Niệm Phật 1 Tháng Được Phật A Di Đà Báo Trước Ngày Vãng Sanh

Niệm Phật 1 Tháng Được Phật A Di Đà Báo Trước Ngày Vãng SanhHôm nay ngày mồng 8 tháng 11 năm Tân mão (02 tháng 12/2011), kỷ niệm giáp năm ngày Phật tử Minh Thuận Vãng sanh. Được sự đồng ý của gia đình Phật tử Minh Thuận, tôi (lương y Phan Văn Sang) xin kể lại kỳ tích vãng sanh của Phật tử Minh Thuận.

Phật tử Pháp danh Minh Thuận tên là Diệc Trung Hòa (hình bên) sinh năm 1943. Cư ngụ tại 3381/54 Đường Phan Văn Trị Phường 11 Quận Bình Thạnh Thành phố Hồ Chí Minh.

Cũng như bao nhiêu người sống trên thế gian này, Phật tử Minh Thuận khi chưa quy y, một đời bôn ba cho cuộc sống cho gia đình, chưa nghe chưa tin gì về Tam Bảo, về Phật pháp. Đến lúc về già Phật tử mang trong người chứng bệnh tiểu đường, trải qua bao nhiêu năm chạy chữa nhưng cuối cùng rồi biến chứng qua Ung thư gan giai đọan cuối, không còn cách chữa trị, Bác sĩ cho về nhà an dưỡng để chờ ngày ra đi.

Bà con, bè bạn quen biết, mọi người đến thăm rất nhiều, duyên may có cô Phật Tử tên Kiều Loan là người trong Ban Hộ Niệm, do quan hệ nhau về tình Thầy trò, và cũng ở cùng một phường nên cô thường xuyên lui tới an ủi, thăm nom và tặng chú Minh Thuận chiếc máy niệm Phật, khuyên ông hãy niệm theo cho bớt cơn đau. Chú Minh Thuận rất vui mừng thích thú với máy niệm Phật đó. Thấy thế Cô Kiều Loan khuyến khích gia đình nên mời Ban Hộ Niệm hằng đêm đến để niệm Phật trợ duyên.

Được gia đình vui vẻ đồng ý, thế là nhóm Phật tử Gò Vấp, nhóm Phật tử Bình Thạnh chúng tôi kết hợp với Ban hộ niệm của Đại Đức Quang Hùng, sau những ngày lao động, mỗi chiều đến, cơm nước xong chúng tôi tập trung nhà Phật tử Minh Thuận hợp với gia đình cùng nhau niệm Phật.

Được sự khuyến khích của các Phật tử trong Ban Hộ Niệm , gia đình hoan hỉ thỉnh Chư Tăng về nhà, đến tận giường bệnh của chú mà quy y Tam Bảo, được Thầy Quang Hùng cho chú Pháp danh là Minh Thuận.

Thưa quý vị: Phật tử Minh Thuận tuổi cũng đã về già, bệnh lâu ngày, biết mình không qua khỏi, nhưng nhờ thiện tri thức mỗi ngày đến hộ niệm và khai thị, nên Phật tử Minh Thuận mới nhận thức được cuộc đời là vô thường có lão ắt có bệnh, có sanh ắt có tử, niềm tin về thế giới Cực Lạc A Di Đà mãnh liệt nên Phật tử Minh Thuận phát tâm quyết chí cầu sanh về Tây Phương Tịnh Độ chỉ trong thời gian 1 tháng mà đã cảm ứng đến Phật A Di Đà.

Buổi tối hôm nọ nhằm ngày thứ bảy trong tuần, nhóm Phật tử chúng tôi tập trung như thường lệ, khóa niệm Phật vừa xong, Phật tử Minh Thuận kêu chúng tôi lại nói cho cả nhóm và gia đình cùng nghe :

– Tôi vừa thấy đức Phật A Di Đà có hào quang sáng lắm, hiện ra bảo tôi rằng thứ hai tuần sau mồng 8 Phật sẽ đến rước tôi về với Tây phương!

Chúng tôi hỏi : – Chú thấy Phật ra sao?

Phật tử Minh Thuận chỉ tay về hình A Di Đà trên tường bảo: – Phật giống y như hình đây nè!

Chúng tôi cứ nghĩ là chú Minh Thuận chắc bệnh quá mê sảng nói vậy chứ chắc gì đúng, nhưng rồi lại nghĩ “À, mà cũng có thể lắm!” Bởi tâm của chú luôn hướng về Phật, gắng gượng cơn đau luôn chắp tay quyết tâm niệm Phật theo chúng tôi, cũng như lúc chú nằm một mình.

Phật tử Minh Thuận một đời cực nhọc bôn ba dong ruổi với kế sinh nhai cho bản thân và gia đình, chưa một ngày biết đến Tam Bảo, chưa nghe đến một câu kinh . Giờ đây cuối cuộc đời nằm một chỗ thật là hối tiếc, nhưng may thay gặp được thiện tri thức khuyên bảo mới biết Phật Pháp, mới tin đến Tam Bảo nhưng đâu còn thời gian nào nữa mà để được xem Pháp đọc Kinh ?

Thôi thì cứ 1 câu mà chúng tôi trao truyền cho chú học thuộc lòng, giờ đây chính Phật tử Minh Thuận đã thấy Phật nên niềm tin càng mãnh liệt hơn, chú cứ thế mà luôn chắp tay tự phát nguyện:

Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở Phương Tây thế giới an lành
Nay con là Phật tử Minh Thuận
Xin phát nguyện vãng sanh.
Cúi xin đức Từ Bi tiếp độ

Nam mô A Di Đà Phật… Nam mô A Di Đà Phật…Nam mô A Di Đà Phật

Chúng tôi những người Phật tử tu tại gia, chiều làm về cơm nước xong, hằng đêm vẫn luôn họp nhau đến nhà gặp chú Minh Thuận khai thị, diễn giải, khuyên nhủ, động viên, rồi cùng nhau vô dâng hương niêm Phật…

Cho đến ngày thứ hai đầu tuần (đúng vào ngày chú Minh Thuận đã nói trên) nhằm ngày mồng 8 tháng 11 năm Canh Dần âm lịch (2010) . Cũng buổi niệm Phật như thường lệ cho đến hơn 9 giờ tối, xong buổi công phu chúng tôi vây quanh giường bệnh của Phật tử Minh Thuận, thấy chú rất khỏe vui cười trò chuyện với chúng tôi hồi lâu, trước khi từ giã ai nấy đều cầu chúc sức khỏe và khuyên chú cứ tiếp tục niệm Phật, rồi chúng tôi lần lượt ra về hết.

Hai quận Bình Thạnh và Gò Vấp, nhà Phật tử Minh Thuận ở vùng giáp ranh nhau, nhóm Hộ Niệm chúng tôi mỗi người nhà ở cách nhà chú Minh Thuận người ở xa , cũng có người gần.

Vừa cho xe máy vào nhà, cũng đã quá 10 giờ đêm vừa đặt lưng xuống giường định nghỉ thì tôi nhận điện thoại từ nhà Phật tử Minh Thuận gọi qua:

– Anh Sang ơi! Chú Minh Thuận lấy hơi lên rồi !

– Trời đất! Thấy chú còn khỏe vừa mới nói chuyện với mình đây mà!

Tôi tức tốc vớ chiếc áo tràng, nổ máy xe chạy vội qua, thấy cả gia đình đang vây quanh chú đồng chắp tay niệm Phật vang nhà.

Miệng tôi cũng niệm theo, tay tôi lấy chiếc mền Quang Minh màu vàng đã chuẩn bị sẵn nửa tháng nay trên bàn Phật, đắp từ chân lên đến cổ chú cũng là lúc Phật tử Minh Thuận vừa trút hơi thở cuối cùng lúc 22 giờ 45 phút, đúng vào ngày thứ Hai đầu tuần, ngày mồng 8 tháng 11 âm lịch (năm 2010, đúng như Phật tử Minh Thuận đã nói với chúng tôi trước đó 1 tuần), Phật tử Minh Thuận hưởng thọ 67 tuổi.

Phật tử Minh Thuận ra đi trong tiếng niệm Phật của những người thân trong gia đình và các Phật tử gần nhà như là cô Phật tử Diệu Tâm, chú Phương và mấy cô Phật tử nữa mà tôi không nhớ hết tên.

Những Phật tử khác vừa ra về hay tin tức tốc quay lại tiếp tục và kết hợp cùng Ban Hộ niệm Đại Đức Quang Hùng thay nhau niệm Phật cho đến sáng hôm sau.

Theo quy tắc của pháp hộ niệm là tuyệt đối không đụng chạm đến thân người vừa lâm chung trong khoảng thời gian 8 tiếng. Gia đình Phật tử Minh Thuận cũng tuân quy tắc đó. Phật tử Minh Thuận vừa lâm chung miệng há lớn, mắt cũng còn mở, nhưng qua tiếng niệm Phật của Ban Hộ Niệm miệng và mắt của Phật tử đã dần dần tự khép lại.

Trải qua một đêm niệm Phật của đại chúng. Sáng hôm sau Đại đức Quang Hùng và các Phật tử kiểm tra thoại tướng thấy thân thể tay chân Phật tử Minh Thuận mềm mại, hơi ấm tụ lại trên đỉnh đầu.

Nam mô A di Đà Phật! Phật tử Diệc Trung Hòa, Pháp danh Minh Thuận đã vãng sanh về Tây phương cực lạc !

Nhưng Phật tử Minh Thuận chỉ mới biết tin và niệm Phật có được 1 tháng mà tại sao được Phật A Di Đà báo cho biết ngày vãng sanh ?

Trong Kinh PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ có câu : “ Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn. Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhơn chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực lạc quốc độ”

Nghĩa là : Này Xá-lợi-phất! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân nào nghe nói về Phật A-di-đà mà chấp trì niệm danh hiệu ngài , hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, nhẫn đến bảy ngày, nhất tâm không tán loạn. Người ấy đến lúc lâm chung, Đức Phật A-di-đà cùng các Thánh chúng hiện ra ở trước mặt. Khi người này mạng chung, tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Phật A-Di-Đà.

Có một chuyện kể rằng: Ngày xưa vào đời nhà Đường bên Trung Quốc có ông Trương Thiện Hòa một đời làm nghề đồ tể mổ thịt trâu bò làm kế sinh nhai, cuối đời đến lúc sắp chết thấy vô số trâu bò đến đòi mạng, trong lúc sợ hãi bèn nghĩ nhớ đến vị Tăng ở chùa có thể cứu mình, bèn gọi vợ lên chùa mời Tăng đến gấp, vị Tăng đến nơi bảo ông hãy an tâm niệm Phật A Di Đà, Trương Thiện Hòa nghe lời Tăng liền lớn tiếng niệm “Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật…”. Các hồn ma trâu bò dần biến hết , kế đến ông thấy Phật A Di Đà và thánh chúng hiện ra, Trương Thiện Hòa vui mừng la lớn lên “Phật đến rồi! Phật đến rồi! Rồi ông nhắm mắt vãng sanh trong tiếng niệm Phật của vị Tăng…

Vì sao một người đại ác như ông Trương Thiện Hòa mà cuối đời thức tỉnh với câu Phật hiệu A Di Đà mà được vãng sanh ?

Bỡi trong Kinh Vô Lượng Thọ, Phật A Di Đà có phát 48 lời đại nguyện , mà nguyện thứ 18 “ Nếu có chúng sinh nào trong giờ phút lấm chung tưởng nhớ đến danh hiệu ta xưng niệm từ 1 đến 10 niệm , nếu ta và các Thánh chúng không đến đưa tay tiếp dẫn người đó về tây Phương Cực Lạc, ta thề không nhận ngôi chánh giác !”

Trương Thiện Hòa một đời đồ tể giết bao nhiêu là trâu bò đáng lẽ phải đọa địa ngục, luân hồi đền mạng, nhưng nhờ vị Tăng khuyên bảo niệm Phật mà được “đới nghiệp vãng sanh” là vì lời đại nguyện thứ 18 của Phật A Di Đà.

Trở lại Chú Minh Thuận. Nhờ thiện tri thức, Phật tử Minh Thuận tuy cuối đời mới giác ngộ Phật Pháp, mà lại gặp đúng Pháp môn Tịnh Độ ( niệm Phật) là Pháp môn thù thắng, pháp môn tu tắt, nên Phật tử nhanh chóng vãng sanh về cõi Phật A Di Đà.

Trong Kinh A Di Đà, Phật dạy niệm Phật từ 1 ngày cho đến 7 ngày mà tâm bất loạn sẽ được vãng sanh về thế giới Tây phương cực lạc, còn như Phật tử Minh Thuận đây biết mình không qua khỏi, không còn cách nào khác hơn là chuyên tâm niệm Phật để cầu vãng sanh nên trong 1 tháng (thời gian hơn hẳn 7 ngày như trong Kinh Phật nói ), Phật tử Minh Thuận quyết một lòng trì niệm nên được vãng sanh là đúng như lời Phật dạy.

Kinh A Di Đà có đoạn Phật bảo “ Xá Lợi Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhơn duyên, đắc sanh bỉ quốc”. Nghĩa là “Xá Lợi Phất ơi, không thể lấy chút ít phước đức thiện căn mà được sanh về nước Phật đâu.”

Vậy thì Phật tử Minh Thuận mới chỉ có giác ngộ và niệm Phật trong 1 tháng thì có được Phước đức và thiện căn nào mà được vãng sanh nhanh chóng như vậy?

Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật Bổn sư Thích Ca chúng ta có dạy “Quán tưởng cảnh giới ở Tây phương cực lạc, với danh hiệu của Phật A Di Đà sẽ diệt trừ được trọng tội trong 80 ức kiếp sanh tử !”

Phật tử Minh Thuận chắc chắn nhờ có trồng chút duyên lành từ nhiều kiếp trước, để đến cuối đời mới được gặp được thiện tri thức nhắc nhở nên mới phát khởi niềm tin rồi tự lực niệm Phật phát nguyện cầu vãng sanh về cảnh giới Tây phương, chiêu cảm đến Phật A Di Đà và nhờ tha lực của Phật A Di Đà gia bị, nhờ tha lực của 10 phương chư Phật hộ niệm (như Kinh trong A Di Đà mà Bổn sư Thích Ca đã nói), kết hợp với tha lực niệm Phật của Ban Hộ Niệm mà Phật tử Minh Thuận được vãng sanh .

Cũng trong lúc đó, gia đình Phật tử Minh Thuận phát tâm in ấn tống trên trăm hình Phật A Di Đà gởi về miền quê hẻo lánh tặng cho các Phật tử vùng sâu vùng xa thỉnh về thờ phượng, chiêm ngưỡng, lễ bái. Kế nữa gia đình phóng sanh, cúng dường, bố thí…nên Phật tử Minh Thuận nhờ công đức nhân duyên đó mà vãng sanh về Tây phương cực lạc là điều tất nhiên rồi.

Sau khi Phật tử Minh Thuận vãng sanh, gia đình, bà con, và chòm xóm thấy được sự nhiệm mầu của câu Phật hiệu A Di Đà, mới tìm hiểu nhiều qua Kinh sách, băng giảng, mọi người bừng giác ngộ đúng nghĩa của PHẬT ĐẠO – TỪ BI – TRÍ TUỆ – GIẢI THOÁT.

Gia đình chú Minh Thuận mọi người giờ đây ngày lao động, tối về niệm Phật, đồng thời gia nhập theo Ban Trợ Niệm , bà con hàng xóm thì có người phát tâm về chùa tìm hiểu tu học.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Phật tử, Lương y PHAN VĂN SANG

Tịnh Độ Thực Hành Vấn Đáp

Tịnh Độ Thực Hành Vấn ĐápNam-Mô A-Di-Đà Phật. Vâng lệnh thầy Trụ trì và thầy Giáo thọ, Minh Tuệ tôi ra thất chia sẻ kinh nghiệm niệm Phật cho Phật tử chùa Tịnh Luật từ năm 2009. Sau hai năm làm Phật sự, tôi nhận thấy Phật tử nắm vững phương pháp hành trì, riêng bản thân tôi bị khựng lại. Do đó tôi ngỏ ý với Phật tử, sẽ vô thất trở lại. Phật tử nói: “Thầy vô thất, chúng con có khó khăn trở ngại đường tu, chúng con biết hỏi ai?”. Tôi trả lời không được. Dù rằng chùa Tịnh Luật còn lắm thầy giỏi hơn tôi nhiều, nhưng mỗi thầy có pháp tu riêng, không ai giống ai, nên có thể giải đáp không thỏa đáng chăng? Phật tử nói tiếp: “Vậy thầy giải đáp sẵn những khó khăn trở ngại, chướng nạn mà chúng con có thể gặp, để chúng con nương theo đó mà hành trì”. Đề nghị này rất có lý, mặc dù đối với khả năng hạn hẹp của tôi, thì đây không phải việc dễ làm. Trước tình thế không thể từ chối, tôi nói: “Vậy thì quý vị đặt những câu hỏi, tập trung lại đưa tôi trả lời”. Đây là lý do quyển “Tịnh Độ Thực Hành Vấn Đáp” ra đời.

Một lần nữa, hằng ngày tôi khấn cầu đức Từ phụ A-di-đà và chư Phật mười phương gia bị cho tôi giải đáp đúng nhƣ pháp. Được sự nhiệt thành cộng tác đắc lực của chư liên hữu đã nhập tâm, đạt Bất niệm tự niệm, cộng thêm sự khích lệ và giúp đỡ quý báu của quý Thầy, Sư Cô, quý liên hữu gần xa, tôi hoàn thành được quyển sách nhỏ bé này.

Chúng tôi ước mong quyển sách này được phổ biến rộng rãi, hy vọng những ai có duyên được đọc, áp dụng đúng lời giải đáp, chắc chắn sẽ thỏa chí nguyện là đạt Bất niệm tự niệm bảo đảm vãng sanh Cực Lạc, thành Phật độ chúng sanh.

Tôi vẫn biết: “Trực ngôn nghịch nhĩ”, “lời thật mích lòng”, nhưng với bổn phận, trách nhiệm, tư cách người hướng dẫn chuyên tu Tịnh nghiệp, bằng Bồ-đề tâm, vì đạo pháp, vì lợi ích chúng sanh, bắt buộc tôi phải nói thẳng, nói thật theo thiển ý của tôi. Vì bất đồng pháp tu, nên quyển sách này có thể có những điều không đúng ý của một số ít quí vị, tôi thành khẩn đê đầu chịu lỗi, ngưỡng mong chư liệt vị từ bi rộng lượng tha thứ. Thành kính tri ân chư liệt vị.

Tự thiết nghĩ đức trí hạ liệt, với kinh nghiệm nhỏ nhoi hạn hẹp, không sao tránh khỏi những lỗi lầm sai sót. Chúng con thành tâm kính đê đầu đảnh lễ, ngưỡng mong các bậc Tôn túc từ bi hoan hỉ chỉ dạy cho.

Chúng tôi cũng hết lòng cầu mong các liên hữu gần xa tự nguyện hoan hỉ góp ý xây dựng để tài liệu này ngày càng phong phú hơn, hầu thật sự đem lại nhiều lợi ích cho hành giả.

Việc làm này nếu có chút ít công đức, con nguyện hồi hướng cho tất cả chúng sanh trong mười phương pháp giới đồng phát khởi, trưởng dưỡng, thành tựu Tín, Nguyện, Trì danh để cùng con đồng vãng sanh Cực Lạc, thành Phật độ chúng sanh.

Nam-mô A-di-đà Phật

Mùa an cư năm 2011
Tu viện Tịnh Luật
Thích Minh Tuệ kính ghi

Download sách Tịnh Độ Thực Hành Vấn Đáp [Size: 1.59 MB]

Ðắc Nhất Tâm Thì Quyết Định Thành Tựu

Ðắc Nhất Tâm Thì Quyết Định Thành TựuÐắc Nhất Tâm nhất định thành tựu, vì chính là đắc đại định. Nhất định chẳng thể vừa tu liền thành ngay, phải tấn tu từng bước một, như châu gieo xuống nước, lần lượt chìm dần. Muốn thành công thì phải tu dần dần thì mới có thể viên dung. Hằng ngày ở nhà phải luyện Nhất Tâm thì đến đây mới hòng luyện được Nhất Tâm. Nếu không thì dù có nhập thất hơn ba trăm ngày tâm vẫn loạn, dự một kỳ Phật thất ngắn ngủi này làm sao đạt được Nhất Tâm? Ðấy chẳng phải là cầu may, may ra được Nhất Tâm hay sao? Hãy nên tự hỏi mình, đừng hỏi ai khác. đọc tiếp ➝

Quá Bận Rộn Không Có Thời Gian Niệm Phật

Quá Bận Rộn Không Có Thời Gian Niệm PhậtPhần nhiều người đời hay viện mấy lý do như quá bận rộn, không có thời gian để cự tuyệt pháp đại tiện nghi vạn kiếp khó được gặp gỡ này, thật đáng tiếc quá!

Có thật sự bận rộn hay chăng? Tôi chẳng thấy vậy. Niệm Phật thì đi, đứng, nằm, ngồi đều làm được; dù là sĩ, nông, công thương đều chẳng trở ngại gì. Nếu chẳng tin thì dưới đây tôi sẽ dẫn một bài ca ngắn để người đời đối với những sinh hoạt thường nhật có thể phân tích rõ ràng. Tôi tin rằng sau khi xem bài ca này xong, nhất định quý vị sẽ chẳng còn cười được nữa.

Bài ca chẳng nhàn

Biết ngài vốn chẳng bận,
Cứ cố nói chẳng nhàn,
Trong hai mươi bốn giờ,
Nằm ngủ mất tám giờ,
Ba bữa ăn ba tiếng
Lại uống trà, hút thuốc
Chải gỡ, đại tiểu tiện,
Phí mất khoảng một giờ,
Ði ra ngoài uống rượu
Về chuyện gẫu cùng vợ
Ít nhất vài ba giờ,
Lại e lòng bận bịu,
Thân mệt tính ngủ trưa,
Ngủ hai giờ chẳng đã,
Mất đi mười sáu giờ,
Uổng phí hơn quá nửa,
Trong tám giờ còn lại,
Chưa chắc đã bận thật.
Niệm Phật được nửa tiếng
Ðã kêu lâu lắm rồi
Hãy xem người xưa nay,
Mấy ai bảy mươi tuổi,
Ðừng đem khổ sanh tử,
Vất ra đằng sau ót,
Việc chân chánh của mình,
Vạn vạn lần khẩn cấp,
Xin hãy gấp tỉnh ngộ,
Mau trồng chín phẩm sen.

* Phụ Lục:

Yếu quyết niệm Phật: Trong lúc niệm Phật, hết thảy mọi sự trong tâm đều buông xuống hết, đừng nghĩ tưởng loạn xạ, chỉ còn quan tâm đến sáu chữ hồng danh từ tâm mình phát khởi, từ miệng mình vang ra, lọt vào chính tai mình, in sâu vào tâm. Phải tưởng cho rõ, niệm cho rõ, nghe cho rõ. Có như vậy thì mới cảm ứng được.

Giải Đáp Nghi Vấn

1) Có người nói: Chúng tôi là công chức, giáo chức, ở cư xá công cộng thì cúng Phật, lễ Phật, đương nhiên là bất tiện, niệm Phật cũng làm phiền người khác bất an, tôi chẳng biết làm sao?

Ðáp: Chốn công cộng đúng thật là có nhiều nỗi bất tiện, nhưng việc gì cũng có cách để dung thông cả. Nếu như đã biết niệm Phật là đại sự thì cứ thành tâm thầm niệm, ắt có hiệu quả lớn. Bởi lẽ tâm niệm còn càng khẩn mật hơn miệng niệm, bất tất phải cúng Phật, lễ Phật ra tiếng.

2) Có người nói: Niệm Phật tuy tốt, nhưng phải đến chùa, miếu, liên xã hay trai đường, tôi không có thời gian.

Ðáp: Không nhất định phải đến những nơi đó, không có thời gian đi ra ngoài, nhưng chẳng lẽ ở nhà không có thời gian nào rảnh sao? Cứ ở nhà niệm Phật nào có trở ngại chi.

3) Có người nói: Niệm Phật là việc của kẻ có tiền, tôi không có tiền bạc dư dả!

Ðáp: Thế là lại càng lầm hơn nữa! Niệm Phật chẳng tốn tiền mấy. Ba cây nhang đáng giá là bao? Dù chẳng đốt lấy một cây nhang cũng chẳng quan hệ gì. Chỉ cốt sao trong tâm cung kính là đủ.

4) Có người nói: Niệm Phật là phải ăn chay, tôi không làm được, cho nên tôi không thể niệm Phật?

Ðáp: Tạm thời bất tất phải ăn chay, chỉ nên kiêng sát sanh thì cũng có công đức lớn. Có thể tập ăn ba thứ tịnh nhục, tức là: không vì mình mà giết, chẳng thấy con vật bị giết, chẳng nghe nó bị giết. Cá, thịt ngoài chợ làm sẵn rất nhiều, đủ để cho quý vị ăn rồi.

Ba điều lợi ích lớn của việc niệm Phật:

1) Một câu Phật hiệu tiêu diệt trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử (thuộc về quá khứ)

2) Một câu Phật hiệu tiêu diệt phiền não của nhân sanh, tiêu tai, diên thọ, hưởng phước huệ (thuộc về hiện tại)

3) Một câu Phật hiệu khiến ta thoát khỏi lục đạo luân hồi, vãng sanh thế giới Cực Lạc, vĩnh viễn trường sanh bất diệt (thuộc về tương lai)

Phương Pháp Niệm Phật

Hỏi: Niệm Phật không chỉ là dùng miệng niệm mà phải chú tâm đúng không?

Ðáp: Có nhiều người miệng tuy niệm Phật nhưng chẳng để tâm vào đó, trong lòng toàn là suy xằng nghĩ loạn. Niệm như vậy cũng vô dụng. Miệng niệm Phật thì tâm phải tưởng Phật, tâm khẩu nhất như. Ngoại trừ một câu niệm Phật ra không còn nghĩ đến gì khác nữa, không còn có ý niệm nào khác khởi lên. Có vậy mới gọi là “Nhất Tâm Bất Loạn’, từ đó mới dễ thành công.

Hỏi: Như vậy chẳng phải là khó lắm ư?

Ðáp: Xem kìa! Một mặt quý vị chê niệm Phật quá dễ dàng, một mặt lại sợ nó quá khó. Thật sự ra, một pháp Niệm Phật đây, bảo là dễ thì nó cực dễ, bảo là khó thì nó cũng cực khó. Chẳng qua là chẳng cần biết là khó hay dễ, chỉ đáng kể mình có thể bền lòng niệm được nhiều hay không. Lâu ngày chầy tháng, tự nhiên tâm chẳng loạn nữa. Lời tục thường nói: “Trên đời không có việc gì khó, chỉ sợ tâm chẳng chuyên”, chính là ý này.

Lại có một cách niệm Phật như sau: mỗi lúc niệm Phật, mỗi chữ phải phát xuất từ trong tâm. Trong tâm tưởng thật rõ ràng, miệng niệm cho thật rõ ràng, tai nghe thật rõ ràng. Mỗi một chữ phát xuất từ trong tâm, thấu qua tai lọt vào tâm, một chữ cũng chẳng để lọt mất. Tu tập lâu dài như vậy, tâm tự nhiên chẳng còn tán loạn. Ðấy chính là một phương pháp khẩn yếu bậc nhất, ngàn vạn phần chớ quên.

Hỏi: Nên niệm Phật vào lúc nào?

Ðáp: Nên niệm Phật vào hai thời sáng tối, lập một công khóa nhất định, hạn định số câu niệm Phật nhiều ít: hoặc là mấy trăm câu, mấy ngàn câu, tùy theo hoàn cảnh mỗi người mà định số. Chẳng cần biết là rảnh hay bận, không niệm đủ số đó không được. Còn ngoài ra thì chẳng cần biết là lúc nào, đang ở chỗ nào đều niệm được cả. Càng niệm nhiều càng tốt. Thời gian niệm càng lâu càng hay.

Hỏi: Vừa làm việc vừa niệm Phật được không?

Ðáp: Lúc đang vác củi, gánh nước cũng niệm Phật được. Lúc đang cọ nồi, rửa chén cũng niệm Phật được. Lúc cày bừa, cuốc xới, cắt cứa cũng niệm Phật được. Chẳng luận là đi, ngồi, ngủ nghê, thậm chí lúc đang đại tiểu tiện cũng đều có thể niệm Phật. Nói chung, trừ lúc phải dùng trí óc làm việc, ngoài ra thì dù đang làm gì cũng chẳng trở ngại việc niệm Phật cả.

Hỏi: Nên niệm Phật lớn tiếng hay là niệm nhỏ tiếng?

Ðáp: Niệm lớn tiếng cũng tốt, niệm nhỏ tiếng cũng hay. Miệng không niệm nhưng tâm thầm niệm cũng tốt. Chỉ trừ lúc đang nằm trên giường hay đang ở chỗ không sạch sẽ thì nên thầm niệm trong tâm, chẳng được niệm ra tiếng. Niệm ra tiếng là không cung kính. Nhưng lúc gặp chuyện nguy cấp, chẳng cần biết là đang ở chỗ nào, cứ việc niệm ra tiếng.

Hỏi: Học Phật thì nên thờ hình Phật nào?

Ðáp: Thờ một mình đức A Di Ðà Phật hoặc tượng Tây Phương Tam Thánh đều được (A Di Ðà Phật và hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí gọi là Tây Phương Tam Thánh).

Hỏi: Nên thờ tượng Phật ở chỗ nào?

Ðáp: Nếu có phòng trống, dành riêng một phòng thờ Phật là tốt nhất. Nếu không có, thờ Phật ngay trong phòng mình ở cũng được. Nói chung là phải chọn nơi sạch sẽ. Trước tượng treo màn vải vàng, lúc không niệm Phật, buông màn xuống. Làm vậy để khỏi đến nỗi khinh nhờn. Tốt nhất là để tượng Phật hướng mặt về Ðông, người niệm Phật đối trước tượng Phật, hướng mặt về Tây. Nếu chẳng thể làm vậy được thì thờ tượng ở phương nào thuận tiện cũng được.

Hỏi: Nếu không có chỗ nào thuận tiện, không thờ Phật có được không?

Ðáp: Nếu thực sự không có chỗ nào thuận tiện, miễn sao tâm thành thì không thờ tượng Phật cũng được. Lúc niệm Phật hướng về Tây là ổn.

Hỏi: Nên dùng những thứ gì để cúng dường Phật?

Ðáp: Thông thường dùng hương, hoa, đèn, nước trong, trái cây v.v… Nếu không lo liệu được, thiếu một vài thứ hoặc không có thứ gì hết cũng xong. Nhưng tuyệt đối chẳng được cúng rượu hoặc đồ mặn cũng như đốt giấy tiền, vàng mã trước Phật.

Hỏi: Nên hành lễ trước Phật như thế nào?

Ðáp: Tùy ý. Hoặc là dập đầu lạy, hoặc là vái, hoặc khom mình, hoặc chắp tay; nhưng dập đầu lễ bái là cung kính nhất, có thể tiêu tội, tăng phước.

Hỏi: Lúc niệm Phật có nên quỳ trước mặt Phật không?

Ðáp: Chẳng nhất định. Quỳ niệm, đứng niệm, vừa đi vừa niệm đều được. Cốt yếu là phải thành tâm. Quỳ niệm rất tốt mà ngồi niệm cũng hay.

Hỏi: Cụ nói hai thời niệm Phật sáng tối, phải lập một khóa trình, phiền cụ lập cho tôi một khóa trình có phải là hay hơn không?

Ðáp: Khóa trình vốn là dựa theo thời gian, sức lực của chính mỗi người mà quy định. Ngài đã cầu tôi thì tốt nhất là tôi soạn ra một nghi thức thật đơn giản cho ngài vậy.

Nếu như ngài có sức thì có thể hành trì thêm nhiều hơn, có thể thêm vào kinh Di Ðà, chú Vãng Sanh, kệ Tán Phật, văn Ðại Phát Nguyện. Những bài kinh ấy trong sách Thiền Môn Nhật Tụng có chép đủ cả, những chỗ lưu thông kinh Phật đều có. Khóa sáng thì lúc vừa ngủ dậy, khóa tối thì trước khi đi ngủ, rửa tay, súc miệng, đến trước tượng Phật, thắp nhang, dâng nước, chắp tay cung kính, rồi quỳ hoặc đứng, hoặc ngồi xếp bằng, dùng tâm chí thành niệm theo thứ tự sau:

– Nam mô thập phương Thường Trụ Tam Bảo
(niệm một lần, lễ một lạy).

– Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(niệm một lần, lễ một lạy).

– Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Ðà Phật
(niệm một lần, lễ một lạy).

– Nam mô A Ðà Phật
(trăm câu, ngàn câu, hai, ba ngàn câu, càng nhiều càng hay. Tùy mỗi người rảnh hay bận mà định số, nhưng phải từ ít tăng lên nhiều, chẳng được từ nhiều giảm ít đi. Vô luận niệm nhiều hay ít, chẳng cần phải lạy).

– Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
(niệm một tiếng, lễ một lạy, hoặc niệm ba lần, lễ ba lạy).

– Nam mô Ðại Thế Chí Bồ Tát
(niệm một tiếng, lễ một lạy, hoặc niệm ba lần, lễ ba lạy).

– Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát
(niệm một tiếng, lễ một lạy, hoặc niệm ba lần, lễ ba lạy).

Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm Phật Tịnh Ðộ.
Trên đền bốn ân nặng.
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe.
Ðều phát lòng Bồ Ðề,
Hết một báo thân này,
Cùng sanh cõi Cực Lạc.
(lễ ba lạy)

Hỏi: Khóa trình này rất hay, xin giảng thêm về chữ “thập phương Tam Bảo”.

Ðáp: Tám phương, phương trên và phương dưới gọi là mười phương. Phật, Pháp, Tăng là Tam Bảo. Phật là Giáo Chủ. Pháp là kinh điển để tu nhân chứng quả do Ðức Phật giảng. Tăng là những pháp tử chiếu theo lời Phật dạy tu hành, đã chứng thánh quả Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, và các cao tăng đạo cao, đức trọng, hoằng pháp lợi sanh.

Phật, Pháp, Tăng đều gọi là Bảo (quý báu) vì có thể phát sanh, tăng trưởng pháp thân, huệ mạng của hết thảy chúng sanh, giống như của báu trong thế gian có khả năng nuôi sống thân mạng của con người. Phải hiểu rằng khi niệm Tam Bảo chính là biểu thị mình hoàn toàn lấy Phật, kinh điển Phật nói và các vị Bồ Tát, cao tăng tu hành đúng theo lời Phật làm thầy của mình. Mình từ những vị đó quy hướng trở thành tín đồ Phật giáo.

Hỏi: Xin hỏi vì sao phải niệm Phật Thích Ca?

Ðáp: Là vì pháp môn Niệm Phật do chính Ngài dạy cho chúng ta. Niệm Phật lạy Ngài chính là chẳng dám quên bỏ nguồn gốc vậy.

Hỏi: Tại sao lại còn phải niệm Quán Thế Âm và Ðại Thế Chí Bồ Tát?

Ðáp: Vì người niệm Phật lúc lâm chung, hai vị Bồ Tát này cùng với đức A Di Ðà Phật đồng thời đến tiếp dẫn về Tây Phương. Vì thế niệm Phật xong phải niệm danh hiệu và lễ bái hai vị Bồ Tát này.

Hỏi: Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát là những vị Bồ Tát nào?

Ðáp: Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát là tất cả những vị Bồ Tát trong thế giới Cực Lạc đều rất thanh tịnh. Ba chữ Ðại Hải Chúng ngụ ý các vị Bồ Tát ấy nhiều như nước biển. Sớm muộn gì ta cũng sẽ làm bầu bạn với các vị Bồ Tát ấy, vì thế cần phải niệm niệm lễ bái họ.

Hỏi: Kệ Hồi Hướng có tác dụng gì?

Ðáp: Công dụng của bài kệ Hồi Hướng rất lớn. Người tu hành bất luận là niệm Phật, hay niệm kinh, niệm xong, nhất định phải niệm kệ Hồi Hướng một lượt. Hồi Hướng có nghĩa là gom về, tức là một phương pháp đem công đức niệm Phật, niệm kinh gom về một nơi. Gom về nơi nào? Gom về việc cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới!

Chẳng riêng gì niệm Phật, niệm kinh mới hồi hướng về Cực Lạc thế giới, mà bất luận làm việc lành nào cũng đều phải hồi hướng về Cực Lạc thế giới. Càng tích thêm được một phần công đức thì hy vọng được vãng sanh càng tăng thêm một phần. Nếu làm công đức nhưng chẳng hồi hướng cầu sanh về Cực Lạc thế giới thì chỉ sợ đời sau chỉ được hưởng báo ứng trong cõi trời, cõi người, vẫn cứ luân hồi trong lục đạo, chẳng được giải thoát. Phước báo càng lớn, càng dễ tạo tội, nên kiếp kế tiếp đó càng đáng sợ hơn.

Vì thế, người học Phật phải nên đem hết thảy công đức hồi hướng vãng sanh Tây Phương thì lúc lâm chung mới có hy vọng được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nhưng niệm bài kệ Hồi Hướng cũng giống như niệm Phật, phải từng chữ, từng câu phát xuất từ nội tâm, chẳng thể niệm xuông nơi cửa miệng được.

Hỏi: Xin cụ giảng qua ý nghĩa từng câu trong bài kệ Hồi Hướng.

Ðáp: Câu thứ nhất và câu thứ hai nghĩa là ta đem công đức niệm Phật hỗ trợ cõi Tịnh Ðộ của Ðức Phật A Di Ðà khiến cho nó càng thêm tốt đẹp phi thường. Câu thứ ba nghĩa là lại đem công đức ấy trên là báo đáp bốn tầng ân đức: cha, mẹ, sư trưởng và đức Phật. Câu thứ bốn nghĩa là dưới thì dùng công đức cứu vớt những chúng sanh khổ não trong ba đường ác: súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ. Câu thứ năm và thứ sáu nghĩa là nếu có ai thấy, nghe người đang niệm Phật, niệm kinh sẽ đều phát khởi tấm lòng trên cầu Phật Quả, dưới độ chúng sanh. Câu thứ bảy và thứ tám nghĩa là sau khi cái thân báo ứng này đã hoàn toàn chấm dứt thì mọi người sẽ cùng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Giải thích theo từng câu văn thì ý nghĩa của bài kệ Hồi Hướng là như vậy.

Nói chung, tám câu kệ này lại có hai tầng ý nghĩa lớn.

Tầng thứ nhất là: Chúng ta niệm Phật là để cầu sanh về Tây Phương, chứ chẳng phải vì cầu công danh, phú quý hay hết thảy những điều tốt đẹp của thế gian.

Tầng thứ hai là: Chúng ta niệm Phật là để cứu độ hết thảy chúng sanh thoát ly khổ hải, chứ chẳng phải vì riêng bản thân mình. Ðã hiểu rõ tầng ý nghĩa thứ hai này rồi thì bất luận là niệm Phật, niệm kinh hay làm bất cứ điều lành gì đều luôn giữ tấm lòng như thế, hồi hướng như thế. Có như vậy mới là người học Phật phát Bồ Ðề tâm chân chánh.

Hỏi: Khóa trình cụ vừa lập ở trên cố nhiên rất đơn giản, nhưng có người quá đỗi bận rộn, không lúc nào rảnh thì làm sao thực hiện được?

Ðáp: Vẫn có biện pháp. Chẳng luận là đang ở đâu hay bất cứ lúc nào (niệm vào lúc sáng sớm tốt nhất), hướng mặt về Tây, lễ ba lạy, liền niệm sáu chữ “Nam mô A Di Ðà Phật” cho đến hết một hơi. Hơi dài thì niệm một hơi mươi câu càng hay. Hơi ngắn thì một hơi niệm vài câu cũng được. Tổng cộng niệm đủ mười hơi. Rồi niệm kệ Hồi Hướng. Niệm xong, hướng về Tây lạy ba lạy là xong. Ðây gọi là pháp Thập Niệm. Người rất bận mỗi ngày thành tâm chiếu theo phương pháp này mà niệm thì tương lai cũng có thể được sanh về Tây phương Cực Lạc thế giới, là vì Ðức Phật A Di Ðà đã từng phát nguyện nên tự nhiên được vãng sanh không sai!

Trích TUYẾT HƯ LÃO NHÂN TỊNH ÐỘ TUYỂN TẬP
(Tuyển tập những bài viết về Tịnh Ðộ của lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam)
Trích dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Niệm Phật 1 Năm Biết Trước Ngày Giờ Vãng Sanh

Niệm Phật 1 Năm Biết Trước Ngày Giờ Vãng SanhCha má kính,

Trong thư này con sẽ nói với cha má một chuyện sắp sửa xảy ra ở đây. Hay vô cùng! Chuyện một người cho biết sắp được vãng sanh. Chuyện này ở các nơi thì cho là lạ lùng, còn ở đây với pháp tu tối thắng vi diệu, hễ người nào chí thành tu hành đều được vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc với Phật A-di-đà cả. Quý hóa quá đi mà mãi đến nay, qua bao nhiêu thư của con cha cũng mới có mở một lời khen nhẹ thôi chứ chính cha má chưa hạ quyết tâm tu hành. Thật uổng quá. “Triêu tồn tịch vong sát na dị thế” mà chờ sao được? Đã có đường cho mình giải thoát mà không chịu đi, cứ ngồi đây lý luận, nghi ngờ thì ai có thể cứu mình đây? Vô thường tấn tốc, ngưỡng mong cha má quyết chí thành tâm đồng niệm Phật.

Con kể cho cha má nghe, chuyện là ngày hôm nay ở Tịnh-tông-Học-Hội (tức hội niệm Phật) tại Brisbane đang dọn dẹp để đón Hòa Thượng Tịnh Không từ Singapore qua vào ngày thứ Bảy 25/11 và cũng chuẩn bị cho ba tuần lễ kiết thất niệm Phật bắt đầu từ 26/11. Ngọc qua chùa để dọn, con thì ở nhà lo chuyện giảng ký, khi về nàng nói với con là bà Bảy sắp sửa vãng sanh. Chuyện này chắc cha má nghe giống như chuyện phim ảnh, nhưng ở đây người ta coi là chuyện thường. Riêng con, hồi giờ thường nghe nói vãng sanh qua sách vở, tin tức, hình ảnh… chứ thấy tận mắt thì rất là hiếm, vì lâu lắm mới có một người “chết” chứ đâu có hoài. Bà Bảy này thường gặp tụi con hàng tuần ở chỗ niệm Phật, nay bà báo cho biết rằng bà sắp sửa về với Phật. Con kể cho cha má nghe, nếu thiện căn có thì đây là cơ hội tăng thêm niềm tin tu hành. Hy hữu lắm mới thấy, nghe được chuyện này đó!

Bà này tuổi trên tám mươi, con không hỏi rõ, pháp danh là Tịnh Bửu, trước đây thỉnh thoảng có đi chùa lạy Phật. Khi cơ may đến bà gặp pháp môn niệm Phật, bà phát tâm tin tưởng, quyết chí niệm Phật. Lúc nào bà cũng cầm xâu chuỗi trong tay và niệm thầm A-di-đà Phật, bà cầu được vãng sanh về Tây-phương. Vì hồi trước buôn bán có nhiều lúc nói xạo, cho nên, bây giờ hầu như ngày nào bà cũng thành tâm sám hối tội lỗi của mình. Khi gặp tụi con bà thường than rằng: “ước gì Minh con của bà, gặp được các con, để con khuyên nó một tiếng cho nó niệm Phật”. Bà thường nói con là người thiện tri thức, vợ chồng đều tu hành, thật quý quá.

Hơn tám mươi tuổi mà bà rất tỉnh táo, ăn nói chững chạc, không lẫn gì cả. Khi đi nhiễu Phật, (tức là sắp hàng nhau đi vòng quanh bàn thờ Phật A-di-đà vừa đi vừa niệm “A-di-đà Phật, A-di-đà Phật…”) bà đi không nổi, bà chỉ đi chập chững, cho nên cứ lẽo đẽo theo rồi rơi lại phía sau. Khi hàng người tiến gần tới thì bà lại nép sát vào tường chờ họ đi qua rồi chập chững theo tiếp.

Trong niệm Phật đường thì ráng theo người ta niệm Phật. Khi ra khỏi đại điện thì bà cứ lâm râm niệm Phật liên tục, không bao giờ ngừng. Sáng nào, bà cũng quỳ trước Phật khấn nguyện vãng sanh. Chiều lại, bà quỳ lạy Phật và hồi hướng tất cả công đức về Tây-phương. Bà làm đúng như lời Hòa Thượng và quý thầy dạy. Ai nhìn bà cũng thương, và ai cũng tin tưởng bà sẽ được vãng sanh. Thời gian tu như vậy chỉ hơn một năm thôi, thế mà bây giờ bà đã cho mọi người hay cái tin sắp được về Tây-phương.

Bà nói vậy cách đây mấy tuần rồi mà con không hay, hôm nay, vợ con vào chùa dọn dẹp chung thì mới nghe người ta nói lại, và về cho con biết liền. Con vội vã viết thư cho cha má hay. Vài bữa nữa con hỏi tiếp rồi viết tiếp. Đây là chuyện khó lắm mới chính mắt chứng kiến. Có thể vài bữa nữa con chụp chung với bà vài tấm hình rồi gởi về cha má xem. Hơn nữa, khi bà thông báo ra đi thế nào con cũng tình nguyện tới hộ niệm cho bà. Hộ niệm cho một người vãng sanh công đức rất lớn.

Hộ niệm là gì? Là khi có người sắp ra đi, mình tới thành tâm niệm Phật, giữ chánh niệm cho họ để họ an nhiên theo Phật. Trường hợp của bà Bảy này đã được ứng mộng trước thì khá hay! Nếu người ra đi còn khoẻ thì họ ngồi, nếu yếu quá thì nằm, còn người hộ niệm thì đứng hoặc ngồi gần đó cứ việc niệm “A-di-đà Phật” liên tục hai mươi bốn trên hai mươi bốn giờ để giữ chánh niệm cho họ. Nếu ít người thì chia phiên nhau, mỗi lần hai người hoặc một người. Mỗi lần có thể một, hai, hoặc ba giờ tùy ý. Thay phiên nhau niệm hai mươi bốn giờ không được gián đoạn. Chuyện này nếu cha má muốn tìm hiểu con sẽ nói sau. Bây giờ trở lại chuyện bà Bảy đã.

Tin bà Bảy Tịnh Bửu sắp vãng sanh được bà cho biết cách đây mấy tuần rồi mà con không biết. Bà nằm mộng thấy Phật A-di-đà tới thọ ký bảo bà rằng, bà được Phật cho về Tây-phương và dặn bà tìm một tấm vải vàng. Phật đưa tấm vải vàng cho bà coi và bảo bà tìm cho được miếng vải đó để vãng sanh. Bà không biết miếng vải đó ở đâu, cho nên buồn, theo Ngọc nói, nhiều lúc bà muốn khóc mà không biết hỏi ai hết. Đến kỳ Phật thất, nghĩa là cách đây hơn một tuần, bà tâm sự với ông phó hội trưởng của Tịnh-tông-Học-Hội, ông ta chạy vô tủ lấy ra một tấm vải vàng đưa cho bà xem và hỏi có phải giống như vầy không? Bà coi xong thấy giống y như tấm vải của Phật A-di-đà đưa cho bà xem trong giấc chiêm bao. Bà mừng quá. Điều kiện của Phật đưa ra là có tấm vải vàng để được vãng sanh, bây giờ đã tìm được tấm vải, có lẽ bà được vãng sanh một ngày gần đây. Lòng phát nguyện của bà đã được thành tựu. Ông Phó hội trưởng, (người Trung-Hoa) khuyên bà, ngày vãng sanh nên vào chùa vãng sanh để có nhiều người hộ niệm, ở nhà lỡ con cái không biết, khóc kể tùm lum thì bị náo loạn có thể mất vãng sanh, uổng lắm. Bà đồng ý. Khi nào bà thông báo, thì chắc chắn con phải nghỉ làm một vài hôm để tham gia hộ niệm cho bà. Con sẽ thu thập tất cả tin tức kể cho cha má nghe sau. Nếu họ cho phép chụp hình con sẽ gởi hình về, nhưng thường thường lúc đó họ cấm vì sợ làm loạn tâm người đi. Nhưng nếu người vãng sanh vui vẻ, không ngại, hoặc yêu cầu thì họ quay phim, chụp hình, có người còn mời tới dự tiệc vãng sanh nữa là khác. Linh diệu vô cùng, tả không được bằng bút mực đâu!

Có một điều mà bà phải thu xếp từ đây cho đến ngày vãng sanh, chưa biết sớm hay muộn là cảnh tỉnh mấy người con cháu. Anh M. là con trai trưởng, sáu mươi lăm tuổi, đang là chủ một cửa tiệm. Bà khuyên anh niệm Phật mà anh không tin. Nhiều lần bà Bảy nhờ con khuyên giùm cho bà, nhưng con không gặp được. Chỉ đành nhờ vào thiện căn của chính cá nhân của anh mà thôi. Nếu giờ phút chót mà ảnh vẫn không tin, không cho bà tới chùa để người ta hộ niệm, giữ bà ở nhà và không đồng ý cho người tới hộ niệm, thì ai dám tự động vào được nhà ông ta? Lúc đó cũng đành tùy duyên mà thôi. Nhưng theo con nghĩ với lòng chân thành và quyết tâm của bà Bảy, bà sẽ cứng rắn ngăn cấm con cái để họ khỏi phá rầy ngày ra đi. Cầu xin cho bà được thuận buồn xuôi gió, ngày cuối đời tránh được những chướng ngại đáng tiếc. Trong mộng bà được bảo tìm miếng vải vàng là đã hàm ý khuyên bà nên dặn con cháu cho vào đạo tràng để vãng sanh, vì chỉ có chùa này mới có miếng vải này. Người đã được đức Phật A-di-đà ứng mộng điềm chỉ mà con cháu không tin trưởng thì cũng đành tùy duyên thôi! Cũng xin nói thêm là “Chùa” ở đây hơi khác với chùa theo kiểu bình thường, đây chỉ là một đạo tràng niệm Phật, Phật tử tự nguyện dựng nên để mọi người tới niệm Phật.

Thưa cha má, nhiều người tu hành trọn đời chưa chắc đã được tái sinh làm người. Ở đây, bà chỉ tu hành một thời gian ngắn mà được về Tây-phương với Phật thì còn có hồng phúc nào lớn hơn? Có phước báu gì so sánh được? Chuyện vãng sanh, nếu cha má có đọc thì trước giờ nhiều lắm chứ không phải ít. Hầu hết đều là người niệm Phật mà thôi. Người không biết tu, trải qua hàng triệu kiếp chưa chắc đã đủ cơ duyên tới “vùng biên địa” của Tây-phương Cực-lạc chứ đừng nói chi đến chính đức Phật hiện ra báo tin vãng sanh. Cái nguyện vọng của tất cả chúng sanh, những người học Phật đều cầu mong một ngày được về đến Thế-Giới Tây-phương Cực-lạc của Phật A-di-đà. Nhưng đâu phải dễ. Nếu chỉ cần sơ ý một chút, vụng dại một chút, sai một ly thì ân hận ngàn đời ngàn kiếp!

Pháp môn có nhiều, tu hành vạn nẻo, suy đi xét lại chỉ có “niệm Phật thành Phật” là con đường thẳng tắp khó thể bị lạc đường. Không cần người giỏi, dở, khôn, ngu, cao, hạ… gì cả, chỉ cần ai có thành tâm Tin Phật, phát nguyện cầu sanh Tây-phương Cực-lạc, và trì danh hiệu Phật mà niệm, gọi tắt là TÍN-HẠNH-NGUYỆN là được.

Có nhiều cách tu hành đang dẫn con người vào con đường vô cùng vô tận của luân hồi tử sanh mà họ không biết. Đây là sự thật nhưng mình không chịu tìm hiểu kỹ. Một khi đã lún vào trong đó, trí huệ đã bị che lấp, huệ mạng của mình đã bị trói chặt trong đó rồi khó mà gỡ ra lắm. Muốn ra được phải có cơ duyên, phải gặp được thiện tri thức thức tỉnh mình, phải có thiện căn phúc đức lớn từ trong nhiều đời nhiều kiếp, và chính mình phải dũng mãnh, sáng suốt nhìn thấy vấn đề thì may ra mới có thể cứu vãn. Cái khó là ở chỗ thuyết nào cũng nói thiện mỹ cả, nói toàn là tốt hết. Ví dụ, như làm lành, làm thiện sao lại không tốt, thành thử ai cũng nghĩ, tu thì làm lành là được, đừng làm ác là xong. Thực tế không phải đơn giản như vậy đâu cha má ạ.

Trong thư cha viết cho con có câu, “con cũng nên tạo cho được tâm Phật chân chánh để được hưởng phước lâu dài…”. Con hiểu thâm sâu vào câu nói đó. Người ta thường so sánh với bao nhiêu người có tiền bạc, con cái khá giả… cho nên họ cứ nghĩ tu hành để được bù đắp bằng những thứ đó. Nhưng thưa cha má, hưởng cái phước cũng tốt, nhưng tốt được bao lâu? Có người gia tài bạc tỷ mà khi ngộ đạo họ bỏ hết, thì tại sao lại có người lặn lội suốt đời chạy tìm tiền bạc, đến ngày gần đất xa trời vẫn một lòng nghĩ đến tạo sự nghiệp tiền tài là sao?

Thưa cha má, hãy nghĩ cho kỹ, làm lành thì tốt, nhưng làm lành để cầu hưởng cái phước hữu lậu thì lại triệu triệu kiếp không làm sao thoát khỏi sinh tử luân hồi, không bao giờ tới được cảnh giới Tây-phương Cực-lạc Thế-giới được. Người làm lành để cầu mong hưởng phước báu, thì tương lai không xa, khó tránh khỏi bị đọa lạc. Vì sao? Vì làm lành có một chút không bằng người ta làm ráng mà đã tìm cách thâu lợi rồi, thì lành đó là vì lòng tham chứ không phải lành đâu! Ở đó bon chen, ganh tị, đấu tranh, tham, sân, si… đầy dẫy. Cái nào nhiều hơn?

Làm được chút việc lành để mong hưởng phước, thì phước đó là phước hữu lậu của thế gian. Càng có nhiều phước của thế gian càng dễ làm ông chủ tịch, quan tòa, nhà giàu, thế lực… thì càng tạo nhiều nghiệp ác, thì càng dễ bị đọa vào những đường ác khó có ngày thoát ra. Người nghèo, vậy mà ít tạo nghiệp, ít ngạo mạn, ít sân giận, ít sát sanh. Họ nhiều nhẫn nhục, khiêm nhường, ít rượu thịt… cho nên ác nghiệp họ nhẹ, họ có nhiều hy vọng tốt ở đời sau. Còn người giàu có thì hách dịch, tự phụ, thì mỗi ngày ăn một con gà, vài bữa làm một con bò để ăn, vài ngày làm bữa tiệc nhậu nhẹt. Một bữa ăn của họ hại không biết bao nhiêu sanh mạng trong đó. Hỏi thử nghiệp sát, nghiệp tham, nghiệp sân… ác nghiệp của họ lớn biết chừng nào! Quả báo trả vay tơ hào không sót, làm sao họ thoát khỏi cho được luật trả vay của tạo hóa đây!?

Có lần con nói với cha má, tu hành chứ không phải làm thiện. Đây không có nghĩa là khuyến khích làm ác đâu. Mà con muốn nói:

1) Không làm điều gì ác;

2) Làm tất cả điều thiện, nhưng đừng cầu hưởng phước báu điều mình làm ra;

3) Thành tâm niệm Phật, hồi hướng công đức về Tây-phương Cực-lạc và mong cho mọi người hưởng cái công đức tu hành của mình.

Đó là đại khái ý nghĩa câu “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý”. Đó chính là tu Tịnh-nghiệp vậy.

Có những cái mình cho là thiện nhưng chưa chắc là thiện đâu. Con ví dụ thẳng trong dòng họ mình trước đây giàu có, ngày ông Cố chết, nghe nói gia đình làm đám ma dài hàng tháng, bò, heo, gà, vịt giết liên tục để đãi. Cả làng đều khen: “Ôi! Nhà giàu sang, danh tiếng, thế lực, tốt phước…”. Nhà mình là từ đường, hàng năm mấy mươi đám giỗ, mỗi đám giỗ giết heo, giết gà, giết vịt… đễ đãi bà con (chứ không thì khó coi!), lại còn đem thịt, cá để lên bàn thờ cúng ông bà nữa. Đây là ví dụ thôi, còn nhiều thứ nữa lắm. Cha má thử tự nghĩ coi, mình làm vậy đúng hay sai? Là thiện hay ác? Là hiếu hay bất hiếu?

Ông bà mình chết chưa kịp chôn cho yên mồ mả. Ngưu -Đầu, Mã-Diện đang còng cổ xuống âm ty xử phạt, làm con cháu không van cầu tha mạng cho ông bà, lại còn ra tay sát sanh để đãi đằng tạo thêm tội sát cho vong linh nữa! Trả hiếu sao lại cứ lợi dụng ngày giỗ, ngày ông bà, cha mẹ chết mà giết hại heo, gà, rượu thịt ê hề để “trước cúng sau nhậu” cho đã? Lợi dụng ngày chết của người thân để say sưa trả chuyện nghĩa nhơn, danh vọng cho chính mình? Tội nghiệp của ông bà đã chịu quá thảm thương nơi địa ngục, ngày đêm bị tra tấn, đang mong con cháu cầu siêu không ai làm. Ngược lại, mình chịu tội phạt mới lơi lơi một chút, ngáp ngáp một chút thì bị con cháu lại đè ra nhét thịt nhét máu vào miệng để kết thêm tội sát sanh! Ông bà vụng tu hành thì tự ông bà trả nợ đã đành, không ai cứu giúp được thì đành đi, đàng này chịu cực hình đủ cỡ để trả nợ, mới được một phần, đang tìm cách ngoi lên thì bị đàn con cháu nện một đạp chìm xuống địa ngục trở lại! Như vậy, mà thế gian vẫn cứ cho đó là hiếu! Báo hiếu gì kỳ vậy?

Thưa cha má, không biết cách tu, triệu triệu kiếp mãi mãi đọa lạc, hết địa ngục rồi tới ngã quỷ, hết ngã quỷ rồi sanh làm súc sanh, hết súc sanh rồi làm người. Làm người được rồi thì mê muội, điên đảo, mặc sức tạo ác nghiệp để lại rơi xuống hố trở lại!

Trở lại việc làm thiện, nếu muốn một đời này về được với Phật thì không được tạo ác nghiệp, không tu thiện-nghiệp mà phải tu Tịnh-nghiệp. Ta nên phân biệt rõ ràng giữa tịnh-nghiệp và thiện-nghiệp.

Tu thiện-nghiệp là sao? Là người thích làm lành để cầu mong phước báu. Làm được việc tốt nhỏ nào cũng ghi nhớ trong lòng và chấp vào đó là tốt. Họ thường cầu xin được tài lộc, được sức khỏe, được sự nghiệp… Rồi sau cùng, cầu xin đời sau sướng hơn đời này để hưởng. Cũng được đó! Nhưng trong nhà Phật gọi đây chính là cái duyên đọa lạc vô cùng vô tận. Vì sao? Vì càng hưởng lạc thì càng tạo ác, tạo ác thì chui vào tam ác đạo. Người chân tu họ trốn tránh cái phước báu này.

Tu Tịnh-nghiệp là sao? Là làm thiện mà nhất định không cầu hưởng phước hữu lậu thế gian. Hãy làm tất cả việc thiện nào mình có thể làm được nhưng đừng để ý tới là mình đã làm, mà tâm tâm luôn luôn hồi hướng công đức về Tây-phương Cực-lạc. Nhất thiết ngày ngày van cầu với Phật rằng, “đừng cho con hưởng chút phước báu nào của thế gian cả, con muốn gởi tất cả công tu hành về với Tây-phương Tịnh-độ và nguyện cho tất cả chúng sanh hưởng được cái phước báu của con làm ra”. Nhất là thành tâm niệm Phật cầu được sanh về Tây-phương. Đó là tu Tịnh-Nghiệp.

Trong lòng con thiết tha được cứu thoát cha má, con muốn độ cha má. Mỗi người trên thế gian này đều có định số cả. Tuổi thọ, tài sản, trí huệ, con cái, sự nghiệp, danh vị… tất cả đều định sẵn, có nhân duyên từ trước. Người tuổi thọ bốn mươi muốn thêm một năm nữa cũng khó được. Người tuổi thọ chín mươi muốn chết sớm cho khoẻ cũng khó chết. Chỉ có làm sao trong một báo thân này kết thúc sanh tử để về với Phật, thành Phật là viên mãn kiếp tu hành. Vấn đề này chỉ có tu đúng cách thì được, không tu đúng thì không bao giờ có phần giải thoát!

Trong thư cha lý luận rất hay, “…con nên biết tà chánh do tâm tạo ra cả…”. Lời nói này chính là lời của chư Phật Bồ-tát nói. Nhưng thường người ta nói thì hay nhưng thực hành thì lạc mất. Nói thì dễ quá, nhưng làm cho đúng thì khó lắm đó! Vì chánh là như thế nào? Tà là sao? Tâm chánh là tâm Phật, cho nên cứ nói đại Phật là tâm, cho nên tự cho mình là Phật. Có tội lắm đó! Không chịu tu thì biết ngày nào mới dám nói lời đó đây! Tâm chánh là tâm Phật. Ta có tâm chánh là Phật rồi?! Tâm chánh mà sao còn tham tiền, sao còn tham danh vọng, sao còn tham uống rượu, sao còn thích ăn thịt, sao còn tham thị phi, sao còn tham đắm thế gian? Đã gọi là tâm Phật, sao một tiếng Phật hiệu không dám niệm, mà lại thích niệm tiếng tăm, niệm được địa vị, niệm được giàu có…? Niệm là gì? Là muốn, là nghĩ, là tưởng, là nhớ. Tâm Phật, thì nghĩ tưởng nhớ Phật chứ! Niệm tham sân si của thế gian thì giỏi, còn niệm Phật lại ngại ngùng, tính tới tính lui, thì gọi là tâm Phật được sao!?

Thưa cha má, không phải con ám chỉ cha má đâu, nhưng nhiều người như vậy. Cha má vì quá dè dặt, cha má cứ sợ con theo tà ma nào đâu cho nên không dám tin lời con. Chứ, nếu để ý một chút cha má thấy ngay con đi thật đúng chánh pháp. Tới năm mươi tuổi đầu, lặn lội khắp nơi con mới tìm được chỗ vi diệu tu hành một đời thành Phật. Tất cả từ trước tới giờ, con chỉ khẩn thiết xin cha má phát tâm tin tưởng, chứ đừng nên tìm lời biện minh mà mất phần lợi lạc. Cái tâm phàm phu của chúng ta với những giáo nghĩa thế gian chưa đủ sức lý luận đâu.

Ở các hội niệm Phật, cứ mỗi lần mở Phật thất, chư Tăng Ni khắp nơi tựu về niệm Phật đông đảo, Phật tử tu đông đảo, lòng thành dâng lên tới chín tầng mây, tiếng niệm Phật vang đến khắp pháp giới, cảm ứng cả đến vũ trụ hư không, làm cho chư Phật mười phương đành xuống đây hộ niệm cho họ. Trong khi đó mình cứ nằm dài đây rượu thịt, mà còn lý luận tà với chánh, thiên cơ với địa cơ, lậu với bất khả lậu… để làm gì? Lỡ mai kia rơi vào điạ phủ rồi, thì muốn lậu ra cũng đâu có ra được để mà lậu! Con chỉ chờ cha má báo cho con biết rằng tin tưởng và hứa niệm Phật thì con có thể dùng phương pháp này cứu được cha má trong đời này, con có thể chỉ dẫn thẳng vào cách tu hành. Nghĩa là khi mãn phần thì cha má được về với Phật. Người nào mãn phần trước về Tây-phương trước, người mãn sau đi sau. Con có cách cứu. Còn bây giờ cứ lý luận mãi, loanh quanh những kiến thức thế gian thì không đi tới đâu cả! Thời gian không kịp nữa đâu.

Khi đã về tới Tây-phương Cực-lạc rồi, cha má có thể quán chiếu thập phương để biết bà nội, ông nội, ông cố… ở đâu và tìm cách cứu họ siêu thoát để làm tròn chữ hiếu. Má thì lo cứu bên ngoại. Chứ bây giờ, cha má cứ nói báo hiếu thì làm sao báo hiếu đây? Còn về con cái, cha má cứ việc trở về hiển linh ứng mộng, chỉ bảo tu hành, chắc chắn như vậy. Người nào cứng đầu không nghe, cha chỉ cần quất cho một cây thì họ giựt mình tỉnh dậy, thất kinh hồn vía, sợ toát mồ hôi hột, làm sao mà dám không vâng lời?! Chứ bây giờ chính cha cũng mờ mịt không biết sẽ đi đâu, thăng hay trầm, thì làm sao dạy ai cho được, báo hiếu làm sao đây?

Thư dài quá rồi, con xin ngừng, nguyện cầu cha má tỉnh ngộ sớm, ngày đêm niệm Phật. Khi nào phát tâm niệm thì cho con biết liền, con xin hướng dẫn cụ thể. Tất cả anh chị em, người nào có thiện căn niệm Phật hãy trực tiếp biên thư cho con. Chỉ cần một vài hàng là con cảm hiểu được ngay và giúp cụ thể liền. Vì nghiệp thì có cộng nghiệp, biệt nghiệp, tu cũng có cộng tu, biệt tu, nghĩa là tùy tâm mà khai thị vậy. Nghe nói chị Ba đã bắt đầu niệm Phật. Tốt! Nói chị viết thư cho con liền đi.

Khổ ải vô biên, hồi đầu thị ngạn. Xin đừng lý luận mà càng xa chánh giác. Cứ thành tâm sám hối tội lỗi, chí tâm niệm Phật cầu về Cực-lạc, thì thành Phật chỉ trong một đời này mà mình không hay. Vô thường tấn tốc, kính xin cha má xả bỏ thế tình, quyết chí thành tâm đồng niệm “Nam-mô A-di-đà Phật”.

A-di-đà Phật
Con kính thư.
Viết xong, Brisbane ngày 19/11/00

Trích Khuyên Người Niệm Phật
Diệu Âm cư sĩ (hình trên)