không phải là thượng sách, những nhận thấy trên dầu sao cũng thuận với chánh pháp, đó là một quá trình nhận thức từng bước, từng bước. Tóm lại, phiền não khởi lên không phải từ bên ngoài, mà là từ trong nội tâm. Khi phát hiện ra lỗi lầm của người khác, quý vị nên dũng cảm thừa nhận lỗi lầm của mình, trước phải quán xét tự thân, phải sám hối với chính mình, như thế mới có thể giải quyết được vấn đề.
Lúc trước, chúng ta có nói đến pháp tu nhẫn nhục, thế nào gọi là nhẫn? Tức nhẫn điều không thể nhẫn. Không có năng nhẫn và sở nhẫn (người nhẫn và điều được nhẫn), không có hoàn cảnh, “ngã” của năng nhẫn và “tha” của sở nhẫn đều không tồn tại, đó gọi là năng nhẫn hay nhẫn. Quý vị chỉ có nhận thức với một thái độ như thế mới có thể nhận biết được vấn đề một cách như thật. Mở miệng tuyệt đối không nói lỗi lầm của người, bất cứ lúc nào trong tâm cũng không nên có tâm niệm thị phi. Có loại tâm niệm đó, phiền não nhất định sẽ phát sanh; không có tâm đó, phiền não sẽ không còn lai vãng.
Nói như thế, có phải là tôi không muốn sửa đổi, ngăn chặn lỗi lầm của người khác, vì vậy mà đôi lúc khiến cho công việc bị đổ vỡ? Trên thực tế, khởi đầu là do quý vị không chuyển được cảnh, đợi đến khi trong tâm của quý vị thật sự không còn tâm niệm thị phi thì những hiện tượng trên tự nhiên biến mất. Sở dĩ những hiện tượng trên có mặt là do ban đầu quý vị có gieo hạt giống đó, nó nhất định trổ quả cho quý vị xem, nó khiến cho quý vị phát hiện ra vấn đề. Một khi đã phát hiện ra vấn đề, bước đầu tiên quý vị vẫn còn cảm thấy rất thanh tịnh; bước thứ hai thì phát hiện ra người khác sao có quá nhiều vấn đề, quá nhiều sự việc; bước thứ ba quý vị sân si lên, anh làm sao mà trở nên như thế được hỉ? Bước thứ tư quý vị đi đến nước chịu hết nổi.
Khi phát hiện ra vấn đề của người khác thì phiền não tự thân đã nổi lên, đó là điều hiển nhiên. Bất luận quý vị phát hiện ra ưu điểm hay khuyết điểm của người cũng đều là phiền não. Vì có sự phân biệt ta, người, chúng sanh thì đã có phiền não. Có người và ta, là đã có sự đối lập. Nhận thấy có người khác thì cái ta liền phát sinh lên. Cái ta này từ đâu đến? Vì thấy có người khác, nên cảm nhận được sự có mặt của cái ta, nếu khi không có người khác thì cái ta cũng không tồn tại. Cho nên nói hiện tại chúng ta đã phạm phải một sai lầm rất lớn.
Có người nổi sân si, quý vị nói người đó đã làm ảnh hưởng đến mình. Bất luận quý vị nhận thấy cái tốt hay cái xấu của người cũng đều là phiền não của quý vị. Quý vị thấy anh ta hôm nay tốt, ngày mai tốt, ngày mốt thì đã xấu đi rồi. Đối với anh ta thì tốt, đối với người khác thì xấu, luôn luôn có sự phân biệt như thế. Nên nói tốt hay xấu đều do sự đối lập sinh ra, chỉ cần một phương diện khởi này lên thì phương diện kia liền sanh theo.
Tại sao nói nhìn thấy tốt hay xấu đều không đúng? Biết cái xấu, chúng ta không học theo. Nhưng khi chúng ta phát hiện ra chỗ tốt của người, liền khởi lên sự so sánh. Người này tu hành chân chánh, tốt quá, mình sẽ theo học với người ấy. Quý vị nhìn thấy người đó ngồi thiền sao mà trang nghiêm! tụng Kinh sao mà vang vọng! tu hành sao mà tinh tấn! Nhưng quý vị không biết rằng khi nhìn thấy những ưu điểm của người đó, đồng thời cũng nhìn thấy được mặt ngược lại của họ, hay mặt ngược lại tương tự nơi những người khác, người này như thế này, người này như thế kia, rốt cuộc ai là người tốt nhất? Đó là bản thân mình tốt nhất. Chuyển tới chuyển lui, chuyển xuôi chuyển ngược, cuối cùng dừng lại nơi mình. Nên nói chuyển một vòng thì cuối cùng cũng lộ ra “cái tôi” của chính mình, đây chỉ là một sự lừa bịp.
Trong sự tu hành, tuyệt đối đừng nên thấy có tướng nhân (thấy có sự tồ tại của người khác), chúng ta nên quán “chư pháp không tướng” mà xa rời tất cả tướng. Tất cả chúng sanh đều là cha mẹ kiếp trước của mình, đều là chư Phật trong tương lai. Tất cả đều là pháp thân của quý vị, thì quý vị còn có phiền não gì đáng nói nữa chứ? Có quán sát như vậy, mới có thể giải quyết được vấn đề. Nếu như quý vị chưa được như thế, thì chỉ còn cách nương theo thiện pháp thông thường mà đi tới. Quý vị muốn một lần đạt được cứu cánh rất khó, bao giờ cũng có những nơi quanh co khúc khủy, chi bằng ngay tại điểm này quán sát một cách triệt để, học lấy pháp cứu cánh, đây là phương thức lý tưởng nhất.
Các Phúc Đáp Gần Đây