Con Cháu Trợ Niệm Cụ Hạnh Thảo Vãng Sanh Phật A Di Đà Phóng Quang Tiếp Dẫn

Con Cháu Trợ Niệm Cụ Hạnh Thảo Vãng Sanh Phật A Di Đà Phóng Quang Tiếp DẫnĐây là một trong các chuyện mà chúng tôi thích nhất, dù rằng người chết không phải là một Cao Tăng, không lưu lại Xá lợi quý báu. Bởi sao?

Vì cụ vừa mới quy y và niệm Phật trong một thời gian. Chuyện này khiến chúng tôi thích, vì động cơ được vãng sanh là con cháu trợ niệm mà thành tựu.

Có nghĩa là từ đây về sau, bất cứ ai thực hành giống như con cháu của cụ Hạnh Thảo, thì những vị ấy đều được vãng sanh. Chữ: “thực hành giống” mà chúng tôi nói là phải thực sự chí tâm, chí thành; phải tích cực trợ niệm không ngừng; phải tha thiết không lùi bước trước một trở lực nào, phải chịu đựng kiên gang không mệt mỏi.

Quay lại khúc phim

Cách đây gần 1 năm, một liên hữu gọi điện cho chúng tôi, nói:

– Bác Tịnh Hải, con là Ái Thu đây, nhờ đọc các sách của Bác, con và mẹ con áp dụng trợ niệm cho bà ngoại con. Bây giờ bà ngoại con đã được vãng sanh.

-Vậy hả? Mừng cho con. Nhưng làm cách nào con biết bà ngoại con đã được vãng sanh?

-Dạ có những hiện tượng đúng như sách nói.

Chúng tôi hỏi tiếp:

-Con đọc sách nào? Bài nào?

– Con đọc sách Những chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá Lợi, bài nói về trường hợp vãng sanh của Ký giả Trọng Viễn và sách Niệm Phật Cách Nào Vãng Sanh, bài của cô Diệu Liên ở Canada viết.

Bên kia đầu dây liên hữu Ái Thu nói:

-Con sẽ ghi hết tất cả sự việc cho bác, nếu bác thấy được thì bác đăng vào sách, để giúp cho bà con chúng ta.

Chúng tôi bảo:

– Điều nầy rất cần lắm. Nhưng con hãy kể cho bác nghe trước. Vì muốn cho mọi người tin, chúng ta cần có dữ liệu chính xác, đầy đủ bằng chứng. Vậy cháu hãy kể tỉ mỉ cho bác nghe.

Nghe xong chúng tôi liền bảo Ái Thu:

– Điều con nói bác tin được, nhưng con phải làm cho bác hai việc. Một, cậu con phải viết cho bác một cái thư để thấy rõ điều con nói hoàn toàn đúng. Hai,vị Sư Thầy của con ở Việt Nam cũng xác nhận sự việc xảy ra đúng như con nói. Ngoài ra, con gửi cho bác mọi hình ảnh cần thiết. Cháu Ái Thu thuận theo đòi hỏi của chúng tôi.Và hơn nữa năm sau, chúng tôi nhận đủ tài liệu.

Chẳng phải chúng tôi chẳng tin lời nói của cháu Ái Thu, chúng tôi tin tưởng mọi liên hữu cung cấp tài liệu cho chúng tôi. Quan điểm của chúng tôi, theo lời Phật dạy: “Tất cả các pháp đều do tâm tưởng”. Khi tâm ta tưởng điều gì, đó là Nghiệp. Nếu trước một vấn đề liên quan Phật pháp, người cung cấp cho chúng tôi đều bịa ra, giả dối,thì chính người đó đã tự tạo nghiệp địa ngục rồi.Chúng tôi không có tâm lừa gạt ai, chúng tôi đăng lại, chúng tôi chẳng có điều gì đáng trách bởi thành ý và thiện tâm của chúng tôi.

Cũng như khi chúng tôi viết sách, chúng tôi không hề có cái tâm đả phá ai hết hay tự khen mình. Nếu chúng tôi có ác tâm đả phá người khác, đó là chúng tôi đã tự tạo nghiệp.Vì khi chúng tôi khởi niệm là tạo nghiệp rồi. Nhiều người cứ tưởng mình cứ giải thích Phật pháp theo ý mình, thì mình vô tội. Nhưng không ngờ rằng mình vừa khởi lên ý nghĩ là đã phạm tội phỉ báng Phật pháp.

Trở lại chuyện kể của cháu Ái Thu.Chúng tôi biết cháu không có cái tâm khoe khoang, cháu muốn đem chuyện vãng sanh của bà ngoại cháu, khuyến tấn người khác thực hiện như mẹ cháu và cháu.

Tuy nhiên, với sự cẩn thận do thói quen, chúng tôi muốn cháu Ái Thu chân thành cúng dường cho tất cả các liên hữu về trường hợp vãng sanh của bà ngoại cháu. Bởi khi mọi người tin cháu, thực hành đúng như mẹ con cháu thì từ đây thế gian sẽ có vô số vị được thoát khỏi lục đạo luân hồi và vãng sanh Cực Lạc.

Tại sao chúng tôi khuyến khích
Trợ niệm lúc lâm chung?

Trước khi đi sâu vào chuyện kể của cháu Ái Thu, chúng tôi muốn nói với chư vị, tại sao từ hơn hai năm qua chúng tôi không ngừng kêu gọi sự trợ niệm lúc lâm chung. Chúng tôi là người tuyệt đối trung thành vào Kinh Phật và lời Phật dạy.

Người ta đọc Kinh, đọc phớt qua rồi thôi, còn chúng tôi đọc Kinh Phật, với cái tâm mổ xẻ từng câu, từng đoạn để tìm chứng nghiệm. Nếu điều Phật nói, đem ra thực hành có kết quả, thì theo, tán tụng và khuyến khích mọi người nên áp dụng.

Chúng ta đều hiểu, trong thời này con người làm các nhiều hơn thiện. Muốn thoát khỏi tam giới, không còn phải bị luân hồi lưu chuyển trong 6 đường, khó ai có thể làm nổi. Khi nghiên cứu Phật pháp, chúng tôi đọc nhiều Kinh sách Phật, một hôm đọc Kinh Quán Vô Lượng Thọ, chúng tôi thấy có câu:

“Hoặc có chúng sanh gây nghiệp bất thiện: Năm tội đại nghịch, mười điều ác độc. Kẻ ngu như thế, do nghiệp nên đáng đọa vào đường dữ, trải qua nhiều kiếp, chịu khổ vô cùng. Kẻ ngu si này lúc sắp lâm chung, may mắn được gặp bậc tri thức an ủi đủ điều, nói những phép mầu và dạy tưởng Phật, người nọ quằn quại tưởng niệm không nổi. Tri thức lại bảo : nếu người không thể tưởng niệm Phật kia, thì nên xưng danh Phật Vô Lượng Thọ. Người nọ hết lòng niệm chẳng dứt tiếng để đủ mười niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Lời Kinh quá rõ ràng, cho nên bất cứ ai thực hành đúng, thân nhân họ sẽ được lợi lạc. Không cần phải hiểu nhiều về Phật pháp.Và tiếp theo là lá thư của sư Giác Dõng mà chúng tôi yêu cầu cháu Ái Thu phải gởi cho chúng tôi.

THƯ CỦA TỲ KHEO THÍCH GIÁC DÕNG

“Trước hết tôi tự giới thiệu tôi là Tỳ Khưu Thích Giác Dõng, hiện trụ trì Tịnh Xá Phước An, thôn Vĩnh Phú, xã Cát Thắng, huyện Phú Cát, tỉnh Bình Định, Việt Nam.

Chú Tịnh Hải kính! Hôm trước cháu Thu có điện thoại về cho tôi biết là cháu Thu đã gặp chú ,để trao đổi và trình bày về câu chuyện cụ bà Huỳnh Thị Ngọc Sương, pháp danh Hạnh Thảo, trước và sau khi bà ra đi có những điều lạ khác thường, đó là nhờ công đức niệm Phật, nên chiêu cảm đến lòng từ bi, diệu hạnh, thần lực của Đức Phật A Di Đà. Những tướng trạng ấy tin rằng, quyết định bà cụ đã được vãng sanh Cực Lạc.

Hơn nữa, cháu Thu cũng cho biết, ý kiến của chú là cụ bà đã được vãng sanh, là nhờ nhiều duyên hiệp lại, trong đó đã có nhân duyên nên liên quan đến tôi.

Khi bà cụ hấp hối sắp ra đi, thì cháu Thu điện thoại về nhờ chư Tăng ở đây, hiệp tâm cầu nguyện cho bà .

Lúc ấy, các con, các cháu của tôi đứng chung quanh đồng thanh niệm Phật, và chư Tăng ở đây, lúc ấy cùng đồng tâm niệm Phật cho bà. Khi bà ra đi được Đức Phật A Di Đà hiện đến phòng hào quang sáng chói, màu vàng rực rỡ đến tiếp dẫn. Lúc ấy người ở trong phòng, ai ai cũng đếu thấy ánh hào quang sáng rực cả phòng. Bà cụ đã ra đi, sau đó là có những điều kỳ diệu nữa là mặt của bà, đối tượng giống như đàn ông, má lại hồng hào, khí sắc tươi nhận, rồi lại hai trái tai từ từ dài thêm ra. Lại có một điều đặc biệt nữa là, nóng trên đỉnh đầu, suốt 35 tiếng đồng hồ mà trên đỉnh đầu vẫn còn nóng .

Bà cụ Huỳnh Thị Ngọc Sương, khi ra đi và sau đó có những hiện tượng phi phàm, điều này phải ghi đậm để tán dương công đức của pháp môn niệm Phật. Vì bà cụ đã được vãng sanh, đã để lại những chứng tích, để lấy đó làm phương châm, để đi sâu vào niềm tin của công đức niệm Phật.

Chú Tịnh Hải kính, sau đó tôi góp ý với cháu Thu và gia đình nên tìm cách gặp chú Tịnh Hải để trao đổi và trình bày qua câu chuyện của bà cụ đã được vãng sanh cho chú Tịnh Hải nghe, để chú Tịnh Hải kết tập lại câu chuyện này cho lưu hành, phổ biến cho mọi người được biết.

Ở đây tôi nhận được cuốn niệm phật Vãng Sanh Xá Lợi của chú kết tập và Kinh Niệm Phật Ba La Mật sưu giải của chú. Khi tôi nhận được mấy cuốn này, tôi vô cùng hoan hỷ công đức của chú.

Tuy chú hiện tại là người Cư sĩ, còn nói về việc làm của chú đã góp vào một phần công đức rất lớn của hạnh hộ trì và hoằng dương chánh pháp. Việc làm của chú, chính đó là nhân hạnh Bồ Tát tương lai, lời nói của tôi như trên, không phải nói ra để cho được bụng của chú, mà nói đó đúng theo lời Phật dạy.”

Nhờ xưng danh Phật Pháp nên trong mỗi niệm trừ tội sanh tử tám mươi ức kiếp, khi vừa tắt hơi thấy hoa sen vàng như vừng mặt trời ở trước người ấy, trong phút chốc liền vãng sanh Thế Giới Cực Lạc.

Đây là phẩm thấp nhất gọi là Hạ Phẩm Hạ Sanh. Chúng tôi tin tưởng kinh Phật nói sẽ không bao giờ sai. Và chúng tôi áp dụng cho em trai chúng tôi khi đang hấp hối. Mặc dù em của tôi không phải là kẻ không tin Phật và làm ác. Nhưng chúng tôi lấy tiêu chuẩn thấp nhất để áp dụng và mong độ thoát cho em chúng tôi về Cực Lạc. Kết quả khiến chúng tôi lạc quan và tin tưởng mãnh liệt. Và trước mắt chúng tôi thấy rõ, ngoài việc chỉ rõ cho mọi người niệm Phật đúng cách,còn có cách thứ hai là tiếp trợ cho người lâm chung. Chỉ có hai cách này, mới thực sự độ được chúng sanh ở thời mạt pháp này.

Một năm sau, chúng tôi may mắn được nghe băng giảng của Hòa Thượng Tịnh Không. Cũng nghe thấy Ngài nói, Ngài tin theo Pháp môn Niệm Phật khi biết rằng một người chết sắp đọa địa ngục, Phật A Di Đà cũng khiến cho người ấy được thoát luân hồi.Hòa Thượng Tịnh Không đang gây phong trào tu niệm Phật khắp thế giới.

Tất cả người Việt Nam chúng tôi, xuất gia lẫn tại gia, đều thật sự thương chúng sanh đều nên tiếp tay phát động cao trào Niệm Phật, trừ những ai cố chấp với lòng dạ ích kỷ nhỏ nhen, những người này không xứng đáng là con của Phật.

Tại sao?

Theo lời Kinh vừa nói, nếu chúng sanh niệm Phật, mỗi một niềm trừ được 80 ức kiếp sanh tự trọng tội,tại sao lại ngăn cản? Đáng lý nên khuyên bảo, khuyến khích mọi chúng sanh đều nên niệm Phật, để khi họ chết khỏi luân hồi đau khổ mới là thương chúng sanh thật sự.

Như trường hợp cháu Ái Thu,cháu can đảm đem chuyện trợ niệm của mẹ con cháu nói ra để mọi người đều theo đó học lấy kinh nghiệm, hầu giúp đỡ thân nhân họ thoát khỏi luân hồi. Đó mới thật sự thương chúng sanh.

Vắn tắt kể mọi sự tình

Bà ngoại của Ái Thu tên là Nguyễn Thị Ngọc Sương, pháp danh hạnh Thảo,thọ 88 tuổi, mất ngày 13/10/2002.Cụ mới quy y Tam bảo cách nay 2 năm, sau khi một người con trai qua đời.

Má của Ái thu biết Phật pháp và tin vào pháp môn niệm Phật nên sau khi cụ Hạnh Thảo quy y thì được bà hướng dẫn niệm Phật. Gia đình Ái Thu thỉnh băng Hoa Nở Thấy Phật và Phật Thất của chùa Hoằng Pháp cho bà cụ xem. Xem xong cụ hạnh Thảo thích lắm và nói: “Tao chết cũng giống như bà cụ này vậy, tao không để bị hành xác đâu.”

Cụ Hạnh Thảo có xâu chuỗi và từ đó lần chuỗi niệm Phật ngày đêm. Đêm nào bị mất ngũ thì cụ niệm Phật nhiều hơn.

Một hôm cụ bị té bất tỉnh, gia đình phải đưa vào nhà thương,một mặt báo cho các con của cụ cùng biết.Trong thư Ái Thu viết: “Trong lúc ở nhà thương, má con lúc nào cũng nói kề bên tai ngoại,nhắc ngoại con nhớ Phật, nghĩ đến Phật và niệm Phật, Phật sẽ đến đón rước má về Tây Phương Cực Lạc”.

Chúng tôi hỏi:

-Gia đình có rước Thầy đến trợ niệm không?

– Dạ có, Chùa có phái một Thầy đến, nhưng viện lý do vào chủ nhật có lễ nên không ở lại, chỉ chỉ dẫn cho gia đình cách trợ niệm. vì vậy con phải điện thoại về Phù Cát – Việt Nam, cho Đại Đức Giác Dõng để xin hướng dẫn. Ngoại con tuy hôn mê, nhưng thần thức ngoại con vẫn còn nghe thấy. Nên con và má kiên trì trợ niệm cho ngoại. Lúc đó có cậu hai, dì và em con hiện diện, nhưng những người này không tin. Vào 4 giờ ngày 13-10, nhà thương quyết định rút ống dẫn khí. Má con kề sát tai ngoại nói: Má ráo riết niệm Phật không ngừng nghe má, y tá sẽ rút ống.

Má con vừa nói dứt lời, y tá rút máy, thì con thấy ánh sáng từ bên trên rọi xuống gương mặt của ngoại và bóng đèn neon bỗng rực sáng cả gian phòng. Lúc đó, ngoại con thở hắt ra đi một cách êm thắm. Con và má con tiếp tục niệm Phật. Rồi má con thấy hiện tượng lạ là: ngoại con thay đổi gương mặt biến dạng là gương mặt của người đàn ông. Còn con thì thấy bàn tay của ngoại con rất đẹp, da tay căng thẳng không nhăn nheo như lúc sống. Trái tay ngoại lớn thêm, vì lúc còn sống tướng ngoại rất tốt. Lúc đó cậu hai buộc miệng nói với má con: “Em và cháu niệm Phật quá thành tâm nên má mới được như vậy”.

Do lời nói này của Ái Thu, chúng tôi mới bảo:

– Cháu hãy nói cậu cháu và Đại Đức Giác Dõng viết cho bác mấy chữ, kể hết sự tình thì bác mới đăng được.

Đây là lá thư của cậu hai

Tôi tên Kh.T. ngụ tại thành phố Monterey Park, quận Los, miền Nam Cali, có vài lời trình bày sau đây.

Ngày 9 tháng 10 năm 2002, nghe tin má tôi tục danh Nguyễn Thị Ngọc Sương, pháp danh Hạnh Thảo bị bạo bệnh, té bất tỉnh, được đưa vào cấp cứu tại nhà thương “West Houston Medical Clinic”, tôi liền bay gấp qua Houston thăm má.

Tới nơi đến bện viện, gặp Má tôi nằm trên giường bệnh, vẫn hôn mê bất tỉnh. Liên tiếp mấy ngày sau, tôi đã tuần tự gặp mặt 4 vị bác sĩ chuyên môn về não, tim, phổi, ruột đang tận tâm cứu trị Má tôi, họ đều cho biết rằng Má tôi 88 tuổi đã cao niên, nên khi bị cơn xuyễn và đau tim (Asthma & Heart attack) cùng tấn công một lựot tại nhà, cấp cứu không kịp thời, dưỡng khí bị thiếu quá lậu, làm tổn hại qua mức những tế bào não bộ, nên không còn cứu tỉnh lại được.

Tôi liền triệu họp gia đình với các em tôi và đông đủ gia đình các cháu tôi ở Houston, để chuẩn bị tinh thần tất cả các con cháu hầu giúp tiễn đưa một cách trang nghiêm an lành, linh hồn má tôi lên miền Cực Lạc.

Trích 23 Chuyện Niệm Phật Vãng Sanh của cư sĩ Tịnh Hải

Thiền Sư Duy Tắc Trả Lời Hành Giả Tịnh Độ

Thiền Sư Duy Tắc Trả Lời Hành Giả Tịnh ĐộSư họ Đàm, hiệu Thiên Như, người Cát An, Giang Tây. Thuở nhỏ, Sư xuất gia với ngài Hòa Sơn, sau du phương đến núi Thiên Mục đắc pháp và kế thừa Thiền sư Trung Phong Minh Bản. Năm 1341, Sư trụ ở Sư Tử Lâm thuộc Tô Châu. Năm sau, môn nhân hợp sức dựng chùa Bồ Đề Chánh Tông, thỉnh Sư thuyết pháp, xiển dương tông phong Lâm Tế. Ngoài ra, Sư còn nghiên cứu tột cùng giáo nghĩa của ngài Vĩnh Minh, tông Thiên Thai, xiển dương Tịnh độ, soạn Tịnh độ Hoặc Vấn để trừ nghi và sách tấn hành giả tu tập. Sư được Thuận đế nhà Nguyên ban hiệu Phật Tâm Phổ Tế Văn Tuệ Đại Biện Thiền sư và y kim lan. Tác phẩm do Sư trứ tác gồm : Lăng Nghiêm Kinh Hội Giải 20 quyển, Lăng Nghiêm Kinh Viên Thông Sớ 10 quyển, Tịnh độ Hoặc Vấn, Thiền Tông Ngữ Lục, Thập Phương Giới Đồ Thuyết.

Sư thị tịch vào năm 1354, không rõ Tăng lạp bao nhiêu.

* * *

Một lần, hành giả Tịnh độ đến hỏi Sư :

Đại sư Vĩnh Minh nói : Có Thiền không Tịnh độ, mười hết chín lạc đường, không Thiền có Tịnh độ, vạn người tu vạn chứng, hình như Vĩnh Minh chủ trương Tịnh độ, ít đề cập đến các tông khác, e rằng có quá đề cao Tịnh độ, xem nhẹ Thiền tông chăng?

Thiền sư Duy Tắc đáp :

Câu hỏi này lớn thay ! Phải biết Vĩnh Minh không khen quá lời mà sự thật là như vậy. Tôi từng đọc qua các sách về Tịnh độ, biết rõ yếu chỉ của pháp môn này vốn dễ hành trì, dễ thể nhập, nhưng lại là pháp khó diễn nói, khó tin. Sở dĩ, Đức Thế Tôn lúc còn tại thế nói Kinh A Di Đà cho chúng đệ tử vì Ngài biết trước rằng trong thời mạt pháp có rất ít người tin và thú hướng tu tập. Bởi vậy, Phật dẫn chư Phật trong sáu phương dùng tướng lưỡi rộng dài, nói lời chân thật nhằm phát khởi lòng tin nơi họ, phá mối nghi cho họ. Trong đoạn cuối của bộ kinh, chư Phật ngợi khen, rồi Thế Tôn tự ngợi khen, rằng : “Ta ở trong đời ác ngũ trược làm việc khó làm, diễn nói pháp khó tin này cho tất cả thế gian, đó là việc vô cùng khó”. Phật dặn đi dặn lại như vậy cốt khuyên người tin và thú hướng. Hơn nữa, Đức Thế Tôn đại từ ban pháp trong mạt kiếp, một câu một kệ từ kim khẩu Phật nói ra, tất cả trời người đều tin nhận, vâng làm. Thế nhưng chỉ riêng pháp môn Tịnh độ này, chúng sanh vẫn còn nghi là tại sao vậy? Bởi vì giáo môn này vô

cùng rộng lớn, pháp tu này rất đơn giản, dễ dàng. Do nó rộng lớn nhưng lại đơn giản, dễ hành trì, cho nên chúng sanh không khỏi không nghi. Nó rộng lớn vì gồm thâu tất cả căn cơ. Trên thì Bồ-tát Bổ xứ trong quả vị Đẳng Giác cũng sanh Tịnh độ, dưới đến ngu phu ngu phụ, bọn vô tri tạo Ngũ nghịch, Thập ác, trong lúc lâm chung niệm Phật sám hối, quy tâm về Tịnh độ thì đều được vãng sanh. Nó đơn giản dễ hành trì vì không cần phải gian nan, lao khổ, lại không bị mê lầm, lạc nẻo. Chỉ cần niệm 4 chữ danh hiệu “A Di Đà Phật” này, nhờ đây mà ra khỏi Ta-bà, sanh về Cực Lạc, được Bất thoái chuyển, thẳng đến thành Phật mới thôi. Nó rộng lớn như thế, đơn giản dễ làm như thế, nên những lời tán thán của Vĩnh Minh tất có dụng ý chứ không phải quá lời.

Hỏi : Phật, Tổ xuất thế vì việc độ sanh, việc lớn đã tỏ thì phát nguyện độ sanh, nay người đạt ngộ lại cầu sanh Tịnh độ, không đoái hoài đến người khác, đó không phải là sở nguyện của tôi !

Sư đáp : Ông cho rằng một khi tỏ ngộ là sạch hẳn cấu uế, được Bất thoái chuyển chăng? Không còn học Phật pháp, tu hành chứng quả nữa chăng? Liền ngang bằng chư Phật, vào sanh vào tử không bị chướng duyên trở ngại nữa chăng? Như vậy thì chư đại Bồ-tát tu Lục độ vạn hạnh trải qua hằng sa kiếp phải hổ thẹn với ông rồi ! Người xưa nói : “Bồ-tát còn mê khi cách ấm, Thanh văn còn muội lúc ra thai”, huống gì kẻ hiểu sơ, ngộ cạn thì làm sao tự cứu mình nổi? Giả sử cảnh giới mà ông đạt ngộ sâu xa, sở kiến cao minh, hành giải tương ưng đi nữa, nhưng chưa lên ngôi Bất thoái, lục dụng chưa chu viên, ở trong đời ác trược giáo hóa những kẻ cang cường, đó là điều khó làm được. Bởi vậy con thuyền không chắc chắn, mà chở nhiều người qua biển dữ, mình và người chết chìm là điều tất nhiên. Cho nên Vãng Sanh Luận ghi : “Vãng sanh cõi kia, được Vô sanh nhẫn rồi, vào lại sanh tử, cứu độ chúng sanh. Vì nhân duyên ấy, nên cầu sanh Tịnh độ”. Những bậc tiên thánh cũng nói : “Chưa chứng đắc vị Bất thoái chuyển thì không thể trà trộn độ sanh, chưa được Vô sanh pháp nhẫn thì phải thường không lìa Phật, thí như đứa trẻ thường chẳng xa mẹ, lại như chim non chỉ có thể chuyền cành”. Trong quốc độ này, bốn đường ác khổ, nhân quả đẩy đưa, ngoại đạo tà ma, thị phi vây bủa. Sắc đẹp, tiếng hay thường mê hoặc; ác duyên, ô trược mãi tổn thương, hiện đời chẳng có Phật để nương, lại bị cảnh duyên ấy loạn động, thì người mới đạt ngộ làm sao tránh khỏi muôn duyên làm trở ngại ! Bởi vậy, Thế Tôn ân cần khuyên họ cầu về Tịnh độ, đương nhiên là đúng. Vì Phật Di-đà kia đang thuyết pháp, cảnh duyên Cực Lạc thảy thanh tịnh. Còn nữa, nương theo Phật ấy, nhẫn lực dễ thành, chứng quả vị cao, liền được thọ ký, rồi sau giáo hóa chúng sanh, đến đi vô ngại.Thế nên, dù bậc thượng căn thượng trí vẫn nguyện vãng sanh, huống ông là kẻ trung căn hạ trí mới tỏ ngộ Phật pháp ! Lẽ đâu ông không thấy trong Kinh Quán Phật Tam-muội, Văn-thù tự nêu túc duyên, đó là chứng Niệm Phật Tam-muội, sẽ sanh Tịnh độ. Thế Tôn thọ ký cho Ngài rằng : “Ông sẽ vãng sanh thế giới Cực Lạc đó ư?”. Ông lại không thấy trong Kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Phổ Hiền khuyên Thiện Tài Đồng tử, Hải hội đại chúng, dùng mười Đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc? Ông lại không thấy trong Kinh Lăng-già, Phật thọ ký cho Long Thọ bằng bài kệ : “Trong nước Nam Thiên Trúc, Tỳ-kheo đại danh đức, tên gọi là Long Thọ, hay phá tông Hữu Vô, đem pháp Đại thừa ta, soi sáng khắp thế gian, chứng Sơ Hoan Hỷ Địa, vãng sanh nước An Lạc chăng?” Ông lại không thấy trong Khởi Tín Luận, Bồ-tát Mã Minh phát nguyện cầu sanh; trong Vô Lượng Thọ Luận, Bồ-tát Thiên Thân cũng phát nguyện cầu sanh; trong Kinh Đại Bảo Tích, Thế Tôn ấn khả cho Tịnh Phạn Vương và 70.000 người trong dòng họ Thích vãng sanh Cực Lạc, trong Kinh Thập Lục Quán, Thế Tôn chỉ cho phu nhơn Vi Đề và 500 thị nữ cùng quán Di-đà. Hơn nữa, Tịnh Phạn, Vi Đề … đều là người hiện đời chứng đắc Vô sanh nhẫn, những người như họ ở Tây Trúc không thể nào kể hết. Đông Độ ta có Lô Sơn Viễn Công, các Tôn giả của các tông như Thiên Thai, Hiền Thủ, độ mình độ người, nào tăng nào tục vãng sanh Tịnh độ thật không kể xiết. Quốc vương Tịnh Phạn là cha của Phật, cả 70.000 người trong dòng họ Thích là quyến thuộc của Phật, nếu việc vãng sanh Tịnh độ không có lợi ích, thì Phật khuyên họ vãng sanh làm gì ! Những người chứng đắc Vô sanh nhẫn Phật mới cho phép độ sanh, còn như Tịnh Phạn và quyến thuộc đã được sức Nhẫn này rồi mà Phật vẫn còn thọ ký vãng sanh, như vậy việc Như Lai hộ trì, bảo dưỡng cho họ lẽ đâu không sâu xa chăng?

Phần đông Thiền giả thời nay không cứu xét liễu nghĩa sâu xa của Phật, chẳng biết cơ huyền của Đạt-ma, lòng không trí rỗng, sanh ra cuồng vọng. Thấy người tu Tịnh độ thì chê cười bảo rằng, cái học ấy dành cho kẻ ngu phu ngu phụ làm, quả thật là kẻ dốt nát. Tôi từng luận về sự nhầm lẫn này, rằng ngu phu ngu phụ như Văn-thù, Phổ Hiền, Long Thọ, Mã Minh … chẳng mê lầm chánh đạo, chẳng mất căn lành, chẳng tan thân mất tuệ, chẳng bại hoại Phật chủng. Những kẻ tạo nghiệp phỉ báng pháp, mạt sát chư Thánh hiền, Phật tổ thấy họ thật đáng xót thương. Bởi vậy, Hòa thượng Vĩnh Minh phơi bày tâm can, chủ trương Tịnh độ, mong họ tự cứu bản thân mình. Ngài chuyên tâm hành trì, giáo hóa kẻ khác, nên lúc lâm chung biết trước giờ mất, lại có muôn ngàn điềm lành ứng hiện, toàn thân thành xá-lợi. Đâu chỉ có ngài Vĩnh Minh, mà những Thiền sư như : Tử Tâm Ngộ Tân, Chơn Hiết Thanh Liễu, Thiên Y Nghĩa Hoài, Viên Chiếu Tông Bản, Từ Thọ Hoài Thâm, Nam Nhạc Tuệ Tư, Tịnh Từ Đại Thông, Thiên Thai Hoài Ngọc, Lương Đạo Trân, Đường Đạo Xước, Tỳ Lăng Pháp Chân, Cô Tô Thủ Nột, Bắc Giản Giản, Thiên Mục Lễ … đều là bậc tông tượng trong Thiền môn, mật tu hiển hóa, xiển dương yếu chỉ Tịnh độ, không hẹn mà gặp, nào đâu chỉ có ngần ấy vị.

Tôi từng nghe một vị Tôn túc nói : “Tông phái của 5 nhà, Thiền tăng trong thiên hạ, ngộ và chưa ngộ, không một người nào chẳng về Tịnh độ”. Tôi hỏi nguyên do, vị Tôn túc ấy đáp : “Như Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải là đệ tử chân truyền của Giang Tây Mã Tổ. Tòng lâm trong thiên hạ đều nương Ngài mà dựng lập, từ xưa đến nay không ai dám bàn cãi phải quấy. Thanh quy trong Thiền môn đều nương Ngài mà hành trì, từ trước đến nay không ai dám trái phép tắc ấy. Hãy xem trong Thanh Quy đó nói về việc tụng niệm cho Tăng bị bệnh, trong ấy ghi : Nhóm chúng đồng thanh xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật, hoặc trăm tiếng, hoặc ngàn tiếng, rồi hồi hướng phục nguyện rằng : “Các duyên hết sạch, sớm được nhẹ nhàng, mệnh lớn khó thoát, về thẳng Lạc bang”. Lại nữa, phần tẩm liệm tống táng chư tăng, đại chúng tụng niệm và hồi hướng phục nguyện rằng : “Thần siêu cõi Tịnh, nghiệp dứt trần ai, hoa sen thượng phẩm mở bày, Phật liền thọ ký đời này vãng sanh”. Đến như lúc trà-tỳ, chư tăng vẫn không làm cách thức nào khác, mà chỉ thỉnh Duy-na cao giọng xướng “Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật”. Xướng như vậy 10 lần, đại chúng hòa theo 10 lần, thì gọi là 10 niệm. Xướng xong lại hồi hướng rằng : “Mười niệm vừa rồi, trợ giúp vãng sanh”, đó không phải chỉ quy về Tịnh độ thì là cái gì?

Từ Bá Trượng đến nay, phàm lễ nghi tống táng chư tăng đều làm theo cách thức ấy. Thế thì “Tông phái của năm nhà, Thiền tăng trong thiên hạ, không có người nào không về Tịnh độ” lẽ đâu không đúng chăng ! Phải biết bản hoài lập pháp của Tổ sư Bá Trượng đâu phải không có căn cứ. Ông đã không hiểu được ý Tổ sư, lại không tự phát tâm tỉnh giác, vọng cho người đạt ngộ không nguyện vãng sanh, thì sở chấp của Thiền giả trong thiên hạ, thật chẳng ai bằng ông !

Hỏi : Đồng Cư Tịnh Độ có rất nhiều loại, nay chỉ nêu Cực Lạc mà không tán thán hết các cảnh duyên thù thắng khác là sao vậy?

Sư đáp : Kinh ghi : “Chúng sanh cõi ấy không có các khổ, chỉ thọ nhận mọi an vui, nên có tên là Cực Lạc”. Nay lấy Ta-bà so sánh với cõi kia, thì cõi này hình thể máu thịt, có sanh tất có khổ; cõi kia thì do hoa sen hóa sanh, nên không có sự thống khổ của Sanh (Sanh khổ). Cõi này thì thời gian dần hết, ngày một già suy; cõi kia thì nóng lạnh như nhau, nên không có sự thống khổ của Già (Lão khổ). Cõi này thì bốn đại khó điều phục, sanh nhiều bệnh hoạn; cõi kia thì thân thể sạch thơm, nên không có sự thống khổ của Bệnh (Bệnh khổ). Cõi này sống đến 70 là hiếm, vô thường mau chóng; cõi kia thì thọ mạng vô lượng, nên không có sự thống khổ của Chết (Tử khổ). Cõi này thì thân tình luyến ái, có ái ắt có chia lìa; cõi kia không có cha mẹ vợ con, nên không có nỗi khổ quyến thuộc chia lìa (Ái biệt ly khổ). Cõi này thì cừu địch oán thù, có oán tất gặp nhau; cõi kia toàn là chúng hội Thượng thiện, nên không có nỗi khổ oán thù gặp nhau (Oán tắng hội khổ). Cõi này thì khốn khổ đói lạnh, tham cầu không chán; cõi kia y phục trân bảo, thọ dụng liền có, nên không có nỗi khổ mong cầu không được toại nguyện (Cầu bất đắc khổ). Cõi này hình hài hôi hám, các căn khuyết tật; cõi kia tướng mạo đoan nghiêm, thân có quang minh, nên không có nỗi khổ năm ấm lẫy lừng (Ngũ ấm xí thạnh khổ). Cõi này thì luân hồi sanh tử, cõi kia hằng chứng Vô sanh. Cõi này có thống khổ 4 đường, cõi kia không có tên 3 ác. Cõi này hầm hố gò nổng, gai góc làm rừng, đất đá núi non, đầy dẫy dơ uế; cõi kia vàng ròng làm đất, cây báu ngút trời, lầu bằng bảy báu, hoa khoe bốn màu. Cõi này Song Lâm đã diệt, Long Hoa chưa khai; cõi kia Phật Vô Lượng Thọ hiện đang nói pháp. Cõi này Quan Âm, Thế Chí chỉ có danh suông, cõi kia hai Đại sĩ này thường làm bạn tốt. Cõi này quân ma ngoại đạo, nhiễu loạn chánh tu; cõi kia Phật giáo hóa cả, chẳng thấy ma mị. Cõi này nữ giới yêu kiều mê hoặc người tu, cõi kia chánh báo thanh tịnh không có người nữ. Cõi này ác thú lỵ mị, tiếng tà rộn vang; cõi kia nước chim cây rừng đều tuyên diệu pháp. So sánh hai cõi, cảnh duyên khác xa, mà sự thù thắng ở Lạc bang vô lượng vô biên, không sao kể hết. Cảnh thù thắng đó có thể nhiếp phục chúng sanh giữ tâm thường tịnh. Duyên thù thắng ấy thường hay giúp sức cho người tu. Tuy Đồng Cư Tịnh độ có rất nhiều loại, nhưng chỉ có Cực Lạc đầy đủ thắng duyên để tu hành, nên chỉ nêu Cực Lạc.

Hỏi : Một đời tạo ác, lâm chung niệm Phật, đới nghiệp vãng sanh, lại không thoái chuyển, nguyện lực Phật Di-đà thật chẳng thể nghĩ bàn. Vậy thì lúc còn sống tôi làm muôn việc thế gian, đợi đến lúc lâm chung, sau đó mới niệm Phật được không?

Sư đáp : Khổ thay ! Khổ thay ! Sao ông lại nói những lời ngu si lầm lẫn đến thế ! Tỳ sương, rượu độc là chất độc trong các thứ độc, nay những lời ông nói càng độc hơn các chất độc ấy nữa, không những làm mình lầm lạc mà còn làm cho thiên hạ cũng mê lầm. Ông phải biết rằng, phàm phu ngu muội lâm chung niệm Phật đều nhờ nhân duyên thiện căn phước đức từ trước, gặp được Thiện tri thức, mới được niệm Phật. Những người may mắn này trong ngàn muôn người chưa chắc có một. Ông cho rằng đến lúc lâm chung ai ai cũng được may mắn đó ư ! Ông không thấy Quần Nghi Luận ghi : Trong thế gian có 10 hạng người lâm chung không thể niệm Phật :

Không gặp được bạn tốt khuyên phát tâm niệm Phật.

Nghiệp khổ bức bách thân tâm.

Bạo bịnh cấm khẩu.

Tâm điên loạn, không chú tâm quán tưởng.

Gặp nạn nước lửa, hốt hoảng không chí thành.

Gặp phải sói lang, lại không có bạn tốt.

Lâm chung gặp bạn ác làm bại hoại tín tâm.

Bội thực ngộ độc, hôn mê đến chết.

Lâm trận đánh nhau trúng tên trúng đạn ngã chết đột ngột.

Bị rơi từ trên cao xuống tan thân mất mạng.

Đó là 10 trường hợp mà ai ai cũng thấy cũng nghe. Không luận là Tăng tục nam nữ, ai cũng có thể gặp phải. Hoặc do nghiệp đời trước đẩy đưa, hoặc do nghiệp đời này chiêu cảm mà đột ngột xuôi tay, đường trước mịt mờ không thể trốn chạy. Lại không phải là Thánh nhân chứng Túc mạng thông thì ông làm sao biết lâm chung có nghiệp hay không nghiệp? Lại không phải là người có Tha tâm, Thiên nhãn thì làm sao biết mình lúc lâm chung chết một cách nhẹ nhàng hay đớn đau khổ sở.

Nếu không may gặp phải 1 trong 10 ác duyên ấy liền nhắm mắt xuôi tay, lúc ấy dẫu Phật sống vây quanh cũng không cách nào cứu thoát ông được. Ông phải theo nghiệp thọ báo, rớt trong 8 nạn 3 ác, chịu khổ khôn cùng, chẳng biết lúc nào mới được nghe danh hiệu Phật. Khi đã không nghe thì càng tạo vô vàn ác nghiệp. Hoặc gặp phải bệnh nhẹ mà chết cũng chưa hẳn thoát khỏi rừng kiếm phanh thây, bốn đại tan nát. Như con rùa mới chui ra khỏi vỏ, con cua trôi giạt ở biển khơi, thống khổ bức bách, hoảng sợ vô cùng làm sao niệm Phật nổi? Giả sử ông không bịnh mà chết, nhưng hoặc do duyên đời chưa dứt, niệm đời chưa quên, tham sống sợ chết, nhiễu loạn thân tâm chẳng khác thế tục, lại việc nhà chưa xong, hậu sự chưa quyết, vợ khóc con than, muôn ngàn lo lắng làm sao niệm Phật nổi? Giả sử trước lúc chết chỉ có bịnh nhẹ đau đớn thân mình, chịu đau chịu khổ, gào khóc rên la, cầu thầy tìm thuốc, cầu cúng sám hối, muôn việc rối bời thì làm sao niệm Phật nổi? Giả sử lúc chưa bịnh nhưng tuổi tác già nua, tướng suy hiện rõ, khốn khổ vô cùng, sau than lo lắng, lúc đó chỉ lo chống đỡ cái thân già còn không xong thì làm sao niệm Phật nổi? Giả sử lúc chưa già chính là lúc sức lực dồi dào, niệm Phật tốt nhất, nhưng biết bao người cuồng tâm chưa dứt, việc đời bủa vây, chạy Đông tìm Tây, suy xằng nghĩ bậy, nghiệp thức mang mang thì làm sao niệm Phật nổi? Còn như ông thanh tịnh tự tại, có chí tu hành, nhưng với mọi thứ trong thế gian soi không tỏ, buông không ra, nắm chẳng vững, ngồi chẳng lâu, chợt gặp một vài cảnh giới hiện tiền, chủ nhân lập tức theo cảnh đảo điên thì niệm Phật sao được?

Ông hãy xem người khác lúc già bịnh, khi tráng niên, lúc an nhàn, nếu có một việc nhỏ bám víu nơi tâm thì đã không niệm Phật được, huống gì đợi đến lúc lâm chung ! Còn như ông, trọn đời làm sự nghiệp thế gian, quả thật là người ngu si cùng cực, phát ngôn những lời lầm lạc vô cùng. Ta dám đoan chắc ông dụng tâm lầm lạc mất rồi ! Vả lại việc đời như mộng như huyễn, như bóng như bọt, không có gì là sự thật, chẳng việc nào thay thế được sống chết đâu ! Giả sử ông xây dựng nhiều chùa, nuôi nhiều Tăng thường trụ, mong cầu danh lợi, kết thân với kẻ quyền thế, giàu sang, ông cho đó là làm được nhiều Phật sự tốt mà không biết mình đã hủy phạm Như Lai, chẳng thấu đạt gốc đạo. Dựng nhiều già-lam, lại thêm giữ giới, nhưng phải biết rằng công đức hữu vi có nhiều lầm lỗi, chùa lớn chưa xong, địa ngục đã thành, sống chết chưa tỏ, đều thành gốc khổ, bỗng chốc xuôi tay, vừa mới chịu khổ mới hay rằng mọi việc làm trong lúc bình sinh toàn là rừng Chiên-đàn lại thêm gỗ mục, trong rừng kiếm lại thêm gươm dao, ca-sa tuột khỏi thân thì vạn kiếp khó mặc lại được. Sắt đá mà nghe cũng phải rơi lệ. Tổ sư mỏi miệng khuyên người như vậy, lẽ đâu chấp nhận cho ông một đời bon chen, đợi đến lúc lâm chung mới niệm Phật? Ông phải biết rằng, con người ở đời sống được bao lâu, chỉ trong tích tắc là nhắm mắt lìa đời. Cần phải ngay trong lúc chưa già chưa bịnh mà gội rửa thân tâm, buông bỏ mọi việc đời, được một lúc lắng lòng, niệm được một danh hiệu, có một chút công phu, tu một chút Tịnh nghiệp. Cứ thế ngày lại ngày dành thời gian tu tập, thì lúc lâm chung, chết nhẹ nhàng hay khổ sở ta đều biết được, đường trước của ta, bao la bằng phẳng. Nếu không như vậy, thì ngày sau ông có hối cũng muộn rồi.

Trích dịch từ Tịnh Độ Tùng Thư
Thích Đồng Ngộ
Trích: Tập San Suối Nguồn số 08 (TVHQ)

Bổn Phận Người Phật Tử Tại Gia

Bổn Phận Người Phật Tử Tại GiaA. Mở Ðề

1. Người đời ai cũng có bổn phận:

Người ta sanh ra trên hoàn vũ này, ai cũng có bổn phận. Nói một cách tổng quát, thì đã có cái danh, tất phải có cái phận. Con kiến, con ong, có cái phận của kiến, của ong; mặt trăng, mặt trời có cái phận của mặt trăng, mặt trời. Dù nhỏ dù lớn, mọi vật mọi người đều có cái phận riêng của mình. Những điều cần phải làm, đối với cái phận ấy, chính là bổn phận.

Danh càng lớn, thì phận càng nhiều; phận càng nhiều thì bổn phận càng nặng. Hễ có thêm một cái danh là có thêm bổn phận. Càng nhiều danh lại càng nhiều bổn phận…Người có bổn phận của người; nhưng khi người + làm quan, tất nhiên ngoài bổn phận người, có thêm bổn phận làm quan,Nếu muốn có nhiều danh, mà lại muốn trút bớt bổn phận, thì là gian lận, lừa bịp. Và khi ấy, cái danh ấy chỉ là hư danh. Và khi danh đã hư, thì mọi viẹc đều hư cả. Cho nên người xưa đức Khổng Tử nêu lên thuyết “Chính danh” để chỉnh đón xã hội là vì thế.

2. Người Phật tử tại gia lại có nhiều bổn phận hơn ai cả:

Dựa vào lý luận trên mà suy diễn, chúng ta thấy bổn phận của người Phật tử tại gia thật là nặng nề. Cái danh của chúng ta gồm có đến năm chữ: Người + Phật tử + tại gia. Như thế, tất nhiên chúng ta có những bổn phận của người + bổn phận của Phật tử +bổn phận tại gia. Ðó là chưa kể người Phật tử tại gia ấy còn có những cái danh khác như: Công chức, Giáo sư, Tỉnh trưởng v.v…Nhưng để cho vấn đề này khỏi đi vào chi tiết quá; dưới đây chúng ta chỉ nói đến bổn phận người Phật tử tại gia mà thôi. Nhưng nếu muốn vấn đề được đặt một cách sáng sủa, giản dị, và sát sề hơn nữa, chúng tôi đề nghị nên bỏ bớt chữ người nữa. Nghĩa là chúng ta sẽ không nói đến bổn phận của người ở đây; bổn phận ấy mọi người, vì đã là người đều biết cả rồi (trong mọi sách luân lý, công dân đều có nói đến).

Như thế dưới đây, chúng tôi chỉ xin đề cập đến “bổn phận của Phật tử tại gia” mà thôi.

B. Chánh Ðề

Bổn phận của Phật tử tại gia là những gì?

Phật là bậc toàn trí, toàn năng, toàn đức, đã dứt sạch ngã chấp, pháp chấp tất cả việc lành gì cũng được, nên công đức được đầy đủ và Phật đã biết rõ các phép đều tuân theo luật nhân quả, nên bao giờ cũng chỉ biết gieo nhân lành, làm việc lành.

Phật tử , muốn được làm con Phật , muốn theo dấu chân Phật , muốn xứng đáng với danh từ Phật tử , tất phải làm tròn bổn phận của Phật tử nghĩa là nghe những lời Phật đã dạy, làm theo những việc Phật đã làm, đi theo con đường Phật đã đi.

Phật tử , đáng lẽ phải làm y như thế đó. Nhưng bởi vì chúng ta là Phật tử tại gia, nên chưa có thể hoàn toàn theo đúng như Phật. Hai chữ tại gia ràng buộc chúng ta trong những bổn phận mà chúng ta phải làm tròn.

Do đó, Phật tử tại gia, có những bổn phận như sau:

Bổn phận đối với tự thân

Bổn phận đối với gia đình, quyến thuộc

Bổn phận đối với người ngoài gia đình.

I. Bổn Phận Ðối Với Tự Thân

Tu tâm đương tánh Ngoài bổn phận làm người cho xứng với danh nghĩa con người, cho tròn nhân cách, Phật tử còn luôn luôn cố gắng trau dồi đức hạnh, tu tâm dưỡng tánh, để cho thân tâm được an lạc, thanh tịnh, hầu hưởng được hạnh phúc trong hiện tại và bước lên đường giải thoát trong tương lai.

Mỗi Phật tử phải luôn luôn cố gắng vượt lên khỏi kiếp người, vượt ra ngoài lục đạo. Chúng ta từ vô thỉ đến nay, vẫn sống say chết ngủ trong trường giả danh mộng huyền, luân hồi đã nhiều đời nhiều kiếp mà chúng sanh cũng hoàn lại chúng sanh. Ngày nay, chúng ta may nhờ phúc báo đời trước, được làm học trò Phật , mắt được trong vào quyển kinh, tai được nghe Phật pháp, cũng như đêm tối sẵn có đèn, trong bể khổ gặp thuyền tế độ. Nếu chúng ta không gắng sức tu tập, dứt bỏ những thói quen mê lầm phiền não, để cho tâm tánh chúng ta được tiến hóa dần đến chỗ hoàn toàn viên mãn, thì sao cho khỏi phụ duyên lành đời trước của chúng ta và phụ công ơn đức Thích Ca , đấng Từ phụ đã hiện thân thuyết pháp, chỉ bày cho chúng ta những phương pháp tu hành để thoát khỏi sanh tử luân hồi. Phương pháp tu hành mà một Phật tử tại gia phần giải quyết tâm thực hiện là: giữ Ngũ Giới, tu Thập thiện, sám trừ các phiền não, chuyên tâm niệm Phật , phát tâm từ bi tế độ. Có như thế thì chúng ta mới có thể vượt ra khỏi kiếp người, bước thêm một bước dài trên con đường giải thoát.
II. Bổn Phận Ðối Với Gia Ðình

Phật tử tại gia còn có gia đình quyến thuộc, nên còn nhiều bổn phận không thể làm ngơ được. Phật tử có cha mẹ, vợ hay chồng, con cái, bà con thân thích, người giúp công hay kẻ mướn việc…Ðối với mỗi hạng người ấy, Phật tử đều có mỗi cách đối xử, mỗi bổn phận.

Theo kinh Thiện Sanh, thì Phật tử tại gia có những bp như sau đối với những người trong nhà:

1. Bồn phận con đối với cha mẹ, phải đủ năm điều:

a) Làm con phải hết lòng hiếu kính đối với cha mẹ, tùy theo mùa tiết hàn, nhiệt, mà chăn nom mền chiếu, ấm áp hợp thời, để cha mẹ được nghỉ ngơi yên giấc.

b) Làm con mỗi ngày phải dậy sớm, để phân công việc cho người làm lụng đúng giờ, và lo sắp đặt miếng ăn thức uống cho cha mẹ được vừa miệng đẹp lòng.

c) Làm con phải gánh vác tất cả công việc nhọc nhằn, thay thế cho cha mẹ, để cha mẹ được thư thới, vui vẻ trong tuổi già.

d) Làm con phải nhớ nghĩ luôn luôn đền ơn sanh thành, dưỡng dục, để lo báo đáp cho kịp trong lúc cha mẹ còn sanh tiền.

đ) Làm con, khi cha mẹ đau ốm, phải hết lòng săn sóc, hầu hạ bên giường, không nài khó nhọc và ân cần rước thầy xem mạch, thuốc thang điều trị không sợ hao tốn.

2. Bổn phận cha mẹ đối với con, cũng phải đủ 5 điều:

a) Phải dạy dỗ con dứt trừ tất cả điều hung ác, làm tất cả điều lành, để trở nên người có đức hạnh.

b) Phải khuyên răn con cái, nên gần gũi người trí tuệ.

c) Phải nhắc nhở con cái, cần mẫn học hành.

d) Phải liệu định cưới gả con cái cho kịp lúc xuân thời.

đ) Phải cho con cái bàn tính tham dự việc nhà, cùng góp công trong sự xây dựng hạnh phúc gia đình.

3. Bổn phận vợ đối với chồng, phải đủ 5 điều:

a) Phải kính yêu và hòa thuận với chồng, khi chồng ra đi hay trở về, phải đưa đón niềm nở.

b) Khi chồng đi vắng, ở nhà phải lo quét dọn, may vá, cơm nước sẵn sàng, đợi chồng về mới cùng ăn uống.

c) Phải giữ gìn tiết hạnh, không được ngoại tình.

d) Lúc chồng nóng giận nặng lời, không nên bừng mặt cãi lẫy, làm mất hòa thuận và có khi phải rã rời giềng môí. Lại khi chồng có lời khuyên bảo chánh đáng, vợ phải vâng theo; kho có món ngon vật quí, không nên dùng riêng cho mình.

đ) Mỗi đêm, khi chồng ngủ rồi, phải xem xét cửa nẻo, trước sau đóng gài kín đáo, cất đặt cẩn thận, soi rọi khắp cả trong nhà, rồi mới đi ngủ sau.

4. Bổn phận chồng đối với vợ, cũng phải đủ 5 điều:

a) Khi vợ ra đi hay lúc trở về, phải đưa đón niềm nở.

b) Phải ăn uống cho có giờ khắc, và đừng quá khó khăn, để vợ khỏi phải làm phiền lòng nấu nướng không chừng, và lo lắng cực nhọc.

c) Phải tùy phận giàu nghèo của mình, để vợ mua sắm áo quần và đồ trang sức vừa theo sở thích, không hẹp lòng làm vợ buồn phiền.

d) Phải tin cậy phó thác cho vợ các công việc nhà.

đ) Không được sanh tâm tà vạy, sớm mận tối đào, làm cho vợ ghen tuông sầu não.

5. Bổn phận đối với bà con thân thích, phải có đủ 5 điều:

a) Khi thấy bà con có người làm việc chẳng lành, thì phải thượng xót khuyên can, răn nhắc.

b) Trong bà con thân thích, có người nào bị đau ốm, tai nạn, tật nguyền, thì phải hết lòng giúp đỡ, hoặc cơm cháo thuốc men, hoặc áo quần, tiền bạc v.v..

c) Những việc kín đáo, riêng tư của người này, mình có biết cũng không nên tiết lộ cho người khác biết.

d) Bà con thân thích, phải năng tới lui thăm viếng, nhắc nhở nhau tránh dữ làm lành. Ðôi khi có ý kiến chẳng đồng, cũng nên hoan hỷ, đừng cố chấp giận hờn nhau.

đ) Trong thân bằng quyến thuộc, có kẻ giàu người nghèo, lẽ cố nhiên người dư ăn dư để, phải giúp đỡ cho kẻ thiếu hụt.

6. Bổn phận chủ đối với người giúp việc trong nhà, phải có đủ 5 điều:

a) Chủ nhà trước khi sai khiến người giúp việc làm gì, trước phải biết họ, đói, no, ấm, lạnh thế nào để họ có đủ sức khỏe và vui lòng làm lụng.

b) Lúc nào người giúp việc làm gì, trước phải biết họ, đói, no, ấm, lạnh thế nào để họ có đủ sức khỏe và vui lòng làm lụng.

b) Lúc nào người giúp việc bị bịnh loạn, phải chăm non thuốc thang và để cho họ được nghỉ ngơi, để bồi bổ sức khỏe lại.

c) Khi họ có phạm lỗi gì, phải xét coi họ cố ý hay vô tình. Nếu vô ý lầm lỡ, thì nên dung thứ; nếu họ quyết lòng phá hại, thì phải làm nghiêm trách hẳn hoi, với lời lẽ thanh nhã, cho họ biết lỗi để chừa.

d) Khi họ tiện tặc tích góp được số tiền riêng, không nên tìm cách thâu đoạt.

đ) Khi muốn thưởng công lao cho họ, phải giữ mực công bình, tùy công lao của mỗi người mà phân chia cho cân xứng.

7. Bổn phận người giúp việc đối với chủ nhà, cũng phải có đủ 5 điều kiện:

a) Mỗi buổi sáng phải thức dậy trước chủ nhà, không đợi kêu.

b) Phải biết phần việc nào của mỗi ngày, cứ y như thường lệ mà thi hành, không đời chủ sai bảo.

c) Khi làm việc phải thận trọng đồ dùng của chủ, không làm vụt chạc, hư hao.

d) Phải hết lòng kính mến chủ nhà, lúc chủ ra đi, phải ân cần đưa tiễn, lúc chủ trở về, phải vui mừng tiếp đón.

đ) Không nên chỉ trích, nói xấu chủ với người ngoài.

III. Bổn Phận Ðối Với Người Ngoài Gia Ðình

Những người ngoài gia đình, chúng tôi muốn nói ở đây, không phải những người xa lạ, hay hàng xóm láng giềng, mà chính là những người có sự liên quan mật thiết với chúng ta, nhưng không cũng quyến thuộc, không ở chung dưới một mái nhà, nên tạm gọi là những người ngoài gia đình.

Những người nầy giữ vai trò quan trọng trong đời sống của chúng ta, lái chúng ta đi trên con đường hiểu biết đạo đức, góp một phần lớn lao trong việc xây dựng hạnh phúc cho chúng ta. Ðó là những vị thầy dạy dỗ và những vị Tăng già và thiện hữu tri thức.

1. Bổn phận học trò đối với thầy, phải đủ 5 điều:

a) Phải kính mến thầy như cha mẹ

b) Phải vâng lời thầy dạy bảo.

c) Phải giúp đỡ thầy trong cơn hoạn nạn.

d) Phải siêng năng học tập cho vui lòng thầy.

đ) Khi thôi học rồi, cũng phải năng tới lui thăm viếng thầy, để tỏ lòng cảm mến công ơn dạy dỗ và quý trọng tài đức của Thầy..

2. Bổn phận thầy đối với trò, cũng phải đủ 5 điều:

a) Phải cần mẫn dạy dỗ học trò.

b) Phải cố gắng làm sao cho học trò mình mau tiến bộ hơn học trò khác, về tài năng cũng như về đức hạnh.

c) Phải để ý đến những điều cấn yếu làm sao cho học trò in sâu mãi vào tâm trí.

d) Phải giảng giải rõ ràng các lý thuyết mắc mỏ và hỏi lại nhiều lần cho học trò không lầm lạc.

đ) Phải có lòng rộng rãi, mong muốn làm sao cho học trò mình được trở nên giỏi hơn mình.

3. Bổn phận Tín đồ đối với chư Tăng và thiện hữu tri thức phải đủ 5 điều:

a) Phải hết lòng thành thật đối với chư Tăng và thiện hữu tri thức.

b) Phải cung kính và vâng lời dạy bảo của quí vị minh sư và các thiện hữu.

c) Phải chăm chỉ nghe lời giảng dạy của các vị Tăng già đức độ, thẩm xét cho kỹ lưỡng rồi như pháp mà tu hành.

d) Phải cầu học với chư Tăng và thiện hữu những chỗ bí yếu về đạo lý mà mình chưa hiểu.

đ) Phải cầu thỉnh các vị minh sư chỉ dạy cho mình những pháp môn cần yếu, như “tham thiền”, “niệm Phật ” để ngày đêm chuyên tâm tu trì, không gián đoạn.

IV. Cách Xưng Hô Và Một Số Nghi Thức Cần Thiết Của Người Phật Tử Tại Gia

Ngoài những bổn phận nói trên, Phật tử tại gia còn cần phải biết cách xưng hô khi tiếp xúc với quý vị Tăng già, và những nghi thức cần thiết khi đến chùa, khi lễ Phật , cầm kinh v.v…Ðã là Phật tử , thì những điều này, mặc dù là hình thức, cũng không thể không biết đến.

Cách chào hỏi và xưng hô với Tăng già:

Phật tử phải biết cách đối xử, xưng hô với chư Tăng cho phải phép:

a) Khi gặp một vị hay nhiều vị Tăng tại chùa hay ngoài đường, nên chắp tay kính cẩn chào, bằng cách niệm: “Nam mô A Di Ðà Phật “, với vẻ mặt hoan hỷ với mình. Lối chào ấy biểu lộ một tình cảm đậm đà, còn hơn lối chào bắt tay của người Âu Tây. Sở dĩ chào nhau bằng một câu bảo hiệu Phật , là để nhắc rằng ai cũng có Phật tánh (bản tánh A Di Ðà), nếu quyết chí tu, rồi cũng đến được cảnh giới Tịnh độ và cuối cùng sẽ thành Phật.

b) Về cách xưng hô, Phật tử tại gia không nên kêu chư Tăng bằng Huynh hay Sư huynh hay Ðạo hữu mà nên kêu bằng thầy, mặc dù vị ấy là đồng sư.

Những tiếng Thượng Tọa, Ðại Ðức không nên quá lạm dụng, không phải đối với vị sư nào cũng gọi là Thượng Tọa hay Ðại Ðức được cả. Chỉ đối với những vị sư có đạo hạnh, nhiều niên lập (tuổi Ðạo), và đối với mình chưa quen thân lắm, mới nên dùng chữ Thượng Tọa hay Ðại Ðức. Ðối với các vị Bổn sư, các vị Tăng già mình thường quen biết, dùng chữ “Thầy” là phải cách và đầy đủ ý nghĩa nhất. Thầy là có ý tôn kính như cha (quân, sư, phụ) và là người thường dạy bảo mình trên đường tu tập. Thầy có vẻ vừa tôn kính, vừa thân mật, vừa chân thật, chứ không như chữ Thượng Tọa hay Ðại Ðức có vẻ xã giao kiểu cách, đãi bôi, bề ngoài. Hiện nay đang lan tràn cái dịch, dùng danh từ Thượng Tọa và Ðại Ðức. Chúng ta nên thận trọng mỗi khi dùng những chữ ấy, để khỏi bị người ngạo đạo hiểu lầm là quí vị Tăng già muốn được gọi như thế, vì còn thích chức tước, hư danh.

c) Trước khi vào Chánh điện lễ Phật , phải rửa mặt, súc miệng, rửa tay cho sạch sẽ, để giày gút ngoài thềm cửa, đừng mang vào Ðiện mà tổn Phước. Khi tiến tới Ðiện thì đi ở phía trái, khi ra thì đi về phía hữu, theo cách “hữu nhiễu” của nhà Phật (đi quanh theo chiều hữu, ba hay bảy vòng, để tỏ lòng kính mến Phật ).

Khi đi ra, phải chú ý coi chừng dưới chân, để tránh khỏi sự dẫm đạp trùng kiến. Giữ được như thế, được phước đức hơn là phóng sanh mà không biết giữ.

d) Khi tụng kinh, phải chắp hai tay ngang ngực, mười ngón tay từng cặp bằng nhau, không so le, hai lòng bàn tay khít lại, đừng để trống giữa. Chân đứng ngang bằng, hình chữ “bát”, mắt ngó xuống, chăm chỉ tụng cho các câu rành mạch, không nên ỷ giọng hay, tụng to tiếng động chúng. Phải tụng cho ăn nhịp, theo tiếng mõ và tiếng tụng của ông Duy na (dẫn đầu).

Khi lễ Phật , năm vóc phải sát đất, nghĩa là đầu, hai tay, hai gối, phải sát chiếu, hết lòng thành kính mà lễ. Khi lạy phải xích qua một bên, vì phía sau còn có chùa thờ Hộ pháp hay tượng Phật và nhương chỗ cho ngôi Trụ trì. Khi lễ Phật xong, đi ra phải bước lui, mắt ngó tượng Phật , đừng quay lưng lại.

đ) Trước khi cầm kinh hay tụng phải rửa tay. Cầm kinh sách đem đi đâu, nên ôm trên ngực, đừng cặp bên nách như quyển sách thường, vì kính kinh như kính Phật. Nếu cầm kinh mà muốn chào người, thì phải để kinh trên bàn trước khi chào. Gặp trường hợp không có chỗ để kinh, thì ôm vào ngực mà chào: “A Di Ðà Phật ” là được. Kiêng nhất là cầm quyển kinh mà xá chào người.

Trên đây là kể sơ lược một số oai nghi tế hạnh mà Phật tử tại gia phải giữ gìn. Oai nghi của người xuất gia thì nhiều lắm, nhưng không phải phạm vi của bài này, nên không nói đến.

C. Kết Luận

Khuyên Phật tử tại gia giữ tròn bổn phận.

Bổn phận của Phật tử tại gia như vừa trình bày ở trên, tuy kể ra thì nhiều, nhưng không có gì là cao kỳ khó khăn phức tạp. Những điều ấy, một người chưa phải là Phật tử , nhưng có chút đức hạnh, cũng đã hiểu rồi, biết rồi.

Nhưng điều quan trọng ở đây, không phải là hiểu biết mà là thực hành, những điều đã hiểu biết ấy. Trong cuộc sống tầm thường hằng ngày, làm tròn bổn phận có nhiều khi còn khó hơn là ra trận giết quân thù, hay trèo non lội suối. Những công việc khó khăn như bất thường này chỉ cần vận động sự cố gắng và hăng hái trong một khoảng thời gian nhất định, chứ những bổn phận tầm thường hằng ngày, muốn làm cho tròn, phải vận dụng sự kiên nhẫn và cố gắng suốt cả đời. Vì lý do ấy mà tục ngữ ta có câu: ” Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa”.

(bổn phận người + bổn phận quan). Và nếu người làm quan ấy lại làm quan đầu tỉnh, (người + quan + đầu đỉnh) thì tất nhiên ngoài hai bổn phận trên, còn thêm bổn phận cai trị cả tỉnh nữa (bổn phận người + bổn phận quan + bổn phận cai trị cả tỉnh).

Vậy chúng ta không nên xem thường những bổn phận tầm thường của chúng ta, mà phải luôn luôn cố gắng làm cho tròn. Sự cố gắng này sẽ đem lại cho chúng ta một phần thưởng chắc chắn thật là đưa dần chúng ta lên đường giải thoát.

Thích Thiện Hoa

Hiện Tiền Tu Học Thế Nào Mới Tự Tại Vãng Sanh? [Audio]

Hiện Tiền Tu Học Thế Nào Mới Tự Tại Vãng SanhHôm nay tôi có duyên ở nơi đây, nhìn qua nhiều bạn đồng tu tôi cảm thấy vô cùng an ổn. Người học Phật ở Đài Loan ngày càng nhiều, đây là điều rất đáng mừng. Trong hai năm trở lại đây, tôi nhận thấy việc tu tập của nhiều bạn có tiến bộ rất lớn, đây là một nỗ lực đáng khen trong việc hoằng dương Phật pháp của các hội viên Tịnh Tông Học Hội. Tôi mới hỏi hội trưởng: “Ngày nay ông mời tôi đến đây giảng, mà tôi nên giảng đề tài gì?”. Ông nói: “Xin pháp sư giảng cho chúng con đề tài: “Hiện tiền tu học như thế nào mới được tự tại vãng sinh”. Đây là vấn đề không chỉ quan trọng cho người sơ cơ học đạo mà ngay cả những người học Phật đọc tiếp ➝

Nếu Tâm Chuyển Được Cảnh Là Giống Như Phật

Nếu Tâm Chuyển Được Cảnh Là Giống Như PhậtKinh Lăng Nghiêm nói: “Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai”, nghĩa là tất cả các bậc Thánh hiền có thể chuyển được vạn vật mà không hề bị vạn vật chuyển, tùy tâm được tự tại, chốn chốn đều chân như. Kẻ phàm phu chúng ta bị vọng tưởng làm chướng ngại, nên mới bị cảnh chuyển, giống như ngọn cỏ đầu tường, khi gió đông thổi lại thì ngã về hướng tây, gió tây thổi qua thì ngã về hướng đông, không thể tự làm chủ được mình.

Có người suốt ngày nhởn nhơ biếng nhác, không để tâm đến việc tu đạo; tuy cũng hành trì nhưng lúc có lúc không, ngày chồi ngày hụp, thường lẩn quẩn trong vòng mừng giận, buồn vui, phải trái, não phiền. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý phân biệt, sáu căn luôn rong ruổi theo sáu trần, chưa từng tỉnh giác phản chiếu lại mình; niệm niệm chạy theo nào là xanh vàng đỏ trắng, già trẻ trai gái v.v.. Gặp điều vừa ý hợp nhãn khởi tâm vui mừng tham đắm; đụng chuyện trái ý nghịch lòng sanh tâm buồn phiền chán ghét, lòng thường khởi lên vọng tưởng. Người vọng tưởng nhẹ, còn có thể để tâm tu đạo, làm thiện sự; người vọng tưởng quá nặng, sanh khởi vô số niệm tà bất chánh, lòng đầy uế trược, loạn tạp, đến nỗi không còn thuốc chữa.

Thiền sư Bạch Vân Đoan có bài tụng rằng:

Nhược năng chuyển vật tức Như Lai
Xuân noãn sơn hoa xứ xứ khai
Tự hữu nhất song cùng tướng thủ
Bất tằng dung dị vũ tam đài.

(Ai người chuyển vật tức Như Lai
Xuân đến khắp đồi hoa rộ nở
Buồn nỗi tay thô không mềm mại
Làm sao diễn đạt điệu Tam Thai).

Trong Kim Kim Cang cũng nói: “Ưng như thị giáng phục kỳ tâm” (nên như thế mà giáng phục tâm mình – tức trụ tâm vào không chỗ trụ). Hay như cách nói của Nho gia: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị.” (Tâm không đặt vào đó thì tuy nhìn nhưng không thấy, tuy nghe nhưng không biết, tuy ăn nhưng không cảm nhận mùi vị của thức ăn). Nhà Nho khi nổi giận còn có thể làm chủ được mình, không để cho cảnh chuyển như thế; huống chi chúng ta là con nhà Phật, sao không nghĩ đến việc sanh tử cấp thiết như cứu lửa cháy đầu mà buông bỏ các duyên, tinh tấn tu đạo, lợi dụng cảnh động để rèn luyện, khảo nghiệm bản thân cho đến khi tâm không còn chạy theo trần cảnh, có được thành tựu trong sự hành trì. Tu hành, không nhất thiết phải ở trong cảnh tịnh, cũng có thể tu trong cảnh động, cảnh động nhưng lòng không động, đó mới thực sự tu hành.

Vào năm đầu triều đại nhà Minh, ở đầm Hồ Nam có một người thợ rèn họ Hoàng, lấy việc rèn sắt làm nghề mưu sinh, mọi người đều gọi ông là Hoàng thợ rèn. Khi ấy nhằm lúc Chu Hồng Vũ khởi binh đánh trận, cần đến rất nhiều vũ khí, Hoàng thợ rèn lãnh mệnh tức tốc chế tạo binh khí, ông làm việc ngày đêm không nghỉ. Một hôm, có vị Tăng đi đến nhà khất thực, Hoàng thợ rèn mang cơm ra cúng dường, vị tăng thọ trai xong, bảo ông rằng: “Hôm nay thọ nhận sự cúng dường của thí chủ, không có chi báo đáp, chỉ có một lời tặng.” Hoàng thợ rèn thỉnh vị Tăng nói ra. Vị tăng hỏi: “Sao thí chủ không chịu tu hành?” Hoàng sư phụ trả lời: “Tu hành tuy là việc tốt, có điều tôi suốt ngày bận túi bụi, làm sao có thể tu hành được chứ?” Vị Tăng bảo: “Có một pháp môn niệm Phật, tuy trong cảnh bận rộn, vẫn có thể tu hành được. Khi thí chủ nện xuống một búa, có thể niệm một tiếng Phật, thổi một hơi ống thổi cũng niệm một tiếng Phật, cứ làm như thế trong một thời gian dài, sẽ được chuyên tâm vào câu Phật hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, đến khi mệnh chung, tất sẽ được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.” Hoàng thợ rèn y theo lời vị Tăng dạy, tay rèn sắt, còn miệng thì niệm Phật, rèn sắt suốt ngày, suốt ngày niệm Phật, không biết mệt mỏi, ngược lại còn cảm thấy khinh an tự tại. Cứ thế tu tập, công phu ngày một trở nên thâm hậu, miệng không niệm tâm cũng tự niệm, dần được tỏ ngộ. Trước lúc mạng chung, Hoàng thợ rèn biết rõ ngày giờ, bèn từ biệt bạn bè thân thích, nói là muốn đi đến Tây Phương. Lúc sắp đi, ông bàn giao hết công việc lại, tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, đến bên lò rèn gõ xuống mấy cái và nói bài kệ:

Đinh đinh đương đương
Cửu luyện thành cương
Thái bình tương cận
Ngã vãng Tây Phương.

(Lẻng xẻng lẻng xẻng
Luyện lâu thành thép
Thái bình sắp đến
Ta về Tây phương.)

Nói xong, an nhiên vãng sanh, lúc ấy trong nhà đầy mùi hương lạ, thiên nhạc trổi vang trời, xa gần đều nghe thấy, mọi người nhân đây mà được tỏ ngộ rất nhiều.

Hiện nay chúng ta cũng bận suốt ngày không ngơi, nếu có thể học theo như Hoàng thợ rèn, nổ lực tu hành trong cảnh động, thì còn sợ chi đến việc sống chết! Lúc trước, tôi ở núi Kê Túc – Vân Nam, có kể cho mọi người nghe việc thế độ Cụ Hành xuất gia. Khi Cụ Hành chưa xuất gia, mắc phải nhiều tật như hút thuốc, uống rượu…, trong nhà tám người đều làm công quả trong chùa Chúc Thánh. Về sau, cả nhà đều xuất gia, từ đó Cụ Hành dứt tuyệt những cố tật của mình. Tuy không biết chữ, nhưng Cụ Hành rất dụng công học tập, trải qua thời gian chưa bao lâu thuộc lòng hết cả hai thời công phu sớm tối, Phẩm Phổ Môn v.v.. Ban ngày chuyên lo trồng rau cải, ban đêm lễ Phật tụng Kinh, không ham mê ngủ nghỉ. Ở trong Đại chúng, ai thích, Cụ Hành không màng; ai ghét, Cụ Hành cũng không để ý. Thường ngày hay vá quần áo giúp cho mọi người, khi vá một mũi kim, niệm một câu Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, không mũi kim nào mà không niệm. Về sau, Cụ Hành đến bốn ngọn núi nổi tiếng của Phật giáo (Phổ Đà Sơn – Triết Giang, Nga Mi Sơn – Tứ Xuyên , Cửu Hoa Sơn – An Huy, Ngũ Đài Sơn – Sơn Tây) học tập Phật Pháp tám năm, sau đó về lại Vân Nam. Khi ấy, tôi đang xây dựng chùa Vân Thê, Cụ Hành không màng lao khổ, làm hết mọi việc lớn nhỏ, khiến cho ai nấy đều hoan hỷ. Lúc sắp mệnh chung, Cụ Hành đem bán hết những vật dụng của mình, thiết trai cúng dường Đại chúng, lo liệu hết mọi việc, sau đó cáo biệt mọi người. Cụ Hành ra sau vườn chùa Thắng Nhân, thuộc hạ viện chùa Vân Thê – tỉnh Vân Nam tự thiêu bằng những hạt cải xanh góp nhặt được trong suốt bốn tháng cùng vài bó rơm. Khi mọi người phát hiện ra thì Cụ Hành đã vãng sanh rồi. Chiếc áo dài trên thân bị cháy cong lên, tuy đã thành tro, nhưng vẫn giữ nguyên hình dạng như cũ, không hề rớt xuống; thân hình ngồi ngay thẳng trong đống tro, trong khi tay vẫn còn cầm mõ dẫn khánh, khiến ai nhìn thấy cũng đều hoan hỷ tán thán. Cụ Hành suốt ngày bận rộn không ngơi, nhưng không hề quên việc tu hành, cho nên đối với việc sanh tử khứ lai đều rất tự tại. Nếu quý vị tu được trong cảnh động sẽ dễ đạt kết quả hơn tu trong cảnh tịnh.

Đại lão hòa thượng Hư Vân