30 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
III/ Phần Hỏi Đáp Để Giải Quyết Các Điều Nghi
1/ Hỏi: Năm môn kể trên, nên từ một môn mà vào hay vào cả năm môn?
Đáp: Bậc thượng căn trí huệ bén nhạy, liễu ngộ được tự tánh Di Đà, toàn hiển duy tâm Tịnh độ, nói pháp thân là bao gồm hết tất cả. Nhưng lý thì liền ngộ mà sự thì phải trừ khử dần dần. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm nói, hàng Thập trụ sơ tâm liền đồng với chư Phật. Nhưng năm giai vị tiến tu, không giai vị nào không hướng đến Bồ đề mà chưa đến Diệu giác. Thứ bậc các giai vị rõ ràng, cuối cùng đến Thập địa, nhờ sức đại nguyện ở trong một niệm thấy hàng trăm đức Phật, hàng nghìn đức Phật cho đến hàng trăm nghìn Na do tha đức Phật. Theo từng giai vị mà thấy đức Phật có sai khác.
Người tu hành ở cõi Ta bà này, dẫu cho có khả năng hàng phục được hoặc nghiệp, phát ngộ, nhưng chưa chứng vô sinh cũng đâu thoát khỏi phải thọ thân đời sau. Nếu chẳng nương nhờ sức Phật thì công hạnh khó vẹn toàn, mà cần phải đợi hồi hướng Lạc bang, được Phật thọ ký, gột sạch hết các tập khí tàn dư, thành tựu viên mãn nguyện vương. Đây là môn vượt thoát, là con đường diệu trang nghiêm.
Nếu như chưa sáng tỏ việc hướng thượng, chưa phá vỡ nghi tình thì rất cần phải chuyên trì danh hiệu đức Phật A Di Đà, cung kính siêng năng phát nguyện như con nhớ mẹ, lấy cái chết làm kỳ hạn. Thêm vào đó, huân tu giáo quán giúp cho sự phát triển trí huệ thù thắng, cảm ứng đạo giao thì công tu mới không uổng phí. Điều này hoàn toàn trông cậy vào một niệm bao gồm hết các môn. Điều quý báu của môn này là rất có lợi việc liễu ngộ cái bản nguyên, nhưng kị nhất là quay đầu trở lại.
2/ Hỏi: Ông muốn hoằng dương pháp môn niệm Phật, sao chẳng lấy các kinh Tịnh độ làm chủ đạo mà lại cực lực tôn sùng kinh Hoa Nghiêm. Nếu luận theo Nhân quả, e rằng không hợp?
Đáp: Ông không có đọc kinh Vô Lượng Thọ sao! Trong phần tựa của kinh ấy, đầu tiên thuật lại hạnh nguyện Phổ Hiền, khuyến tấn người tu hành với ba bậc vãng sinh, đều có nhắc đến phát tâm Bồ đề. Cuối cùng, vì chẳng liễu ngộ Phật trí, Bất tư nghị trí, Bất khả xứng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí thì dù cho có tu các công đức vẫn bị đọa vào loài sinh bằng bào thai. Vậy thì, nếu thật sự muốn ngồi tòa sen báu, lên ngôi Bất thoái ắt phải nhờ vào trí Văn Thù, lập nguyện Phổ Hiền để hồi hướng vãng sinh. Nay, kinh Hoa Nghiêm này, chủ yếu nói về giáo lý đó. Đến phần Thượng phẩm thượng sinh trong kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng dạy đọc tụng kinh điển Đại thừa Phương đẳng. Nói đến kinh Đại thừa Phương đẳng thì không có kinh nào bằng kinh Hoa Nghiêm. Kinh này là kinh cao quý bậc nhất. Nhân quả không sai, vậy đâu có gì không hợp!
3/ Hỏi: Ý nghĩa của pháp giới Hoa Nghiêm sâu kín trùng trùng, lấy vô lượng kinh điển làm quyến thuộc. Vì sao chỉ một môn niệm Phật mà có thể bao gồm hết thảy?
Đáp: Đúng như lời ông nói. Ý nghĩa kinh Hoa Nghiêm tuy sâu rộng, nhưng người mới phát tâm vào đạo cũng tự có phương tiện đặc biệt tiến vào. Đó là một môn niệm Phật này, nó có thể thông suốt hết vô biên pháp giới. Thế nên, đồng tử Thiện Tài ở trong một lỗ chân lông của Phổ Hiền đi qua bất khả thuyết, bất khả thuyết thế giới nhiều như số bụi nhỏ trong cõi nước Phật tận kiếp vị lai. Mỗi niệm đi đến khắp vô biên cõi nước. Người niệm Phật ở đây cũng vậy, vì một niệm vốn vô lượng.
Trong Pháp giới quán, Ngài Đỗ Thuận thiết lập ba môn:
1. Môn chân không: Loại bỏ vọng tình để hiển lý, tức là niệm pháp thân Phật.
2. Môn lý sự vô ngại: Dung thông lý sự để hiển bày lực dụng, tức là niệm công đức Phật.
3. Môn chu biến hàm dung: Thu nhiếp sự sự để hiển bày chỗ đứng đầu, tức là niệm danh tự Phật.
Thanh Lương Sớ chia ra bốn pháp giới:
1. Nhất tâm niệm Phật, chẳng tu xen các hạnh khác, tức là nhập vào Sự pháp giới.
2. Tâm và Phật cả hai đều bặt, nhất chân độc thoát, tức là nhập vào Lý pháp giới.
3. Tức tâm tức Phật, đại dụng cùng hiện bày, tức là nhập vào Lý sự vô ngại.
4. Phi Phật phi tâm, thần diệu không lường, tức là nhập vào Sự sự vô ngại pháp giới.
Thế nên biết, một môn niệm Phật gồm thu tất cả pháp. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm lấy Tỳ Lô làm dẫn đạo, lấy Cực lạc làm chỗ quy hướng. Đã được thân cận Di Đà thì chẳng rời Hoa Tạng; của báu nhà mình đầy đủ thì lực dụng vô biên. Nếu chẳng nhập vào môn niệm Phật này thì rốt cuộc chẳng phải là cứu cánh.
4/ Hỏi: Trong Hoa Nghiêm Hợp Luận, Ngài Phương Sơn (Lý Thông Huyền) cho rằng: Tịnh độ ở phương khác là quyền, chẳng phải thật, còn nay theo lập luận của Ngài thì làm sao hội thông?
Đáp: Trong giáo lý Tịnh độ, có chia cõi nước thành bốn cõi:
1. Cõi Thường Tịch Quang là chỗ ở của quả Phật.
2. Cõi Thật Báo là chỗ ở của bậc Pháp thân Đại sĩ.
3. Cõi Hữu Dư là chỗ ở của hàng Nhị thừa.
4. Cõi Đồng Cư là chỗ của phàm thánh ở chung.
Bốn cõi kể trên hoặc uế hoặc tịnh.
– Nếu người ở cõi Ta bà này nhờ sức chuyên niệm Phật, tu các công đức hồi hướng Tây phương nhưng hoặc nghiệp chưa dứt hết thì được sinh vào cõi Đồng Cư.
– Nếu người có lòng ưa thích Cực lạc, nhàm chán Ta bà một cách thống thiết, đoạn trừ dần dần các hoặc thô lậu, nghe pháp thăng tấn trí huệ thì được sinh vào cõi Hữu Dư.
– Nếu người lấy pháp tu viên giáo làm nhân, ngộ sâu thật tướng, dùng hạnh nguyện Phổ Hiền hồi hướng vãng sinh thì cảm được cõi Thật Báo, được Phật thọ ký, phần chứng tịch quang.
Vì thế, người trụ quyền thừa thì mọi thứ đều quyền như hóa thành trong kinh Pháp Hoa, vì chẳng ngoài tự tâm. Người tỏ ngộ thật tướng thì tất cả đều thật như Cực lạc trong kinh này, vì hoàn toàn đầy đủ Hoa Tạng.
Lúc Ngài Phương Sơn tạo luận, quyển cuối là phẩm Hạnh Nguyện chưa được truyền đến Trung Hoa, cho nên Ngài có sự phân biệt đối với một môn Tịnh độ, đó là điều trái với văn kinh. Vì vậy, cần phải biết từ chân khởi huyễn, ngay nơi huyễn toàn chân, sinh diệt đều lìa, tự tha bất nhị. Một niệm viên dung đến khắp pháp giới mới là pháp liễu nghĩa trung đạo Nhất thừa. Điều Ngài Phương Sơn đề xướng, chỉ ở chỗ Thập trụ sơ tâm tức thành Chánh giác. Y cứ vào giáo lý để phán đoán thật ra không phải là dễ. Sao vậy? Vì trong giai vị Thập tín của Viên giáo thì kiến hoặc, tư hoặc đều dứt hết, đồng thời đoạn trần sa hoặc, tiến vào giai vị Thập trụ của Viên giáo, phá tan vô minh chứng vô sinh nhẫn. Giai vị này ngang với bậc Sơ địa của Biệt giáo.
Nếu chỉ cậy vào sức mình thì như người dân thường mà mong được ngôi vua, cho rằng: Xưa nay vốn là Phật, không rơi vào giai vị, nhưng cũng phải nhờ phương tiện khéo léo mới có thể chứng đắc. Chi bằng theo lời dạy của phẩm Hạnh Nguyện, đem lòng tin sâu trì tụng mười đại nguyện vương, trong một Sát na vãng sinh Cực lạc, trụ bất thoái chuyển. Từ hạng phàm phu vượt ngang xông thẳng, rất viên rất đốn, không pháp môn nào có thể sánh bằng. May mắn gặp được kinh Hoa Nghiêm đủ bộ là nhân duyên chẳng phải tầm thường. Hạt châu trong vạt áo vẫn còn đó mà cứ mãi nhọc công tìm, nay kính khuyên mọi người hãy đồng lòng tin nhận.
5/ Hỏi: Đời Tùy, có vị Tăng tên Linh Cán, tu quán Hoa Tạng. Lúc lâm chung, thấy hoa sen to như bánh xe trong ao nước đầy và Ngài được ngồi trên đó. Vậy, chỉ cần đến thẳng Hoa Tạng, đâu cần phải thân cận Di Đà?
Đáp: Thế giới Hoa Tạng có biển hương thủy, nhiều như số bụi nhỏ của mười bất khả thuyết cõi nước Phật, có mười bất khả thuyết chủng loại thế giới nhiều như số bụi nhỏ an trụ, mỗi chủng loại thế giới lại có các thế giới nhiều như số bụi nhỏ của bất khả thuyết cõi nước Phật. Thế giới Cực lạc phương Tây cũng ở trong số đó.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Nếu trong tâm tưởng niệm Phật, tu thêm phước huệ và nguyện sinh về Tịnh độ thì tự nhiên tâm thấy các đức Phật ở mười phương và tất cả các Tịnh độ, rồi tùy nguyện vãng sinh”.
Trường hợp Ngài Linh Cán sinh về Tịnh độ Cực lạc hay Tịnh độ nào khác chưa thể biết được! Vậy thì, chỉ cần thân cận Di Đà tức là vào thẳng Hoa Tạng. Trước có Thiện Tài, sau có Long Thụ, đường lối như thế, chư Thánh cùng đi. Nếu chẳng tuân theo lời Phật dạy, tự chuốc lấy khốn khổ vì lạc vào nhiều lối tẻ. Hạng người này thật đáng thương xót, chúng ta phải gần gũi họ để chỉ cho họ thấy điều đó.
Đời Tống, Ngài Thảo Am Đạo Nhân tu giáo quán viên đốn. Về già, trụ trì chùa Diên Khánh. Đến ngày 17 tháng 04 niên hiệu Càn Đạo thứ 03 (1167), Ngài nói lời từ biệt đại chúng: “Thế giới Hoa Nghiêm rỗng rang lặng lẽ sáng rỡ, rất hợp ý tôi, hôm nay tôi sắp đi”. Rồi Ngài nói kệ ngợi khen Phật A Di Đà:
“Vô biên cõi nước là biển không
Biển không toàn là cung hoa sen
Cung sen đầy khắp cả biển không
Biển không độc lộ Phật Di Đà.
Đức Phật Di Đà không sinh diệt
Khó tìm, khó nắm trăng đáy nước
Tuyệt phi, ly cú, thân như vậy
Cảm thông như thế, nói như thế.
Tôi với Di Đà vốn không hai
Vọng giác thầm sinh, bỗng thành khác
Từ nay quét sạch hết trần lao
Cha con thiên nhiên gặp lại nhau
Thệ tu ba phước, hành sáu niệm
Nghiệp thân, miệng, ý không lầm lỗi
Nay tôi phát tâm niệm Di Đà
Không thấy Di Đà, không thôi nghỉ”.
Sau đó, Ngài cùng đại chúng xướng niệm trăm câu danh hiệu Phật, phúng tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ đến câu thượng phẩm thượng sinh thì thu thần nhập diệt. Cực lạc và Hoa Nghiêm là đồng hay là khác, những người có trí hãy mau mau để mắt!
IV/ Lời Cuối Sách
Luận này được viết vào tháng chạp, mùa Đông niên hiệu Càn Long thứ 48 (1783), mới hoàn tất. Ông Uông Đại Thân có lời bình phẩm: “Luận này là chính nhân Tịnh độ, là chính tín Hoa Nghiêm”. Và nói: “Năm niệm tức là một niệm, một niệm tức là vô niệm”.
Mùa xuân năm sau, luận này được truyền đến Đan Đồ, được ông Vương Vũ Khanh đánh giá cao và ông viết cho lời tựa. Đại Thân hết sức ngợi khen và cho là kỳ đặc, rồi mang dâng lên quan Thượng thư họ Tiên, nhưng Ngài đã qua đời.
Tôi ẩn cư nơi Tăng xá để đọc kinh Hoa Nghiêm, rồi cùng với các bạn có chí xuất trần chất vấn nhau về Tánh tông, cũng có bàn đến sự tổn ích của tập luận này.
Mấy năm sau, tôi từ Tiền Đường trở về, lại bế quan ở Văn Tinh Các tu Niệm Phật Tam muội. Suốt mùa hạ tịch liêu, tôi đem cảo bản trước kia ra xem lại và chép thành luận này. Ngoài các Ngài Hiền Thủ, Phương Sơn ra, tôi cũng chẳng ngại gì thi thố bản lĩnh của mình. Giả sử nếu gặp ông già Vân Thê (Đại sư Liên Trì Châu Hoằng), chắc chắn tôi với Ngài sẽ nhìn nhau mỉm cười.
Ngày cuối tháng sáu, niên hiệu Càn Long thứ 56 (1791)
Bành Tế Thanh ghi
Nguyên Đán năm Bính Tuất (2006)
Định Huệ kính dịch
V/ Mấy Lời Tâm Huyết
Thuyết pháp giảng kinh, viết sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ, được như thế hạnh phúc không gì bằng, đó gọi là pháp thí.
Nếu không đủ điều kiện làm những việc ấy, chúng ta thỉnh một số kinh sách chịu khó đem đến từng nhà cho mượn đọc, sau đó lần lượt cho nhà khác mượn, hoặc đọc cho kẻ khác nghe, nhất là cho người không biết chữ. Việc làm này quý giá vô biên, đây cũng gọi là pháp thí.
Chính đức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí, pháp thí có công đức lớn nhất, không công đức nào có thể sánh bằng”.
Tưởng về lợi cũng như về danh, chúng ta đừng nên lo nghĩ, mà điều tối cần là làm sao cho rạng rỡ chánh đạo. Đó là mục đích chính, thiêng liêng và cao cả nhất của chúng ta. Nền móng đạo pháp cần nhờ sự chung lưng góp sức của chúng ta. Vậy mỗi người nên xây đắp vào đó một ít vôi, một ít nước, một tảng đá hay một viên gạch v.v… ngõ hầu cái nền móng ấy được thêm bền vững và kiên cố đời đời.
Chúng ta không nên quan niệm về công đức, hãy nên nghĩ nhiều đến những người lầm đường lạc lối, sống trong vòng tội lỗi không lối thoát xung quanh chúng ta. Hãy mau cứu vớt họ, cảnh tỉnh họ để cùng quay về chân lý, giúp họ tìm ra nhiều lẽ sống, niềm vui. Được thế, chính ta đã làm lợi ích cho Phật pháp vậy.
Với hoài bão cuộc đời, chúng ta hãy “Tất Cả Vì Phật Pháp”. Hy vọng mấy lời tâm huyết này được nhiều vị hảo tâm in kinh sách cho mọi người xem!
Được vậy, niềm phúc lạc vô bờ chắc chắn sẽ đến với chúng ta! Tha thiết mong mỏi như thế!
Tặng cho thân nhân một số tiền nhỏ, lòng mình không vui, nhưng mình không đủ sức tặng nhiều hơn nữa. Chỉ có một cách là tặng các loại sách tu hành để xây dựng cho đời sống thanh cao, thì dù một quyển sách giá chỉ vài ngàn, nhưng vẫn quý hơn tiền trăm bạc triệu.
Đọc phần 1 | Đọc phần 2
30 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Trong giáo lý đạo Phật, 37 phẩm trợ đạo là thành phần rốt ráo nhất giúp hành giả đoạn diệt mọi tham chấp phiền não, vô minh. Thành phần này là con đường chính trong Tứ Diệu Đế mà được biết là đạo đế; 37 phẩm trợ đạo được chia ra như:
– Tứ Niệm Xứ
– Tứ Chánh Cần
– Tứ Như Ý Túc
– Ngũ Căn
– Ngũ Lực
– Thất Bồ Đề Phần
– Bát Chánh Đạo
Đối với pháp môn Tịnh Độ, 37 phẩm trợ đạo lại được xem là phương tiện trợ duyên tác động thêm năng lực cho người niệm Phật. Vì tu niệm Phật phải có đủ ba tư lương là Tín, Nguyện, Hạnh và để có được tín tâm vững chắc làm nền tảng cho Nguyện và Hạnh hẳn phải thông hiểu phần nào thành phần 37 phẩm trợ đạo làm căn bản trên đường tu niệm.
Sau đây xin đi vào từng thành phần một, trong cái hiểu đại cương của người niệm Phật.
1) Niệm Phật với Tứ Niệm Xứ
Tứ Niệm Xứ được đức Phật dạy là pháp môn quan trọng, giúp hành giả quán xét được tính chất của kiếp sống con người về thân và tâm.
Nghĩa của Tứ Niệm Xứ là bốn điều ghi nhớ, quan sát hay còn gọi là bốn lãnh vực cần ghi nhận.
Bốn điều ấy là:
– Quán thân bất tịnh
– Quán tâm vô thường
– Quán pháp vô ngã
– Quán thọ thị khổ
a) Quán thân bất tịnh để đừng quên niệm Phật
Trong kinh Vô Lượng Thọ đức Phật có giảng cho các hàng đệ tử nghe về y báo và chánh báo ở cõi Cực Lạc. Nói về chánh báo là hình tướng thân thể của các bậc thượng nhơn, tất cả đều được hóa sanh từ ao sen thất bảo, đầy đủ cả ba mươi hai tướng tốt, thân tâm thường nhu nhuyễn thanh tịnh. Lại theo lời nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng tức tiền thân của Phật A Di Đà trong quá khứ: “Ví con được thành Phật, các Bồ Tát trong cõi nước con nếu chẳng được thân kim cương Na La Diên, thời con không thành bậc chánh giác (26).” Nay thì Ngài đã thành Phật tính hơn đã mười kiếp theo trong kinh A Di Đà. Vậy điều nguyện của Ngài đều đã thành tựu và tất cả là sự thật.
Sắc thân kim cương, trang nghiêm thanh tịnh như thế hẳn phải khác rất nhiều so với thân thể con người ở cõi Ta Bà được kết tinh bằng tinh huyết của cha mẹ tạo thành. Như thế suy ra được thân thanh tịnh vậy là do phước báo, phát sanh từ sự tu hành, thanh lọc ba nghiệp thân khẩu ý.
Chúng ta mang xác thân máu mủ này là cũng do phước báo, nghiệp báo mà ra. Nghiệp báo có thiện có ác, nghiệp thiện là sự may mắn ta vẫn còn mang được thân người, vì trong lục đạo (thiên, nhơn, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) thân người khó được, mà nay ta đã được. Nghiệp ác là ta đã vụng tu trong muôn kiếp, để phải trôi nổi mãi cho đến nay mới thức tỉnh nhận ra thân người là khổ là ô uế.
Vậy để tìm phương pháp xa lìa thân bất tịnh này, ta hãy nghĩ về thân kim cương, thanh tịnh của các vị thượng thiện nhơn ở cõi Cực Lạc. Nghĩ mong được như thế chỉ có cách là phải sanh về nước đó, và con đường về Cực Lạc đã được đức Phật Thích Ca chỉ bày; lại có đấng từ phụ A Di Đà đang đưa tay đón nhận, chúng ta chỉ việc cất bước đi thôi.
Trì danh niệm Phật, thật tướng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật… là phương tiện vận chuyển cho chúng ta sanh về đất Phật.
Đối với pháp quán thân bất tịnh ai cũng thấy hiểu, rõ ràng thân người chứa đựng cả một túi đồ dơ ghê tởm. Chính sự nhận ra việc thân bất tịnh này mà nên nhàm chán cầu cho được thân thể bằng chất kim cương trong sáng. Để được như vậy phải nhiếp tâm niệm Phật, quán chiếu về thân thể. Quán chiếu để thấy rằng thời kỳ hư hoại, bệnh chết của thân đang dần dần phát triển trong thân thể, và nay mai đây một điều chắc chắn thân ta sẽ bệnh, sẽ chết, sẽ sình ươn, hôi thối, ghê tởm không ai dám nhìn.
Quán sát nhận hiểu được như vậy, câu niệm Phật của ta mới phát được định lực. Mỗi khi thân di động, đi, đứng, nằm, ngồi ta đều rõ biết. Rồi lấy câu niệm Phật để giữ gìn mỗi động tác, khiến cho thân đi trong câu niệm Phật, đứng trong câu niệm Phật, nằm trong câu niệm Phật, ngồi trong câu niệm Phật. Niệm một câu Phật ta nhận ra rằng thân này là bất tịnh. Niệm hai câu Phật ta hiểu được rằng thân này là một đảy đựng đồ dơ, và càng niệm nhiều câu Phật, ta càng thấy rõ cái thân sống này toàn là thứ ô trược không có gì đáng ưa muốn.
Khi thấy lẽ thật đó rồi, ta càng chí tâm niệm Phật mạnh hơn nữa để cầu mong đạt được thân kim cương bất hoại.
Lòng chí thành tha thiết đó tạo cho việc định tâm, nhiếp niệm thêm vững vàng. Bây giờ ta chỉ còn một niệm ở vào câu Phật cho đến bất loạn. Nhờ vậy thân tâm ta sẽ đi vào câu niệm Phật một cách nhẹ nhàng nhất tâm.
b) Quán tâm vô thường để tinh tấn niệm Phật
Chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay vì ôm chấp cái giả dối, hư vọng của muôn sự muôn vật. Xem tâm này là thật có, là bất diệt… Vì sự ngoan cố bám chặt cho tâm là thật là trường tồn, trường cửu. Từ đây sinh ra bảo thủ, chấp chặt sở kiến của mình, rồi phân biệt mọi người đều có tâm riêng biệt không thể hoán chuyển được. Do đó tạo ra muôn nghiệp. Nghiệp quá khứ chưa trả hết, nghiệp hiện tại lại chất chồng rồi tiếp tục làm nhân cho nghiệp tương lai. Cứ thế mà trôi lăn không sao thoát ra được vòng kiềm tỏa của sinh tử.
Để phá vỡ sự mê lầm vọng chấp về tâm là thật có, Phật dạy về phép quán tâm vô thường. Hiểu tâm vô thuờng để thấy rằng tâm con người ta luôn luôn chuyển dời, biến đổi tạo ra không biết bao tư tưởng sai biệt. Nay nghĩ này mai nghĩ khác. Khi gặp cảnh đẹp việc vui tâm sanh mừng ham thích. Gặp cảnh xấu việc buồn tâm buồn giận, sầu lo. Trong một ngày tâm khơi động không biết bao nhiêu lần cứ lăng xăng, rộn ràng như khỉ gặp rừng cây, như ngựa sẩy cương trên đồng trống. Kìm hãm được sự giao động, nhộn nhịp của tâm là việc rất khó. Cũng vậy mà trong kinh Mạ Ý dạy rằng: “Làm trăm ngôi chùa Phật không bằng làm sống một người. Làm sống người trong mười phương thiên hạ không bằng gìn giữ tâm ý một ngày (27).”
Nay muốn dừng lại cái tâm lăng xăng, vô thường ấy ta phải tìm về cái chân tâm, thực tại. Dùng câu niệm Phật để nhiếp phục những giao động của vọng tâm, gột sạch những vọng tưởng điên đảo mà từ lâu nay đã dung dưỡng trong tâm, tự cho cái ta này là thật có, lại nghĩ rằng mọi người đều có một số mạng an bày…
Khi chí tâm niệm Phật, ta sẽ ngừng lại nhịp đập của vọng tâm, cùng theo đó những ác tâm trong ta sẽ mờ dần cho đến khi mất hẳn. Bấy giờ trong tâm ta chỉ còn câu niệm Phật. Vậy thì dùng câu niệm Phật chẳng những gạt bỏ được việc điên đảo vọng tưởng của tâm mà còn huân tập vào tâm thức chủng tử Phật.
Như thế quán tâm vô thường để tự dứt trừ tri chướng chấp vào bản ngã là trường tồn, và rồi sẽ quay về với bản tâm chân thật bằng sự nhiếp niệm vào hồng danh Phật. Cuối cùng hòa nhập vào tự tánh chơn thường không sanh không diệt như đi vào tâm Phật.
c) Quán pháp vô ngã để nhiếp tâm niệm Phật
Pháp được hiểu là mọi sự mọi vật, những gì có hình tướng, tên gọi hay cả những việc không nhìn thấy được, rờ mó được mà chỉ nhận thức bằng tư duy, tất cả cũng đều gọi là pháp.
Con người chúng ta sở dĩ có vui buồn, thương ghét, yêu, giận… là do sự nhận thức sai lầm về các pháp. Nhìn nhận pháp thật có là nguyên nhân tạo ra phiền não, bởi phải sống chết với sự mất còn của chúng.
Thử nhìn xem cõi Tà Bà này mọi vật đều ở trong vòng tương đối, giả tạm, vô thường. Tất cả đều nương nhau để hình thành, tồn tại nhưng rồi cũng phải tan vở để tiếp tục tồn tại bằng dạng thức khác cứ như vậy mãi đến vô cùng. Tìm đâu thấy sự vật, sự việc nào là thật có, khi chúng phải trải qua bốn thời kỳ Thành, Trụ, Hoại, Không (sanh ra, có được, tồn tại thời gian nào đó, thời kỳ hư hại, tan rã mất đi) .
Ngày xưa khi Ngài Xá Lợi Phất còn là ngoại đạo, chỉ nghe qua câu nói của Tỳ Kheo A Thị Thuyết lập lại từ lời dạy của đức Phật “Các pháp do nhân duyên sinh, và cũng lại do nhân duyên diệt” mà giác ngộ tức thời. Phải chăng câu nói ấy quá đầy đủ để không còn gì biện minh cho cái giả dối của các pháp.
Luận Trí Độ cũng đã nói “Các pháp từ nhân duyên sinh, không có bản tánh, không có tự tánh nên rốt ráo là không. Đã rốt ráo là không, thì các căn bản từ xưa đến nay là không, đó chẳng phải Phật làm, cũng chẳng phải người khác làm (28).”
Vậy thì xưa nay vì không hiểu các pháp, hay nói rõ là mọi sự, mọi vật là giả cho nên chúng ta phải đau khổ khi bị lệ thuộc với chúng quá nhiều. Nói một cách sâu hơn nữa, ngay chính giáo pháp chúng ta học đây cũng không là tuyệt đối. Vì Phật đã dạy hãy xem như chiếc bè đưa qua sông, hãy xem như ngón tay chỉ mặt trăng. Chỉ khi qua đặng sông mới là thật, cũng như nhìn mặt trăng mới là tự tánh.
Nhận được cái giả của pháp rồi, chúng ta sẽ không còn kẹt nhiều vào sự đối đãi, và khi thực hành một việc nào, ta vẫn xem đó là phương tiện để đạt đến cứu cánh thanh tịnh.
Với công phu niệm Phật dựa vào tướng pháp vô ngã, ta sẽ dễ định tâm, không còn phải lo lắng quan tâm đến những vọng động, lăng tăng nhảy múa trong tâm tưởng xen vào câu niệm Phật hay những ngoại cảnh âm thanh khuấy động, rộn ràng lấn át đi tiếng niệm Phật. Từ đó công phu niệm Phật dễ dẫn đến nhiếp tâm hơn.
d) Quán thọ thị khổ để tha thiết niệm Phật hơn
Chân lý của khổ đến từ nguyên nhân thọ mạng này. Hễ có thân là có khổ, vì khổ do sự thọ nhận của thân. Dù là một niềm vui một điều hạnh phúc, một việc dễ chịu cũng vẫn là khổ. Bởi vì sự vui, hạnh phúc, dễ chịu kia không thể kéo dài lâu được. Nên khi mất đi sẽ để lại đau khổ. Nói đúng ra ngay trong lúc vui đã ngấm ngầm có mặt sự khổ trong đó.
Trong kinh Tương Ưng Bộ III, Phẩm Gánh Nặng Phật dạy “Này các Tỳ kheo, thế nào là gánh nặng? Năm thủ uẩn là câu trả lời. Thế nào là năm? Sắc thụ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này các Tỷ kheo, đây gọi là gánh nặng (29).”
Việc thọ nhận lớn nhất là mang thân này, mà đức Phật đã dạy là một gánh nặng. Chính gánh nặng này đã làm xao động tâm tư gây ra bao xung đột trong tâm thức.
Vậy quán thọ thị khổ cho chúng ta hiểu rằng, sự khổ đến từ sự thọ lãnh, thọ nhận. Việc thọ nhận thân ngũ ấm đã đành là khổ rồi, chúng ta còn lãnh thọ biết bao sự việc chung quanh, chẳng hạn của cải, địa vị, công danh…những lãnh thọ này làm cho gánh nặng của ta vốn đã nặng lại càng thêm nặng.
Người thực hành pháp niệm Phật, dùng câu niệm Phật làm hành trang, mà không phải mang theo những gánh nặng của trần cảnh Ta Bà. Lại quán tưởng đến cảnh giới Cực Lạc trang nghiêm, nơi ấy không có sự lãnh thọ, thọ nhận những gánh nặng ô trược ở cõi Ta Bà nơi ta đang ở. Quán tưởng và niệm Phật luôn luôn để gánh nặng trong ta, ngoài ta được nhẹ nhàng thanh tịnh.
Thực hành được như vậy sẽ thấy an vui trong câu niệm Phật như lời Phật dạy tiếp theo: Phẩm Gánh Nặng “Này các Tỳ Kheo thế nào là đặt gánh nặng xuống? Đây là sự ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn, sự từ bỏ, sự xả ly, sự giải thoát, sự không chấp thủ. Này các Tỳ Kheo, đây gọi là đặt gánh nặng xuống (30).”
Do đó quán thọ thị khổ để thức tỉnh diệt đi sự tham muốn, là làm vơi đi gánh nặng của kiếp người như Phật đã dạy. Và ở đây câu niệm Phật lại là hành trang thay thế tất cả để hướng về một thế giới thanh tịnh trang nghiêm hơn.
Thích Phổ Huân
26 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Sáu chữ hồng danh đây nguyên là Phạn âm (tiếng Thiên Trúc). Hai chữ đầu (Nam Mô) nguyên âm là Namo, ta quen đọc liền vần Nam mô, là lời tỏ lòng thành kính, có nghĩa là Quy y (về nương) và Quy mạng (đem thân mạng gởi về).
Chữ thứ sáu (Phật) nguyên âm là Buddha (Bụt Đa hay Bụt Thô), ta quen đọc gọn là Phật, chỉ cho đấng hoàn toàn giác ngộ (Đấng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
Ba chữ giữa (A Mi Đà) là biệt danh của đấng Cực Lạc giáo chủ, dịch nghĩa là Vô Lượng (Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ) Như trong kinh, đức Bổn Sư tự giải thích rằng: “Đức Phật ấy, quang minh vô lượng, soi suốt các cõi nước ở mười phương không bị cách ngại. Đức Phật ấy và nhơn dân trong nước của Ngài thọ mạng vô lượng vô biên vô số kiếp “.
Trong Quán Kinh nói : “ Nếu người chí tâm xưng danh hiệu của Đức Phật đây, thời trong mỗi niệm diệt được tội sanh tử trong 80 ức kiếp và được vãng sanh …”
Trong Kinh Chư Phật Hộ Niệm nói: “Nếu người nghe danh hiệu của Đức Phật đây mà chấp trì trong một ngày đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn thời được thành tựu nhiều thiện căn phước đức. Đức Phật ấy và Thánh chúng sẽ hiện đến nghênh tiếp… “
Kinh Văn Thù Bát Nhã nói: “Nếu người chuyên xưng danh hiệu thời đặng chứng Nhất Hạnh Tam muội và chóng thành Phật…”.
Xem như lời của Đức Bổn Sư Thích Ca, đấng chân thật ngữ phán trên đây, thời thấy rằng ba tiếng hồng danh của đức Giáo chủ Cực Lạc có những năng lực bất khả tư nghị. Muốn được kết quả to tát như lời trong kinh, hành nhơn phải chí tâm xưng niệm, và phải xưng niệm đúng âm vận, chớ không nên như người Pháp goi Chợ Lớn là Sôlông, hay Bà Rịa là Baria.
Ba chữ A- mi- Đà nguyên là Phạn âm. Người Tàu đọc là A- mi- thô, và họ tụng xuôi là Á- mi -Thồ. Danh hiệu ấy truyền qua xứ Việt ta bằng chữ Tàu, biên sẵn trong các pho kinh sách Tàu. Người Việt ta cứ theo lệ phổ thông, chữ đâu đọc đó nên đọc là A-di-đà. Như đọc Nã Phá Luân để kêu Hoàng đế Napoleon (Na-po-lê-ông), cùng đọc Ba-Lê để kêu kinh đô Paris (Pari).
Với sự phiên âm bằng chữ Tàu, người Tàu đọc giống gần với nguyên âm, mà người Việt ta đọc sai quá xa. Giá như ta gặp hoàng đế Pháp mà gọi ông ta là Nã Phá Luân thời thật là đáng buồn cười. Với A-di-đà để gọi đức Giáo chủ Cực Lạc cũng theo lệ đó.
Nhiều năm về trước, trong thời gian niệm Phật theo thông lệ Nam Mô A Di Đà Phật, khi chuyên nhiệm nhiều (mỗi ngày từ hai vạn câu trở lên), tôi bị sự chướng là trệ tiếng trong lúc niệm ra tiếng và lờ mờ trong lúc niệm thầm. Giữa lúc đó tiếng “Di” là chủ của sự chướng. Vì thế, tôi mới để ý đến chính âm vận của sáu tiếng hồng danh. Đồng thời lời của Tổ Vân Thê trong sớ sao nói: “Hồng danh Nammô A-mi-đà Phật toàn là tiếng Phạn, chuyên trì không quên, thời cùng với pháp trì chú của Mật tông đồng nhau”, lại thúc đẩy tôi vào sự khảo cứu.
Với vần La Tinh, người Anh ghép Amita, mà tôi được thấy ở bộ Phật Học Đại Tự Điển.
Tôi đem ba chữ A-mi-đà ra hỏi, thời các Sư Tàu cũng như Cư sĩ Tàu đều đọc gằn từng tiếng một trước mặt tôi : A-mi-thô.
Hai tiếng đầu “A”và “Mi” đã nhất định, và đồng thời quyết chắc đọc “di” là sai. Tôi còn thắc mắc ở tiếng thứ ba, vì nếu dọc Amita như vần Anh, cùng A-mi-thô như người Tàu thời với tiếng Việt có hai điều bất tiện:
1. Nghe không nghiêm và không êm.
2. Khác với thông lệ từ xưa.
Một học giả Bali và Phạn ngữ giải thích: chữ “đà” của tàu dùng phiên âm Phạn ngữ có hai giọng:
1. Thô như danh từ “Bụt Thô” mà người tàu đọc xuôi là “Bù Thồ”.
2. Đa cũng như danh từ “Bụt Đa” (Buddha)
Với giọng “đa” để đọc chữ “thô”, nó mở đường cho tôi ghép 3 chữ lại: A-mi-đa và theo cách đọc xuôi đánh dấu huyền: A-mi-đà.
Ghép luôn cả sáu tiếng nam mô A-mi-đà Phật, tôi nhận thấy rằng tránh khỏi cái lỗi quá khác với nguyên Âm, dù vẫn chưa được hoàn toàn, nhưng có thể gọi là nhiều phần đúng và không quá cách biệt với cách đọc phổ thông theo cổ lệ, vì trong sáu tiếng đây chỉ có đổi “di” thành “mi” mà thôi.
Sau khi tham cứu như trên xong, tôi bắt đầu chuyên chí niệm Nammô A-mi-đà Phật, và cũng bắt đầu từ đó tôi liền nhận được kết quả.
1. Sáu tiếng hồng danh đây nổi rõ nơi tai cũng như nơi tâm, khác hẳn sự mờ mờ lọt sót của tiếng “di” trong thời trước.
2. Khi niệm ra tiếng, từ năm ngàn câu mỗi thời trở lên, môi lưỡi càng lúc càng nhại, càng chuyên, càng lanh. Khác hẳn sự trệ môi cứng lưỡi của những ngày niệm khi xưa.
3. Niệm ra tiếng với A-mi khỏe hơi hơn niệm ra tiếng của A-di khi trước, nhờ vậy mà mỗi thời niệm được lâu và nhiều.
Người chuyên niệm danh hiệu của Phật, tầng cấp đầu tiên là đến mức bất niệm tự niệm, hay niệm lực tương tục. Nếu khi niệm mà bị trệ, và tiếng Phật lại lờ mờ không nổi rõ nơi tâm thời khó mong được kết quả trên. Còn nếu trái lại thời mới có hy vọng đến đích.
Biết rằng niệm A-mi-đà được nhiều phần đúng với nguyên âm, nó sẽ đem đến cho mình cái mãnh lực bất tư nghì, diệt vô số kiếp tội thành đại thiện căn phước đức giống như pháp trì chơn ngôn (thần chú) của Mật tông mà Tổ Vân Thê đã phán. Nó sẽ đưa mình đến mức bất niệm tự niệm, vì tiếng niệm không bị trệ lụt và nổi rõ nơi tâm. Nhất là niệm A-mi-đà được khỏe hơi, nhờ đó nên được niệm lâu và nhiều. Niệm Phật được thuần thục là nhờ niệm nhiều câu, nhiều giờ và tiếng niệm nhấn rõ nơi tâm. Và mức bất niệm tự niệm đây là phần bảo đảm vãng sanh Tịnh Độ cho người chuyên niệm. Tôi tin rằng niệm gần với nguyên âm, tức là gần đúng với thật danh của Đức Giáo chủ Cực Lạc, tất dễ được tương ưng và chóng được cảm thông với Phật. Và tôi đã tự cảm thấy có lẽ đúng như thế.
Nhưng trong kỳ kiết thất 49 ngày ở tịnh thất nơi chùa Linh Sơn Cổ Tự, một hôm tôi bỗng có ý nghĩ: “Mình dù thiển trí bạc đức, song cũng là người tai mắt trong Tăng giới, và cũng có đôi phần uy tín đối với gần xa, riêng mình tự tu đã đành không ngại gì, song rồi đây, tất có người tin tưởng nơi mình, mà họ sẽ tự noi theo chỗ làm của mình, nghĩa là họ sẽ niệm Nam mô A-mi-đà Phật. Một người như thế, lần lần sẽ có nhiều người như thế, tất sau này khó khỏi đôi điều thắc mắc:
1. Bàn quan sẽ cho mình lập dị, riêng phái, phá sự đã phổ thông của cổ lệ.
2. Đem sự ngờ vực cho người đã niệm A-di khi những người này chưa hiểu thế nào là A-di và thế nào là A-mi. Và sự ngờ là điều rất chướng của pháp môn niệm Phật
Tôi tự giải thích: “ Cổ lệ đã sai thời sự sửa đổi là điều cần (tôi tự sửa đổi riêng tôi). Mình không có quan niệm lập phái riêng hay lập dị, thời cũng không ngại gì với chuyên thị phi phê bình của bàn quan”. Và với sự ngờ của những người chưa nhận chơn, sẽ giúp họ tìm tòi khảo cứu, nhờ tìm xét họ sẽ thấu rõ sự sai với đúng, và họ sẽ thâu hoạch được kết quả tốt cũng như mình.
Mặc dù tôi tự giải thích với tôi như thế, nhưng trong thâm tâm vẫn mãi băn khoăn gần suốt ngày.
Chiều hôm ấy, khi đứng dựa cửa sổ ngó mong về phía mặt trời sắp lặn, tôi bỗng thấy chữ A-mi nổi bật giữa khung trời xanh sáng, gần như chữ điện ở trước cửa của những hiệu buôn chiếu sáng trong đêm. Tôi thử ngó qua hướng khác thời không thấy, khi ngó trở lại hướng Tây thời chữ A-mi vẫn nổi y nơi chỗ cũ, khổ chữ lớn lối bốn tất Tây bề cao, và hiện mãi đến trên 30 phút mới ẩn..
Tối hôm ấy, tôi chiêm bao thấy mình đi vào một khu vườn cây cao cảnh đẹp. Giữa vườn, một dãy nhà cất theo kiểu trường học, và nghe rõ trong ấy một người xướng và số đông người hòa: Nam mô A-mi-đà Phật! Tôi tự bảo: “Ủa lạ! Câu Nammô A-mi-đà Phật tưởng là chỉ của riêng mình cải cách, riêng mình tín hướng và riêng mình chuyên niệm. Bất ngờ ở đây, người ta cũng đồng niệm như vậy rồi”. Tôi đứng dừng trước ngõ trường chăm chú nghe xướng hòa như thế hơn 10 lần mới choàng tỉnh. Bấy giờ mới biết là mình nằm mơ.
Do hai điềm trên đây (chữ A-mi hiện giữa trời và chiêm bao nghe xướng hòa nam mô A-mi-đà Phật), bao nhiêu nổi thắc mắc và băn khoăn nơi lòng tôi đều tan rã như khối tuyết dưới ánh nắng trưa hè…
Từ hồi nào, dù với hàng đệ tử, tôi chưa từng bảo ai bỏ niệm A-di mà niệm A-mi. Song, do ảnh hưởng ngấm ngầm mà lần lần có một số đông người xuất gia cũng như hàng tại gia niệm A-mi-đà. Đó phải chăng là do cơ duyên thời tiết nó nên như thế! Và cũng vì cớ ấy mà hôm nay có bài thuyết minh và tự thuật này.
Tôi viết bài này chỉ với mục đích giúp thêm sự nhận chơn về câu Nammô A-mi-đà Phật cùng lịch sử của nó, cho các bạn đồng tu đã chuyên niệm như thế. Và bài này cũng chỉ truyền bá trong phạm vi các bạn đây thôi.
Tôi xin khuyên nhắc các bạn, đối với những vị đã quen niệm hay đã sẵn tín tâm nơi câu Nam mô A-di-đà Phật, nhất là người ở trong hoàn cảnh thiếu tiện lợi, các vị nên để yên cho các vị ấy niệm theo sự phổ thông cổ lệ để tránh sự ngoại chướng cho họ và cho họ khỏi sự do dự trên đường hành trì mà họ có thể vướng phải.
Cố hòa thượng Thích Trí Tịnh
20 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Ý Nghĩa và Quy Tắc Trợ Niệm
Trợ niệm là trợ giúp cho người đó vãng sanh. Người trợ niệm cần phải biết rõ đạo lý, phương pháp vãng sanh thì người đó mới có thể lợi lạc.
Con người lúc lâm chung, thần thức của họ đều không giống nhau. Những hành vi, việc làm hằng ngày, mọi thứ hình ảnh đó giờ đây sẽ hiện hành, dẫn dắt bổn tánh của ta hướng ra ngoài, lúc đó nghiệp lực của chúng ta sẽ hoàn toàn làm chủ, lực lượng nào lớn nhất sẽ dẫn đầu. Nếu nghiệp ác nhiều, lực lượng của của chủng tử ác sẽ lớn nhất, một khi chúng vừa xông ra liền đưa ta xuống tam ác đạo. Ngược lại, nghiệp thiện nhiều, chủng tử thiện sẽ dẫn ta lên hai cõi trời và người.
Hàng ngày có công phu niệm Phật tức có chủng tử Phật. Lực lượng của chủng tử Phật lớn thì sẽ xuất hiện trước, ta liền được Phật tiếp dẫn vãng sanh về Tây Phương. Nếu lực lượng này nhỏ yếu không xuất hiện nổi, nhờ có người khác ở bên cạnh giúp trợ niệm thì chủng tử này sẽ dễ dàng xuất hiện. Cho nên, trong lúc bình thường có tu trì, thì lâm chung chủng tử Phật sẽ xuất hiện ra trước, việc vãng sanh chắc chắn có nhiều hy vọng. Trợ niệm chính là giúp cho họ khơi dậy câu Phật hiệu. Người Phật tử, bất luận trong lúc bình thường tụng bao nhiêu kinh, niệm bao nhiêu câu chú, khi lâm chung muốn chủng tử Phật xuất hiện, thì duy nhất chỉ có bốn chữ “A Di Đà Phật” mới hữu dụng.
Câu nói này vô cùng quan trọng, mọi người cần phải luôn luôn ghi nhớ một cách sâu sắc.
Khi trợ niệm phải tuân thủ theo qui tắc. Người trong nhà bệnh nhân không được quấy nhiễu, hoặc tự đưa ra ý kiến. Người đã chết rồi, đừng nên làm điều gì cho rộn ràng. Lúc ban hộ niệm đến nhà có thể chuẩn bị trà nước, ngoài ra không phải chuẩn bị gì hết.
Người trợ niệm cần phải lưu ý hai điểm:
1. Tự mình đem cơm theo, đừng làm phiền tang chủ. Có thể uống trà nước của họ.
2. Chớ bao giờ nhận tiền (lì xì). Điểm này tuyệt đối không được phá lệ.
Một khi phá lệ, nếu không có nhận được tiền lì xì, thì tâm sẽ không tập trung, không thành tâm để niệm, lúc đó việc trợ niệm sẽ biến thành việc mua bán. Đây là điều phá hoại Phật pháp! Ngay đến việc nhận quà cũng không được. Người tại gia đi trợ niệm, lấy tiền tức là tạo tội và nghiệp. Lấy tiền của người khác thì ban trợ niệm này coi như hỏng hết! Mọi người phải học theo Ấn Tổ (Ấn Quang Đại Sư), nếu không sẽ là kẻ phản đồ. Không tuân thủ theo qui tắc là lừa Thầy diệt Tổ vậy!
Phàm là liên hữu gia nhập vào ban niệm Phật đều phải có danh sách. Quyến thuộc của ban viên tin tưởng Phật pháp, khi hữu sự chúng ta phải đi trợ niệm. Nếu không tin Phật pháp thì không cần phải nói nữa. Đây là phạm vi của việc trợ niệm.
Khi đi trợ niệm, những thứ cần chuẩn bị như sau:
Một bức tượng Phật lớn cỡ 1 thước, một lư hương, một hoặc hai cái khánh, một cặp đèn cầy, nhang (không cho gián đoạn), một ly hoặc chén đựng nước. Chúng ta phải mang theo những thứ này, bất luận trong nhà của tang chủ có hay không.
Tượng Phật đặt ở vị trí sao cho bệnh nhân có thể nhìn thấy (đây là nguyên tắc). Không nhất định phải đính vào tường hoặc treo, vẫn có thể đặt trên bàn. Cũng không nhất định phải phân biệt hướng Đông, Tây, Nam, Bắc; vì nhà của mỗi người khác nhau. Vả lại mười phương tự nó vốn không phân biệt Đông, Tây, Nam, Bắc. Nơi nào có hình Phật nơi đó có hướng Tây.
Sáu chữ, bốn chữ, phải theo qui tắc mà niệm. Trước tiên niệm “Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới đại từ đại bi A Di Đà Phật”. Sau đó từ sáu chữ chuyển thành bốn chữ, dùng một hoặc hai chiếc khánh phối hợp với nhau đánh.
Nhang đèn của mình mang theo khi dùng hết, có thể dùng của tang chủ. Nếu họ không có, không thắp cũng được.
Sau khi bước vào nhà, vị trưởng ban hộ niệm an trí hình Phật trước, sau đó thắp đèn và nhang. Sắp xếp xong chỗ ngồi và đứng cho ban viên, thì bắt đầu niệm. Việc sắp xếp vị trí ngồi, đứng rất quan trọng, vì ổn định vị trí khiến cho người bệnh được an tâm, không phải cứ mãi hướng theo chúng ta mà nhìn Đông ngó Tây.
Trường hợp người bệnh chưa tới lúc nguy cấp, có thể khởi đầu bằng câu “Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật”. Nếu lúc nguy cấp thì bắt đầu ngay từ sáu chữ. Trường hợp thấy nguy cấp hơn nữa thì trực tiếp niệm bốn chữ là được. Một câu “A Di Đà Phật” bao gồm đủ cả ba thừa. Điều quan trọng là ở chỗ khơi dậy được câu danh hiệu Phật ở nơi người bệnh, công đức ấy thật vô lượng.
Người trợ niệm cần phải lưu ý, trưóc khi vô nhà phải tìm chủ nhà trước, gặp được chủ nhà rồi mới vào để tránh việc nghi ngờ khi họ bị mất đồ. Chủ nhà hướng dẫn chúng ta đi đâu thì chúng ta đi đó.
Lúc không trợ niệm thì ngồi một chỗ nghỉ ngơi, không làm việc gì cả. Khi hộ niệm thì dốc hết tâm vào câu Phật hiệu. Trong lúc hộ niệm, người không phận sự không được vào làm nhiễu loạn, có thể đứng ở xa nhìn, không được nói rằng phải vào thăm bệnh, rồi nói những chuyện hoặc có những cử chỉ tình cảm. Phải biết rằng, một khi người bệnh động lòng là hỏng hết mọi việc!
Mọi người trong lúc bình thường công phu đều mong cầu được nhất tâm bất loạn, thì khi lâm chung cần phải nhất tâm bất loạn hơn. Người trợ niệm không được ho, ách-xì hoặc phát ra những âm thanh khác khiến cho người bệnh nghe được, đều không tốt. Muốn như vậy, trong lúc bình thường phải luyện tâm. Luyện tâm để không có tạp âm xen vào. Nếu không, người bệnh đang giữ chánh niệm để niệm Phật, bất thần bị một tiếng ách-xì mà giựt mình, để rồi hồn vía không biết sẽ bay đến tận nơi nào?!
Trong lúc bịnh nhân sắp tắt thở, giây phút này tối quan trọng, là giai đoạn khẩn cấp nhất. Người nhà lúc này thường nghĩ rằng phải tập trung ở trước mặt bệnh nhân, trường hợp này ban hộ niệm phải ngăn cấm, đừng cho họ khóc, đừng để họ kêu: “Ba ơi! Má ơi!” ầm ĩ lên. Hãy khuyên họ phải nhất mực niệm Phật, đừng vì tình cảm mà làm hư hỏng hết mọi sự.
Sau khi bệnh nhân tắt thở, nhưng linh hồn vẫn chưa đi, vì nghiệp lực của tâm thức vẫn còn ở trong thân xác chưa ra khỏi được. Những người có công phu tốt hoặc nghiệp tội nặng, chỉ trong khoảnh khắc là ra đi liền. Đối với người bình thường, tâm thức ra không nổi, cho nên rất khó khăn và đau đớn như rùa sống bị lột cái mai vậy. Do đó, phải niệm Phật 24 giờ không gián đoạn mới mong bảo toàn hiểm nguy. Đối với người thời xưa họ rất xem trọng điểm này.
Khổng Tử nói, sau ba ngày mới được đại liệm (chôn cất), vì sau ba ngày linh hồn mới đi khỏi. Các bậc Thánh nhân đều hiểu được điều này. Người bình thưòng đối với việc sanh tử đại sự, đa số đều không rõ.
Vị trưởng ban hộ niệm phải dặn dò người nhà của bệnh nhân rằng: trong vòng 12 tiếng đồng hồ không được động đậy đến thể xác, không được thay áo quần hay rờ vào. Bất cứ người nào cũng không được đụng vào. Phải chờ sau thời gian hộ niệm mới được đụng vào thể xác. Nếu thấy thân xác bị cứng, chỉ cần dùng nước nóng đắp lên là được.
Trợ niệm đến đây có thể tạm dừng, niệm bài văn hồi hướng (xem trang 3), rồi đảnh lễ là xong. Vị trưởng ban nếu có mền “chú đà la ni” (mền quang minh) thì tặng cho họ một tấm, cho một gói “quang minh chú sa”. Sau đó có thể ra về, không phải bận tâm nữa.
Tóm lại, ý nghĩa và qui tắc trợ niệm mọi người không thể không biết. Chư đại đức của Tịnh Độ ngày xưa có viết một quyển sách “Lâm chung cần biết”, mọi người có thể nghiên cứu tham khảo. Quả có thể giúp cho một người vãng sanh, thành tựu một vị Phật. Công đức này không thể đếm hết được.
Trợ Niệm Vãng Sanh Cần Biết
- Kệ phát nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền:
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời
Tận trừ nhất thiết chư chướng ngại
Diện kiến bỉ Phật A Di Đà
Tức đắc vãng sanh An-Lạc sát
Tạm dịch:
Nguyện con lúc bỏ xác ra đi
Tận trừ tất cả mọi chướng ngại
Được thấy đức Phật A Di Đà
Liền được vãng sanh nước An-Lạc
- Lời của Ấn Quang đại sư:
Thành tựu cho một chúng sanh vãng sanh về Tây Phương tức thành tựu cho một chúng sanh thành Phật. Công đức này thật không thể nghĩ bàn.
- Ba yếu tố thành công khi hộ niệm:
a – Bản thân người vãng sanh phải đầy đủ ba món tư lương: Tín-Hạnh-Nguyện. Trong lúc bình thường phải dặn dò người thân trong gia đình lưu ý những điều quan trọng cần biết. Ngài Ngẫu Ích đại sư nói: “Vãng sanh được hay không hoàn toàn do ở việc có Tín và Nguyện hay không. Phẩm vị thấp cao hoàn toàn do ở công phu trì danh sâu hay cạn”.
b – Con cháu, thân quyến phải tận đại hiếu, tâm từ bi ân huệ, thành khẩn tuân theo chế luật của Phật, hộ trì cha mẹ, thân quyến vãng sanh Tây Phương một cách như pháp. Cho nên nói: “Thân đắc ly trần cấu, tử đạo phương thành tựu”. (Cha mẹ được xa lìa bụi trần, mới gọi là trọn đạo làm con).
c – Chư vị đại đức, liên hữu (bạn đạo) vì đạo nghĩa thành khẩn trợ niệm, thành tựu cho người khác được vãng sanh. Đó chính là quả báo tốt để người khác thành tựu lại cho chính mình. Ấn tổ nói:
Khuyến thân tu Tịnh tận Nho đạo
Kỳ chúng vãnh sanh hướng Phật hoài
(Khuyên cha mẹ tu Tịnh, tròn đạo hiếu
Nguyện chúng vãng sanh, tròn Phật đạo)
Nếu theo ba yếu tố trên mà hộ trì, trợ niệm một cách đúng pháp, thì chắc chắn rằng vạn người tu vạn người đi, thành tựu cho chúng sanh vãng sanh Tây Phương viên thành Phật đạo, công đức không thể nghĩ bàn. Giả như việc vãng sanh có chướng ngại, liền phải thành khẩn cầu Phật gia trì cho tiêu trừ chướng ngại, để thành tựu vãng sanh đại sự.
- Ấn Quang đại sư khai thị ba điểm lớn lúc lâm chung:
a – Giảng giải, chỉ bày, an ủi một cách khéo léo khiến cho sanh lòng tin, khuyên người bệnh buông xả tất cả, nhất tâm niệm Phật, nếu có việc gì bàn giao, căn dặn nên gấp rút nói rõ. Sau khi bàn giao rồi không nên nghĩ ngợi đến nữa, chỉ giữ một ý niệm duy nhất: “Mình sắp theo Phật vãng sanh về nước của Ngài”. Dùng tâm chí thành mà niệm Phật, chắc chắn cảm động đến Phật phát đại từ bi đích thân đến tiếp dẫn, khiến cho được vãng sanh.
b – Mọi người luân phiên nhau niệm Phật để giúp cho người bệnh được tịnh niệm.
Tâm và sức lực của người bệnh lúc này rất yếu, khó có thể niệm liên tục lâu dài, giờ này hoàn toàn nhờ vào sự trợ niệm của người khác mới có thể niệm một cách đắc lực. Nên biết, giúp người được tịnh niệm vãng sanh, tức được quả lành cho người khác trợ niệm trở lại mình. Đừng nói rằng, chỉ vì tận hiếu cho cha mẹ của mình nên mới làm việc trợ niệm. Làm cho người khác tức là tự gieo trồng ruộng phước cho chính mình, trưởng dưỡng thiện căn cho chính mình. Thành tựu cho một người vãng sanh Tịnh Độ tức là thành tựu cho ột chúng sanh thành Phật. Trợ niệm cần phải chia phiên, phần pháp khí chỉ duy nhất dùng “khánh”, tiếng niệm Phật rõ ràng từng chữ, không nhanh, không chậm.
c – Cấm kỵ di động thân xác hoặc khóc lóc để tránh làm hỏng việc.
Người bệnh khi sắp tắt thở cũng chính là lúc phải phân biệt cảnh giới giữa phàm, Thánh, người và quỷ ma. Cho nên, ngay lúc này chỉ có thể dùng danh hiệu Phật để khai thị, hướng dẫn thần thức của họ chứ không được tắm rửa, thay quần áo, di động, than khóc. Tùy theo ý thích của người bệnh muốn ngồi hay nằm cũng được. “Nóng ở đỉnh đầu sanh về Tịnh Độ, ở trán sanh về trời, ở ngực sanh về cõi người, ở bụng sanh ngạ quỷ, ở đầu gối sanh vào cõi súc sanh, dưới bàn chân sanh về địa ngục”. Biết vậy, mọi người đều phải niệm Phật một cách khẩn thiết, đừng để ý thăm dò hơi nóng nằm ở đâu, quyết định sẽ giúp họ đới nghiệp vãnh sanh (còn mang nghiệp mà vẫn được vãng sanh).
Thơ xưa có câu:
Ngã kiến tha nhân tử, ngã tâm nhiệt như hỏa
Bất thị nhiệt tha nhân, khán khán luân đáo ngã
Tạm dịch:
Tôi thấy người ta chết, tâm tôi nóng như lửa
Chẳng phải vì người nóng, thấy rằng sẽ đến tôi.
Trợ Niệm Cần Biết Thêm
- Thiết bị:
Trước tiên phải an trí tượng Phật, nhang đèn, lấy hướng tây làm chuẩn nhưng không nên miễn cưỡng. Nếu trong phòng đã có sẵn hình Phật thì không cần phải thiết bị thêm. Khói hương cần tránh quá nồng vì sẽ trở ngại cho việc hô hấp của bệnh nhân.
Vị trí hình Phật đặt hoặc treo nơi nào cho bệnh nhân có thể nhìn thấy.
- Khi bắt đầu:
Người trợ niệm chỉ niệm “A Di Đà Phật”. Chỉ dùng khánh, không dùng những loại pháp khí khác, cũng không tụng bất cứ kinh điển nào.
Người trợ niệm khi vừa tới nhà bệnh nhân, thấy họ đã đến lúc khẩn trương hay nguy cấp thì miễn nghi thức thiết kế bàn Phật, có thể trực tiếp đến trước bệnh nhân đánh khánh niệm 4 chữ Phật hiệu “A Di Đà Phật”.
- Số người trợ niệm:
Mỗi nhóm từ 2 đến 5 người cùng niệm, tối đa không quá 10 người.
Mỗi nhóm thay phiên nhau niệm 2 giờ đồng hồ.
- Khai thị:
Nếu thần thức của bệnh nhân còn tỉnh táo, có thể do người phụ trách của ban trợ niệm khuyên họ buông xả vạn duyên để niệm theo tiếng Phật hiệu, hoặc niệm trong tâm, hoặc lắng tai nghe theo.
Nếu người bệnh có điều gì lưu luyến, người phụ trách nên giảng giải cho họ hiểu: nếu thọ mạng chưa dứt bệnh sẽ chóng lành; nếu thọ mạng không còn thì sẽ vãng sanh Cực Lạc. Giải thích cần vắn tắt như vậy để giúp cho họ giữ chánh niệm.
- Đề phòng chướng ngại: Có 2 trường hợp:
– Đối với thân quyến của người bệnh, cần họ cử ra một người phụ trách trong việc hộ niệm. Phàm những việc gì có liên quan đến bệnh nhân có thể nhờ họ giúp ban trợ niệm liên lạc dễ dàng.
– Hoặc giả không cần người nhà của bệnh nhân, ban hộ niệm tự bắt đầu trợ niệm. (Luôn nhớ, không được ở trước mặt bệnh nhân hỏi chuyện gì khác ngoài việc niệm Phật). Nếu người nhà của bệnh nhân là người hiểu đạo, muốn tham gia việc trợ niệm thì nên nhờ người trong ban nói với người phụ trách (trưởng ban, trưởng nhóm). Sau khi được chấp thuận mới được tham gia.
- Cấm kỵ:
– Người bệnh nếu muốn tắm rửa, việc thay quần áo phải xong trước khi trợ niệm. Việc này phải do người trong nhà phụ trách. Tuy nhiên phải xem tình trạng của bệnh nhân mà tắm và thay áo nhanh hay chậm. Nếu bệnh nhân không muốn, không nên cưỡng ép mà tăng thêm sự đau đớn của họ.
– Một khi đã bắt đầu trợ niệm, mọi việc thay đồ, tắm rửa, di động đều bị ngăn cấm.
– Không được đến trước bệnh nhân nói nhảm hay an ủi theo kiểu thế tục, hoặc hỏi lời di chúc hay than thở khóc lóc, khơi dậy những tình cảm yêu thương làm chướng ngại cho đường vãng sanh.
– Trong lúc vãng sanh, bệnh nhân có thể: ngồi, nằm, nằm nghêng, hoặc nằm thẳng đều phải tùy thuận theo họ, không được cưỡng ép.
– Sau khi lâm chung, trong vòng 8 tiếng đồng hồ không được di động, tắm rửa, thay áo quần. Nếu xương cốt bị cứng thì dùng khăn tẩm nước nóng đắp lên, không bao lâu sẽ mềm lại.
– Sau khi lâm chung từ 8 đến 12 giờ không được sờ vào xác để thăm dò hơi ấm, càng không được than khóc.
- Sau khi người bệnh lâm chung trong vòng 8 giờ đồng hồ không được ngừng tiếng niệm Phật. Qua thời gian này xem như việc trợ niệm đã tròn nhiệm vụ. Sau khi ban trợ niệm làm tròn nhiệm vụ, người nhà muốn tắm rửa, thay áo quần, di động hay khóc than thì tùy ý.
- Thân quyến của người bệnh nếu không y theo điểm qui định thứ 2 và thứ 3, ban trợ niệm tức khắc đình chỉ nghĩa vụ trợ niệm.
- Phòng của bệnh nhân phải quét dọn sạch sẽ. Những đồ vật không cần thiết, nên dọn cho trống thoáng.
Thứ nhất: Tránh đụng đậy tạo ra tiếng ồn ảnh hưởng đếnh bịnh nhân.
Thứ hai: tránh sự bất tiện cho người hộ niệm khi ra vào.
Trước giường bịnh nhân nên treo hình Phật A Di Đà, nơi bịnh nhân có thể nhìn thấy và cúng dường hương hoa. Trong lúc bịnh nhân còn tỉnh, nếu có đại tiểu tiện, liền gọi người nhà thay rửa sạch sẽ.
Trường hợp bịnh nhân sắp đến lúc tắt thở thì không được thay rửa, chỉ nhất mực tiếp tục phát tâm niệm Phật cho dù có mùi hôi. Nên biết rằng trợ niệm là đảm nhận trách nhiệm của Như Lai để cứu độ chúng sanh ra khỏi sanh tử, há vì những mùi hôi uế đó mà bỏ đi trách nhiệm của mình chăng? Vả lại, mỗi người chúng ta đến lúc lâm chung cái thân thể phân đoạn sanh tử này ai dám bảo đảm rằng mình không có ô uế? Nếu mọi người nghĩ được như vậy, tâm của chúng ta sẽ không còn để ý đến mùi hôi uế nữa. Cho đến khi thân thể bịnh nhân hoàn toàn lạnh hết mới được thay rửa. Trước hình Phật không được để mùi hôi uế. Nhưng vì chiếu cố đến việc giữ chánh niệm cho bịnh nhân sắp tắt thở nên phải để yên vì sợ làm hỏng việc vãng sanh đại sự, không thay rửa đồ hôi uế của bịnh nhân là việc bất đắc dĩ nên có có tội và lỗi.
- Nếu trong lúc trợ niệm, thấy bịnh nhân như bị hôn trầm, giống như đang ngủ, người trợ niệm nên dùng “khánh” để kế bên tai của bịnh nhân gõ một tiếng hoặc nhiều tiếng, đồng thời tiếng niệm Phật cất giọng cao hơn khiến tâm của bịnh nhân không bị hôn mê.
- Khi bệnh nhân sắp tắt thở, nếu ban hộ niệm hoặc trong gia quyến đông người, tốt nhất có thể chia thành nhóm đến trước hình Phật, quỳ niệm, lạy niệm và trong lòng mỗi người quán tưởng: Phật A Di Đà đang phóng đại quang minh, tiếp dẫn vong nhân, vong nhân đang ở trong hào quang của Phật chấp tay vãng sanh Tây Phương.
- Đang khi trợ niệm, thấy trên mặt bịnh nhân xuất mồ hôi, hoặc hiện vẻ lo âu, đầu, tay, chân cử động không yên, đây là hiện tượng của bệnh khổ, hoặc mắt nhắm lại như ngủ, đây là lúc chánh niệm của bịnh nhân không thể tự chủ được. Người hộ niệm phải đến gần bịnh nhân, lớn tiếng cảnh sách (nhắc nhở) ông… hay bà… Tây phương đang ở trước mặt ông (hay bà) cố gắng đề câu “A Di Đà Phật” lên, chắn chắn sẽ được đi về Tây phương. Nói như vậy hai lần, tối đa không được quá ba lần. Sau đó chỉ cất cao giọng niệm Phật.
- Người trợ niệm nên xem bịnh nhân như là thân thuộc của mình, mặc dù đời này không thật sự là thân thuộc, nhưng rất có thể đời trước hoặc nhiều đời trước đã từng là bà con thân quyến với nhau. Nghĩ được như vậy, cái tâm giúp người bịnh để trợ niệm sẽ thân thiết hơn nhiều.
- Khi trợ niệm được nhiều giờ, thấy tinh thần của bịnh nhân bỗng tỉnh táo hơn trước, có thể nói chuyện hoặc than thở hoặc thân thể cử động, trong tình huống này, người trợ niệm phải lưu ý không được xem họ đã lành bịnh, thường thường chỉ hai giờ đồng hồ sau họ sẽ tắt thở, giống như ngọn đèn dầu lóe lên một tia sáng trước khi vụt tắt.
Sau đây là lời từ kim khẩu của Thế Tôn đích thân tự nói trong kinh pháp: (Hán văn trang 73)
“Phàm người niệm Phật, trong lúc bình thường tu quán tưởng, quán tượng, chưa đạt đến công phu tam muội.
Phàm người tu trì danh niệm Phật, chưa đạt được công phu nhất tâm bất loạn, một khi tới lúc lâm chung, bị bịnh khổ bức bách, thân tâm không thể yên ổn cùng đủ loại chướng ngại, quán tưởng quán tượng, trì danh đều không đề khởi được. Nếu có thể nghĩ: ở trước mặt mình, chân chân, thật thật, có Phật A Di Đà từ bi đưa tay tiếp dẫn, niệm niệm đều nghĩ mình phải vãng sanh Tây phương. Một niệm sau cùng có cái tâm nguyện sanh, liền theo một niệm của tâm nguyện vãng sanh này mà sanh Tây phương.”
Vãng sanh được hay không chính nhờ ở một niệm sau cùng này.
KỆ HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức này
Hồi hướng ….. (họ và tên người vãng sanh)
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có kẻ thấy nghe
Đều phát lòng Bồ Đề
Hết một báo thân này
Đồng sanh cõi Cực Lạc
Mười phương ba đời tất cả Phật
Tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Câu hỏi: Người bịnh đã chết, còn giúp họ niệm Phật có tác dụng gì ?
Trả lời: Bởi vì người bịnh vừa mới tắt thở, nhưng thần thức vẫn chưa hoàn toàn lìa khỏi thân thể, nơi họ sẽ được sanh về chỗ thiện ác chưa được quyết định. Ngay lúc này, giúp họ niệm Phật được sự diệu dụng vô cùng to lớn, phải biết rằng, phàm người đến lúc gần chết cũng chính là ngã rẽ của hai đường thiện, ác. Chúng ta làm người, từ nhiều đời kiếp đến nay đã tạo vô lượng vô biên những thiện nghiệp, ác nghiệp, ngay giờ phút này, chúng xuất hiện liên tục trong đầu óc. Nếu người lúc lâm tử (gần chết):
– Cái một niệm sau cùng là ác, liền lúc đó trong tâm xuất hiện cảnh giới địa ngục, ngạy quỷ, súc sanh. Một niệm mạng chung này sẽ theo những ác cảnh đi đầu thai vào ác đạo
– Một niệm sau cùng nếu là thiện, trong tâm liền xuất hiện thiện cảnh của trời, người, và theo những thiện cảnh này đầu thai vào thiện đạo
– Một niệm sau cùng nếu là niệm Phật cầu sanh Tây phương, trong tâm nguyện này sẽ xuất hiện thế giới Cực Lạc. A Di Đà Phật và chư Thánh chúng đến tiếp dẫn rồi liền theo cái tâm niệm sau cùng đó đi theo Phật A Di Đà vãng sanh về Thánh đạo của thế giới Cực Lạc.
Nên biết rằng, lý do mà chúng ta giúp người lầm chung niệm Phật, chính là vì một niệm sau cùng phải niệm Phật. Một niệm sau cùng biết niệm Phật, Phật A Di Đà sẽ ngay từ tâm niệm Phật của người chết xuất hiện, tiếp dẫn, người chết do tâm niệm Phật của mình theo Phật vãng sanh. Sau khi sanh về Tây phương sẽ vĩnh viễn đoạn dứt việc sanh tử của thế giới Ta bà, vĩnh viễn hưởng niềm vui sướng vô lượng.
Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam giảng tại liên xã Đài Trung
20 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
1. Tây Phương Có Phật Hiệu A-Di-Ðà
Chúng ta chỉ biết mình do cha mẹ sanh ra. Song trước khi được cha mẹ sanh ra, mặt mũi mình ra sao? Sau khi chết đi, mình sẽ về đâu?
Nay do nghe Phật Pháp, biết có Ðức Phật hiệu A-Di-Ðà là vị đã phát 48 lời nguyện, rằng ai niệm danh hiệu của Ngài thì sẽ được tiếp dẫn về Tây Phương. Nếu Phật có nguyện vậy, thì mình cũng phải phát nguyện: nguyện vãng sanh Cực-Lạc.
Mình phải tin chắc rằng thật có Thế-Giới Cực-Lạc, có Ðức Phật Ðại Từ Ðại Bi A-Di-Ðà; rồi phải luôn luôn niệm Phật để đến lúc lâm chung mình mới có chánh niệm. Khi hấp hối mà có khả năng niệm Phật, thì Ðức A-Di-Ðà ắt sẽ đến tiếp dẫn. Song le, nếu bạn vẫn còn ý nghĩ lưu luyến bất kỳ thứ gì, dù nhỏ như đầu kim, ngọn cỏ ở cõi Ta-Bà này, bạn sẽ lại rớt vào vòng luân hồi!
Cái nghiệp của Phật, Bồ-tát chính là lòng lo lắng cho chúng sanh của các Ngài.
Khi cõi Ta-Bà còn chúng sanh, thì còn Phật, Bồ-tát. Khi chẳng còn chúng sanh, thì Phật, Bồ-tát cũng không còn.
Mau mau tu để về Tây Phương, không thì ở đây khổ lắm! Ở đây bạn thấy nóng nảy, chứ ở Tây Phương thì thanh tịnh, mát mẻ.
Trần gian đầy dẫy đấu tranh – mình phải tìm một nơi an lạc như Tây Phương của Ðức Phật A-Di-Ðà.
Mình đã hồ đồ, mê muội lúc đầu thai. Giờ đây, mình cần phải sáng suốt tìm đường đi lúc chết – con đường ấy chính là Niệm Phật A-Di-Ðà.
Tứ Sanh (bốn loại chúng sanh được sinh ra từ trứng, từ thai bào, từ nhiệt độ ẩm thấp, và từ sự biến hóa) đều ở trong vòng luân hồi, không gián đoạn sanh tử. Nguyên do là bởi ý niệm tham lam, phiền não, vọng tưởng… khởi lên khi Sáu Căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với Sáu Trần (hình, sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, cảm xúc, pháp). Do đó Sáu Căn tác hại lắm.
Ngày nay, bạn mà có thời gian để tu hành là quý báu, khó được lắm đấy. Ðể xem bạn có tìm đặng con đường thoát sanh tử hay chăng. Nếu bạn quá chú trọng, chăm lo cái thân xác này thì bạn chẳng phải tu hành niệm Phật đâu. Quá chăm sóc cái thân xác này, thì không có cách gì giải thoát nổi!
Kinh A-Di-Ðà nói tới Phật ở sáu phương – Ðông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới – đều hiển xuất tướng lưỡi rộng dài (tức là thuyết Pháp), khiến Pháp-âm trùm khắp ba ngàn cõi Ðại Thiên Thế-Giới – chủ yếu đều quy nạp về Tây Phương.
Tây Phương ở đâu? Ở trong tâm mình – khi tâm vô sự, không phiền não, thì đó tức là Tây Phương.
Tuy rằng thân ta hiện sinh ở cõi Ta-Bà, song nếu mình niệm Phật mà niệm tới lúc tâm tịnh, thì cõi Phật sẽ tịnh. Nghĩa là khi tâm thanh tịnh, không phiền não, không vọng tưởng; thì đó là Tịnh-Ðộ – cõi Tịnh-Ðộ ở ngay giữa Ta-Bà – mà tâm tức là Tây Phương.
Tây Phương Cực-Lạc ở tâm ta. Mình cần phải niệm Phật cho tới chỗ tâm thanh tịnh; niệm một cách đầy chú ý, tập trung. Khi niệm Phật, bạn cần phải phát nguyện vãng sanh Tây Phương, rời bỏ trần gian khổ lụy. Chớ nên quá yêu quý, nâng niu cái thân xác thịt này.
Mỗi thế giới cũng như mỗi hạt cát, trong đó có hằng hà sa số chúng sanh mà ai ai cũng có thể sinh về Tây Phương được cả.
Hễ mình niệm Phật thì hoa sen (ở Tây Phương) sẽ nở ra. Do đó nói: “Tâm khai (niệm Phật) thì hoa nở.”
Niệm Phật thì mới khiến ta thật sự thanh tịnh. Niệm Phật là con đường dẫn tới Tây Phương. Hễ niệm Phật thì mình sẽ tới đặng Tây Phương mà chẳng cần phải mua vé tàu, ngồi phi cơ; bởi thuyền Pháp thì không có sắc tướng.
2. Niệm Phật
Niệm Phật, tụng kinh, xem Kinh và nói chuyện là bốn việc mà bạn chắc chắn làm hằng ngày. Tốt nhất là ít nói chuyện. Thời gian tụng Kinh và xem kinh sách không nên nhiều hơn thời gian niệm Phật là tốt nhất. Niệm Phật vẫn là chủ chốt.
Xem kinh sách không cần phải quá nhiều. Phàm gặp việc gì, cứ một câu “A-Di-Ðà Phật” là được. Ðể tránh chuyện thị phi, cứ một câu “A-Di-Ðà Phật”.
Bạn hãy yên lặng, lắng lòng mà niệm Phật; niệm tới lúc ngủ thiếp luôn càng tốt. Khi tâm tới chỗ chuyên nhất – chỉ một niệm – thì bạn có thể siêu xuất Tam Giới, thẳng tới Tây Phương. Khi tu hành, bạn cần phải tập: mắt nhìn mà giả lờ như không thấy, tai nghe mà giả đò như không biết; chỉ thành thật niệm Phật.
Không cần phải xem nhiều sách vở, chỉ cần niệm Phật cho nhiều. Khi trí huệ khai mở, tất cả Kinh Tạng tự nhiên sẽ ở tại tâm bạn.
Ði, đứng, nằm, ngồi, đều nên ở trong phạm vi niệm Phật.
Khi định tâm lại niệm, bạn sẽ giác ngộ rằng chúng ta từ sáng tới tối, tâm luôn nhắm mắt ra bên ngoài mà không bao giờ quán xét xem tâm mình có hướng về Phật A-Di-Ðà chăng. Ðừng để cho tâm bạn bị cột vào đám tín đồ, đệ tử, hoặc cảnh giới bên ngoài. Nếu bạn cột vào chúng thì sẽ bị chúng xoay chuyển, lôi đi mất; đáng sợ lắm!
Hiện tại các bạn không đủ chánh niệm, mười phần không được một; do đó thật là nguy hiểm. Khi bạn niệm Phật nhiều thì đó là Thiền sống.
Có kẻ nói là bế quan, song họ đầy dẫy vọng tưởng, đầu não không chút thanh tịnh. Khi bạn ngồi tịnh tọa lâu, thấy mệt thì nên đứng dậy đi rảo.
Khi bạn niệm Phật mà rời được cảnh giới thì đó tức là Thiền. Bạn phải duy trì chánh niệm, bởi vì trong tâm bạn luôn còn rất nhiều chủng tử xấu xa.
Khi niệm Phật mà không có chánh niệm thì lòng bạn luôn nghĩ này nghĩ nọ. Miệng niệm mà tâm hướng ngoại. Nếu bạn thật sự muốn, thì bạn mới làm cho tâm bạn chuyên nhất đặng. Nếu bạn không có lòng muốn tu, thì làm sao niệm Phật (cho thành công)?
Niệm Phật mà rời xa được ngoại cảnh, cùng Phật tương ưng, thì mới biết tâm này và Phật giống nhau.
Việc quan trọng nhất khi niệm Phật là phải nghe tiếng niệm cho rõ ràng.
Niệm Phật tức là vào Trung-Ðạo? không có tốt, không có xấu.
Tuy niệm Phật cũng là một chuyện huyễn hóa, song nó thuộc về chánh niệm. Do đó, mình dùng huyễn (niệm Phật) để diệt huyễn (vọng tưởng).
Hỏi: Niệm làm sao mới chuyên nhất?
Ðáp: Ðây cũng là chấp trước. Chỉ cần bạn đừng để ý gì tới vọng tưởng là được (thì tâm sẽ chuyên nhất). Bởi vì mình tự nhủ lòng rằng: “Ðừng khởi vọng tưởng”; song vọng tưởng vẫn cứ tự dấy khởi. Do đó, hễ để ý tới vọng tưởng thì mình lại sanh thêm một vọng niệm; càng để ý tới nó thì nó càng tăng!
Khi vọng niệm nổi lên, bạn đừng sợ. Hãy mặc kệ, đừng chú ý tới nó là xong. Cứ một lòng niệm “A-Di-Ðà Phật”. Vọng niệm vốn không có thực thể, từ từ nó sẽ tan biến mất.
Hễ nhớ tới niệm Phật thì niệm ngay; không nên chấp trước rằng tôi phải làm thế này thế kia. Niệm Phật là tuy niệm mà không (chấp trước vào) niệm.
Niệm Phật mà còn thấy rằng mình đang niệm hay không niệm, thì đều là chấp trước.
Niệm Phật thì phải tùy duyên. Phàm làm chuyện gì, ở đâu, lúc nào cũng nên tùy hoàn cảnh mà niệm Phật. Không phải nói rằng: “Tôi cần niệm bao nhiêu, bao nhiêu hồng danh”, hoặc “Tôi đang niệm Phật, không thể làm việc được”, hoặc “Tôi đang bận rộn, chưa đi niệm Phật được… ”
Mỗi tâm niệm, mỗi ý nghĩ, bạn chớ xa rời cảnh giới Phật. Ði, đứng, nằm, ngồi – nhất cử nhất động, làm gì bạn cũng cứ niệm Phật. Khóc cũng niệm Phật; cất chân một bước cũng niệm Phật. Sức mạnh của việc niệm Phật vĩ đại vô song, có thể khiến bạn đắc Niệm Phật Tam-Muội – một thứ Ðịnh không phải tầm thường.
Khi sinh ra, mình đã mang theo trong người đầy dẫy nghiệp chướng. Do đó, chớ tạo thêm nghiệp mới để chết rồi lại mang đi; chẳng lợi ích chút nào cả!
Hỏi: Niệm đức Phật hay Bồ-tát nào thì tốt nhất?
Ðáp: Tất cả mọi đức Phật và Bồ-tát đều tốt như nhau. Không phải niệm vị này thì tốt hơn niệm vị kia: đó đều là do bạn phân biệt, so sánh mà ra. Chư Phật, Bồ-tát cũng không nhất định cần bạn niệm tên các Ngài nữa.
Niệm Phật tới chỗ tâm định, thì tức là Thiền. Nên nói:
“Vừa Thiền, vừa Tịnh-Ðộ,
Mười người tu, mười người thành.
Có Thiền, không có Tịnh-Ðộ,
Mười người tu, chín kẻ lạc đường!”
Vừa tịnh tọa vừa niệm Phật, thì tương đối không đi lầm đường hoặc xảy ra nguy hại.
Nếu tâm bạn còn tham muốn, ham thích, vương vấn chuyện gì, thì khi lâm chung việc đó sẽ hiện ra. Bấy giờ, nếu bạn thấy cảnh đó rồi nảy lòng yêu thích, sanh tâm truy đuổi nó, thì kết quả là bạn sẽ lọt thẳng vào vòng luân hồi!
Nếu bạn biết dọn lòng trong sạch niệm Phật, thì khi lâm chung sẽ có hoa sen, Phật, Bồ-tát và cảnh giới thù thắng hiện ra. Do đó, lúc còn sống bạn cần phải tu để trừ cho sạch hết những ham muốn trần tục.
3. Khai-thị lúc Phật-thất:
Mục-đích đả Phật-thất là để độ chúng sanh vãng sinh Thế-giới Cực-Lạc.
Cõi Ta-Bà thì có sinh có diệt; cõi Tây Phương thì bất sinh bất diệt. Mình đi xuất ngoại thì cần tiền mua vé máy bay, chớ tới Tây Phương thì chỉ cần niệm Phật đến độ chuyên nhất, không còn sắc tướng (chấp trước). Ðó chính là “bất sinh bất diệt” vậy. Phải niệm Phật thì mới có chỗ để mình ký thác thân mạng này.
Niệm Phật thì phải niệm niệm không xa rời Phật. Niệm cho rõ ràng, nghe cho phân minh, mỗi chữ mỗi chữ đều phải rõ. Tâm nhớ tưởng, tai lắng nghe, miệng thầm niệm – cứ thế mà nhiếp tâm chuyên chú nơi Phật hiệu. Hãy buông bỏ mọi chuyện bên ngoài; cứ nương theo tiếng niệm thì tâm sẽ tập trung, chuyên nhất. Bất kể là “người niệm” hay “tiếng niệm”, bất kể là “tôi niệm” hay “bạn niệm”; đại-chúng ai cũng nương theo tiếng niệm Phật thì tâm sẽ chuyên nhất. Tây Phương Cực-Lạc lại cũng dựa theo tiếng niệm Phật này.
Khi đả Phật-thất, bạn chớ để cho ý niệm trần tục lôi kéo tâm mình. Nếu không chuyên tâm, thật uổng cơ hội quý báu này.
Do vậy, hãy một lòng một dạ niệm Phật, chuyên chú vào tiếng niệm.
4. Niệm Phật Có Thể Thấy Phật Không?
Hỏi: Phải chăng niệm Phật thì có thể thấy Phật?
Ðáp: Không thể có!
Hỏi: Nếu vậy trong chương Ðại-Thế-Chí Niệm Phật Viên-Thông có câu:
“Nếu ai nhớ Phật, niệm Phật,
thì bây giờ hoặc mai sau nhất định thấy Phật;
Chẳng cần phương tiện gì cả, tự mình lòng dạ mở khai.”
là ý gì?
Ðáp: Ðúng! Lòng dạ mở khai tức là thấy Phật, thấy đặng vị Phật của tự-tánh.
Chư Phật và Bồ-tát đều có nguyện lực mà ta có thể dựa vào đó để tu hành. Vì thế, lúc đi, đứng, nằm, ngồi, bạn chớ rời tiếng niệm Phật. Khi niệm Phật thì mình mới tương ưng với Phật; đây là cảnh giới không có hình hài, sắc tướng gì cả.
Ðừng nên chấp trước, tự hỏi tại sao Ðức A-Di-Ðà không hiện hình ra tiếp dẫn!
5. Thầy Quảng-Hóa Tới Tham Phỏng
Coi thầy công phu hành trì trình độ tới đâu, (tôi nói để thầy nghe) chớ khi lâm chung thầy cần không vương vấn, quái ngại bất kỳ việc gì thì mới vãng sanh được.
Nếu thầy còn tham vọng muốn độ chúng sanh, thì tham muốn ấy cũng là một thứ chấp trước, một thứ quái ngại!
Hòa-Thượng hỏi: Tây Phương ở đâu?
Thầy Quảng-Hóa đáp: Nói theo phương vị, thì nó ở phương Tây; nói theo thực tướng, thì nó ở tại lòng mình.
Hòa-Thượng nói: Hễ có Phật có Bồ-tát, thì có Tịnh-Ðộ. Thầy phải giảng dạy sao cho người nghe có chỗ nương tựa để tu hành.
Ðức Phật dạy rằng nếu người nào trong một ngày, hai ngày…, cho tới bảy ngày mà có thể niệm Phật đến chỗ “nhất tâm bất loạn”, thì Phật (A-Di-Ðà) sẽ đến tiếp dẫn. Song, nếu không ăn không ngủ thì chẳng cần tới bảy ngày, chỉ bốn hay năm ngày là đủ rồi!
Thầy Quảng-Hóa nói: Có lần tôi chứng kiến Ðức Quán-Âm hiện ra với tướng mạo trang nghiêm đẹp đẽ; cả chuỗi anh lạc của Ngài cũng tuyệt đẹp.
Hòa-Thượng cười, nói rằng: Thật sao? Ở đâu mà có Bồ-tát như thế?
Khi thầy độ chúng sanh, thầy cần phát nguyện rồi theo đó mà thực hành, như Ðức Quán-Âm, Phổ-Hiền vậy. Song, đến khi lâm chung, thầy phải buông bỏ hết mọi thứ. Nếu nguyện của thầy chưa làm xong, thì thầy sanh trở lại đây để tiếp tục độ sinh; công đức này càng thù thắng, vĩ đại. Nguyện là thứ thầy ghi tạc ở trong lòng.
Phật và Bồ-tát tuy đã thị hiện nhập Niết-Bàn, song thật sự các Ngài vẫn còn quanh quẩn, không rời những kẻ đang tu hành như chúng ta; có điều các Ngài không hiện ra thôi.
Chỉ cần Kinh, Luật, Luận tồn tại, chư Phật, Bồ-tát có thể dạy mình.
Ðừng cho rằng không có ai truyền thọ, rồi không còn (Phật Pháp) gì nữa.
Khi lâm chung, đừng nên để tâm muốn thấy hình tướng chư Phật, Bồ-tát.
Cầu mà không thấy là việc tốt.
Nếu cầu mà thấy, thì những hình tướng đó không đáng tin cậy đâu.
Phải không mong cầu gì; chỉ tịnh tâm niệm Phật. Phật, Bồ-tát từ trong chân tâm thanh tịnh hiện ra thì mới thiệt đúng.
Phải buông bỏ (sự chấp trước vào) tấm thân thối tha này. Tâm là tâm. Mặc kệ cái thân này biến thành tròn hay méo, đừng để ý lo lắng, chiều chuộng nó. Chẳng cần nói xa xôi, hễ có chứng đắc, thâu hoạch được cái gì thì vẫn còn chưa đúng. (Ý Hòa-Thượng muốn chỉ sự chấp trước của Thầy Quảng-Hóa, rằng Thầy còn chấp vào sự kiện mình đã chứng kiến Ðức Quán-Âm hiện thân).
Trong cái này (Hòa-Thượng chỉ vào tâm Ngài), chẳng có vật gì cả. Các vị đó (Hòa-Thượng chỉ nhóm cư-sĩ tại gia đang ngồi nghe giảng) thì vẫn còn đủ thứ.
Hiện tại, các bạn đêm ngủ nằm mộng mà sáng ngày ra cũng là ở trong mộng.
Các bạn hệt như đang đóng phim vậy; cuốn phim này dài lắm – cả đời bạn, song chẳng khác gì giấc mộng ban đêm!
(Hòa-Thượng khuyến khích Thầy Quảng-Hóa niệm Phật bằng thực-tướng – hình tướng chân thật thì không hình hài, không sanh diệt; tức là chân tâm? chứ đừng niệm Phật bằng sự-tướng – còn chấp trước vào hình hài, sắc tướng, công việc trần gian thế sự).
Ngày hôm nay tôi nói bấy nhiêu thôi. Kẻ xuất gia thì sẽ lãnh hội được phần nào, chứ người đời thì không có ai hiểu.
Xưa kia cổ nhân chỉ nói một câu là đủ, hôm nay tôi nói quá nhiều! Chờ khi về rồi, các bạn từ từ lãnh hội thì sẽ giác ngộ, thấu suốt hết.
Trích Cẩm Nang Tu Đạo của hoàng thượng Quảng Khâm
Nguồn: niemphat.net
46/68Đầu«...10...454647...50...»Cuối
Các Phúc Đáp Gần Đây