Khai Thị Niệm Phật Của Hòa Thượng Quảng Khâm

Khai Thị Niệm Phật Của Hòa Thượng Quảng Khâm1. Tây Phương Có Phật Hiệu A-Di-Ðà

Chúng ta chỉ biết mình do cha mẹ sanh ra. Song trước khi được cha mẹ sanh ra, mặt mũi mình ra sao? Sau khi chết đi, mình sẽ về đâu?

Nay do nghe Phật Pháp, biết có Ðức Phật hiệu A-Di-Ðà là vị đã phát 48 lời nguyện, rằng ai niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ được tiếp dẫn về Tây Phương. Nếu Phật có nguyện vậy, thì mình cũng phải phát nguyện: nguyện vãng sanh Cực-Lạc.

Mình phải tin chắc rằng thật có Thế-Giới Cực-Lạc, có Ðức Phật Ðại Từ Ðại Bi A-Di-Ðà; rồi phải luôn luôn niệm Phật để đến lúc lâm chung mình mới có chánh niệm. Khi hấp hối mà có khả năng niệm Phật, thì Ðức A-Di-Ðà ắt sẽ đến tiếp dẫn. Song le, nếu bạn vẫn còn ý nghĩ lưu luyến bất kỳ thứ gì, dù nhỏ như đầu kim, ngọn cỏ ở cõi Ta-Bà này, bạn sẽ lại rớt vào vòng luân hồi!

Cái nghiệp của Phật, Bồ-tát chính là lòng lo lắng cho chúng sanh của các Ngài.

Khi cõi Ta-Bà còn chúng sanh, thì còn Phật, Bồ-tát. Khi chẳng còn chúng sanh, thì Phật, Bồ-tát cũng không còn.

Mau mau tu để về Tây Phương, không thì ở đây khổ lắm! Ở đây bạn thấy nóng nảy, chứ ở Tây Phương thì thanh tịnh, mát mẻ.

Trần gian đầy dẫy đấu tranh – mình phải tìm một nơi an lạc như Tây Phương của Ðức Phật A-Di-Ðà.

Mình đã hồ đồ, mê muội lúc đầu thai. Giờ đây, mình cần phải sáng suốt tìm đường đi lúc chết – con đường ấy chính là Niệm Phật A-Di-Ðà.

Tứ Sanh (bốn loại chúng sanh được sinh ra từ trứng, từ thai bào, từ nhiệt độ ẩm thấp, và từ sự biến hóa) đều ở trong vòng luân hồi, không gián đoạn sanh tử. Nguyên do là bởi ý niệm tham lam, phiền não, vọng tưởng… khởi lên khi Sáu Căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với Sáu Trần (hình, sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm xúc, pháp). Do đó Sáu Căn tác hại lắm.

Ngày nay, bạn mà có thời gian để tu hành là quý báu, khó được lắm đấy. Ðể xem bạn có tìm đặng con đường thoát sanh tử hay chăng. Nếu bạn quá chú trọng, chăm lo cái thân xác này thì bạn chẳng phải tu hành niệm Phật đâu. Quá chăm sóc cái thân xác này, thì không có cách gì giải thoát nổi!

Kinh A-Di-Ðà nói tới Phật ở sáu phương – Ðông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới – đều hiển xuất tướng lưỡi rộng dài (tức là thuyết Pháp), khiến Pháp-âm trùm khắp ba ngàn cõi Ðại Thiên Thế-Giới – chủ yếu đều quy nạp về Tây Phương.

Tây Phương ở đâu? Ở trong tâm mình – khi tâm vô sự, không phiền não, thì đó tức là Tây Phương.

Tuy rằng thân ta hiện sinh ở cõi Ta-Bà, song nếu mình niệm Phật mà niệm tới lúc tâm tịnh, thì cõi Phật sẽ tịnh. Nghĩa là khi tâm thanh tịnh, không phiền não, không vọng tưởng; thì đó là Tịnh-Ðộ – cõi Tịnh-Ðộ ở ngay giữa Ta-Bà – mà tâm tức là Tây Phương.

Tây Phương Cực-Lạc ở tâm ta. Mình cần phải niệm Phật cho tới chỗ tâm thanh tịnh; niệm một cách đầy chú ý, tập trung. Khi niệm Phật, bạn cần phải phát nguyện vãng sanh Tây Phương, rời bỏ trần gian khổ lụy. Chớ nên quá yêu quý, nâng niu cái thân xác thịt này.

Mỗi thế giới cũng như mỗi hạt cát, trong đó có hằng hà sa số chúng sanh mà ai ai cũng có thể sinh về Tây Phương được cả.

Hễ mình niệm Phật thì hoa sen (ở Tây Phương) sẽ nở ra. Do đó nói: “Tâm khai (niệm Phật) thì hoa nở.”

Niệm Phật thì mới khiến ta thật sự thanh tịnh. Niệm Phật là con đường dẫn tới Tây Phương. Hễ niệm Phật thì mình sẽ tới đặng Tây Phương mà chẳng cần phải mua vé tàu, ngồi phi cơ; bởi thuyền Pháp thì không có sắc tướng.

2. Niệm Phật

Niệm Phật, tụng kinh, xem Kinh và nói chuyện là bốn việc mà bạn chắc chắn làm hằng ngày. Tốt nhất là ít nói chuyện. Thời gian tụng Kinh và xem kinh sách không nên nhiều hơn thời gian niệm Phật là tốt nhất. Niệm Phật vẫn là chủ chốt.

Xem kinh sách không cần phải quá nhiều. Phàm gặp việc gì, cứ một câu “A-Di-Ðà Phật” là được. Ðể tránh chuyện thị phi, cứ một câu “A-Di-Ðà Phật”.

Bạn hãy yên lặng, lắng lòng mà niệm Phật; niệm tới lúc ngủ thiếp luôn càng tốt. Khi tâm tới chỗ chuyên nhất – chỉ một niệm – thì bạn có thể siêu xuất Tam Giới, thẳng tới Tây Phương. Khi tu hành, bạn cần phải tập: mắt nhìn mà giả lờ như không thấy, tai nghe mà giả đò như không biết; chỉ thành thật niệm Phật.

Không cần phải xem nhiều sách vở, chỉ cần niệm Phật cho nhiều. Khi trí huệ khai mở, tất cả Kinh Tạng tự nhiên sẽ ở tại tâm bạn.

Ði, đứng, nằm, ngồi, đều nên ở trong phạm vi niệm Phật.

Khi định tâm lại niệm, bạn sẽ giác ngộ rằng chúng ta từ sáng tới tối, tâm luôn nhắm mắt ra bên ngoài mà không bao giờ quán xét xem tâm mình có hướng về Phật A-Di-Ðà chăng. Ðừng để cho tâm bạn bị cột vào đám tín đồ, đệ tử, hoặc cảnh giới bên ngoài. Nếu bạn cột vào chúng thì sẽ bị chúng xoay chuyển, lôi đi mất; đáng sợ lắm!

Hiện tại các bạn không đủ chánh niệm, mười phần không được một; do đó thật là nguy hiểm. Khi bạn niệm Phật nhiều thì đó là Thiền sống.

Có kẻ nói là bế quan, song họ đầy dẫy vọng tưởng, đầu não không chút thanh tịnh. Khi bạn ngồi tịnh tọa lâu, thấy mệt thì nên đứng dậy đi rảo.

Khi bạn niệm Phật mà rời được cảnh giới thì đó tức là Thiền. Bạn phải duy trì chánh niệm, bởi vì trong tâm bạn luôn còn rất nhiều chủng tử xấu xa.

Khi niệm Phật mà không có chánh niệm thì lòng bạn luôn nghĩ này nghĩ nọ. Miệng niệm mà tâm hướng ngoại. Nếu bạn thật sự muốn, thì bạn mới làm cho tâm bạn chuyên nhất đặng. Nếu bạn không có lòng muốn tu, thì làm sao niệm Phật (cho thành công)?

Niệm Phật mà rời xa được ngoại cảnh, cùng Phật tương ưng, thì mới biết tâm này và Phật giống nhau.

Việc quan trọng nhất khi niệm Phật là phải nghe tiếng niệm cho rõ ràng.

Niệm Phật tức là vào Trung-Ðạo? không có tốt, không có xấu.

Tuy niệm Phật cũng là một chuyện huyễn hóa, song nó thuộc về chánh niệm. Do đó, mình dùng huyễn (niệm Phật) để diệt huyễn (vọng tưởng).

Hỏi: Niệm làm sao mới chuyên nhất?

Ðáp: Ðây cũng là chấp trước. Chỉ cần bạn đừng để ý gì tới vọng tưởng là được (thì tâm sẽ chuyên nhất). Bởi vì mình tự nhủ lòng rằng: “Ðừng khởi vọng tưởng”; song vọng tưởng vẫn cứ tự dấy khởi. Do đó, hễ để ý tới vọng tưởng thì mình lại sanh thêm một vọng niệm; càng để ý tới nó thì nó càng tăng!

Khi vọng niệm nổi lên, bạn đừng sợ. Hãy mặc kệ, đừng chú ý tới nó là xong. Cứ một lòng niệm “A-Di-Ðà Phật”. Vọng niệm vốn không có thực thể, từ từ nó sẽ tan biến mất.

Hễ nhớ tới niệm Phật thì niệm ngay; không nên chấp trước rằng tôi phải làm thế này thế kia. Niệm Phật là tuy niệm mà không (chấp trước vào) niệm.

Niệm Phật mà còn thấy rằng mình đang niệm hay không niệm, thì đều là chấp trước.

Niệm Phật thì phải tùy duyên. Phàm làm chuyện gì, ở đâu, lúc nào cũng nên tùy hoàn cảnh mà niệm Phật. Không phải nói rằng: “Tôi cần niệm bao nhiêu, bao nhiêu hồng danh”, hoặc “Tôi đang niệm Phật, không thể làm việc được”, hoặc “Tôi đang bận rộn, chưa đi niệm Phật được… ”

Mỗi tâm niệm, mỗi ý nghĩ, bạn chớ xa rời cảnh giới Phật. Ði, đứng, nằm, ngồi – nhất cử nhất động, làm gì bạn cũng cứ niệm Phật. Khóc cũng niệm Phật; cất chân một bước cũng niệm Phật. Sức mạnh của việc niệm Phật vĩ đại vô song, có thể khiến bạn đắc Niệm Phật Tam-Muội – một thứ Ðịnh không phải tầm thường.

Khi sinh ra, mình đã mang theo trong người đầy dẫy nghiệp chướng. Do đó, chớ tạo thêm nghiệp mới để chết rồi lại mang đi; chẳng lợi ích chút nào cả!

Hỏi: Niệm đức Phật hay Bồ-tát nào thì tốt nhất?

Ðáp: Tất cả mọi đức Phật và Bồ-tát đều tốt như nhau. Không phải niệm vị này thì tốt hơn niệm vị kia: đó đều là do bạn phân biệt, so sánh mà ra. Chư Phật, Bồ-tát cũng không nhất định cần bạn niệm tên các Ngài nữa.

Niệm Phật tới chỗ tâm định, thì tức là Thiền. Nên nói:

“Vừa Thiền, vừa Tịnh-Ðộ,

Mười người tu, mười người thành.

Có Thiền, không có Tịnh-Ðộ,

Mười người tu, chín kẻ lạc đường!”

Vừa tịnh tọa vừa niệm Phật, thì tương đối không đi lầm đường hoặc xảy ra nguy hại.

Nếu tâm bạn còn tham muốn, ham thích, vương vấn chuyện gì, thì khi lâm chung việc đó sẽ hiện ra. Bấy giờ, nếu bạn thấy cảnh đó rồi nảy lòng yêu thích, sanh tâm truy đuổi nó, thì kết quả là bạn sẽ lọt thẳng vào vòng luân hồi!

Nếu bạn biết dọn lòng trong sạch niệm Phật, thì khi lâm chung sẽ có hoa sen, Phật, Bồ-tát và cảnh giới thù thắng hiện ra. Do đó, lúc còn sống bạn cần phải tu để trừ cho sạch hết những ham muốn trần tục.

3. Khai-thị lúc Phật-thất:

Mục-đích đả Phật-thất là để độ chúng sanh vãng sinh Thế-giới Cực-Lạc.

Cõi Ta-Bà thì có sinh có diệt; cõi Tây Phương thì bất sinh bất diệt. Mình đi xuất ngoại thì cần tiền mua vé máy bay, chớ tới Tây Phương thì chỉ cần niệm Phật đến độ chuyên nhất, không còn sắc tướng (chấp trước). Ðó chính là “bất sinh bất diệt” vậy. Phải niệm Phật thì mới có chỗ để mình ký thác thân mạng này.

Niệm Phật thì phải niệm niệm không xa rời Phật. Niệm cho rõ ràng, nghe cho phân minh, mỗi chữ mỗi chữ đều phải rõ. Tâm nhớ tưởng, tai lắng nghe, miệng thầm niệm – cứ thế mà nhiếp tâm chuyên chú nơi Phật hiệu. Hãy buông bỏ mọi chuyện bên ngoài; cứ nương theo tiếng niệm thì tâm sẽ tập trung, chuyên nhất. Bất kể là “người niệm” hay “tiếng niệm”, bất kể là “tôi niệm” hay “bạn niệm”; đại-chúng ai cũng nương theo tiếng niệm Phật thì tâm sẽ chuyên nhất. Tây Phương Cực-Lạc lại cũng dựa theo tiếng niệm Phật này.

Khi đả Phật-thất, bạn chớ để cho ý niệm trần tục lôi kéo tâm mình. Nếu không chuyên tâm, thật uổng cơ hội quý báu này.

Do vậy, hãy một lòng một dạ niệm Phật, chuyên chú vào tiếng niệm.

4. Niệm Phật Có Thể Thấy Phật Không?

Hỏi: Phải chăng niệm Phật thì có thể thấy Phật?

Ðáp: Không thể có!

Hỏi: Nếu vậy trong chương Ðại-Thế-Chí Niệm Phật Viên-Thông có câu:

“Nếu ai nhớ Phật, niệm Phật,

thì bây giờ hoặc mai sau nhất định thấy Phật;

Chẳng cần phương tiện gì cả, tự mình lòng dạ mở khai.”

là ý gì?

Ðáp: Ðúng! Lòng dạ mở khai tức là thấy Phật, thấy đặng vị Phật của tự-tánh.

Chư Phật và Bồ-tát đều có nguyện lực mà ta có thể dựa vào đó để tu hành. Vì thế, lúc đi, đứng, nằm, ngồi, bạn chớ rời tiếng niệm Phật. Khi niệm Phật thì mình mới tương ưng với Phật; đây là cảnh giới không có hình hài, sắc tướng gì cả.

Ðừng nên chấp trước, tự hỏi tại sao Ðức A-Di-Ðà không hiện hình ra tiếp dẫn!

5. Thầy Quảng-Hóa Tới Tham Phỏng

Coi thầy công phu hành trì trình độ tới đâu, (tôi nói để thầy nghe) chớ khi lâm chung thầy cần không vương vấn, quái ngại bất kỳ việc gì thì mới vãng sanh được.

Nếu thầy còn tham vọng muốn độ chúng sanh, thì tham muốn ấy cũng là một thứ chấp trước, một thứ quái ngại!

Hòa-Thượng hỏi: Tây Phương ở đâu?

Thầy Quảng-Hóa đáp: Nói theo phương vị, thì nó ở phương Tây; nói theo thực tướng, thì nó ở tại lòng mình.

Hòa-Thượng nói: Hễ có Phật có Bồ-tát, thì có Tịnh-Ðộ. Thầy phải giảng dạy sao cho người nghe có chỗ nương tựa để tu hành.

Ðức Phật dạy rằng nếu người nào trong một ngày, hai ngày…, cho tới bảy ngày mà có thể niệm Phật đến chỗ “nhất tâm bất loạn”, thì Phật (A-Di-Ðà) sẽ đến tiếp dẫn. Song, nếu không ăn không ngủ thì chẳng cần tới bảy ngày, chỉ bốn hay năm ngày là đủ rồi!

Thầy Quảng-Hóa nói: Có lần tôi chứng kiến Ðức Quán-Âm hiện ra với tướng mạo trang nghiêm đẹp đẽ; cả chuỗi anh lạc của Ngài cũng tuyệt đẹp.

Hòa-Thượng cười, nói rằng: Thật sao? Ở đâu mà có Bồ-tát như thế?

Khi thầy độ chúng sanh, thầy cần phát nguyện rồi theo đó mà thực hành, như Ðức Quán-Âm, Phổ-Hiền vậy. Song, đến khi lâm chung, thầy phải buông bỏ hết mọi thứ. Nếu nguyện của thầy chưa làm xong, thì thầy sanh trở lại đây để tiếp tục độ sinh; công đức này càng thù thắng, vĩ đại. Nguyện là thứ thầy ghi tạc ở trong lòng.

Phật và Bồ-tát tuy đã thị hiện nhập Niết-Bàn, song thật sự các Ngài vẫn còn quanh quẩn, không rời những kẻ đang tu hành như chúng ta; có điều các Ngài không hiện ra thôi.

Chỉ cần Kinh, Luật, Luận tồn tại, chư Phật, Bồ-tát có thể dạy mình.

Ðừng cho rằng không có ai truyền thọ, rồi không còn (Phật Pháp) gì nữa.

Khi lâm chung, đừng nên để tâm muốn thấy hình tướng chư Phật, Bồ-tát.

Cầu mà không thấy là việc tốt.

Nếu cầu mà thấy, thì những hình tướng đó không đáng tin cậy đâu.

Phải không mong cầu gì; chỉ tịnh tâm niệm Phật. Phật, Bồ-tát từ trong chân tâm thanh tịnh hiện ra thì mới thiệt đúng.

Phải buông bỏ (sự chấp trước vào) tấm thân thối tha này. Tâm là tâm. Mặc kệ cái thân này biến thành tròn hay méo, đừng để ý lo lắng, chiều chuộng nó. Chẳng cần nói xa xôi, hễ có chứng đắc, thâu hoạch được cái gì thì vẫn còn chưa đúng. (Ý Hòa-Thượng muốn chỉ sự chấp trước của Thầy Quảng-Hóa, rằng Thầy còn chấp vào sự kiện mình đã chứng kiến Ðức Quán-Âm hiện thân).

Trong cái này (Hòa-Thượng chỉ vào tâm Ngài), chẳng có vật gì cả. Các vị đó (Hòa-Thượng chỉ nhóm cư-sĩ tại gia đang ngồi nghe giảng) thì vẫn còn đủ thứ.

Hiện tại, các bạn đêm ngủ nằm mộng mà sáng ngày ra cũng là ở trong mộng.

Các bạn hệt như đang đóng phim vậy; cuốn phim này dài lắm – cả đời bạn, song chẳng khác gì giấc mộng ban đêm!

(Hòa-Thượng khuyến khích Thầy Quảng-Hóa niệm Phật bằng thực-tướng – hình tướng chân thật thì không hình hài, không sanh diệt; tức là chân tâm? chứ đừng niệm Phật bằng sự-tướng – còn chấp trước vào hình hài, sắc tướng, công việc trần gian thế sự).

Ngày hôm nay tôi nói bấy nhiêu thôi. Kẻ xuất gia thì sẽ lãnh hội được phần nào, chứ người đời thì không có ai hiểu.

Xưa kia cổ nhân chỉ nói một câu là đủ, hôm nay tôi nói quá nhiều! Chờ khi về rồi, các bạn từ từ lãnh hội thì sẽ giác ngộ, thấu suốt hết.

Trích Cẩm Nang Tu Đạo của hoàng thượng Quảng Khâm
Nguồn: niemphat.net

Pháp Môn Niệm Phật

Pháp Môn Niệm PhậtTất cả chư Phật Như Lai, không vị nào không khuyên người cầu sinh Tịnh Độ. Các vị đều không chút lòng riêng tư, không chút tâm thiên lệch mong muốn chúng ta mau chóng thành Phật. Phương pháp thù thắng nhất chính là cầu sinh Tây Phương tịnh độ, nhanh hơn so với bất cứ pháp môn nào, thù thắng ngay trong thù thắng. Thế nhưng, thực tế có một số người nghiệp chướng sâu nặng nên không tin tưởng. Phật Bồ Tát cũng từ bi, tùy hỷ dạy pháp môn khác mà chúng ta thường gọi “tám vạn bốn ngàn”. Vậy “tám vạn bốn ngàn” là gì? Là do không tin tưởng pháp môn này, không tình nguyện học tập, không muốn cầu sinh Tây Phương Cực Lạc, chư Phật liền mở ra tám vạn bốn ngàn pháp môn. Phật mở ra vô lượng pháp môn vì những người nghiệp chướng sâu nặng.

Tường tận thông suốt đạo lý này chúng ta mới cảm nhận sự may mắn khi gặp được pháp môn của Phật, nhất định sẽ không xả bỏ, không nghi hoặc, mà một môn thâm nhập, tuyệt đối không động tâm. Với pháp môn khác, chúng ta có thể tán thán nhưng không cùng học. Thiện Tài Đồng tử có năm mươi ba lần tham học, pháp môn nào ngài cũng tham quan, cũng đều lướt qua. Thế nhưng ngài không học theo mà chân thành niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Cuối cùng ngài cũng về được thế giới Tây Phương Cực Lạc.

“Thọ dụng cụ túc đệ thập cửu”

Phẩm kinh này giới thiệu với chúng ta từ dung mạo đoan chính trang nghiêm, phước đức vô lượng, trí tuệ thông suốt, thần thông tự tại, tuổi thọ dài lâu, cho đến hoàn cảnh sinh hoạt thường ngày của người ở thế giới Tây phương Cực lạc. Đó là đích đến mà tất cả chúng sinh trên thế gian ngày đêm đang mong cầu. Nếu cầu phước, cầu trí tuệ, tự tại, thọ mạng, thì thế giới cực lạc mới được viên mãn. Chúng ta không thể cầu được ở thế giới này. Trong tám khổ có “cầu bất đắc khổ”, sau khi đã cầu chúng ta vẫn khổ. Người thế giới Tây Phương cực lạc không hề có ý niệm như vậy, tất cả đều tự nhiên, đều lưu xuất từ tánh đức, cho nên thân tâm của chánh báo thanh tịnh quang minh, y báo phước đức thù thắng, như trên đã nói “siêu thế hy hữu”. Trong kinh, Thế Tôn nói pháp phương tiện khéo léo, tuy nói nhưng “ứng niệm hiện tiền, vô bất cụ túc”. Người thế gian thường hay nói “tâm nghĩ sự thành”, nếu không chú tâm, chăm chỉ nỗ lực, sự việc không thể thành. Thế giới Tây Phương cực lạc cũng vậy, vừa nghĩ đến thì liền thành tựu.

“Phục thứ cực lạc thế giới, sở hữu chúng sanh”

Cái “sở hữu” này ý nghĩa rất dài, phía sau kinh văn có câu “hoặc dĩ sanh, hoặc hiện sanh, hoặc đương sanh”. “Dĩ sanh” là đã sanh đến thế giới Tây Phương cực lạc của Phật A Di Đà, thành Phật đã mười kiếp. “Hiện sanh” là hiện tại sanh đến thế giới Tây Phương cực lạc. “Đương sanh” chính là chúng ta, hiện tại chưa đi nhưng chắc chắn sẽ đi. “Đương sanh” là sự khẳng định đương nhiên. Khi chính mình hạ quyết tâm, không chút nghi ngờ cũng không lo nghĩ đã tạo nghiệp gì trong đời quá khứ, hiện tại thì chỗ “đương sanh” này, chúng ta sẽ có phần. Sau khi gặp được pháp môn, chỉ nghĩ đến Phật A Di Đà, không nên nghĩ những thứ khác. Trong kinh Đại thừa, đức Phật thường nói “niệm một câu Nam mô A di đà Phật tiêu hết tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội”. Chúng ta niệm có thể tiêu được hay không? Không thể! Khi chúng ta niệm “đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Vậy phải như thế nào khi niệm mới có sức mạnh lớn như vậy? Chính là người không có chút lòng nghi hoặc, trong tâm ngoài Phật hiệu không có bất cứ một tạp niệm nào. Niệm được như vậy sẽ tiêu hết tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Không nên khởi vọng tưởng, thậm chí thế gian pháp, chúng ta cũng không nghĩ đến, không nghĩ quá khứ không nghĩ hiện tại cũng không nghĩ tương lai mà chỉ nghĩ “A Di Đà Phật”, chỉ nghĩ kinh Vô Lượng Thọ, như vậy mới tiêu được tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Chỉ cần khởi một vọng niệm, công phu của chúng ta hoàn toàn bị phá hỏng. Do đó phải triệt để buông bỏ, vạn duyên buông bỏ, đương sanh ngay trong một đời này nhất định thành tựu, nhất định vãng sanh.

“Giai đắc như thị, chư diệu sắc thân, hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí tuệ minh liễu, thần thông tự tại”

Câu “giai đắc như thị, chư diệu sắc thân” là tổng thuyết. Diệu sắc thân chính là “hình mạo đoan nghiêm”. Chúng ta đã đọc phần trước bài kinh, sinh đến thế giới Tây Phương cực lạc, thế giới đó là hóa thân, không phải là thai sinh nên rất khó tưởng tượng. Người thế gian luôn từ nhỏ lớn dần tuổi tác theo thời gian, mỗi năm đều thay đổi. Trong khi đó, thế giới Tây Phương không như vậy. Thân người ở thế giới Tây Phương hoàn toàn giống đức Phật A Di Đà, giống từ tướng mạo thân thể đến phước đức vô lượng. Tuổi thọ ở ngay trong phước đức, tuổi thọ là phước đức đệ nhất, là vô lượng thọ, trí tuệ thông suốt, viên mãn.

Quá khứ, hiện tại, vị lai, quá khứ vô cùng, tương lai vô tận, cõi này phương khác, tất cả các pháp không gì là khó thông đạt. Kinh Hoa Nghiêm và kinh Lăng Nghiêm cũng đã nói qua vấn đề này. Trước đây chúng tôi cũng thường hay giảng “chư pháp sở sanh”, chư pháp là tất cả pháp thế xuất thế gian, sanh là sanh khởi. Tất cả pháp từ đâu mà ra?, đức Phật nói “do tâm hiện ra”, tâm đó là tự tánh, là chân tâm của chúng ta. Chúng ta “minh tâm kiến tánh” thì làm sao không biết được tác dụng của tâm tánh. Hư không, vũ trụ, vô lượng vô biên tinh cầu, và tất cả chúng sanh từ đâu mà ra?, từ trong tự tánh của chúng ta biến hiện ra. Khi minh tâm kiến tánh rồi, đương nhiên thứ gì cũng thông suốt tường tận, không cần phải học.

Đức Phật nói “sở tri chướng”, cái sở tri chướng này đã chướng ngại chúng ta, vốn dĩ chúng ta phải biết nhưng hiện tại lại không biết. Cho nên ý nghĩa của “sở tri chướng” và “phiền não chướng” không giống nhau. Bản thân phiền não là chướng ngại, còn sở tri thì không chướng ngại. Có loại chướng ngại chúng ta nhận biết, nhưng không phiền não. Tất cả chúng sinh đều có “trí tuệ đức tướng Như Lai”, nhưng vì sao hiện tại chúng ta không có trí tuệ thông suốt này? Kinh Phật thường nói, các tổ sư đại đức cũng thường nói: “sở tri chướng” là do khởi tâm động niệm. Kinh Lăng Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na hỏi rất hay: “tất cả chúng sinh có vô minh, vô minh bất giác sinh ba cõi, vậy vô minh này có từ lúc nào, do nguyên nhân gì mà ra?”. Đức Phật đáp cũng rất diệu: “vô minh chính là sở tri chướng”, “tri kiến lập tri là vô minh bổn”. Tri kiến chính là trí tuệ thông suốt. Sai sót chính ở chúng ta muốn lập tri. Lập tri là phân biệt, khởi tâm động niệm, liền chướng ngại trí tuệ thông suốt.

Chư Phật Như Lai thường ở trong định, không phải ngồi xếp bằng tĩnh tọa như người thường vẫn nghĩ. Trong định chính là tâm định, không kể đến thân, “đi đứng nằm ngồi” đều trong định, đó mới gọi là thiền định. Định là không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước. Định sinh huệ, tác dụng của định chính là trí tuệ thông suốt. Chúng ta không có trí tuệ bởi vì tâm động. Cho nên, nếu muốn cầu trí tuệ, không khó, chúng ta chỉ cần tận lực giữ gìn tâm, không để cho cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, phiền não dao động. Chúng tôi thường khích lệ các vị đồng tu bằng mười sáu chữ cần buông bỏ “tự tư tự lợi, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần, tham sân si mạn”. Sau khi buông bỏ, chúng ta liền ở ngay trong định. Tuy định này không sâu nhưng có thể sinh trí tuệ. Có công phu thì khi mở bất cứ kinh điển gì, chúng ta sẽ không có chướng ngại, mà trên tinh thần “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” như kệ khai kinh đã nói, mặc dù dĩ nhiên sự hiểu của chúng ta vẫn chưa đủ sâu, chưa đủ viên mãn. Tuy nhiên, sự hiểu đó lại chính xác, không sai, vì khi đó, chúng ta đã có sức định.

Nếu không buông bỏ mười sáu chữ vừa nêu, một chút định cũng không có, thì không những đức Phật giảng chúng ta sẽ không hiểu, mà chú giải của tổ sư chúng ta xem cũng không hiểu. Sở tri chướng ở ngay đó. Tâm càng thanh tịnh, trí tuệ càng lớn. Lời nói của cổ đức rất có đạo lý: tu hành Phật pháp chính là một chữ “buông”. Buông bỏ, từ sơ phát tâm đến quả vị Như Lai không hề khác biệt. Buông bỏ một phần, chúng ta liền có thể nhìn thấu một phần, nhìn thấu là trí tuệ thông suốt. Chúng ta liền có thể được một phần tự tại, thần thông tự tại, đều có thể có được người của thế giới Tây Phương cực lạc, vi diệu không thể nói hết.

Chữ “đương sanh” rất vi diệu. Ngày nay, chúng ta hạ quyết tâm tu Tịnh Độ, một lòng một dạ, đó chính là đương sanh, ngay đời này nhất định sẽ không còn luân hồi, nhất định được sinh Tịnh Độ. Bản thân tràn đầy tín tâm, sinh đến thế giới Tây Phương cực lạc những thứ này thảy đều có được, thậm chí còn viên mãn. Bồ Tát Thất Địa tiếp cận viên mãn, lên trên Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa Đẳng Giác đều viên mãn. Ngôi thứ năm chính là quả vị Như Lai cứu cánh.

Lý do của việc lựa chọn pháp môn niệm Phật

Vừa rồi đến Trung Quốc, chúng tôi gặp rất nhiều vị đồng tu Phật giáo trách móc rằng tại sao chúng tôi chỉ tuyên dương pháp môn Tịnh Độ mà không nói đến các pháp môn khác. Họ lo lắng chẳng lẽ tương lai chỉ có Tịnh Độ, còn các tông phái khác đều không có.

Kỳ thật họ không hiểu cách thức giảng kinh. Giảng bộ kinh nào, nhất định phải tán thán bộ kinh đó. Chúng tôi giảng Tịnh Độ mà lại tán thán Thiền chẳng phải làm trò cười hay sao? Đây là một nguyên tắc cơ bản. Bất cứ tông phái nào, khi giảng giải, chúng ta phải tán thán để người nghe mới có thể sinh tín tâm, có thể thọ dụng, y giáo phụng hành, chân thật được lợi ích.

Trước đây, một nữ tu của Thiên Chúa Giáo cho biết cô rất thích nghe chúng tôi giảng Mai Quế Kinh ở trường. Chúng tôi cũng đã hứa sẽ tìm thời gian thích hợp, cố gắng giảng qua một lượt trong phòng thu rồi tặng các vị phổ biến bên Thiên Chúa Giáo. Khi giảng Mai Quế Kinh, chúng tôi cũng tán thán Thiên Chúa Giáo, tán thán GiêSu, không thể so sánh họ không bằng đức Phật A Di Đà. Cho nên chúng ta cần hiểu, đây là qui củ của giáo học. Không luận giảng bộ kinh điển nào, không luận giảng pháp môn gì, nhất định phải tán thán. Chúng ta gặp đệ tử Phật môn tu học pháp môn tông phái khác, đều tán thán, không nên hủy báng, xem thường.

Trong “Du Già Bồ Tát giới bổn”, có một điều trọng giới, “khen mình chê người”, dường như xếp ở điều thứ nhất. Trọng giới thứ nhất là tán thán chính mình, hủy báng các tông phái khác. Tất cả pháp môn có trong nhà Phật không luận Đại thừa, Tiểu thừa, tông môn giáo hạ, hiển giáo mật giáo, kinh điển mà chúng ta y theo đều là Thích Ca Mâu Ni Phật nói. Nếu hủy báng kinh điển là báng Phật báng pháp. Có không ít người y theo pháp môn này tu hành thành tựu, chẳng phải như vậy là báng cả tăng sao? Cho nên có thể tán thán chính mình nhưng không được hủy báng Tam Bảo, vì hủy báng Tam Bảo, quả báo địa ngục A Tỳ, không thể vãng sinh.

Người tu Tịnh Độ chúng ta đối với bất kỳ tông phái nào cũng đều tán thán. Chúng ta cung kính Tam Bảo, không những tán thán Tam Bảo, mà cần tán thán cả các tôn giáo khác. Mặc dù tôn giáo không giống nhau, nhưng họ đều “do tâm hiện ra, do thức hiện bày”. Chúng ta và họ đồng một gốc, đồng một nguồn cội, đồng một tự tánh, vì vậy không nên xem thường, hủy báng. Không tường tận đạo lý này, thì việc học Phật chỉ là học suông, Phật hiệu cũng là niệm suông, làm sao có thể thành tựu. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa còn ở đời, đối với rất nhiều tôn giáo khác của Ấn Độ, Thế Tôn không hề hủy báng, không hề xem thường. Chúng ta cũng nên theo đó mà học. Căn tính tuy không giống nhau, không luận thuộc tôn giáo nào cũng đều khuyên người làm thiện, lánh ác.

Thời đại này là loạn thế, tai nạn triền miên, chúng ta trải qua ngày tháng rất khổ đau. Mọi người trên toàn thế giới bất luận tôn giáo, chủng tộc, quốc gia đều một mong cầu khẩn thiết “xã hội an định, thế giới hòa bình”. Do đó, những năm gần đây, chúng tôi ở Singapore, Úc Châu vẫn đang tiếp tục làm công tác đa nguyên văn hóa, đoàn kết tôn giáo, chủng tộc, hóa giải hiểu lầm, xung đột, hy vọng mọi người toàn tâm toàn lực cống hiến vì an định xã hội, thế giới hòa bình.

Chúng tôi có đưa ra tổng cương lĩnh gói gọn trong tám chữ “đối đãi bình đẳng, hòa thuận cùng sống”. Không nên phân tôn giáo, không phân chủng tộc, không phân quốc gia, không phân văn hóa, cũng không phân giàu nghèo sang hèn, chúng ta đều mong cầu đối đãi bình đẳng với nhau, hòa thuận cùng sống. Ngoài ra chúng tôi còn có năm cụm từ mười chữ “bao dung, tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc”. Sau cùng tổng kết lại, chúng ta “hợp tác lẫn nhau”. Chỉ với mấy câu như vậy, chúng tôi đi khắp nơi trên thế giới, đến đâu cũng khuyên mọi người thực tiễn triệt để, bản thân quyết làm được, sau đó tiến thêm một bước yêu cầu người trong đạo tràng làm được, dần dần yêu cầu người trong thị trấn nhỏ thảy đều làm được

Chúng tôi ở Úc châu trong một trấn nhỏ chỉ có tám ngàn người đều làm thành công, vì mỗi cá nhân đều có lòng tự trọng, đều hy vọng trấn nhỏ này trở thành trấn mô phạm bình đẳng, đối đãi hòa thuận. Chúng tôi dự đoán khoảng vài năm nữa, trấn nhỏ này sẽ trở nên nhất nhì thế giới về hòa bình an định. Người dân xem người già như cha mẹ mình, xem người trẻ như con em ruột thịt mà tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.

Xây dựng thế giới hòa bình là việc không dễ dàng. Hội nghị hòa bình của Liên Hiệp Quốc tổ chức ở Thái Lan vừa qua, sau khi tham gia, chúng tôi cảm thấy không thực tiễn. Từ đó mới thấy, thật may mắn khi ở Toowoomba hình thành một mô phạm hòa bình, mà người Trung Quốc gọi là kiểu mẫu. Đó chính là mở rộng của thôn Di Đà, trấn nhỏ này đầy đủ điều kiện thiên nhiên, cư dân bao gồm hai loại người: trí thức, đa số có trình độ văn hóa rất cao, chiếm một phần tư nhân khẩu; ba phần tư còn lại phần lớn đã về hưu, và người về hưu ở các nơi đến đây dưỡng lão. Do điều kiện thiên nhiên ưu đãi nên nơi này còn gọi là trấn về hưu dưỡng lão. Cứ cuối tuần, chúng tôi thường tổ chức buổi tiệc ấm cúng dành cho khách thập phương tề tựu. Số lượng khách ngày càng tăng là điều đáng mừng. Mục đích buổi tiệc nhằm giáo dục, dẫn dắt nhân dân thực tiễn đối đãi bình đẳng, hòa thuận, cùng thực hiện bao dung, tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc, hợp tác lẫn nhau. Hy vọng lãnh đạo các tôn giáo trong trấn nhỏ này, từ dẫn đầu đến thúc đẩy để trở thành trấn nhỏ hòa bình nhất thế giới.

“Hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ minh liễu, thần thông tự tại”, đều là đức năng tự tánh vốn đủ. Chúng ta có trí tuệ, có sức định sẽ khai mở được trí năng này vô tận vô lượng vô biên. Mọi người đều có thể khai mở.

“Thọ dụng chủng chủng, nhất thiết phong túc”

Tám chữ này chứa đựng muôn hình vạn vẻ. Ngày nay chúng ta có đời sống tinh thần, đời sống vật chất không những đủ mà còn rất đầy đủ, rất phong phú, không hề kém khuyết. Kinh nêu ra một vài ví dụ các thứ thọ dụng.

Thứ nhất là nơi ở, “cung điện”. Cung điện không có nghĩa là nơi ở của đế vương thời xưa mà đó chính là nhà ở cá nhân cùng nơi họat động đoàn thể.

Thứ hai, “phục sức” là điều kiện ăn mặc sung túc. Người thế gian ưa thích trang sức. Chư Phật Bồ tát cũng thường đeo anh lạc, gọi là “chúng bảo trang nghiêm”. Những thứ này đều tự nhiên, không do con người thiết kế chế tạo. Thế giới Tây Phương vốn mọi thứ đều tự nhiên, do nghĩ mà sinh ra.

Thứ ba, “hương hoa”, mười phương pháp giới tất cả chúng sinh không ai không thích hương hoa. Người ta rất chú trọng đến vườn tược. Người giàu sang Trung quốc thời xưa đặc biệt chú trọng đến hoàn cảnh nơi ở. Đến tham quan Trung quốc, chúng ta sẽ thấy còn lưu giữ lại rất nhiều khu vườn với những kiến trúc đẹp mắt ở Tô Châu, Dương Châu, Bắc Kinh. Không cần chờ đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, “do nghĩ mà sinh”, chỉ cần chúng ta quán tưởng, thế giới Tây phương liền hiện tiền trong cuộc sống của chúng ta.

“Phan cái trang nghiêm chi cụ, tùy ý sở tu, tất giai như niệm”

Câu nói này đã bao gồm hết tất cả vật chất đồ dùng trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, không thiếu thứ nào. Khi nào cần dùng, nó tự nhiên hiện ra; khi không cần nữa, nó liền biến mất. Cho nên, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vào nhà của mỗi người đều thấy sạch sẽ, bóng láng không chút bụi trần, đồ dùng của họ cũng không cần phải cất chứa, vô cùng vi diệu. Bởi vì tất cả chúng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc đều có năng lực chuyển đổi năng lượng vật chất, có thể đem năng lượng biến thành vật chất, khi cần dùng thì thảy đều đầy đủ, khi không cần dùng thì chuyển biến vật chất này quay trở về thành năng lượng nên không cần phải cất chứa.

Trong kinh điển nhà Phật đã giới thiệu rất nhiều cảnh giới không thể nghĩ bàn, được khoa học gia hiện tại chứng thực. Thế nhưng hiện tại họ không biết dùng phương pháp gì để làm cho năng lượng và vật chất tùy tâm mà chuyển biến. Người thế giới Tây Phương Cực Lạc sớm đã biết được. Những năm đầu khi giảng bộ kinh này, chúng tôi đã khuyên các khoa học gia nên đến thế giới Cực Lạc “du học”. Nếu không, kiến thức họ học được sẽ rất có hạn. A Di Đà Phật là nhà khoa học vĩ đại nhất giữa vũ trụ này, cho nên học khoa học thì cần đi đến thế giới Cực Lạc.

“Tùy ý sở tu tất giai như niệm”, tất cả đều do tâm nghĩ sự thành, không như thế gian đời sống gian nan khổ sở. Thích Ca Mâu Ni Phật nói, sáu cõi của chúng ta là biển khổ. Có ba loại khổ lớn, “khổ khổ, hoại khổ, hành khổ”. Kinh Hoa Nghiêm nói “ba cõi đều khổ”, dục giới ba loại khổ này thảy đều đầy đủ, không ai có thể tránh khỏi được. Người cõi trời sắc giới công phu thiền định sâu, không có “khổ khổ”, nhưng họ có “hoại khổ”, “hành khổ”, vẫn không được coi là tự tại. Đến được cõi vô sắc, ngay đến thân thể này cũng không cần, không có “hoại khổ”, nhưng họ vẫn có “hành khổ”. Hành khổ vì cảnh giới này của họ không thể giữ được mãi. Họ có hạn chế của thọ mạng. Cõi trời Vô Sắc giới cao nhất, trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, tuổi thọ tám vạn đại kiếp. Người thông thường không ấn tượng sâu về con số tám vạn đại kiếp, nhưng đối với người con Phật thì tương đối dễ hiểu hơn. Trong kinh luận đức Phật dạy, thế giới này, một lần “thành, trụ, hoại, không” là một đại kiếp. Tám vạn đại kiếp là “thành, trụ, hoại, không” tám vạn lần. Thế nhưng rốt cuộc, nó vẫn là số lượng, cùng với thời không vô tận mà so sánh, vẫn rất ngắn ngủi. Tám vạn đại kiếp cũng qua nhanh, khi mất định lực vẫn bị đọa xuống sáu cõi luân hồi, không được cứu cánh. “Ba cõi đều khổ”, không hề có những ngày tháng tốt đẹp, muốn trải qua ngày tháng tốt đẹp, chúng ta hãy hướng đến, xem thế giới Tây Phương Cực Lạc kỳ diệu dường nào.

(Trích lục Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm 19)
Giảng tại cư sĩ Lâm Phật giáo Singapore, tháng 10- 2003

Lão hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ

Chí Tâm Niệm Phật Tịnh Độ Hiện Tiền

Chí Tâm Niệm Phật Tịnh Độ Hiện TiềnĐã lâu lắm rồi, từ cái ngày thơ ấu xa xôi khi con được mẹ dắt lên chùa, theo thời gian, tất cả mọi thứ đều như cứ trôi đi, duy chỉ có câu niệm danh hiệu Phật A Di Đà trầm bổng du dương còn đọng lại. Con thích niệm thầm danh hiệu Phật từ thuở ấy, âm thầm chẳng cho mẹ biết và cũng chẳng hiểu tại sao.

Khi lớn lên, cũng như bao người trẻ khác, con bị cuốn vào cuộc sống hối hả với bao thăng trầm, lợi danh, vinh nhục. Nhưng câu niệm Phật thì con vẫn âm thầm mang theo như một hành trang vô hình, trì niệm trong những lúc có thể, và rồi Sáu chữ Hồng danh trở nên thân thiết như một người bạn cố tri. Khi vui cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như khi thất bại, lúc cô đơn cũng như khi hạnh phúc, niệm Hồng danh Phật liền thấy lòng ấm lại, hết chơi vơi, bình tĩnh và thanh thản hơn rất nhiều. Sau này học giáo lý Tịnh độ, con mới biết mình có căn lành với pháp môn niệm Phật thâm diệu này.

Càng niệm Phật, con nhận ra tình thương của Phật A Di Đà thật bao la, vô hạn. Hình ảnh Phật A Di Đà đứng trên tòa sen sáng lòa, duỗi cánh tay vàng tiếp độ luôn hiện ra trước mắt mỗi khi con niệm danh hiệu Ngài. Ngài thật cao cả và nhân từ, như một người cha, người thầy luôn soi sáng cho cuộc đời con. Với con, Phật A Di Đà không chỉ ở Tây phương mà ở ngay trong cõi Ta bà này. Ngài không chỉ cứu vớt những thần thức đọa lạc, tiếp dẫn họ vãng sanh mà còn luôn an ủi, soi sáng và thức tỉnh cho con cùng biết bao nhiêu người khác.

Giờ đây, con tin tưởng tuyệt đối vào Phật A Di Đà, cảnh giới Cực lạc thù thắng với vô vàn cảnh đẹp, thanh tịnh và trang nghiêm. Con luôn nguyện được sanh về Tịnh độ nên cố gắng xây dựng nền móng Tịnh độ trong cuộc sống hàng ngày. Sống với niềm tin trọn vẹn vào Phật A Di Đà, con cảm nhận sâu sắc năng lực cứu độ vô biên của Ngài. Chỉ một câu niệm Phật thôi, mà con hằng được soi sáng, chỉ dẫn và có nơi nương tựa. Cho đến một ngày, con nhận ra rằng “Tâm tịnh tức độ tịnh” hay nói cách khác “Đây là Tịnh độ/Tịnh độ là đây”.

Đúng là Tịnh độ ở Tây phương nhưng Tịnh độ cũng ở ngay đây và bây giờ khi tâm con bình an, vắng lặng và thăng hoa trong âm ba vang vọng điệp trùng Nam mô A Di Đà Phật. Sự đời thì vẫn cứ như nhiên, trôi đi với bao buồn vui thăng trầm nghiệt ngã. Con cũng đang xuôi trong dòng sông đời đó thôi nhưng sao tâm con bình an đến lạ, có thể vì con đã nắm được chiếc phao Thánh hiệu A Di Đà.

Cuộc đời con, rồi đây sẽ có những cái được thêm lên và cũng có nhiều thứ sẽ mất đi nhưng chắc chắn rằng câu niệm Phật thì luôn đọng lại, không thêm bớt. Tuy chưa được “Nhất tâm bất loạn” nhưng con nguyện hằng tâm niệm Thánh hiệu A Di Đà. Mỗi câu niệm Phật là một đóa sen, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Luôn tưới tẩm và thắp sáng những đóa sen Thánh hiệu Phật ngay trong cuộc sống này, thì rõ ràng Cửu phẩm Liên hoa cũng chẳng ở đâu xa.

Bạch Vân

Vị Trí Của Tịnh Độ Tông Trong Giáo Pháp Đức Phật

Vị Trí Của Tịnh Độ Tông Trong Giáo Pháp Đức PhậtĐức Phật Thích Ca Mâu Ni từ nơi pháp thân mà thị hiện tám tướng thành đạo ở cõi Sa Đà, giảng kinh thuyết pháp trong 49 năm chỉ nhằm mục đích muốn cho hết thảy chúng sinh lìa khổ được vui, viên thành Phật đạo.

Đúng như trong kinh đã nói: “Đức Như Lai dùng tâm vô tận đại bi thương xót chúng sinh trong ba cõi mà xuất hiện nơi đời, xiển dương giáo pháp vì muốn cứu vớt quần mê, đem lại lợi tích chân thật cho chúng sinh”. Lợi ích chân thật cứu kính mà đức Thế Tôn đem lại cho chúng sinh là dứt trừ cội gốc sinh tử luân hồi từ vô lượng kiếp, đưa chúng sinh đến Niết Bàn bỉ ngạn, nhanh chóng thành Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Nhưng chúng sinh ở cõi Sa Bà cấu nhiễm sâu nặng mê thất bản tâm, tham đắm vui chơi ở trong nhà lửa mà ngăn chướng thánh đạo. Đức Thế Tôn sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, trong khoảng 21 ngày vì 41 vị pháp thân Đại sĩ và hàng thiên long bát bộ có túc thế thiện căn thuần thục mà diễn thuyết kinh Hoa Nghiêm, các bậc đại Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền v.v… đều lĩnh giải mà được lợi ích giải thoát, còn các hàng Thanh văn và Bồ tát sơ phát tâm thì không nghe, không thấy như điếc như ngây.

Khi ấy đức Thế Tôn suy nghĩ rằng: “Giáo pháp của ta thậm thâm vi diệu khó hiểu khó biết, hết thẩy chúng sinh bị trói buộc ở pháp thế gian, tham đắm năm dục cho nên không sao hiểu nổi, chẳng bằng cứ an nhiên nhập Niết Bàn là hơn cả”.

Khi ấy Phạm Vương và Đế Thích cung kính thỉnh đức Thế Tôn trụ thế, vì chúng sinh cõi Sa Bà mà chuyển bánh xe pháp. Sau ba lần cầu thỉnh, đức Phật im lặng hứa khả. Ngài liền nhập định để quán xét căn cơ của chúng sinh xem ai có thể tiếp thụ được giáo pháp thì sẽ độ cho. Ngài liền đến vườn Lộc Uyển xứ Ba La Nại, vì năm anh em ông Kiều Trần Như mà chuyển đại Pháp luân, thuyết giảng giáo pháp Tứ Đế.

Đức Thế Tôn giảng kinh thuyết pháp là tùy theo căn tính cao thấp khác nhau của chúng sinh, tùy bệnh mà cho thuốc, phương tiện lập ra năm thừa để mà tiếp dẫn . Thời A hàm, trước vì chúng sinh căn thính thấp kém mà giảng pháp Tứ Đế, Mười Hai Nhân Duyên, Lục Độ v.v… đó là quyền giáo Tam thừa. Đến thời kỳ Phương Đẳng thì phê phán Tiểu thừa chấp “Pháp”, thời Bát Nhã thì loại bỏ chấp ngã (ngã pháp đều không) trải hơn 40 năm đến hội Pháp Hoa mới khai quyền hiển thực, hội quy Tam thừa về Nhất Phật thừa. Một đời giáo hóa của đức Phật được chia thành năm thời tám giáo, nên nói: “tùy chúng sinh tâm ứng sở tri lường” (tùy theo tâm của chúng sinh mà đáp ứng những sự hiểu biết cần thiết, thích hợp).

Đức Thế Tôn trong quá trình giáo hóa, điều phục những chúng sinh có duyên với Phật pháp, Ngài quán sát thấy căn tính của chúng sinh đã dần thuần thục, có thể gánh vác được đại pháp xuất thế, Ngài liền tuyên dương bản hoài đó là giảng thuyết pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ. Kinh A Di Đà là pháp vô vấn tự thuyết, chỉ thẳng Tây Phương Tịnh độ, được hướng tới bậc trí tuệ đệ nhất – Xá Lợi Phất để giới thiệu, điều này ngầm chỉ đương cơ của pháp môn Tịnh độ phải là bậc thượng căn lợi trí, người có trí tuệ nông cạn khó có thể đảm đương, tin sâu mà không nghi ngờ.

Vậy pháp môn Tịnh độ chiếm vị trí nào trong giáo pháp của đức Phật? Như mọi người đều biết kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa là Nhất thừa viên giáo. Kinh Hoa Nghiêm được công nhận là vua của các kinh, song điều cốt lõi của thâu tóm toàn bộ kinh Hoa Nghiêm là phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện; điều cốt lõi của phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện là ở chỗ Bồ tát Phổ Hiền dùng 10 đại nguyện dẫn quy về thế giới Tây Phương Cực lạc.

Có thể nhận thấy Hoa Nghiêm và Tịnh độ là hết sức thậm thâm vi diệu. Trong kinh Pháp Hoa có kệ rằng: “Nhất xưng Nam mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo”. Nghĩa là chỉ cần xưng một câu Nam mô Phật đều tạo nhân duyên thành Phật đạo. Tịnh độ là chỉ cho phương pháp chuyên trì danh niệm Phật vãng sinh Cực Lạc ắt sẽ thành Phật. Đại Sư Ngẫu Ích tán thán rằng: “Hoa Nghiêm áo tạng, Pháp Hoa bí tủy, hết thảy tâm yếu của chư Phật, kim chỉ nam của Bồ tát vạn hạnh, đều xuất phát từ đó”.

Hoa Nghiêm là toàn viên, Pháp Hoa là thuần viên, ao tạng và bí tủy của nó đều không ra ngoài pháp môn Tịnh độ, điều đó chứng tỏ Tịnh độ tông là pháp môn viên đốn lại. Vả lại Hoa Nghiêm và Pháp Hoa tuy viên đốn lại phương tiện, chỉ cần trì danh niệm Phật, liền có thể viên thành đạo nghiệp. Như ngài Liên Trì Đại sư nói: “Việt tam kỳ vu nhất niệm, tề chư Thánh vu phiến ngôn”, nghĩa là một niệm tịnh tín thể nhập vào bể đại nguyện của Phật Di Đà có thể siêu việt công hạnh tu tập trong ba đại A Tăng Kỳ kiếp; chấp trì 6 chữ hồng danh Nam Mô A Di Đà Phật (phiến ngôn) liền có thể công đức trí tuệ ngang bằng với chư đại Bồ tát Quán âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền…

Như vậy, pháp môn Tịnh độ vừa phương tiện vừa cứu cánh, có thể nói là pháp liễu nghĩa bậc nhất trong các pháp liễu nghĩa, là pháp cực kỳ viên đốn trong các pháp viên đốn.

Tịnh độ Tông thu nhiếp và siêu việt một cách viên mãn hết thẩy các pháp môn. Một câu A Di Đà Phật gồm đủ cả 4 câu tông chỉ:

Lấy duy tâm làm Tông (toàn tâm tức Phật).

Lấy duy vật làm Tông (toàn tâm tức Phật).

Lấy tuyệt đãi viên dung làm Tông (ngoài tâm không có cảnh là tuyệt đãi – dứt bặt đối đãi tâm chúng sinh và tâm Phật dung nhiếp lẫn nhau là viên dung).

Siêu tình ty kiến làm Tông (vượt bỏ phàm tình, lìa bỏ thánh kiến.) Phật pháp có vô lượng pháp môn, nhưng chúng quy không ngoài 4 môn đó là: Hữu môn, Không môn, Diệc hữu diệc không môn và Phi hữu phi không môn. Điều này chứng tỏ Tịnh độ Tông thu nhiếp hết thảy các pháp môn một cách viên mãn. Lại thấy Tông duy tâm viên siêu hữu môn; Tông duy Phật viên siêu không môn; Tông tuyệt đãi viên siêu diệc hữu diệc không môn; Tông siêu tình ly kiến viên siêu phi hữu phi không môn. Điều đó chứng tỏ Tông tịnh độ điêu việt một cách viên mãn hết thảy các pháp môn.

Mặt khác chính viên thu lại viên siêu, chính viên siêu lại viên thu; siêu việt thu nhiếp đồng thời không ngăn ngại. Tất cả những điều đó càng chứng tỏ một câu A Di Đà Phật thu nhiếp, siêu việt hết thảy các pháp môn một cách viên mãn, là pháp môn đại tổng trì của 12 bộ kinh, cao sâu khó tin chẳng thể nghĩa bàn.

Đại sư Thiện Đạo với đầy đủ tuệ nhãn đã từng chỉ dạy: “Đức Như Lai sở dĩ xuất hiện nơi đời chỉ vì thuyết minh bản nguyện rộng sâu của đức Phật A Di Đà”. Câu nói ấy khai thông lỗ tai cho kẻ điếc, mỡ Gôn mặt Gào Kẻ mù loà, phát khổ; những điều chưa từng được phát khởi, tất cả nhằm chỉ rõ: Đức Thích Ca Như Lai (cho đến mười phương ba đời hết thảy chư Phật) thị hiện ở thế gian chỉ nhằm một mục đích duy nhất là tuyên thuyết pháp môn niệm Phật.

Câu nói đó không phải người tầm thường có thể chỉ ra được. Trong Tây Phương lược truyện tôn xưng ngài Thiện Đạo là hoá thân của Phật Di Đà, Đại sư Liên Trì thì nhận định: “Đại sư Thiện Đạo được mọi người tôn xưng là hoá thân của Phật Di Đà, nếu chẳng phải là hoá thân của Phật Di Đà thì cũng là hoá thân của các Đại Bồ tát như Quán âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền v.v…

Đại sư Ngẫu Ích cũng từng nói: “Một câu A Di Đà Phật chính là pháp Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác mà đức Thích Ca chứng đắc ở nơi đời năm ác trược này, nay lấy quả giác ấy trao lại toàn thể chúng sinh đời ác trược. Còn như cảnh giới của chư Phật, chỉ có Phật với Phật mới có thể hiểu thấu cùng tận, chẳng phải sức của chúng sinh trong chín cõi có thể hiểu được. Ẩn ý trong lời khai thị của Đại sư Ngẫu Ích với lời minh thị của Đại sư Thiện Đạo là không hai không khác, cái thấy biết của bậc thánh nhân tuy ở thời khác nhau nhưng cũng rất trùng hợp, thật đáng để chúng ta chắp tay tuân phục.

Như trên có thể thấy Tịnh độ tông chiếm vị trí trung tâm trong toàn bộ giáo pháp của đức Phật, là giáo lý liễu nghĩa thâu tóm toàn bộ giáo nghĩa trong Đại tạng giáo, chỗ tu hành chứng quả của nó là chỗ hội quy của tam thừa Phật pháp.

Như Đại sư Ấn Quang nói: “Pháp môn Tịnh độ rộng lớn không gì ngoài nó, khắp lợi ba căn, thu nhiếp thượng căn hạ trí. Chúng sinh trong chín cõi bỏ pháp môn này thì không lấy gì để viên thành Phật đạo; Mười phương chư Phật lìa pháp môn này thì không lấy gì phả độ quần mê. Hết thảy pháp môn đều từ pháp giới đó lưu xuất hết hành hành môn đều trở về với pháp giới đó”.

Người ta nếu có thể thể nhận sâu sắc địa vị trung tâm của pháp môn Tịnh độ trong giáo pháp của chư Phật sẽ phát sinh tín niệm sâu sắc pháp môn niệm Phật cầu sinh Tịnh độ.

Thích Tiến Đạt