20 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Tất cả chư Phật Như Lai, không vị nào không khuyên người cầu sinh Tịnh Độ. Các vị đều không chút lòng riêng tư, không chút tâm thiên lệch mong muốn chúng ta mau chóng thành Phật. Phương pháp thù thắng nhất chính là cầu sinh Tây Phương tịnh độ, nhanh hơn so với bất cứ pháp môn nào, thù thắng ngay trong thù thắng. Thế nhưng, thực tế có một số người nghiệp chướng sâu nặng nên không tin tưởng. Phật Bồ Tát cũng từ bi, tùy hỷ dạy pháp môn khác mà chúng ta thường gọi “tám vạn bốn ngàn”. Vậy “tám vạn bốn ngàn” là gì? Là do không tin tưởng pháp môn này, không tình nguyện học tập, không muốn cầu sinh Tây Phương Cực Lạc, chư Phật liền mở ra tám vạn bốn ngàn pháp môn. Phật mở ra vô lượng pháp môn vì những người nghiệp chướng sâu nặng.
Tường tận thông suốt đạo lý này chúng ta mới cảm nhận sự may mắn khi gặp được pháp môn của Phật, nhất định sẽ không xả bỏ, không nghi hoặc, mà một môn thâm nhập, tuyệt đối không động tâm. Với pháp môn khác, chúng ta có thể tán thán nhưng không cùng học. Thiện Tài Đồng tử có năm mươi ba lần tham học, pháp môn nào ngài cũng tham quan, cũng đều lướt qua. Thế nhưng ngài không học theo mà chân thành niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Cuối cùng ngài cũng về được thế giới Tây Phương Cực Lạc.
“Thọ dụng cụ túc đệ thập cửu”
Phẩm kinh này giới thiệu với chúng ta từ dung mạo đoan chính trang nghiêm, phước đức vô lượng, trí tuệ thông suốt, thần thông tự tại, tuổi thọ dài lâu, cho đến hoàn cảnh sinh hoạt thường ngày của người ở thế giới Tây phương Cực lạc. Đó là đích đến mà tất cả chúng sinh trên thế gian ngày đêm đang mong cầu. Nếu cầu phước, cầu trí tuệ, tự tại, thọ mạng, thì thế giới cực lạc mới được viên mãn. Chúng ta không thể cầu được ở thế giới này. Trong tám khổ có “cầu bất đắc khổ”, sau khi đã cầu chúng ta vẫn khổ. Người thế giới Tây Phương cực lạc không hề có ý niệm như vậy, tất cả đều tự nhiên, đều lưu xuất từ tánh đức, cho nên thân tâm của chánh báo thanh tịnh quang minh, y báo phước đức thù thắng, như trên đã nói “siêu thế hy hữu”. Trong kinh, Thế Tôn nói pháp phương tiện khéo léo, tuy nói nhưng “ứng niệm hiện tiền, vô bất cụ túc”. Người thế gian thường hay nói “tâm nghĩ sự thành”, nếu không chú tâm, chăm chỉ nỗ lực, sự việc không thể thành. Thế giới Tây Phương cực lạc cũng vậy, vừa nghĩ đến thì liền thành tựu.
“Phục thứ cực lạc thế giới, sở hữu chúng sanh”
Cái “sở hữu” này ý nghĩa rất dài, phía sau kinh văn có câu “hoặc dĩ sanh, hoặc hiện sanh, hoặc đương sanh”. “Dĩ sanh” là đã sanh đến thế giới Tây Phương cực lạc của Phật A Di Đà, thành Phật đã mười kiếp. “Hiện sanh” là hiện tại sanh đến thế giới Tây Phương cực lạc. “Đương sanh” chính là chúng ta, hiện tại chưa đi nhưng chắc chắn sẽ đi. “Đương sanh” là sự khẳng định đương nhiên. Khi chính mình hạ quyết tâm, không chút nghi ngờ cũng không lo nghĩ đã tạo nghiệp gì trong đời quá khứ, hiện tại thì chỗ “đương sanh” này, chúng ta sẽ có phần. Sau khi gặp được pháp môn, chỉ nghĩ đến Phật A Di Đà, không nên nghĩ những thứ khác. Trong kinh Đại thừa, đức Phật thường nói “niệm một câu Nam mô A di đà Phật tiêu hết tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội”. Chúng ta niệm có thể tiêu được hay không? Không thể! Khi chúng ta niệm “đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Vậy phải như thế nào khi niệm mới có sức mạnh lớn như vậy? Chính là người không có chút lòng nghi hoặc, trong tâm ngoài Phật hiệu không có bất cứ một tạp niệm nào. Niệm được như vậy sẽ tiêu hết tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Không nên khởi vọng tưởng, thậm chí thế gian pháp, chúng ta cũng không nghĩ đến, không nghĩ quá khứ không nghĩ hiện tại cũng không nghĩ tương lai mà chỉ nghĩ “A Di Đà Phật”, chỉ nghĩ kinh Vô Lượng Thọ, như vậy mới tiêu được tám mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Chỉ cần khởi một vọng niệm, công phu của chúng ta hoàn toàn bị phá hỏng. Do đó phải triệt để buông bỏ, vạn duyên buông bỏ, đương sanh ngay trong một đời này nhất định thành tựu, nhất định vãng sanh.
“Giai đắc như thị, chư diệu sắc thân, hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí tuệ minh liễu, thần thông tự tại”
Câu “giai đắc như thị, chư diệu sắc thân” là tổng thuyết. Diệu sắc thân chính là “hình mạo đoan nghiêm”. Chúng ta đã đọc phần trước bài kinh, sinh đến thế giới Tây Phương cực lạc, thế giới đó là hóa thân, không phải là thai sinh nên rất khó tưởng tượng. Người thế gian luôn từ nhỏ lớn dần tuổi tác theo thời gian, mỗi năm đều thay đổi. Trong khi đó, thế giới Tây Phương không như vậy. Thân người ở thế giới Tây Phương hoàn toàn giống đức Phật A Di Đà, giống từ tướng mạo thân thể đến phước đức vô lượng. Tuổi thọ ở ngay trong phước đức, tuổi thọ là phước đức đệ nhất, là vô lượng thọ, trí tuệ thông suốt, viên mãn.
Quá khứ, hiện tại, vị lai, quá khứ vô cùng, tương lai vô tận, cõi này phương khác, tất cả các pháp không gì là khó thông đạt. Kinh Hoa Nghiêm và kinh Lăng Nghiêm cũng đã nói qua vấn đề này. Trước đây chúng tôi cũng thường hay giảng “chư pháp sở sanh”, chư pháp là tất cả pháp thế xuất thế gian, sanh là sanh khởi. Tất cả pháp từ đâu mà ra?, đức Phật nói “do tâm hiện ra”, tâm đó là tự tánh, là chân tâm của chúng ta. Chúng ta “minh tâm kiến tánh” thì làm sao không biết được tác dụng của tâm tánh. Hư không, vũ trụ, vô lượng vô biên tinh cầu, và tất cả chúng sanh từ đâu mà ra?, từ trong tự tánh của chúng ta biến hiện ra. Khi minh tâm kiến tánh rồi, đương nhiên thứ gì cũng thông suốt tường tận, không cần phải học.
Đức Phật nói “sở tri chướng”, cái sở tri chướng này đã chướng ngại chúng ta, vốn dĩ chúng ta phải biết nhưng hiện tại lại không biết. Cho nên ý nghĩa của “sở tri chướng” và “phiền não chướng” không giống nhau. Bản thân phiền não là chướng ngại, còn sở tri thì không chướng ngại. Có loại chướng ngại chúng ta nhận biết, nhưng không phiền não. Tất cả chúng sinh đều có “trí tuệ đức tướng Như Lai”, nhưng vì sao hiện tại chúng ta không có trí tuệ thông suốt này? Kinh Phật thường nói, các tổ sư đại đức cũng thường nói: “sở tri chướng” là do khởi tâm động niệm. Kinh Lăng Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na hỏi rất hay: “tất cả chúng sinh có vô minh, vô minh bất giác sinh ba cõi, vậy vô minh này có từ lúc nào, do nguyên nhân gì mà ra?”. Đức Phật đáp cũng rất diệu: “vô minh chính là sở tri chướng”, “tri kiến lập tri là vô minh bổn”. Tri kiến chính là trí tuệ thông suốt. Sai sót chính ở chúng ta muốn lập tri. Lập tri là phân biệt, khởi tâm động niệm, liền chướng ngại trí tuệ thông suốt.
Chư Phật Như Lai thường ở trong định, không phải ngồi xếp bằng tĩnh tọa như người thường vẫn nghĩ. Trong định chính là tâm định, không kể đến thân, “đi đứng nằm ngồi” đều trong định, đó mới gọi là thiền định. Định là không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước. Định sinh huệ, tác dụng của định chính là trí tuệ thông suốt. Chúng ta không có trí tuệ bởi vì tâm động. Cho nên, nếu muốn cầu trí tuệ, không khó, chúng ta chỉ cần tận lực giữ gìn tâm, không để cho cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, phiền não dao động. Chúng tôi thường khích lệ các vị đồng tu bằng mười sáu chữ cần buông bỏ “tự tư tự lợi, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần, tham sân si mạn”. Sau khi buông bỏ, chúng ta liền ở ngay trong định. Tuy định này không sâu nhưng có thể sinh trí tuệ. Có công phu thì khi mở bất cứ kinh điển gì, chúng ta sẽ không có chướng ngại, mà trên tinh thần “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” như kệ khai kinh đã nói, mặc dù dĩ nhiên sự hiểu của chúng ta vẫn chưa đủ sâu, chưa đủ viên mãn. Tuy nhiên, sự hiểu đó lại chính xác, không sai, vì khi đó, chúng ta đã có sức định.
Nếu không buông bỏ mười sáu chữ vừa nêu, một chút định cũng không có, thì không những đức Phật giảng chúng ta sẽ không hiểu, mà chú giải của tổ sư chúng ta xem cũng không hiểu. Sở tri chướng ở ngay đó. Tâm càng thanh tịnh, trí tuệ càng lớn. Lời nói của cổ đức rất có đạo lý: tu hành Phật pháp chính là một chữ “buông”. Buông bỏ, từ sơ phát tâm đến quả vị Như Lai không hề khác biệt. Buông bỏ một phần, chúng ta liền có thể nhìn thấu một phần, nhìn thấu là trí tuệ thông suốt. Chúng ta liền có thể được một phần tự tại, thần thông tự tại, đều có thể có được người của thế giới Tây Phương cực lạc, vi diệu không thể nói hết.
Chữ “đương sanh” rất vi diệu. Ngày nay, chúng ta hạ quyết tâm tu Tịnh Độ, một lòng một dạ, đó chính là đương sanh, ngay đời này nhất định sẽ không còn luân hồi, nhất định được sinh Tịnh Độ. Bản thân tràn đầy tín tâm, sinh đến thế giới Tây Phương cực lạc những thứ này thảy đều có được, thậm chí còn viên mãn. Bồ Tát Thất Địa tiếp cận viên mãn, lên trên Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa Đẳng Giác đều viên mãn. Ngôi thứ năm chính là quả vị Như Lai cứu cánh.
Lý do của việc lựa chọn pháp môn niệm Phật
Vừa rồi đến Trung Quốc, chúng tôi gặp rất nhiều vị đồng tu Phật giáo trách móc rằng tại sao chúng tôi chỉ tuyên dương pháp môn Tịnh Độ mà không nói đến các pháp môn khác. Họ lo lắng chẳng lẽ tương lai chỉ có Tịnh Độ, còn các tông phái khác đều không có.
Kỳ thật họ không hiểu cách thức giảng kinh. Giảng bộ kinh nào, nhất định phải tán thán bộ kinh đó. Chúng tôi giảng Tịnh Độ mà lại tán thán Thiền chẳng phải làm trò cười hay sao? Đây là một nguyên tắc cơ bản. Bất cứ tông phái nào, khi giảng giải, chúng ta phải tán thán để người nghe mới có thể sinh tín tâm, có thể thọ dụng, y giáo phụng hành, chân thật được lợi ích.
Trước đây, một nữ tu của Thiên Chúa Giáo cho biết cô rất thích nghe chúng tôi giảng Mai Quế Kinh ở trường. Chúng tôi cũng đã hứa sẽ tìm thời gian thích hợp, cố gắng giảng qua một lượt trong phòng thu rồi tặng các vị phổ biến bên Thiên Chúa Giáo. Khi giảng Mai Quế Kinh, chúng tôi cũng tán thán Thiên Chúa Giáo, tán thán GiêSu, không thể so sánh họ không bằng đức Phật A Di Đà. Cho nên chúng ta cần hiểu, đây là qui củ của giáo học. Không luận giảng bộ kinh điển nào, không luận giảng pháp môn gì, nhất định phải tán thán. Chúng ta gặp đệ tử Phật môn tu học pháp môn tông phái khác, đều tán thán, không nên hủy báng, xem thường.
Trong “Du Già Bồ Tát giới bổn”, có một điều trọng giới, “khen mình chê người”, dường như xếp ở điều thứ nhất. Trọng giới thứ nhất là tán thán chính mình, hủy báng các tông phái khác. Tất cả pháp môn có trong nhà Phật không luận Đại thừa, Tiểu thừa, tông môn giáo hạ, hiển giáo mật giáo, kinh điển mà chúng ta y theo đều là Thích Ca Mâu Ni Phật nói. Nếu hủy báng kinh điển là báng Phật báng pháp. Có không ít người y theo pháp môn này tu hành thành tựu, chẳng phải như vậy là báng cả tăng sao? Cho nên có thể tán thán chính mình nhưng không được hủy báng Tam Bảo, vì hủy báng Tam Bảo, quả báo địa ngục A Tỳ, không thể vãng sinh.
Người tu Tịnh Độ chúng ta đối với bất kỳ tông phái nào cũng đều tán thán. Chúng ta cung kính Tam Bảo, không những tán thán Tam Bảo, mà cần tán thán cả các tôn giáo khác. Mặc dù tôn giáo không giống nhau, nhưng họ đều “do tâm hiện ra, do thức hiện bày”. Chúng ta và họ đồng một gốc, đồng một nguồn cội, đồng một tự tánh, vì vậy không nên xem thường, hủy báng. Không tường tận đạo lý này, thì việc học Phật chỉ là học suông, Phật hiệu cũng là niệm suông, làm sao có thể thành tựu. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa còn ở đời, đối với rất nhiều tôn giáo khác của Ấn Độ, Thế Tôn không hề hủy báng, không hề xem thường. Chúng ta cũng nên theo đó mà học. Căn tính tuy không giống nhau, không luận thuộc tôn giáo nào cũng đều khuyên người làm thiện, lánh ác.
Thời đại này là loạn thế, tai nạn triền miên, chúng ta trải qua ngày tháng rất khổ đau. Mọi người trên toàn thế giới bất luận tôn giáo, chủng tộc, quốc gia đều một mong cầu khẩn thiết “xã hội an định, thế giới hòa bình”. Do đó, những năm gần đây, chúng tôi ở Singapore, Úc Châu vẫn đang tiếp tục làm công tác đa nguyên văn hóa, đoàn kết tôn giáo, chủng tộc, hóa giải hiểu lầm, xung đột, hy vọng mọi người toàn tâm toàn lực cống hiến vì an định xã hội, thế giới hòa bình.
Chúng tôi có đưa ra tổng cương lĩnh gói gọn trong tám chữ “đối đãi bình đẳng, hòa thuận cùng sống”. Không nên phân tôn giáo, không phân chủng tộc, không phân quốc gia, không phân văn hóa, cũng không phân giàu nghèo sang hèn, chúng ta đều mong cầu đối đãi bình đẳng với nhau, hòa thuận cùng sống. Ngoài ra chúng tôi còn có năm cụm từ mười chữ “bao dung, tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc”. Sau cùng tổng kết lại, chúng ta “hợp tác lẫn nhau”. Chỉ với mấy câu như vậy, chúng tôi đi khắp nơi trên thế giới, đến đâu cũng khuyên mọi người thực tiễn triệt để, bản thân quyết làm được, sau đó tiến thêm một bước yêu cầu người trong đạo tràng làm được, dần dần yêu cầu người trong thị trấn nhỏ thảy đều làm được
Chúng tôi ở Úc châu trong một trấn nhỏ chỉ có tám ngàn người đều làm thành công, vì mỗi cá nhân đều có lòng tự trọng, đều hy vọng trấn nhỏ này trở thành trấn mô phạm bình đẳng, đối đãi hòa thuận. Chúng tôi dự đoán khoảng vài năm nữa, trấn nhỏ này sẽ trở nên nhất nhì thế giới về hòa bình an định. Người dân xem người già như cha mẹ mình, xem người trẻ như con em ruột thịt mà tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.
Xây dựng thế giới hòa bình là việc không dễ dàng. Hội nghị hòa bình của Liên Hiệp Quốc tổ chức ở Thái Lan vừa qua, sau khi tham gia, chúng tôi cảm thấy không thực tiễn. Từ đó mới thấy, thật may mắn khi ở Toowoomba hình thành một mô phạm hòa bình, mà người Trung Quốc gọi là kiểu mẫu. Đó chính là mở rộng của thôn Di Đà, trấn nhỏ này đầy đủ điều kiện thiên nhiên, cư dân bao gồm hai loại người: trí thức, đa số có trình độ văn hóa rất cao, chiếm một phần tư nhân khẩu; ba phần tư còn lại phần lớn đã về hưu, và người về hưu ở các nơi đến đây dưỡng lão. Do điều kiện thiên nhiên ưu đãi nên nơi này còn gọi là trấn về hưu dưỡng lão. Cứ cuối tuần, chúng tôi thường tổ chức buổi tiệc ấm cúng dành cho khách thập phương tề tựu. Số lượng khách ngày càng tăng là điều đáng mừng. Mục đích buổi tiệc nhằm giáo dục, dẫn dắt nhân dân thực tiễn đối đãi bình đẳng, hòa thuận, cùng thực hiện bao dung, tôn trọng, kính yêu, quan tâm, chăm sóc, hợp tác lẫn nhau. Hy vọng lãnh đạo các tôn giáo trong trấn nhỏ này, từ dẫn đầu đến thúc đẩy để trở thành trấn nhỏ hòa bình nhất thế giới.
“Hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ minh liễu, thần thông tự tại”, đều là đức năng tự tánh vốn đủ. Chúng ta có trí tuệ, có sức định sẽ khai mở được trí năng này vô tận vô lượng vô biên. Mọi người đều có thể khai mở.
“Thọ dụng chủng chủng, nhất thiết phong túc”
Tám chữ này chứa đựng muôn hình vạn vẻ. Ngày nay chúng ta có đời sống tinh thần, đời sống vật chất không những đủ mà còn rất đầy đủ, rất phong phú, không hề kém khuyết. Kinh nêu ra một vài ví dụ các thứ thọ dụng.
Thứ nhất là nơi ở, “cung điện”. Cung điện không có nghĩa là nơi ở của đế vương thời xưa mà đó chính là nhà ở cá nhân cùng nơi họat động đoàn thể.
Thứ hai, “phục sức” là điều kiện ăn mặc sung túc. Người thế gian ưa thích trang sức. Chư Phật Bồ tát cũng thường đeo anh lạc, gọi là “chúng bảo trang nghiêm”. Những thứ này đều tự nhiên, không do con người thiết kế chế tạo. Thế giới Tây Phương vốn mọi thứ đều tự nhiên, do nghĩ mà sinh ra.
Thứ ba, “hương hoa”, mười phương pháp giới tất cả chúng sinh không ai không thích hương hoa. Người ta rất chú trọng đến vườn tược. Người giàu sang Trung quốc thời xưa đặc biệt chú trọng đến hoàn cảnh nơi ở. Đến tham quan Trung quốc, chúng ta sẽ thấy còn lưu giữ lại rất nhiều khu vườn với những kiến trúc đẹp mắt ở Tô Châu, Dương Châu, Bắc Kinh. Không cần chờ đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, “do nghĩ mà sinh”, chỉ cần chúng ta quán tưởng, thế giới Tây phương liền hiện tiền trong cuộc sống của chúng ta.
“Phan cái trang nghiêm chi cụ, tùy ý sở tu, tất giai như niệm”
Câu nói này đã bao gồm hết tất cả vật chất đồ dùng trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, không thiếu thứ nào. Khi nào cần dùng, nó tự nhiên hiện ra; khi không cần nữa, nó liền biến mất. Cho nên, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vào nhà của mỗi người đều thấy sạch sẽ, bóng láng không chút bụi trần, đồ dùng của họ cũng không cần phải cất chứa, vô cùng vi diệu. Bởi vì tất cả chúng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc đều có năng lực chuyển đổi năng lượng vật chất, có thể đem năng lượng biến thành vật chất, khi cần dùng thì thảy đều đầy đủ, khi không cần dùng thì chuyển biến vật chất này quay trở về thành năng lượng nên không cần phải cất chứa.
Trong kinh điển nhà Phật đã giới thiệu rất nhiều cảnh giới không thể nghĩ bàn, được khoa học gia hiện tại chứng thực. Thế nhưng hiện tại họ không biết dùng phương pháp gì để làm cho năng lượng và vật chất tùy tâm mà chuyển biến. Người thế giới Tây Phương Cực Lạc sớm đã biết được. Những năm đầu khi giảng bộ kinh này, chúng tôi đã khuyên các khoa học gia nên đến thế giới Cực Lạc “du học”. Nếu không, kiến thức họ học được sẽ rất có hạn. A Di Đà Phật là nhà khoa học vĩ đại nhất giữa vũ trụ này, cho nên học khoa học thì cần đi đến thế giới Cực Lạc.
“Tùy ý sở tu tất giai như niệm”, tất cả đều do tâm nghĩ sự thành, không như thế gian đời sống gian nan khổ sở. Thích Ca Mâu Ni Phật nói, sáu cõi của chúng ta là biển khổ. Có ba loại khổ lớn, “khổ khổ, hoại khổ, hành khổ”. Kinh Hoa Nghiêm nói “ba cõi đều khổ”, dục giới ba loại khổ này thảy đều đầy đủ, không ai có thể tránh khỏi được. Người cõi trời sắc giới công phu thiền định sâu, không có “khổ khổ”, nhưng họ có “hoại khổ”, “hành khổ”, vẫn không được coi là tự tại. Đến được cõi vô sắc, ngay đến thân thể này cũng không cần, không có “hoại khổ”, nhưng họ vẫn có “hành khổ”. Hành khổ vì cảnh giới này của họ không thể giữ được mãi. Họ có hạn chế của thọ mạng. Cõi trời Vô Sắc giới cao nhất, trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, tuổi thọ tám vạn đại kiếp. Người thông thường không ấn tượng sâu về con số tám vạn đại kiếp, nhưng đối với người con Phật thì tương đối dễ hiểu hơn. Trong kinh luận đức Phật dạy, thế giới này, một lần “thành, trụ, hoại, không” là một đại kiếp. Tám vạn đại kiếp là “thành, trụ, hoại, không” tám vạn lần. Thế nhưng rốt cuộc, nó vẫn là số lượng, cùng với thời không vô tận mà so sánh, vẫn rất ngắn ngủi. Tám vạn đại kiếp cũng qua nhanh, khi mất định lực vẫn bị đọa xuống sáu cõi luân hồi, không được cứu cánh. “Ba cõi đều khổ”, không hề có những ngày tháng tốt đẹp, muốn trải qua ngày tháng tốt đẹp, chúng ta hãy hướng đến, xem thế giới Tây Phương Cực Lạc kỳ diệu dường nào.
(Trích lục Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm 19)
Giảng tại cư sĩ Lâm Phật giáo Singapore, tháng 10- 2003
Lão hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Biên dịch: Vọng Tây Cư Sĩ
20 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Thưa các liên hữu Phật tử!
Ai cũng biết đá nặng thì không thể qua biển được, nhưng có thuyền to chở qua thì dễ dàng. Chúng sanh cũng vậy, tội nhiều chướng nặng thì không thể liễu thoát sanh tử, nhưng có thuyền nguyện lực của chư Phật đưa qua biển sanh tử dễ dàng.
Pháp môn Tịnh độ là một pháp tha lực, là thuyền từ cứu độ chúng ta. Riêng bản thân tôi tự xét nghiệp chướng nặng, tự sức mình biết khó giải thoát đường sanh tử nổi, nhưng may quá tôi đã gặp được thuyền nguyện lực của đức Phật và đã bước lên thuyền (đủ Tín-Nguyện-Hạnh) từ lâu, chỉ chờ thuyền cập bến là đến cõi Phật.
Nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, (trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp), thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ đề tâm tu các công đức nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nều tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Phần tôi có chỗ nương tựa rồi, nhìn thấy còn bao nhiêu chúng sanh chơi vơi trong biển khổ, do đó tôi muốn kêu gọi mọi người cùng bước lên thuyền, cùng được về cõi Phật. Chính vì vậy, từ lâu tôi muốn viết một tập sách nhỏ, trong đó nói rõ về nguyện lực thuyền từ của Phật để giới thiệu cho mọi người cùng biết. Nhưng vì lực bất tòng tâm, ý muốn mà sức khỏe… không cho phép. Cho đến hôm nay vì tha thiết ơn dày của Phật mà tôi cố gắng đem hết sức của mình luận giảng viết thành quyển sách nhỏ gởi tặng đến quý liên hữu để cùng tìm hiểu, tu học.
Thưa các liên hữu Phật tử, điều nguyện thứ 18-19 là nguyện lực quan trọng của Phật A Di Đà để tiếp dẫn chúng ta, nhưng phần nhiều khi giảng đến pháp môn Tịnh độ, thường chỉ chú tâm đến điều nguyện thứ 18 mà ít luận giảng nguyện 19, nên thường khuyên các Phật tử lúc lâm chung phải niệm Phật được 1 hoặc 10 lần mới được vãng sanh, do đó người tu thấy khó mà tự mất lòng tin của mình, không tin chắc mình được vãng sanh vì lo ngại không niệm được lúc lâm chung. Chính vì chỗ nghi ngại này mà tự ngăn cách mình với Phật (nên không cảm ứng đạo giao được). Để phá mọi nghi chấp đó, tôi xin giảng rõ 2 điều nguyện 18-19 của Phật A Di Đà để mọi người tin chắc mình được vãng sanh với điều kiện hành cho đúng văn nguyện của Phật.
Này các Phật tử! Trong nhà Phật thường nói đến “Nhân-Duyên: Nhân là hạt giống duyên là đất, nước, phân… có nhân, đủ các duyên hòa hợp lại thì sanh ra hoa quả”. Trái lại, có nhân thiếu duyên hoặc có duyên mà thiếu nhân thì không sanh ra quả được. Pháp tu Tịnh độ cũng không ngoài hai chữ Nhân Duyên. Nhân Tịnh độ là lời đại nguyện của Đức Phật lập ra, đây là phần của Phật đã tạo nhân sẵn dành cho chúng ta. Duyên Tịnh độ là lòng tin Phật-chí nguyện và hạnh niệm Phật. Duyên đây là phần của chúng ta phải tạo ra cho đủ. Như vậy có nhận đủ duyên hòa hợp nhau rồi, thì chỉ thời gian sinh trưởng và kết quả chúng ta được vãng sanh Cực Lạc còn Đức Phật thì mãn nguyện từ bi. Nếu chúng ta thiếu một trong ba điều kiện Tín-Nguyện-Hạnh là thiếu duyên Tịnh độ, nên không thể hòa hợp với nhân nguyện của Phật và không có quả vãng sanh được. Như vậy nhân nguyện của Phật là thuyền từ bi cũng đành bỏ trống. Vậy từ hôm nay, các Phật tử chúng ta phải tạo duyên Tịnh độ, lòng tin-chí nguyện-hạnh niệm Phật cho đủ, được như vậy là đúng với nhân nguyện của Phật, coi như mình đã bước chân lên thuyền Đại nguyện của Phật rồi, và yên tâm chỉ chờ thuyền cập bến Cực Lạc nữa là xong. Có nghĩa là đủ Tín-Nguyện-Hạnh rồi thì chỉ chờ mãn Báo Thân cõi Ta Bà liền vãng sanh qua Cực Lạc Nước của Phật A Di Đà.
Này các Phật tử: nếu các vị y theo điều nguyện 18-19 của Phật mà Tôi luận giảng tu niệm, mà không được vãng sanh khi lâm chung, thì Tôi xin nguyện: bao nhiêu tội khổ của quý Phật tử Tôi xin chịu thay và đọa xuống địa ngục cho đáng.
Này các Phật tử! Tôi dám nguyện như vậy là vì Tôi tin chắc các vị y theo nguyện 18-19 của Phật thì đều được vãng sanh tất cả. Nếu các Phật tử hành đúng văn nguyện 18-19 rồi mà không được vãng sanh, chẳng những tôi chịu đọa địa ngục, mà Phật A Di Đà cũng phải từ chức ngôi vị Chánh Giác.
Này các Phật tử! Một pháp tu có tôi phát nguyện, có Phật bảo hiểm có tánh cách quyết định cho đường sinh tử. Nếu không phải căn lành quá khứ của quý vị đã mùi, duyên lành xui đến thì làm gì quý vị gặp được thuyền nguyện lực của Phật và bài giảng của tôi. Cho nên tập sách nhỏ này tôi rút hết tâm huyết của mình và để tặng các Phật tử hữu duyên Tịnh độ. Tập sách này ngắn gọn nhưng có tánh cách quyết định.
Mong các quý vị xem kỹ hành cho đúng văn nguyện 18-19 của Phật, thì có tôi phát nguyện, có Phật đảm bảo trên đường về Cực Lạc.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Hôm nay, Tôi giảng điều nguyện thứ 18-19 của Phật A Di Đà. Vì phần nhiều ai cũng có thể niệm Phật được, nhưng hiểu cho rõ cái nguyên nhân và mục đích của sự niệm Phật thì ít ai hiểu được cho đúng. Do đó người tu niệm Phật rất nhiều mà kết quả thì rất ít, bởi vì niệm Phật mà không đúng cái mục đích mà Phật đã dạy chúng sanh niệm Phật.
Thông thường người đời cũng thường nói “Tu Niệm”. Như vậy chữ tu nó dính liền chữ niệm, có nghĩa người tu thì phải niệm Phật, niệm kinh… nên chữ tu người ta hiểu là phải niệm. Như vậy họ chỉ biết tu phải niệm, còn niệm để làm gì, và mục đích thì họ hoàn toàn không rõ. Cho nên nhiều người cả đời đi chùa niệm Phật chỉ cầu phước, cầu an, tai qua nạn khỏi… cầu như vậy cũng có đức tin vào chư Phật, cũng thuộc về thiện lành rất tốt, nhưng cầu như vậy không đúng cái mục đích mà Phật dạy chúng sanh, nên chúng ta phải hiểu thẳng rằng: niệm Phật để sanh qua thế giới của chư Phật. Tại sao niệm Phật mà được sanh qua thế giới của chư Phật? Vì Phật đã phát hoằng thệ nguyện: “Nếu chúng sanh nào muốn về nước Ngài niệm từ 10 niệm nếu không được sanh thì Ngài không ở ngôi Chánh Giác”.
Do cái nhân nguyện này mà Phật Thích Ca mới thị hiện vào đời mà dạy chúng sanh niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà để được sanh qua thế giới Cực Lạc của Ngài. Cho nên lời dạy của Đức Phật Thích Ca là dạy chúng sanh niệm Phật để sanh qua Cực Lạc của Đức Phật. Mà chúng sanh niệm Phật để cầu an cầu phước… như vậy nó không đúng cái mục đích Phật đã dạy mặc dầu chúng ta niệm Phật có niềm tin cũng gieo căn lành với đức Phật, nhưng niệm như vậy hiện tiền nó không được kết quả mỹ mãn vì nó sai mục đích của Ph-ật dạy. Cho nên hôm nay, tôi luận giảng điều nguyện 18-19 của Đức Phật A Di Đà để chúng ta biết chúng ta niệm cho trúng ý nghĩa mục đích, để kết quả một đời này vãng sanh về với Đức Phật.
Bây giờ tôi giảng “nguyện là gì?”. Nguyện là lời thề thốt hứa hẹn với mình, cho nên những vị phát tâm tu hành hướng về đạo quả Bồ đề được gọi là phát Tâm Bồ Tát. Các Ngài thường phát ra lời thề thốt, để lời thề thốt đó gọi là nguyện lực. Nó có sức mạnh nung nấu tinh thần để các Ngài y theo lời hứa hẹn đó mà tiến lên con đường tu để thành đạt cái ý chí đó, thực hành theo ý chí đó mà độ chúng sanh, gọi là lời thề nguyện. Nên nguyện lực là sức mạnh của lời hứa hẹn, gọi là lời thề. Cũng như người sắp ra chiến trận, họ biết trong chiến trận có nhiều sự gay go, gian khổ, nguy hiểm, người sợ thối chí đổi lòng nên người ta kết bạn thề vói nhau “Thà chết chứ không hàng” nên khi giao chiến dầu có khó khăn, nguy hiểm, người ta nhớ cái lời này mà dũng mãnh chiến đấu, sức mạnh của nó làm cho người ta vượt qua những khó khăn mà được chiến thắng, nên các Ngài Phát Tâm tu hành trước hết người ta có lời thề, cái tâm nguyện người ta muốn đạt cái mục đích đó, nhưng nếu phát ra mà chỉ tự với mình thì chưa đủ làm cho ý chí đó mạnh mẽ, nên cần có người khác chứng biết.
Cho nên tiền than Đức Phật A Di Đà còn là một vị Vua tên là Vô Tránh Niệm. Khi Vua Vô Tránh Niệm cùng quan phu tướng tên là Bảo Hải đến dự Pháp Hội của Phật Bảo Tạg Như Lai , khi vua Vô Tránh Niệm thấy Đức Phật Bảo Tạng Vương Như Lai dung sức thần thông phóng đạo hào quang cho thấy 10 phương quốc độ thế giới của Chư Phật. Tất cả cảnh giới hiện rõ trên đài Hào quang tròn (Giống như đài truyền hình chiếu phim).
Vua theo dõi nhìn từng Quốc độ hiện ra. Vua thấy có cảnh giới thì chúng sanh an vui thụ hưởng tự nhiên, thân vàng tướng đẹp, đất vàng bằng phẳng, thọ mạng lâu dài. Có cảnh chúng sanh khan khổ đói nghèo, thiếu thốn, nhều bệnh tật, đát đai hầm hố thô xấu… Vua mới thắc mắc vì sao các quốc độ không đồng nhau, thì Phật Bảo Tạng giải rằng : Do tâm thanh tịnh nên cảm ra thế giới thanh tịnh. Còn tâm bất tịnh thì cảm ra thế giới xấu nhơ… như vậy tất cả cảnh giới đều do tâm tạo.
Khi vua Vô Tránh Niệm hiểu được nguyên nhân rồi Ngài mới dung cái trí suy nghĩ để sắp đặt cái chí nguyện của mình dung cái tâm thanh tịnh mà hành đạo Bồ Tát để kết hợp thành một cảnh cực kỳ trang nghiêm đẻ Ngài nhiếp thủ chúng sanh đem về giáo hoá cho thành Phật.
Trong khi Ngài suy nghĩ sắp đặt xong rồi thì vua liền đến trước pháp hội của Phật Bảo Tạng, cầu Đức Phậtvà chúng hội Bồ tát chứng minh cho Ngài . Ngài thuẩta 48 lơì thề nguyện của mình để hứa hẹn với chúng sanh . Đại ý của 48 đại nguyện đó là nguyện kể từ nay Ngài phát 48 lời nguyện để trang nghiêm tịnh độ , để thành lập một cõi cực lạc hoàn toàn an vui, một lần sinh ra từ hoa sen hoá sanh và sống mãi cho đến ngày thành Phật (không còn sanh tử dời đổi đi đâu nữa).
Khi vua Vô Tránh Niệm quỳ gối chắp tay đối trước Phật Bảo Tạng và chúng hội trường thuật 48 lời Đại nguyện xong thì trời đất chấn động, trên không hoa rơi xuống như mưa. Đức Bảo Tạng thọ ký cho vua Vô Tránh Niệm về sau thành Phật hiệu là A Di Đà Phật thống lãnh cõi nước tên là Cực Lạc (tức Tây Phương Cực Lạc bây giờ). Khi Phật Bảo Tạng thọ ký xong rồi thì vua Vô Tránh Niệm kể từ đó mới tu Bồ tát Đạo.
Gọi là nguyện hạnh, vì cái lời nguyện là cái tâm của mình muốn đật cái việc nình đã muốn, nên khi nguyện có người chứng biết rồi, bắt đầu Ngài phải thi hành theo cơ sở nguyện là tu Bồ Tát Đạo .
Bố thí
Trì giới
Nhẫn nhục
Tin tấn
Thiền định
Trí huệ
Nếu nguyện mà không thành là nguyện suông cho nên nguyện lớn là đã khó rồi mà hành để đạt hoàn thành viên mãn sở nguyện là rất khó. Cho nên Đức A Di Đà tiền thân là vua Vô Tránh Niệm đã phát 48 điều Đại nguyện , nó bao chứa tất cả lòng từ bi để trang nghiêm cõi Phật độ.Trong 48 điều nguyện của Phật A Di Đà, tất cả các điều nguyện nhằm vào trang nghiêm tịnh độ Chỉ có 2 điều nguyện 18-19 là nhằm vào sự nhiếp thủ chúng sanh để đem về tịnh độ nên 2 điêu nguyện này thật quan trọngvà có tính quyết định.
Khi vua Vô Tránh Niệm phát 48 nguyện lực được Phật Bảo Tạng thọ ý rồi thì vị quan phụ tướng của vua tên Bảo Hải cũng phát nguyện rằng: cho đến khi tôi thành Phật . Tôi ngự trị vào cõi đời tối tăm đau khổ để giới thiệu chỉ daỵ cho chúng sanh . Biết được nguyện lực của Phật A Di Đà để nương nhờ nguyện lực của Ngài mà mau giải thoát đường sanh tử sớm thành Phật. Và Phật Bảo Tạng Vương thọ ký cho quan phụ tướng Bảo Hải về sau thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni ở thế giới Ta Bà Này.
Từ khi vua Vô Tránh Niệm và quan phụ tướng Bảo Hải được Phật Bảo Tạng thọ ký rồi, hai Ngài trải qua vô số tăng kỳ kiếp tu hạnh Bồ tát, lợi ích chúng sanh, đến kỳ viên mãn phước huệ của đạo bồ tát thì vua Vô Tránh Niệm thành Phật Di Đà làm giáo chủ cõi Cực Lạc. Trong khi Ngài thành Phật đã trãi qua 10 kiếp rồi mà thế ở thế giới Ta bà này chúng ta chưa biết, vì đức Phật Thích Ca chưa thị hiện vào đây. Cho đến khi Đức Thích Ca thị hiện vào đây rồi và Ngài dung Phật nhãn nhớ lại quá khứ Đức A Di Đà và Ngài đã nguyện nên Ngài mới dạy pháp môn Tịnh Độ , dạy chúng sanh niệm Phật để được sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.
Như kinh Vô Lượng Thọ Phật nói lại lịch sử tiền thân của Đức Phật A Di Đà . Trong khi kinh Bi Hoa nói tiền thân Phật A Di Đà là vua Vô Tránh Niệm phát 48 đại nguyện nơi Pháp hội của Phật Bảo Tạng và từ đó chuyên tu hạnh Bồ Tát vô số kiếp. Sau đó lại chuyển sanh làm Pháp tạng tỳ kheo ở thời kỳ pháp hộ của Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai , và muốn nhắc lại lời nguyện của mình với chúnh sanh nên Ngài mới tường thuật 48 đại nguyện một lần nữa , trong kinh vô lượng thọ , Phật Thích Ca nói Pháp tạng tỳ kheo này phát 48 đại nguyện trước Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai và hành 6 độ Ba la mật để thành tựu sở nguyện của mình , Trải qua vô số kiếp ngài thực hành trọn vẹn 6 độ ba la mật nên Ngài thành Phật hiệu A Di Đà ở phương Tây.
Như vậy vua Vô Tránh Niệm là thân trước , pháp tạng là hậu thân sau đều nhằm vào 48 đại nguyện của mình , cho nên bây giờ Ngài thành tựu hiện là A Di Đà, và dùng 48 lời nguyện đó luôn đứng bên cõi Cực Lạc danhg tay tiếp đón những người niện Phật khắp mười phương đem về giáo hoá cho thành Phật .
Nên hôm nay tôi giảng rõ điều nguyện thứ 18-19 cho các Phật tử biết nguyên nhân và lòng từ bi của Phật A Di Đà đã hứa hẹn với chúng ta, cái lời nguyện là lời hứa hẹn. Cũng như bây giờ trồng trọt, mình hứa với mọi người: “nếu tôi trúng mùa tôi sẽ cho anh cùng hưởng…” nhưng chúng ta hứa hẹn mà không có ai làm chứng , khỉtún mùa nhưng đôi khi do lòng tham nó làm cho mình đổi lòng và quên lời hứa trước. Người đời thường là như vậy , nên muốn thủ tín cho người tin lời hứa của mình thì cần phải cần người làm chứng . Nếu sau đó đổi lòng thì bị xấu hổ , mất mặt với thiên hạ. Cho nên Đức A Di Đà tiền than là vua Vô Tránh Niệm vì lòng từ bi muốn độ chúng sanh nhưng sợ chúng sanh nghi ngờ nên vua Vô Tránh Niệm và hậu thân sau là pháp tạng tỳ kheo mới phát lời thề và cầu đức Phật chứng minh lời hứa của mình để làm tin cho chúng sanh nên khi Ngài thành Phật rồi , Ngài y theo bổn nguyện của mình mà tiếp độ chúng sanh . Nên chúng sanh khắp 10 phương mà nương cái nhân duyên niệm Phật là đúng vao bổn nguyện của ngài, thì đều được Ngài độ thoát.
Trong 48 lời đại nguyện , Ngài nguyện nếu có một nguyện nào mà Ngài không thực hiện đúng như lời thệ nguyện thì ngài không thủ ngôi Chánh Giác. Nghĩa là quả vị Phật đó các Phật tử và Ngài đã thực hiện trọn vẹn cho nên Ngài mãi mãi là một vị Phật mà mười phương chư Phật đều khên ngợi là đệ nhất. Chính Đức Thích Ca thấy lời Đại nguyệnnày nên Ngài vào cõi đời mà dạy chúng sanh phải y theo cái nhân nguyện mà tạo duyên tín-nguyện-hạnh để được đức Di Đà độ thoát.
Bây giờ tôi giảng chánh văn : “Điều nguyện thứ 18 lúc toi thành Phật , thập phương chúng sanh chí tâm tín mộ muốn sanh được về nước tôi nhẩm đến 10 niệm như nếu không được sanh thì tôi không thủ ngôi chánh giác.(Trừ kẻ tội phạm ngũ nghịch và huỷ báng chánh pháp mà thôi)”.
Điều nguyện thứ 18 này hứa với chúng sanh rằng: “Lúc tôi thành Phật” có nghĩa trên đường tu Bồ tát hạnh và đến cái thời viên mãn trên đường Bồ tát hạnh đó là lúc Ngàu thành Phật . Thành Phật là lúc phước huệ viên mãn trí huệ thần thông tự tại gọi là toàn năng toàn trí toàn giác.
Thập phương chúng sanh.
Thập phương chúng sanh: có nghĩa là 10 phương: Đông – Tây – Nam – Bắc – Đông Nam – Tây Nam – Đông Bắc – Tây Bắc – Thượng Hạ.
Chúng sanh: chữ chúng có nghĩa gọi chung là chỉ chung cho tất cả chúng sanh . Sanh có nghĩa là sanh mạng, trên từ Bồ Tát xuống đến tận địa ngục gọi là 9 giới chúng sanh , đối với Phật gọi chung là chúng sanh.
Ngài nói thập phương chúng sanh chí tâm tín mộ muốn sanh về nước tôi chí tâm có nghĩa là ý chí, cái tâm con người gọi là tâm ý mà tâm ý nó gom lại tột độ để làm chi ? để tin mộ , là đem cái tâm chí cao độ nó tin tưởng Ngài là một vị Phật đã thành toàn năng toàn trí toàn giác có long từ bi có Đại nguyện lực.
Chúng ta tin tưởng Ngài đã thành Phật như Phật Thích Ca , có đầy đủ thần thông và nguyện lực. Và tin cái cõi Cực lạc do 48 nguyện lực của Ngài thành lập thật là trang nghiêm , an vui gọi là chí tâm tin . tin rồi bắt đầu mình mộ , mộ có nghĩa là gì? Chữ mộ có nghĩa là mến , nên chữ mộ ở đây gọi là tín mộ , nghĩa là mình đem hết cái tâm thành thật tin tưởng Ngài và quốc độ Ngài rồi mình mới cảm được cái ơn đức sâu dày của Ngài. Vì lòng từ bi mà phát 48 đại nguyện rồi thực hành đại hạnh trải qua nhiều số kiếp cho đến hôm nay thành một vị Phạt mà không vào Niết bàn an nghỉ, luôn đứng xoè tay mà tiếp đón chúng sanh từ khắp 10 phương mà đem về miền Cực Lạc.
Cũng như ngườ mẹ hiền tận tuỵ với đàn con thơ ấu dại xa bỏ quê hương lăn lội xứ người , người mẹ ngày đêm thao thức để rước đón con về để giáo hoá cho thành Phật . Nên mình cảm ái ơn đức sâu dày của Phật , ròi mình mới mến thương Đức Phật gọi là mộ .Mộ rồi mình muốn về nước Ngài , muốn có nghĩa là cái long muốn về Cực Lạc sống chung với Phật để nhờ Ngài dùng lòng từ bi giáo hoácho mình nên gọi là muốn .
Muốn sanh về nước tôi nhẫm đến 10 niệm , ở câu hiệu này có nghĩa chữ nhẫn không phải là nhẫn nhục mà ý nói tắt là muốn về nước tôi nhẩm đến 10 niệm nếu không được sanh thời tôi không ở ngôi Chánh Giác. Như vậy muốn về nước Ngài niệm được 10 niệm mà không được sanh thì Ngài không thủ ngôi Chánh Giác , chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch và huỷ bang chánh pháp mà thôi. Cái điều nguyện chỗ này chúng ta nên chú ý cho kỹ là Ngài nói tín mộ muốn về nước Ngài rồi niệm nhẩn đến 10 niệm nếu không được sanh Ngài không thủ ngôi Chanh Giác. Chỗ này chúng ta phải hiểu Ngài nói nếu không được sanh , có nghĩa là phải được sanh, nhưng được sanh Ngài không cho biết sanh ở đời này hay đời sau. Nên chỗ này chúng ta cần phải nêu ra đẻ luận rõ, vì cái nguỵên là cái nhân không thể nào mà thay đổi được .Nếu chúng ta thực hành đúng cái nhân này thì nhất định sẽ được đức Phật độ. Còn nếu chúng ta thực hành sai thì không thể khiếu nại được , nên cái chỗ này chúng ta cần phải để ý. Ngài nguyện rằng nhẩm đến 10 niệm nếu không được sanh, có nghĩa là phải được sanh.
Như vậy có người chí tâm tín mộ niệm 10 niệm rồi sau không tu niệm nữa có được sanh không? Nhất định dược sanh nhưng mà nó lọt về vô số kiếp về sau mới được sanh. Bởi vì tín tâm ham muốn và niệm được mười niệm , tức là mười niệm này nó kết vào chủng tử hạng thức A Lại Da , lâu đời lâu kiếp nó hiện hành phát sanh ra đến kiếp vị lai nó mùi mới được Phật độ. Như vậy , người tín tâm ham muốn niệm 10 niệm sau không niệm nữa thì được sanh ở kiếp về sau như vậy đường sanh tử nó còn dài. Nên cái câu mà Đức Phật nguyện niệm 10 niệm của điều nguỵện 18 của Phật A Dia Đà được Đức Thích Ca dạy rõ trong Quán Kinh và Kinh Niệm Phật Ba La Mật, nói 10 niệm được sanh một đời này này là niệm vào lúc lâm chung. Cho nên chúng ta phải hiểu cái lời nguỵện của Đức A Di Đà đã nguỵên cho đúng nghĩa trong Kinh Niệm Ba La Mật , Đức Thích Ca dạy 10 niệm được vãng sanh , là khi lâm chung phải cố giữ niệm cho được 10 niệm nối nhau thì liền được vào Phổ Đẳng tam muội của PhậtA Di Đà liền được sanh qua Cực Lạc .
Còn Quán Kinh cũng dạy 10 niệm vãng sanh là niệm lúc lâm chung . Như vậyđiều niệm thư 18 nói niệm 10 niệm được vãng sanh là ý Ngài nguyện lúc lâm chung ai niệm 10 lần thì Ngài liền đến tiếp dẫn sanh qua cực lạc bằng không Ngài không thủ Ngôi Chánh Giác. Vậy thì quá rõ rồi, nên chúng ta muốn sanh qua Cực Lạc phải niệm 10 lần vào lúc lâm chung (là lúc sắp chết). Mà muốn lúc lâm chung niệm được thì bây giờ phải tập niệm cho quen gọi là tích luỹ nghiệp Có nghĩa là lúc chúng ta đi, đứng, nằm ,ngồi chúng ta vẫn phải luôn niệm Phật hoặc niệm ra tiếng hoặc niệm trong tâm. Niệm: “Nam mô A Di Đà Phật” hoặc A Di Đà Phật đềi được cả, và phải niệm cho lien tục trong lòng chỉ trừ khi làm việc bằng trí óc thì chúng ta mới tạm ngưng , nhất là lúc sắp ngủ chúng ta niệm cho đến lúc ngủ quên mới thôi. Chúng ta niệm được như vậy là nó tích luỹ câu Phật hiệu , huân tập chất chứa trong tạng thức , nó thành cái chủng tử niệm Phật nó thành một cái tràng niệm Phật nó thành một sức mạnh niệm Phật , nó thành thói quen niệm Phật gọi là Tịnh nghiệp niệm Phật. Đến khi thân hoại mạng chung do cái thói quen niệm Phật này , nên vừa tác ý niệm Phật thì câu Hồng danh nó liền bung tràn ra do chúng ta đã huân tập sẵn nên nó rất dễ niệm . Còn nếu bình thường chúng ta không huân tập niệm Phật đến lúc lâm chung nào thì bệnh đau hành khổ , nào là thương con tiếc của rồi nghiệp tạo trong đời và nghiệp đời quá khứ nó hiện ra nên chúng ta khó mà niệm được. Cho nên Kinh A Di Đà Đức Phật dạy phải niệm từ 1 đến bảy ngày cho tâm không loạn để lúc lâm chung được vãng sanh. Và kinh Niệm Phật Ba La Mật đức Phật dạy ta thường đi dứng, nằm, ngồi phải luôn niệm Phật cho chuyên nhất , cho nó thành thói quen. Như vậy,đức A Di Đà nguyện là chúng sanh niệm chỉ có 10 niệm lúc lâm chung thôi . Nhưng đức Thích ca thấy chúng ta nghiệp chướng quá sâu nặng mà muốn niệm được lúc lâm chung thì phải huân tập. Cho nên chúng ta niệm Phật thường thì hiện đời được nghiệp chướng tiêu trừ được tai ưua nạn khỏi (mặc dầu chúng ta không có cầu an). Và đến khi lâm chung , do ta đã huân tập sẵn nên niệm Phật đựoc dễ dàng và sự vãng sanh được đảm bảo chắc chắn.
Có nhiều người nói: “Nếu vậy tôi đợi lúc lâm chung rồi niệm 10 niệm còn bây giờ chơi cho đã tu niệm mệt lắm?” Xin thưa bình thường không huân tập thì đến giờ chết không tài nào niệm được đâu . Cho nên muốn niệm được thì bình thời hãy niệm cho quen đi. Như vậy , ai đã tín mộ Ngài và niệm 10 niệm trong lúc lâm chung thì đều được vãng sanh , thì đều được vãng sanh , chỉ trừ người tạo tội ngũ nghịch. Tội ngũ nghịch là gì ? 1-là tội giết mẹ, 2-là tội giết cha , 3-là tội giết bậc A La Hán, 4-làm than Phật ra máu, phá hoà hợp tăng. Đây gọi là tội ngũ nghịch vì sao ? Vì cha mẹ có công nuôi dưỡng mình mà mình nhẫn tâm sát hại nó trái với đạo lý nên gọi là nghịch , còn những bậc A La Hán là người chơn tu hiền từ đã đắc đạo quả Thánh mà mình đem cái tâm ác giết hại , cho đến Đức phật có lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh , Ngài ra đời để cứu độ chúng sanh mà mình đem tâm ác giết hại cũng như Đề Bà Đạt Đa đem cái tâm lăn đá đè chân Phật chảy máu – gọi là phạm tội ngũ nghịch.
Ngày nay Phật không còn tại thế , nhưng ai ác tâm phá huỷ chùa tháp tượng phật thì đồng tội làm thân Phật ra máu . Còn tội phá hoà hợp tăng nghĩa là gì ? Là chúng tăng đoàn tụ hội nơi tu hành , nếu dung thế lực để chia rẽ , phân tán hoặc đâm thọc them bớt cho bất hoà nhau đều là phạm tội phá hoà hợp tăng. Nguyện của Phật chỉ trừ những người phạm 5 tội này và tội huỷ báng Chánh Pháp . Huỷ báng Chánh Pháp là gì ? Chánh Pháp là những lời Phật dạy cuả chư Phật gọi là “Kinh Luật” mà ai đen tâm khinh chê chống đối bài bác gọi là huỷ báng Chánh Pháp. Như vậy những người ác kiến không tin và những ngoại đạo hay chê bai giáo lý của Phật. Nhưng chúng ta cũng phải cẩn thận vì không khéo thì có lúc những người tu cũng dễ vướng phạm, là vì Pháp tu của Phật dạy rất nhiều, tổng cộng có đến 84 ngàn pháp môn tu , ai có duyên với pháp môn nào thích hợp thì họ tu theo pháp môn đó . Cũng như Pháp mon Tịnh đọ của chúng ta đang tuđây tuy dễ , nhưng những người không có duyên với Phật A Di Đà nên họ không tu theo , mà họ thích tu Thiền tông … đây là các pháp tự lực mặc dầu khó nhưng cũng là pháp của phật dạy chúng ta không được chỉ trách chê bai.
Nếu chúng ta khinh chê là phạm tội huỷ báng chánh pháp của Phật , cho nên Phật tử phải cẩn thận . Như vậy , nguyện 18 của Phật loại trừ người phạm tội ngũ nghịch và tội huỷ báng chánh pháp ra , tất cả chúng sanh trong 9 giới (1-Bồ tát 2-Thanh văn 3-Duyên giác Độc giác 4-Thiên 5-Nhơn 6-A tu La 7-Súc sanh 8-Ngạ quỷ 9-Địa ngục). nếu niệm danh hiệu Phật lúc lâm chung thì Ngài liền tới tiếp sanh về Cực Lạc. Như vậy, chúng ta thấy nguyện 18 này bao chứa tràn đầy lòng từ bi trong đây.Chỗ trừ tội ngũ nghịch , có nghĩa những tội đó thì Ngài không có đảm bảo . Còn các tội thông thường khácnhw 5 giới , 10 giới , 250 giới nếu có lỡ phạm mà biết hết long hướng về niệm danh Ngài lúc lâm chung thì nhất định có Ngài bảo trợ và tiếp độ , nếu không như vậy thì Ngài phải từ chức , tức là “không thủ ngôi Chánh Giác “.Có như vậy mới gọi là tha lực , là thuyền từ cứu độ chúng sanh .
Có người nói rằng như vậy 10 niệm của điều nguyện 18 được vãng sanh một đời này là phải niệm lúc lâm chung , như vậy nó còn sự khó khăn cho chúng sanh. Vì lúc lâm chung là lúc sắp chết, mà chết có nhiều cách khác nhau, đâu phải chết từ từ như chết bệnh chết đau mà còn có nhiều cái chết đột tử bất ngờ như chết đuối, té núi,trúng độc,trúng gió, xe đụng,sung đạn tai nạn bất ngờ… gọi là bất đắc kỳ tử thì làm sao mà niệm kịp mười niệm,như vậykhông niệm phật được1 hoặc 10 niệm thì coi như công tu một đời này phí uổng hay sao ? Cho nên chúng ta cần luận rõ lại là điều nguyện thứ 18 này có tánh cách gấp rút , cấp cứu chụp giựt và có phần chưa an tâm. Cho nên điều nguyện này thì có phần khó. Gấp rút là gì? Là đức phật nói chỉ cần tin mộ muốn về nước ngài nhẩm mười niệm có nghĩa là gấp rút , điều nguyện này lúc đầu có vẻ rất dễ, tại vì Đức Phật không có ra điều kiện phát Bồ đề tâm hoặc tu các công đức nên nó rất là dễ . Người bình thường , người khong có tu sẵn mà chỉ phát tâm tin tưởng mến mộ muốn sanh về nước Ngài mà niệm được 10 niệm khi lâm chung liền được vãng sanh . Dầu được vãng sanh nhưng phẩm vị rất thấp, ở các bậc hạ phẩm.
Vì sao, vì gấp rút nên người này không có sẵn các tu đức , không có phát tâm Bồ đề , không có niệm nhiều mà chỉ niệm được 10 niệm trúng vào văn nguyện của Phật nên được lòng bi nguyện của Phật tiếp độ người này với tính cách gấp rút , vì do người này chưa dự bị sẵn , hoặc chưa biết giáo lý Tịnh độ , mà đến lúc lâm chung gặp bậc thiện tri thức dạy nên chỉ tin và niệm kịp 10 niệm mà thôi. Như vậy cái nguyện 18 này dùng độ những người chưa chuẩn bị trước hoặc gặp Phật pháp quá muộn , nên y theo điều nguỵen này thì chúng ta cần phải có người trợ niệm lúc lâm chung nhắc cho mình nhớ niệm Phật , mình nương tiếng trợ niệm để niệm theo lúc cuối 10 niệm, và nương nguỵện của Phật mà được vãng sanh. Như vậy căn cứ văn nguyện 18 này thì chưa ổn , và chưa chưa yên tâm vì phải chờ kết quả giờ lâm chung , có niệm Phật được hay không mới biết được vãng sanh hay không. Chính vì lý do này mà phần nhiều người tu Tịnh độ không tin chắc mình có được vãng sanh hay không . Vì rất lo ngại đến lúc lâm chung biết có được tỉnh táo để niệm Phật hay không , mặc dầu mình có huân tập niệm Phật sẵn . Đây là một lo ngại chính đáng chung . Vì chúng ta là hạng phàm phu nghiệp chướng nặng nề nên chúng a phải lo. Trước kia tôi cũng có những ái ngại lo cho mình chỗ này. Và chính vua Vô Tránh Niệm ở kiếp quá khứ về trước lúc suy nghĩ lập nguyện Ngài cũng thấy rõ sự lo ngại của chúng sanh ở điều nguyện này (chưa an tâm) do đó Ngài mới phát nguyện tiếp điều nguyện thứ 19 để hỗ trợ nguyện 18 cho chúng ta an tâm.
“Nguyện thứ 19 lúc tôi thành Phật thập phương chúng sanh phát Bồ đề tâm, tu các công đức nguyện sanh về nước tôi, đến khi lâm chung nếu tôi chẳng cùng Đại chúng hiện trước người đó, thời tôi không thủ ngôi Chánh Giác”.
Giảng: là 10 phương chúng sanh phát Bồ đề tâm, có nghĩa là cái tâm rộng lớn, tâm quyết tu cho thành Phật để cứu độ cho chúng sanh, chứ không chịu dừng để nghỉ ngơi ở địa vị Bồ tát hay La Hán, người có cái tâm chí mong mõi được thành Phật gọi là phát tâm Bồ Đề. Cái tâm này nó không có đòi hỏi ở vật chất giàu nghèo sang hèn hay than thể xấu đẹp, nên từ vua chúa đến kẻ ăn mày đều có thể phát được tâm này nên người tu niệm Phật phải phát bồ đề tâm mới đúng với lời nguyện 19 của Phật rồi tiếp tu các công đức. Các công đức là gì ? các công đức gồm có tự lợi và lợi tha. Tự lợi là mình giữ giới ăn chay đọc tụng kinh, niệm phật, lợi tha là bố thí, cúng dường, ấn tống, thuyết giảng Chánh Pháp hướng người tu hành… tất cả các việc làm này gọi là tu các công đức. Tùy theo sức của mỗi người mà các công đức ít nhiều tùy khả năng điều kiện nhưng phải có các công đức đó. Làm các công đức đó rồi nguyện sanh về cõi nước tôi .
Chữ nguyện là muốn nói lòng mình mong muốn về cõi Phật rồi mình phát ra cái lời văn nguyện .
Ở điều 18 chỉ nói lòng ham muốn là chỉ cho trong tâm. Còn nguyện 19 nói nguyện sanh, là tâm muốn rồi phải phát nguyện ra lời nguyện, và nguyện bằng văn phát nguyện để nhắc tâm. Thân tâm hợp nhất hướng về một chỗ cho nó mạnh cũng gọi là nguyện lực , là sức mạnh của lời nguyền như trước đã giảng. Như vậy điều nguyện này nói phát Bồ đề tâm , tu các công đức rồi xoay các công đức đó thệ nguyện được sanh qua nước Cực Lạc. Đến lúc lâm chung, là đến lúc chết nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện trước người đó thời tôi không ở Ngôi Chánh Giác.
Đến đây chúng ta mới thấy rõ sự an ổn của điều nguyện 19 này , nó có sự bảo hiểm cho chúng ta . Vì điều nguyện 19 này đầu tiên Phật ra điều kiện phải phát Bồ đề tâm , Bồ đề tâm này phải đứng đầu và bồ đề tâm này đâu có khó , vì nó đâu đòi hỏi phải có tiền mới phát được , cho nên ai có tâm là đều phát được , là ý nguyện mong sau này được thành Phật để độ chúng sanh. Nếu có tâm này rồi thì đã có bồ đề tâm.Mình phải tự kiểm lại coi mình có tâm này chưa , nếu chưa thì liền phát cho nó đúngvowis văn nguyện của Phật. Tiếp nữa là tu các công đức , như vậy ít nhiều Phật không buộc ở số lượng nhưng phải có tu các công đức mới đúng văn nguyện . Nhưng nếu ai tu công đức nhiều thì sanh phẩm cao , còn ai tu công đức ít thì sanh phẩm thấp. Mình tu công đức rồi là đã ăn khớp với văn nguyện của Phật . rồi mình dây cái công đức đó , thề nguyện sanh về nước Ngài tức cõi Cực Lạc. Chữ nguyện này tôi xin nói cho rõ là lòng mình ham mộ mong muốn , nó rạo rực ấp ủ trong lòng mình luôn hướng về đức Phật , mình mới phát ra cái thệ nguyện.
Như vậy , chúng ta phải hiểu , chớ có nhiều người sơ sót lớn chữ nguyện này nên cứ đứng trước bàn phật đọc bài văn cầu sanh Tây phương và cho là mình đã có nguyện rồi , còn tâm thì không thường hướng về Tây phương mà ngược lại lo tiền của thế gian. Như vậy thuộc giả nguyện rồi, dầu cho có lòng thành trong lúc nguyện đọc , rồi sau buông ra tâm lại lo đam mê thế gian, đó là gián đoạn nguyện chứ không phải là chuyên , như vậy chưa kịp với lời nguyện 19 của Phật . Như vậy chỉ có thể gieo nhân lành về sau mà thôi , chớ chưa được độ trong đời này vì chưa nguyện thiết với Phật. Như vậy các Phật tử phải lập nguyện làm sao cho tâm mình luôn hướng về với Phật , giống như người con xa nhà nhớ quê hương , cha mẹ và luôn mong mỏi được trở về . Lòng mình phải thường hướng nghĩ như vậy mới gọi là có nguyện , đây cũng gọi là nguyện thiết.
Trong tư liệu giảng của Vĩnh Minh thiền sư nói tu Tịnh độ thuộc về giáo còn có tịnh độ hay không là thuộc về người . Mà giáo lý Phật dạy rồi , ai cũng tu được nhưng tu cho nó đúng Tịnh độ thì đâu phải ai cũng có đâu. Nên có vị thiền sư hạch vấn , nếu có 10 người tu 10 người đổ , vậy sao tôi thấy nhiều người tu niệm Phật vô số mà không mấy người khi chết được thoại ứng điềm lành , được vãng sanh ? Thì Liên Mộ pháp sư trong cuốn đường về Cực Lạc của Hòa Thượng Trí Tịnh , Liên Mộ pháp sư nói: Vì tu Tịnh độ mà chưa có Tịnh Độ . cái miệng niệm Phật um sùm còn tâm thì đam mê lục dục cõi Ta bà nên kết quả không có thoại ứng điềm lành vãng sanh . Nên các người không hiểu pháp tu. Chỉ thấy người niệm Phật thì cho rằng tu Tịnh độ , nhưng tại sao lúc chết lại không có thoại ứng điềm lành vãng sanh . Nên họ sinh nghi và họ thoái tâm không tin kinh dạy của Phật. Nên hôm nay nhữ nguyện này phải lập nguyện cho đúng văn.
Bây giờ tôi thí dụ cho Phật tử hiểu đúng chữ Nguyện. Cũng như có một người con vì nghĩa vụ đất nước phải tạm xa cha mẹ quê hương để thi hành nghĩa vụ . Anh ta xa quê hương nhưng lòng luôn nhớ thương cha mẹ hoặc người thân yêu (bạn bè), nhất là vào các đêm thanh vắng thao thức. Lòng chỉ mong cho mau tròn xong nhiệm vụ để trở về, chứ không thích mến ở lâu trong quân ngũ.
Chữ Nguyện của Tịnh độ cũng y như vậy. Nghĩa là lòng luôn hướng về Cực Lạc, nhớ thương Phật A Di Đà như nhớ thương mẹ hiền. Tuy thân sống cõi Ta bà, vì phải trở cái nợ cũ nhưng lòng không mê thích ở đây. Tâm tâm niệm niệm ấp ủ chờ ngày xong nợ trần để đoàn tụ nơi quê hương Cực Lạc .
Này các Phật tử được như vậy gọi là nguyện thiết , là đúng văn ngyện 19 rồi thì đến lúc lâm chung có Ngài và Đệt tử Thánh Chúng hiện ra. Chúng ta nguyện xét cho kỹ lời văn nguyện này thì chúng ta thật là an tâm, vì không sợ chết bất đắc kỳ tử, hoặc cận tử nghiệp. Vì văn nguyện 19 này gồm có 4 phần:
Là phát Bồ Đề tâm
Là tu công đức
Là nguyện về nước Ngài
Lâm chung Ngài hiện ra.
Như vậy 3 phần đầu là Bổn nguyện của chúng ta tu tạo , còn thứ 4 là phần của Phật , nên nếu 3 phần đầu tat u tạo đủ thì bổn phận của Ngài cùng Đại chúng hiện ra lúc lâm chung , như vậy chúng ta đủ 3 phần của văn nguyện 19 rồi thì chỉ còn chờ phần của phật khi lâm chung Ngài hiienj ra , miễn lâm chung là có Ngài , chớ Ngài không có ra điều kiện lâm chung lành hay dữ, tốt hay xấu. Như vậy chúng ta có Bồ đề tâm tu các công đức rồi nguyện thiết rồi thì dù lân chung bằng cách nào cũng được Phật hiện thân ra tiếp dẫn. Vì nếu Phật không hiện ra ,Phật phải từ chức ngôi vị chánh giác như lời nguyện của mình. Người đời sự nhất là các chứng bệnh nan y vì một khi vướng phải thì chết . Còn người tu ngoài pháp môn Tịnh Độ thì sợ nhất là bất đắc kì tử và cận tử nghiệp. Còn pháp môn tịnh độ này nếu chúng ta tu chỉ y theo điều nguyện thứ 18 thì chúng ta vẫn sợ như thường Nhưng đến điều nguyện thứ 19 này là có một thứ thần được trừ chứng nan y như cận tử nghiệp và bất đắc kỳ tử, vì sao vậy?
Vì Phật nói lâm chung Ngài đến. Thì thí dụ chúng ta bị té cây chết hoặc trúng độc chết đột ngột …
Đây gọi là bất đắc kỳ tử, có nghĩa là không biết trước kỳ chết . Không biết trước kỳ chết là ý muốn nói người phàm mình thôi, vì quá đột ngột nên mình không biết trước được . Nhưng đối với Phật thì làm sao gọi là bất đắc kỳ tử được? Vì Phật là nhất thiết chủng trí thấy biết rõ suốt quá khứ , vị lai từng mỗi chúng sanh , chừng nào chết và sanh đi đâu , Phật đều biết hết nên mình đã hành đúng nguyện 19 rồi . Nên xe co tong vô thì Phật đã hiện ra liền . Và Phật rước cái thần thức mình vãng sanh ngay lúc đó . Lúc đó chỉ còn lại cái xác vô tri . Xe tong chết thì có gì mà đau đớn mà sợ các Phật tử ? Hoặc chẳng hạn một chút nữa ta bị thuốc độc làm chết ta không hề biết nhưng Phật đã hiện ra rồi . Ta vừa hớp thuốc độc vô thì thì Phật liền hiện ra tiếp ta . Đây là thí dụ trường hợp những người nghiệp nặng phải trả bằng cách phải chết dữ như vậy. Nhưng Phật đâu có nói hiền dữ miễn hành đúng lời nguyện của Ngài thì lâm chung có Ngài tới. Vậy điều kiện quan trọng của mình không sợ cận tử nghiệp hoặc chết dữ. Mà mình chỉ sợ thiếu Bồ đề tâm tu các công đức , và lòng mình không thật sự nguyện về cõi Phật. Mình chỉ sợ mình thiếu các điều kiện đó thôi , chớ mình đủ rồi thì chết cách nào cũng không sợ. Còn cận tử nghiệp là gì? Là nghiệp ác đời trước của mình nó hiện ra giờ sắp chết , mà lúc chết đã có Phật hiện ra rồi thì cận tử nghiệp nào dám đối dầu với Phật , cận tử nghiệp là dành cho người tu pháp tự lực , vì sức tu còn yếu nên bị cái nghiệp ác của mình đời trước nó nặng hơn nên nó hiện ra lúc sắp chết để nó giật tay đôi với nghiệp hiện đời . Mà nghiệp quá khứ mạnh hơn nên nó dẫn mình bị đọa lạc. Còn chúng ta nương vào tha lực của Phật.
Giờ lâm chung có Phật và thánh chúng hiện ra rồi thì nghiệp nào dám hiện ra chống phá, đối đầu với Phật. Như vậy chúng ta kết hợp 2 điều nguyện 18 và 19 lại thì chúng ta sẽ vững vàng trên đường vãng sanh chúng ta chỉ còn chờ mãn báo thân này nữa là xong , bảo đảm chết đến là được vãng sanh.
Ở điều nguyện 18 nói niệm 10 niệm được vãng sanh là niệm ở lúc lâm chung, mà lâm chung niệm 10 niệm chúng ta còn e ngại sợ chết bất đắc kỳ tử và sợ cận tử nghiệp. Nhưng tiếp qua điều nguyện thứ 19 đây thì chúng ta hết sợ. Vì chúng ta đã hành đúng văn nguyện 19 có Bồ đề tâm , tu công đức nguyện sanh Cực Lạc rồi, lâm chung có Phật hiện ra .Mà có Phật hiện ra thì 1 niệm, 10 đâu có khó khăn gì nữa. mà niệm 10 niệmmj là trúng cả hai điều nguyện . Như vậy là chúng ta trúng số độc đắc cả cặp , tắt hơi là qua Cực Lạc lãn đài vàng liền. Nên thật sự người tu Tịnh độ đúng pháp rồi cái chết đến với họ như người đời trúng số cả cặp vậy , mừng quá bây giờ đi lãnh . Bởi vì người tu Tịnh độ lúc chết cái mặt lại vui hơn lúc bình thường mặt mày thần sắc họ tươi rói . vì thấy Phật tới rồi làm sao hổng vui được . trăm kiếp ngàn đời trong lục đạo này bao nhiieu cay đắng nó nhầu nhúng ta , bây giờ được đức A Di Đà đến đón rước về Cực lạc vĩnh viễn không còn sinh lão bệnh tử , được đầy đủ pháp lực của Bồ tát để độ người thân kẻ oán thì hỏi làm sao mà không mừng được. Nên hôm nay tôi đã luận giảng kỹ 2 điều nguyện 18 -19 này. Các phật tử phải hành cho đúng thì không còn lý do gì để lo sợ không được vãng sanh. Có nhiều người niệm phật rất giỏi , nhưng mà chỉ biết niệm thôi , chứ không biết phát Bồ đề tâm , không tha thiết mong mỏi về với Phật nên lúc chết nào tiếc của nào thương con ,có niệm đi nữa cũng chỉ gieo phước thôi chứ làm sao có thoại ứng điềm lành thấy phật hào quang qua rước.
Này các phật tử hôm nay tôi không có khỏe lắm , nhưng tôi phát hiện chỗ bảo hiểm của điều nguyện 19 này tôi rất an tâm . Tôi muốn nói ra cho những người đồng nghiệp tu hành hieur rõ để không còn phải lo sợ cận tử nghiệp và bất đắc kỳ tử nữa. Như vậy nguyên nhân của sự niệm Phật các Phật tử đã có rồi , là niệm Phật đẻ qua thế giới của Phật. Lời nguyện của Phật như biển, ai niệm trúng cái nhân nguyện của Phật là được biển thệ của đức Như Lai , nhớ cái đức từ bi nguyện lực của Phật mà tội chướng người đó được tiêu trừ nên mình niệm 10 niệm lúc lâm chung được vãng sanh còn lúc bình thời niệm nhiều thì nó tăng phần công đức nên phẩm vị vãng sanh càng cao. Nên Ngẫu Ích Đại sư nói: người được vãng sanh hay không là do nơi tín nguyện có cùng không . nếu có tín nguyện thì nhất định được vãng sanh . Còn niệm Phật làm công đức nhiều thì sanh phẩm cao , niệm Phật ít thì sanh phẩm thấp nhưng được vãng sanh hay không mới quan trọng , còn phẩm cao hay thấp không thành vấn đề. Cho nên chữ tín -nguyện trong Tông Tịnh độ các phật tử phải tạo cho có và cho kiên cố , mà cái chữ nguyện nó nắm cái vai trò chủ chốt quan trọng , ví sao vậy ? Vì trong nguyện nó bao gồm cả tín và hạnh rồi , còn tín có thể nó không bao gồm nguyện và hạnh trong đó. Vì sao ? Cũng như bây giờ cõi Cực Lạc do Phật Thích Ca giới thiệu thì cảnh Đông Phương giáo chủ của Phật dược sư cũng do đức Thích Ca giới thiệu.
Cho nên chúng ta tin cõi Cực Lạc thì chúng ta cũng phải tin cõi Đông Phương . Như vậy đối với Đông Phương chúng ta có tin mà không có hạnh nguyện . còn ngược lại có những chúng sanh cầu về Đông Phương họ cũng tin tây phương nhưng họ cũng không có hạnh nguyện về tây phương. Tôi nói ra để biết chữ tin nó nằm riêng rời ra, còn chữ nguyện thì không có đứng riêng rời được .như người nguyện về Cực Lạc thì đã có chữ tín thu theo rồi, chớ không tin thì nguyện đi đaau , nhờ có tin nên mới nguyện . Chữ nguyện này nó đứng chủ chốt quan trọng mà quan trọng này nó mới có sự vận hành niệm Phật theo , thành ra cái người năng nổ niệm Phật là phải biết người đó chí nguyện rất sâu mà cái nguyện này phải nhấn mạnh vào nó thì tự nhiên cái hạnh rất dễ niệm theo , chớ không phải ép niệm và có nguyện thì cái niệm mới thoải mái chớ không bị căng thẳng thần kinh. Cũng như pháp tu Thiền dung cái lý duy tâm Tịnh độ tự tánh Di Đà , họ mượn cái tên đức phật mà họ niệm để tự khai thị sáng Phật tánh của mình , họ không có chí nguyện gì với Phật hết hết, những người này tuy có niệm Phật nhưng không có mùi vị gì hết , nên nó rất căng thẳng mệt mỏi người này dầu có niệm phật được nhất tâm đi nữa thì cũng để tự khai thị tự tánh mà thôi .không có tin nguyện nên không cảm đến Phật thì không do đâu Phật trợ lực người này được. Còn chúng ta có nguyện rồi , niệm nhất tâm thì phẩm vị cao , còn nếu chúng ta không niệm nhất tâm thì phẩm vị thấp. Cho đến lúc lâm chung mà chúng ta y nguyện 19, chúng ta không niệm Phật được cũng quyết được vãng sanh .Vì nguyện 19 hoàn toàn không có bảo niệm nhưng để kết hợp nguyện 18 chúng ta phải niệm nếu kịp , còn không niệm cũng có phần bảo hiểm phần bảo hiểm của của điều nguyện 19 này. Còn nếu chỉ y theo điều nguyện 18 mà không kiêm tu theo nguyện 19 thì khi lâm chung phải niệm 10 câu niệm Phật mới được vãng sanh . Nếu không niệm kịp hoặc quên hoặc hôn mê thì coi như ở lại đường sinh tử chờ kết quả đời sau . Mà đời bây giờ đang nhằm lúc hiếp đạo đức ngày càng suy , bạo ác càng thịnh , người lành càng ít, người dữ nhiều nên nếu không quyết chí để vãng sanh đời này thì đời sau lên e khó tu hơn.
Hai điều nguyện này có cái đặc biệt của nó. Như nguyện 18 dùng để cứu vớt những người tu muộn người ác lúc lâm chung mới gặp thiện tri thức dạy tu . Vì lúc cấp bách này làm sao họ tu theo nguyện 19 kịp và cần có sự trợ niệm cho họ .Còn nguyện 19 có tính cách sẵn sàng chuẩn bị và được sự bảo hiểm của Phật . Nên có hộ niệm hoặc không , thậm chí không niệm Phật kịp hoặc hôn mê cũng quyết được vãng sanh . Nên chúng ta cần phải kết hợp hai điều kiện 18 -19 và hành cho đúng như lời giảng của tôi thì nhất định sẽ được vãng sanh. Này các Phật tử , nếu các Phật tử y theo lời giảng của 2 điều nguyện 18 và19 này nói rất quan trọng và trợ giúp với nhau mà mọi người y theo 2 lời nguyện này tu là vững chắc , không có lý do nào mà không được vãng sanh.
Một người ở thế gian họ không có tu , mà những người gọi là quân tử , một khi họ hứa với ai thì phải giữ lời , gọi là quân tử nhất ngôn . Còn Đức Phật của chúng ta nguyện đây là tự nguyện vì lòng từ bi tràn đầy với chúng sanh , nên muốn đem chúng sanh từ cõi khổ đến cõi an vui và giáo hóa cho thành Phật , tự tâm ngài phát nguyện ra nên cái nguyện là cái mực thước đo lòng ngài , mà lòng ngài từ bi quá độ nên cây thước 48 lời nguyện này là tột đỉnh tấm lòng từ bi của ngài đối với chúng sanh bao la hải hà nên tự nguyện , tức nhiên ngài phải làm tròn cái lời nguyện của mình. Vì quân tử thế gian còn không thất hứa với ai huống chi là một vị Phật lại quan trọng là đã hứa trước chúng hội có Đức Phật của mình đã chứng minh , và ngài thành Phật 10 kiếp đã qua rồi. Trong kinh niệm Phật Ba La Mật Đức Thích Ca nói lòng từ nguyện lực của ngài sâu dày nên từ quá khứ đến nay 10 kiếp đã qua chưa từng bỏ sót một người nào ,dầu người đó có phạm vào ngũ nghịch thập ác.
Điều nguyện 18 nói trừ người tạo tội ngũ nghịch và hủy báng chánh pháp nhưng mà quán kinh nói những người phạm ngũ nghịch thập ác biết hồi tâm sám hối niệm Phật một niệm , hoặc 10 niệm Phật A DI ĐÀ liền tiếp trước .Như vậy nguyện 18 nói trừ người tạo tội ngũ nghịch ….là ý đức Phật muốn rào đón trước . Cho mình đừng có dính vào những tội này , vì ai mà vướng vào cái tội này thì khó hồi tâm sám hối niệm Phật được. Bởi vì phạm vào rồi thì cực trọng nghiệp nó hành cho người này khổ đau , đâu có yên tâm mà hồi hướng sám hối được , cho nên triệu người mà phạm tội này may ra có vài người chịu ăn năn sám hối niệm Phật. Nên đức Phật vì lòng từ bi muốn cho chúng ta được bảo đảm vãng sanh nên Ngài rào đón trước bằng cái lời trừ ra .Nhưng mà ai lỡ phạm mà chịu quay đầu thì lòng từ của ngài không bỏ .Nên kinh Ba La Mật Đức Thích Ca nói đức Di Đà chưa từng bỏ xót một chúng sanh nào dầu người đó phạm vào ngũ nghịch là cái ý này đây. Cho nên chúng ta phải tin triệt để vào lời nguyện của Phật .Chúng ta hành cho đúng lời nguyện của ngài thì chúng ta không lo gì hết. Chẳng lẽ 10 kiếp đã qua đức Phật không bỏ xót ai hết mà bây giờ Ngài lại bỏ xót mình hay sao. Nếu đức Phật bỏ xót một người nào mà người đó hạnh đúng nguyện 18-19 tức thời Ngài phải từ chức ngôi vị Chánh Giác liền .Mà chẳng lẽ vì một người mà phá hoại ngôi vị Phật được sao .Thành ra chúng ta phải yên tâm không có bị một lý thuyết nào bài bác cho chúng ta ngã lòng .Gỉa sử Đức Thích Ca có hiện hình trở lại nói ta có pháp khác tu mau thành Phật hơn , mình cũng lạy mà xin tạ từ vì con chỉ nguyện 1 lòng theo đức A di Đà mà thôi . Như vậy đến như Phật hiện ra mà ta còn không thay đổi ý chí huống là các người thế gian bài bác phá hoạiys chí ta được. Được như vậy gọi là chí nguyện kiên cố , dầu tất cả mọi người trên cõi Tam Thiên này mới đẻ ra liền niệm Phật , niệm này đêm đến 100 năm rồi chết không có thoại ứng vãng sanh . Cũng không vì đó mà chúng ta sanh nghi , tại sao? Chẳng qua họ niệm nhiều mà thiếu chí nguyện và lòng tin. Thành ra Đức Di Đà đâu có bảo chúng ta niệm nhiều , 10 niệm thôi , nhưng 10 niệm đó phải có đủ lòng tin chí nguyện trong đó. Cho đến điều nguyện 19 Ngài không có vấn đề niệm gì hết , chỉ phát Bồ Đề tâm , tu các công đức nguyện sanh về nước tôi , lúc lâm chung tôi hiện ra trước người đó, hiện trước người đó để làm chi ? Vì tiếp độ nên Ngài mới hiện ra.
Như vậy điều nguyện thứ 19, Phật không có đề cập đến vấn đề niệm Phật , nhưng vì hỗ trợ cho nên chúng ta cần phải niệm Phật , vì tu các công đức công đức nào bằng công đức niệm Phật ,niệm Phật là công đức lớn nhất. Cái câu lúc tôi thành Phật thập phương chún sanh tu các công đức trong đó có công đức niệm Phật rồi . Như vậy niệm Phật tùy ích nhiều chúng ta kết hợp lại điều nguyện 18 – 19 thì an toàn bảo đảm nhất. Có nhiều người không tu , họ thấy mình niệm Phật họ hù dọa niệm thì niệm chứ không chắc đâu vì giờ chết cận tử nghiệp nó mới quan trọng. Ý họ nói họ không cần niệm Phật , họ có làm các đi nữa tới giờ chết họ niệm cũng được . Còn mình niệm cho nhiều biết đâu đến giờ chết cận tử nghiệp nó lôi mình trở lại , ý họ đánh giá như vậy. Thì bây giờ nguyện 19 này có Phật bảo hiểm lúc chết nên chúng ta an tâm . Vì cận tử nghiệp nào dám đối đầu với Phật , nghiệp ngũ nghịch thập ác còn không cản được Phật.
Người phạm tội ngũ nghịch là cái nghiệp cực mạnh mà niệm Phật còn độ được huống hồ chúng ta đã phát bồ đề tâm , tu các công đức và nguyện sanh về cõi Ngài đã trúng y lời văn nguyện 19 thì cận tử nghiệp nào dám hiện ra , bất đắc kỳ tử nào mà qua được Phật . Bất đắc kỳ tử là đối với phàm còn Phật là nhất thiết chủng trí làm sao không biết chúng sanh giờ nào chết mà biếtb rồi là Ngài hiện ra . Cho nên chúng ta phải giải cho thông, nguyện lực cho dõng mãnh , tin cho vững chắc thì chỉ còn thời gian mãn kiếp Ta bà liền sanh TỊNH ĐỘ.
Thích Thiện Thuận
20 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
- Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
- Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi sau khi mạng chung còn trở lại ba ác đạo thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
- Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều thân màu vàng ròng thì tôi đọc tiếp ➝
15 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Chỉ nương pháp niệm Phật sẽ được qua biển sinh tử.
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.Thời đại mạt pháp, căn khí chúng sinh ngu si yếu đuối. Không nương tựa vào sức đại từ, đại nguyện của đức Phật A Di Đà mà có thể đời này thành tựu sự giải thoát sinh tử, trong ức ức vạn người khó có một. Vậy hãy cẩn thận tuân theo lời chỉ dạy của đức Phật. Xin khuyên các vị hãy thành thật niệm Phật, một cửa thâm nhập, bằng không thì khó lo xong việc lớn sinh tử!
Chẳng biết tốt xấu
Thời mạt pháp nếu bỏ đi pháp môn niệm Phật thì không có bất cứ pháp môn nào có thể giải thoát được sinh tử. Bạn chẳng biết được tốt xấu, chẳng biết mình là phàm phu ngã mạn, trí tuệ mờ tối, chướng sâu, phước mỏng, nghiệp dày. Không chịu căn cứ vào lời dạy của đức Phật, thành thật tu hành nương nhờ sức Phật cứu giúp. Pháp môn niệm Phật không thể nghĩ bàn. Lại theo ý riêng tu hành các pháp môn khác thì không có cách gì đạt được lợi ích và thọ dụng chân thật, lại không thể giải thoát khổ đau sinh tử trong đời này!
Nguyên nhân Như Lai ra đời
Đại sư Thiện Đạo nói rằng: ”Nguyên nhân Như Lai ra đời chỉ nói bản nguyện của Phật A Di Đà“. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tại đời ác năm trược nói pháp 49 năm, điều quan trọng nhất là dạy chúng ta niệm Phật một câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, giới thiệu cho chúng ta pháp môn Tịnh Độ thù thắng, có thể một đời thành tựu việc giải thoát sinh tử.
Người niệm Phật có đại phước báo
Người có thể nghe và tin đến được một câu Nam Mô A Di Đà Phật này, họ đã nhiều đời nhiều kiếp đến nay tích lũy bao nhiêu nhân duyên căn lành phước đức, mới có thể đời nay gặp nghe và thọ trì pháp môn Tịnh Độ. Vì thế, người hay niệm Phật đều có phước báo lớn.
Phước báo trời, người
Đời nay nếu không niệm Phật cầu vãng sinh, tất cả sự nỗ lực chỉ là phước báo nhân thiên, không có cách gì đời nay thoát khỏi sinh tử, vẫn còn trở lại luân hồi nơi sáu đường, quả thật đáng tiếc.
Tro tàn
Tro tuy đã tàn nhưng hơi nóng vẫn còn ngấm ngầm bên trong, chỉ cần một làn gió thoảng qua cũng làm nó lóe sáng lên, rồi sau đó trở lại nguội như trước. Tâm của người tu hành cũng nên tập như đống tro tàn, không sinh thêm chuyện phiền phức, khởi tâm phân biệt phải trái. Chỉ cần một câu A Di Đà Phật giữ vững đến cùng!
Thiền thâm diệu vô thượng
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Người tu hành chỉ niệm A Di Đđà Phật, đó gọi là thiền thâm diệu vô thượng. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật chính là thiền, mà thiền này lại là vô cùng sâu xa”.
Thần chú thật đơn giản và chân thật
Một câu Nam Mô A Di Đà Phật chính là mật. Sáu chữ hồng danh này y theo phạn văn, chưa phiên dịch một chữ, nên sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật là thần chú rất đơn giản và chân thật.
Niệm Phật bằng với việc tụng hết thảy Kinh
Trọn bộ kinh Đại Bát Nhã cô đọng lại chính là một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Lại còn nói thêm rằng: ”Tam tạng mười hai bộ kinh gói gọn trong một câu Nam Mô A Di Đà Phật”. Vì thế, niệm Phật liền bằng với tụng hết Tam tạng kinh điển.
Niệm Phật không thể nghĩ bàn
Một câu Nam Mô A Di Đà Phật đã là thiền, là mật rồi, lại còn tổng quát hết Tam tạng kinh điển. Nên pháp môn niệm Phật thật không thể nghĩ bàn.
Niệm Phật là hạnh chánh
Kinh Di Đà nói rằng: ”Không thể dùng chút ít nhân duyên căn lành phước đức mà được sinh về cõi Cực Lạc”. Nên người niệm Phật phải thường niệm Phật để làm hạnh chánh, lấy sáu độ và vạn hạnh làm phụ thêm. Không nên để tâm phan duyên. Đối với các duyên xấu cần phải hết sức tránh xa, đối với các duyên tốt cần phải nỗ lực tùy duyên mà làm. Nhưng cần phải có trí tuệ cân nhắc và có chừng mực. Không nên bỏ gốc theo ngọn, các hạnh chánh và hạnh phụ lộn xộn. Chỉ đuổi theo phước báu trời người mà quên mất việc lớn giải thoát sinh tử của chính mình.
Một môn thâm nhập
Thời đại mạt pháp, người học Phật nên dùng tâm thành thật niệm Phật làm phép tắc. Duy chỉ dùng một môn trì danh niệm Phật để thâm nhập. Khởi phát phải dính dáng tới quán tưởng hay quán tượng Phật. Nhân vì chúng sinh thời mạy pháp căn cơ chậm lụt, nên việc quán tưởng và quán tượng chẳng phải người thượng căn thì không thể thành tựu. Chỉ có hết lòng chân thật tụng một câu Thánh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” sẽ vô cùng bảo đảm.
Niềm tin sâu
Chúng ta là những người tu học theo pháp môn Tịnh Độ. Đối với thế giới Cực Lạc ở Tây phương, không những chỉ có niềm tin mà cần phải tin cho thật sâu. Đối với thế giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà và pháp trì danh hiệu Phật, có được niềm tin sâu sẽ vãng sanh không nghi. Dù cho bất kỳ sự cản trở phỉ báng nào, đều không dao động đến tín tâm, cầu sinh Tịnh Độ của chúng ta. Được vậy mới gọi là người có niềm tin sâu.
Nguyện cấp thiết
Chúng ta đã tin sâu lòng đại từ đại bi không bờ bến của đức Phật A Di Đà. Chúng ta nên phát nguyện cầu sinh về thế giới Cực Lạc. Không chỉ là nguyện thôi, mà phải nguyện cấp thiết. Trong tâm phải hết lòng thiết thực chán chia lìa cái khổ vô cùng của thế giới Ta Bà, vui mừng cầu cái vui vô cùng của thế giới Cực Lạc. Lập nên nguyện rộng lớn, chắc chắn cầu sinh về cõi Cực Lạc ở phương Tây. Dù cho bất cứ tiếng tăm và lợi dưỡng nào, hoặc bệnh khổ hành hạ đều không thể thay đổi tâm nguyện cầu sinh Tịnh độ của chúng ta. Được vậy mới gọi là người có nguyện tha thiết.
Tự hỏi lương tâm
Nếu hiện tại đức Phật A Di Đà hiện thân trước mặt chúng ta, mở rộng cánh cửa của thế giới Cực Lạc ở phương Tây để tiếp dẫn chúng ta đi về với Ngài, ngay tại đây, người có nguyện đi ít lại càng ít. Đây là do người tu học pháp môn Tịnh Độ có niềm tin nhưng không được sâu, có nguyện nhưng nguyện không tha thiết, có thực hành nhưng thực hành không đủ sức, y như cứ quyến luyến cõi Ta Bà. Đối với danh lợi thế tục, tình duyên con cái nhiều thứ ràng buộc. Vẫn còn nhiều duyên không buông xuống. Mọi người tự hỏi lương tâm mình. Đối với thế giới Cực Lạc, ba món tư lương “Tín, Nguyện và Hạnh” của các bạn đầy đủ được bao nhiêu? Đối với danh lợi trần duyên của thế giới Ta Bà, bạn đã buông bỏ được bao nhiêu?
Thành thật niệm Phật
Chân thật niệm Phật chính là thành thật đem một câu A Di Đà Phật làm “bổn mạng nguyên thần” của chính mình. Cần phải rành mạch, rõ ràng, miên mật, khít khao mà trì niệm. Tuyệt đối không vì bất cứ phương pháp huyền diệu, thần kỳ nào hay bất cứ người có danh vọng học vấn làm cho dao động.
Sống chuyển thành chín, chín chuyển thành sống
Người hành trì pháp môn niệm Phật cần phải thực hành hai nguyên tắc lớn “chỗ sống chuyển thành chín, chỗ chín chuyển thành sống”, nghĩa là phải đem một câu Nam Mô A Di Đà Phật niệm cho thật nhiều. Luôn thúc giục chính mình trong bốn oai nghi đi đứng, nằm ngồi; luôn để khởi một câu Phật hiệu. Lâu ngày dài tháng niệm thành thói quen tốt niệm Phật. Đến phút lâm chung rất quan trọng, Phật hiệu tự nhiên liền có thể đề khởi lên được, lúc này nguyện vãng sinh đã có phần nắm chắc trong tay.
Tức một tức ba
Niệm Phật chính là tịnh, là thiền mà cũng chính là mật. Một tức ba, ba tức một. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật bao gồm tất cả tinh hoa mà Thế Tôn thuyết pháp trong 49 năm. Niệm Phật đích thực là không thể nghĩ bàn. Hãy hết lòng thành thật, đem một câu Nam Mô A Di Đà niệm liên tục đều đặn. Tất cả tinh túy của Phật giáo trọn ở trong đó.
Nương tự lực hay nương Phật lực?
Học thiền, mật sở dĩ khó thành tựu là do nương tựa ở sức mình. Điều đó chỉ có căn cơ bậc thượng mới có thể thành tựu. Nguyên nhân niệm Phật dễ thành tựu là biết nương vào sức Phật. Đức Phật A Di Đà có đại từ, đại bi. Hãy nương vào bổn nguyện tiếp dẫn chúng sinh của Ngài. Đã nương vào sự gia hộ của Phật, các bậc thượng, trung, hạ căn đều được nhiếp thọ. Cắt ngang sinh tử hèn hạ, một đời thành tựu vượt phàm vào thánh.
Niệm Phật mới là chân chánh cứu cảnh, lại còn bủa khắp cả ba căn thượng, trung, hạ. Không có hạng nào không thu nhiếp. Thử xem kinh Hoa Nghiêm, ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 53 lần tham học, về sau ngài Bồ Tát Phổ Hiền còn dạy lấy mười Đại Nguyện Vương dẫn dắt quay về Cực Lạc. Bởi thế, kinh Hoa Nghiêm là vô thượng kinh vương. Sau khi Thế Tôn thành đạo, vì 41 vị pháp thân Đại sĩ ở nơi hội Hoa Tạng Hải, dạy dỗ và dẫn dắt, đều khuyên Đại Bồ Tát niệm Phật cầu sinh Tây Phương để viên mãn Phật quả. Chúng ta là hạng phàm phu, lại coi thường niệm Phật, cho niệm Phật là cạn cợt, bảo đó là chỗ hành trì của hành nam nữ ngu si. Chúng ta thật quá ngu si mê muội, thật đáng thương không thể cứu được!
Bí quyết niệm Phật
Bí quyết niệm Phật không gì lạ, chính là cần nhiều niệm. Niệm từ lúc thô sơ cho đến khi thuần thục, nuôi dưỡng thành thói quen niệm Phật. Đem một câu Nam Mô A Di Đà Phật hết lòng cung kính niệm, ứng dụng vào các việc như ăn mặc, đi đứng thường ngày. Lâu ngày như thế, tự mình có thể biết được sự mầu nhiệm trong câu niệm Phật.
Niệm Phật lớn tiếng
Khi niệm Phật nếu vong niệm dấy khởi liên miên, tâm thức tạp loạn, không thể chuyên chú, ắt cần phải niệm lớn tiếng để nhiếp tâm. Dùng tai lắng nghe có thể trừ được vọng niệm. Kinh Nghiêp Báo Sai Biệt nói rằng: ”Niệm Phật lớn tiếng có 12 thứ công đức. Một, có thể trừ bệnh ngủ gật. Hai, thiên ma kinh sợ. Ba, tiếng biến khắp mười phương. Bốn, dứt khổ trong ba đường ác. Năm, âm thanh bên ngoài không lọt vào tai. Sáu, tâm chẳng toán loạn. Bảy, tinh tấn dũng mãnh. Tám, Chư Phật hoan hỷ. Chín, Tam Muội hiện tiền. Mười, vãng sinh Tịnh Độ”.
(Tam muội: Còn gọi là Tam Ma Đề hoặc Tam Ma Địa. Trung Hoa dịch là Chánh Định, tức là lìa các tà niệm, tâm trụ một chỗ không các tà niệm).
Cách hành trì của người học Phật
Điều tối quan trọng trong cách hành trì của người học Phật là cần phải thâm nhập một môn, thành thật chấp trì Thánh hiệu A Di Đà Phật. Dù cho biển động, núi tan hoặc trải qua thời gian lâu dài, tuyệt không hề thay đổi. Mọi hành vi trong cuộc sống đều không nên sát sinh, ăn chay làm đầu cho hạnh đoạn các điều ác. Lấy việc chuộc mạng phóng sinh làm trước cho hạnh làm các điều thiện.
Nội công và ngoại công
Phần nội công và ngoại công của người học Phật cần phải song song và được coi trọng. Nội công chấp trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật đến chết giữ không quên. Khi đi đứng, nằm ngồi luôn nhớ niệm. Ngoại công là Lục độ vạn hạnh, đoạn ác tu thiện, không sát sinh, ăn chay, phóng sinh và giúp đỡ mọi người. Nội công là chính, ngoại công là phụ. Nội công là chủ, ngoại công là kẻ tùy tùng. Tiếc cho người đời chỉ trọng ngoại công mà quên nội công, bỏ gốc theo ngọn, ngu si điên đảo thật đáng tiếc lắm vậy!
Khó hành đạo – dễ hành đạo
Ước muốn được thành Phật, chúng ta chọn pháp tu như Thiền tông, Mật tông hay Luật tông đều phải trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, ròng ra tu hành mới có thể thành công, bởi chỉ nương vào tự lực nên rất khó. Khi chọn tu pháp môn Tịnh Độ, chúng ta nương vào một câu thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, liền có thể một đời thành tựu vượt phàm vào Thánh. Nguyên do là chúng ta nương tựa vào sức bổn nguyện của Ngài sẽ được Ngài gia hộ cho nên dễ dàng thành tựu.
Đại sư Liên Trì dạy: ”Giúp cha mẹ giải thoát sinh tử, mới tròn bổn phận làm đạo con”. Hạnh hiếu lớn nhất ở thể gian không gì hơn khuyên cha mẹ niệm Phật, phát nguyện vãng sanh thế giới Cực Lạc. Giả sử chúng ta cúng dường cha mẹ rất nhiều vàng ngọc châu báu, xây nhà cao đẹp lộng lẫy cho cha mẹ ở, nhưng lúc già chết đến, cha mẹ không thể mang theo được. Trong cuộc sống dẫu nhiều năm được gần gũi bên cha mẹ, ân cần thăm hỏi với tâm mến thương, tất cả đều chỉ là hư giả, tạm thời. Chỉ có khuyên cha mẹ thường niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật mới tròn đạo hiếu thảo. Đây mới thật sự mời đón cha mẹ đến chỗ hoàn toàn lợi ích. Nguyện khắp thiện hạ, những người con có tâm hiếu thảo, cố gắng phụng dưỡng và báo đáp công ơn cha mẹ với tâm hiếu thảo này.
Tự thanh tịnh ý mình
Giáo nghĩa chư Phật dạy không ngoài 16 chữ “việc ác chớ làm, siêng làm việc lành, thanh tịnh ý mình, lời chư Phật dạy”. Trong 16 chữ ấy quan trọng nhất là bốn chữ “thanh tịnh ý mình”. Với người niệm Phật để thanh tịnh được ý mình, phải bền vững nắm chắc một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Dùng nhất tâm niệm Phật để chặt đứt và hàng phục muôn vàn vọng niệm, thanh tịnh từ tâm. Nếu niệm Phật không gián đoạn, sẽ hiện rõ tánh Phật xưa nay có sẵn nơi mỗi chúng ta.
Chỉ và quán
Có người nói rằng: Thế nào gọi là Chỉ và Quán? Quả thật chỉ niệm một câu A Di Đà Phật chính là chỉ và quán rồi. Có thể chuyên niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đến khi không còn khởi niệm, vọng niệm không sinh gọi là chỉ. Khi niệm danh hiệu Phật thường biết từng niệm, từng niệm rõ ràng đều đặn gọi là quán. Có thể nương vào chương đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm: ”Thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm liên tục”. Chân thật chấp trì danh hiệu Phật chính là Chỉ và Quán vậy.
Tức tâm tịnh độ
Dù bạn dốc sức nghiên cứu các pháp môn Chỉ Quán, có thể nơi giáo chỉ tông Thiên Thai đã dung hội và quán thông. Thậm chí còn có thể tụng thuộc làu làu Tam tạng kinh điển, đều không có chỗ dùng. Bạn vẫn là kẻ phàm phu còn trói buộc trong vòng luân hồi sinh tử. Muốn thành Phật phải trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp. Tuy cái gì bạn cũng không biết, nhưng chỉ cần bạn thành thật chấp trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật với lòng tin sâu xa và tâm nguyện tha thiết cầu sinh về cõi Cực Lạc, là có thể thành tựu việc giải thoát sinh tử một đời, sẽ vượt phàm vào thánh. Pháp môn niệm Phật thật không thể nghĩ bàn. Xin khuyên tất cả Phật tử hãy biết tâm mình là cõi Tịnh Độ, nên an tâm niệm Phật chớ để thời gian qua suông, vì mạng người có hạn!
Thời mạt pháp niệm Phật dễ thành tựu
Đức Phật là bậc thông suốt Tam Giới. Ngài dạy rằng: ”Thời đại chánh pháp giải thoát thành tựu. Thời đại tượng pháp thiền định thành tựu. Thời đại mạt pháp niệm Phật thành tựu”. Những lời này chúng ta đã hiểu biết rõ ràng. Thời đại mạt pháp ngày càng xa cách Thánh nhân. Vận mạng pháp môn ngày càng suy giảm. Căn cơ chúng sinh ngày càng châm lụt, phước báo mong manh, trí tuệ thô thiển, tội nghiệp sâu nặng, không đủ tư cách để nói đến trì giới và thiền định. Chỉ còn nương tựa vào nguyên lực đại từ đại bi của đức A Di Đà. Nương tựa vào một câu Thánh hiệu hết sức cao thượng, hết sức đơn giản và chân thật, mới có thể vượt thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi
Niệm Phật càng về sau càng quan trọng
Thời mạt pháp tương lai sẽ đến đoạn cuối cùng. Pháp môn niệm Phật nhất định càng về sau càng quan trọng. Chúng sinh đời vị lai phước báu mỏng dần, nghiệp chướng nặng thêm. Như ngày này một bộ kinh điển quý báu, để mặc cho hư hết, không xem tới. Có thể đến cuối cùng, Phật giáo tại thế gian còn lưu truyền một câu thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Chúng sinh đã quá đau khổ, nương tựa một câu Phật hiệu là nương tựa vào sức thệ nguyện đại từ đại bi của Phật A Di Đà. Chỉ cần đơn giản chấp trì danh hiệu Phật, tin và nguyện vãng sinh, liền có thể nương nhờ sức Phật cứu vớt thoát khỏi biển khổ sinh tử. Như đây có thể thấy một câu Nam Mô A Di Đà Phật thật tinh hoa vô cùng trong Tam tạng kinh điển của Phật giáo.
Thành thật niệm Phật
Đại sư Liên Trì là bậc Tổ sư của tông Tịnh độ vào đời nhà Minh. Trước khi vãng sinh Cực Lạc đại chúng cầu thỉnh để lại lời di chúc. Đại sư dạy rằng ”Thành thật niệm Phật”. Tổ sư một đời tu hành chỉ để lại bốn chữ đơn giản, nhưng bốn chữ ấy đã nhiếp tất cả cương lĩnh của người tu hành thật sự bên trong. Vào thời mạt pháp, ma mạnh pháp yếu, chúng tà đầy dẫy. Chúng ta chỉ cần nắm chắc bốn chữ “thành thật niệm Phật” này làm nguyên tắc cho việc tu hành thì không bị tất cả tà ma ngăn trở, mê hoặc điên đảo.
Đệ tử Phật chân chánh
Tất cả việc tu hành không nên xa rời pháp niệm Phật, tất cả sự hành trì không nên trái với sự thành thật. Không niệm Phật, tu hành không thể thành tựu; không thành thật, tu hành không thể được đắc lực. Nhớ kỹ lời giáo huấn để lại của Đại sư Liên Trì; “Thành thật niệm Phật”. Chúng ta chỉ có thành thật trì danh hiệu Phật mới đúng là đệ tử chân chánh của Ngài.
Học Phật chân chánh
Nếu chúng ta đã chân chánh học Phật thì càng học càng đạt đến chỗ đơn giản và thuần thục, càng học nhất định càng khiêm tốn và luôn biết hổ thẹn. Đơn giản và thuần thục đến mức trong sinh hoạt chỉ là một câu thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật tràn ngập trong tâm; tâm khiêm tốn đến lúc chỉ thấy tất cả mọi người đều là Bồ Tát, duy chỉ có mình ta là phàm phu. Lòng hổ thẹn nên tất cả việc tốt chỉ hướng cho người khác, nếu có việc xấu, lỗi lầm mình nhận lấy hết. Người có tâm lượng cao cả này trên đường học Phật sẽ đạt được thành tựu chân chánh.
Đầy đủ lòng tin và tâm nguyện
Đại sư Ngẫu Ích trong “Di đà yếu giải” giảng rất rõ ràng: ”Được sinh Cực Lạc hay không, phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn do nơi niệm Phật sâu hay cạn”. Người niệm Phật chỉ cần đầy đủ niềm tin và tâm nguyện, khiến khi lâm chung mười niệm cũng quyết được vãng sinh. Nhưng sao hiện nay người niệm Phật rất nhiều mà người vãng sinh thì rất ít? Then chốt chính là niềm tin và tâm nguyện không rõ ràng, sự tu hành quá thô thiển không cố gắng tới cùng.
Một câu niệm Phật nhiếp hết tất cả
Đại sư Ngẫu Ích nói: ”Niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật thuần thục, thì tất cả tinh hoa của Tam tạng kinh điển đều ở trong ấy. Một ngàn bảy trăm công án, các cơ quan hướng thượng cũng ở bên trong, ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Tam tụ tịnh giới cũng ở trong ấy”. Một danh hiệu Phật đầy đủ tất cả thiền, giáo, mật chú và tất cả phương pháp tu hành. Một danh hiệu Phật đầy đủ tất cả Giới, Định, Tuệ pháp môn Tịnh độ đích thực không thể nghĩ, không thể bàn!
Niệm Phật chính là thiền
Bạn nghĩ cần phải học thiền ư? Hãy niệm Phật đi! Vì trong kinh Đại Tập dạy chúng ta rằng: ”Niệm Phật chính là thiền vô thượng thậm thâm vi diệu”.
Niệm Phật chính là mật
Bạn nghĩ cần phải học mật tông ư? Hãy niệm Phật đi! Bởi một câu thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, sáu chữ hồng danh này nương vào Phạn văn chưa phiên dịch một chữ. Đó là mật chú đơn giản, chân thật nhất.
Niệm Phật chính là giáo
Bạn nghĩ cần phải học kinh giáo ư? Hãy niệm Phật đi! Vì niệm Phật chính là tụng hết thảy kinh. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật là tinh hoa cô đọng của ba tạng kinh điển.
Niệm Phật chính là Giới, Định, Tuệ
Giải thích và phát huy hết ý nghĩa của ba tạng kinh điển chẳng qua chỉ có ba chữ Giới, Định, Tuệ mà thôi. Nhưng một câu Nam Mô A Di Đà Phậtđầy đủ và viên mãn phước đức và trí tuệ. Nói hết tất cả lời tốt trong thiên hạ chẳng bằng không nói một lời mà chỉ thầm niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Làm hết tất cả việc tốt trong thiên hạ chẳng bằng không làm gì, chỉ chuyên niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Học hết tất cả học vấn của thế gian không bằng không biết một chữ, chuyên niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật.
Đại Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền đều niệm Phật
Trong kinh Quán Phật Tam muội, ngài Bồ Tát Văn Thù nói kệ rằng:
Nguyện tôi khi mạng chung,
Diệt hết các chướng ngại.
Đối diện Phật Di Đà,
Sinh về nước Cực Lạc.
Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện kinh Hoa Nghiêm, ngài Bồ Tát Phổ Hiền nói kệ:
Nguyện cho tôi khi sắp lâm chung
Trừ sạch tất cả các chướng ngại.
Mắt thấy rõ đức Phật Di Đà,
Tức được sinh về nước Cực Lạc.
Đến như những bậc đại Bồ Tát như Ngài Văn Thù, Phổ Hiền còn niệm Phật, nguyện cầu sinh về thế giới Cực Lạc. Ngày nay không ít người coi thường việc niệm Phật phát nguyện vãng sinh. Thật đáng tiếc! Đáng thương thay! Bạn tự cho mình là hạng người gì? Đức Phật chỉ dạy, khuyên bảo chúng sinh sinh về cõi Cực Lạc Phương Tây, bạn lại không chịu nghe lời Phật dạy. Đem “giá trị Liên Thành” vô giá đổi một văn tiền có giá trị vứt bỏ bên đống rác. Đáng trách bạn không biết tốt hay xấu. Có mắt không tròng, nên nhìn không thấy Thái Sơn, nghiệp chướng quá nặng, phước báu lại mong manh!
Pháp môn đặc biệt
Đại sư Ấn Quang tán thán pháp môn Tịnh độ: ”Chín cõi chúng sinh lìa pháp môn này không thể viên thành quả Phật, mười phương chư Phật bỏ pháp môn này dưới không thể lợi khắp các hạng chúng sinh”. Niệm Phật là pháp môn đặc biệt. Đức Phật một đời chỉ dạy, căn cơ thượng, trung và hạ đều được lợi ích. Tất cả chúng sinh trong pháp giới đều nên tu tập. Trên đến Bồ Tát Đẳng Giác, dưới đến kẻ buôn bán nhỏ, hạng đầy tớ thấp hèn, chỉ cần chịu niệm Phật đều giống như nhau; thừa cơ nương vào sức Phật cứu độ, chót vót vượt phàm vào Thánh thoát khỏi sinh tử. Niệm Phật là pháp môn vô thượng, rất cao siêu, huyền diệu không thể nghĩ bàn, chỉ trong một đời là thành tựu.
Bình thường rất cao, thành thật rất diệu
Tâm bình thường thì đạo càng cao, lòng thành thật thì pháp phật mầu nhiệm. Pháp môn tu hành cao siêu, mầu nhiệm chính là giữ tâm rất bình thường. Tu hành và học vấn sâu xa chính là hết lòng thành thật. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật rất bình thường nhưng rất cao siêu và mầu nhiệm. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật rất thành thật nhưng rất sâu xa. Chúng ta có thể giữ tâm như ngu, nhưng bình thường và thành thật, thường niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Từ thủy đến chung, vĩnh viễn không thay đổi, chính là hạng người bậc nhất trong số người tu tập Phật pháp.
Tu pháp niệm Phật là vững vàng nhất
Thiền sư Bách Trượng nói rằng: ”Tu hành, dùng pháp môn niệm Phật là vững vàng nhất”. Đây là một trong 20 điều phép tắc. Thiền sư Bách Trượng là bậc cao đức trong Thiền Tông, vì dạy dỗ đệ tử mà đề xuất ra. Pháp niệm Phật là con đường tu hành rất an ổn, vì niệm Phật được nương vào sức đại từ đại bi của Phật A Di Đà và sẽ được Ngài nhiếp thọ. Đây là con đường tu hành thành công tuyệt đối có bảo chứng. Tham thiền, học giáo và các pháp môn khác chỉ nương tựa vào sức mình. Chúng sinh thời mạt pháp căn cơ ngu đần và yếu đuối, nghiệp chướng sâu nặng, không nương sức bồn nguyện của Phật làm sao mà hành cho thông!
Hãy nhanh quay về niệm Phật
Quá trình lịch sử là một tấm gương. Bao nhiêu thí dụ về sự tu hành của chư vị cổ đức đều để cảnh giác chúng ta. Hiện tại, người tri thức về học vấn rất thích tham thiền và nghiên cứu giáo lý, lại coi rẻ việc niệm Phật, xem niệm Phật là cạn cợt, là pháp môn của kẻ nam nữ ngu si. Xin những người này hãy tự hỏi lại lương tâm. Trí tuệ của quý vị có sánh được Thiền sư Bách Trượng, Đại sư Liên Trì, Triệt Ngộ hay không? Sự tu hành tinh tấn của quý vị có vượt trội như chư vị cổ đức hay không? Chư vị cổ đức với nghị lực và trí tuệ hơn người, đã tiêu phí tâm huyết hơn mấy mươi năm đều không có cách gì ở trong tham thiền đạt được thành tựu. Quý vị tự cho mình là hạng người gì, còn lớn tiếng không thẹn thùng, chỉ muốn tham thiền không nguyện niệm Phật? Có thể nói rõ với quý vị, tất cả sự nỗ lực đều phí tổn tâm huyết mà thôi, tuyệt không có cách gì thành công được. Hãy nhanh quay về niệm Phật đi, chớ nên coi thường việc này. Rất mong! Rất mong!
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng
Nghĩ muốn tiêu trừ nghiệp chướng phải cần nội công và ngoại công song hành, hạnh chánh và hạnh phụ gồm tu. Nội công là hạnh chánh, đó là niệm Phật lễ Phật . Niệm Phật trong sinh hoạt phải luôn nhớ thầm niệm một câu thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Dùng nhất niệm vạn đức hồng danh chí tôn vô thượng để trung hoà tất cả vọng niệm và thói xấu tham, sân, si từ vô thủy kiếp đến nay. Những nghiệp chướng nặng nề này sẽ dung hòa vào một câu thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, và được đức Phật A Di Đà đại từ đại bi và tất cả chư Phật trong mười phương hộ niệm, che chở và bao bọc, giúp tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình. Lạy Phật chính là kính lễ chư Phật để sám hối nghiệp chướng của chúng ta. Mỗi ngày lễ 88 vị Phật hoặc chuyên lạy Phật A Di Đà để sám hối. Trong quá trình lễ lạy, ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh nương vào sức bồn thệ nguyện của chư Phật, dùng sức mạnh sám hối để diệt trừ tội lỗi và tiêu trừ nghiệp chướng. Ngoại công là hạnh phụ có thể giúp thành tựu đạo nghiệp của chúng ta. Ngoại công chính là ăn chay và phóng sinh. Chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày không nên làm điều ác, nhớ phải tu nghiệp lành. Việc cực ác chính là ăn thịt và giết hại. Vì thế, muốn dứt điều ác trước hết phải ăn chay. Việc thiện lớn nhất là chuộc mạng phóng sinh. Vì thế, muốn tu điều thiện, trước phải lo chuộc mạng phóng sinh. Ăn chay và phóng sinh là hai bài tập quan trọng nhất của người tu Phật
Nếu như có thể nội công và ngoại công cùng tu, thì dùng nội công niệm Phật, lạy Phật làm chính; lấy hạnh ăn chay và phóng sinh làm phụ. Cần phải hết lòng chí kính nỗ lực tinh tấn thì sẽ thành tựu nhanh chóng.
Một câu danh hiệu Phật
Trong Phật giáo, pháp tu đơn giản nhất chính là một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Pháp tu sâu xa nhất cũng là một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Rất đơn giản chỉ dành cho hạng người buôn bán nhỏ, người bình dân, kẻ tôi tớ. Quá sâu xa thì trên đất Bồ Tát Đẳng giác cũng không thể hiểu hết. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật cũng rất đơn giản, rất sâu xa, tột cùng viên mãn những thuần thục, hết sức bình thường nhưng huyền diệu, dễ hành trì nhưng cũng khó giải thích. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật là mục đích chủ yếu mà Phật thị hiện nơi cõi đời ô trược này cũng là đại pháp vô thượng thông suốt bổn nguyện của đức Phật. Đó cũng là tinh hoa trí tột của ba tạng giáo điển. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật vượt lên tất cả pháp Giáo, Thiền, Mật và Luật học, nhiếp hết tất cả pháp môn.
Trích Liên Trì Cảnh Sách
Việt dịch: Thích Quảng Ánh
12 06 2010 | Suy Gẫm & Thực Hành |
Sau khi Phật niết bàn, những lời dạy của Ngài đã được các vị thánh đệ tử kết tập lại thành ba tạng kinh điển, trong đó triển khai tám vạn bốn ngàn pháp môn tu tập, khai mở cho chúng sanh con đường dứt trừ vọng tưởng, thê nhập chân như. Một trong vô số pháp môn tu tập, với sự hành trì rất đơn giản nhưng thành tựu nhiệm mầu, đó là pháp môn Tịnh độ.
Pháp môn Tịnh độ là một trong mười tông phái của Phật giáo Trung Hoa, đây là tông phái siêu việt được các bậc cổ đức liệt vào tông phái Đại thừa viên đốn. Nói Đại thừa bởi tông này lấy tâm bồ đề làm nhân, lấy quả vị cứu cánh Phật làm quả. Nói Viên bởi tông này lý sự vẹn toàn, tóm thâu bốn giáo trước (Tiểu thừa giáo, Đại thừa thỉ giáo, Đại thừa chung giáo, Đại thừa đốn giáo). Nói Đốn bởi tông này không luận bàn về pháp tướng, mà chỉ chuyên ròng về chân tánh, không cần trải qua nhiều thứ lớp, tu tập trong một đời có thể chứng lên quả vị Bất thối chuyển (A bệ bạt trí). Đây quả thật là điểm siêu xuất của tông Tịnh độ.
Giáo nghĩa Tịnh độ được y cứ trên ba bộ kinh và một bộ luận làm cơ sở nòng cốt để phát huy, đó là Phật thuyết A Di Đà kinh, Vô Lượng Thọ kinh, Quán Vô Lượng Thọ kinh (còn gọi Thập Lục Quán kinh) và một bộ luận là Tịnh độ vãng sanh luận của Bồ tát Thế Thân.
Nơi Tinh xá Kỳ viên thuộc nước Xá Vệ, Đức Thế Tôn tuyên thuyết kinh A Di Đà. Ngài tóm lược giới thiệu vị giáo chủ và y báo trang nghiêm của thế giới Cực lạc, khuyên chúng sanh phát nguyện sanh về thế giới đó, bằng phương pháp chuyên trì danh hiệu Phật, đồng thời dẫn lời tán dương và ấn chứng của mười phương chư Phật để làm tăng tiến niềm tin cho người niệm Phật. Ở núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá, Ngài tuyên thuyết kinh Vô lượng thọ, diễn tả quá trình hành Bồ tát đạo của tỳ kheo Pháp Tạng (tiền thân Phật A Di Đà), trong khi tu nhân đã đối trước Đức Thế Tự Tại vương Như Lai phát bốn mươi tám đại nguyện thù thắng cao cả, để trang nghiêm Phật độ, nhiếp hóa quần sanh; kế đó nói về công đức tu hành, trí tuệ thần biến của thánh chúng cõi ấy, khiến chúng sanh sanh tâm khát ngưỡng phát nguyện sanh về.
Tại vương cung Tần Bà Sa La thuộc thành Vương Xá, do sự thỉnh cầu của hoàng hậu Vi Đề Hy, Ngài tuyên thuyết kinh Quán vô lượng thọ, chỉ bày mười sáu pháp quán làm nhân tố cầu sanh Tịnh độ, đây là những pháp quán rất tinh vi và sâu thẳm. Sau này Bồ tát Thế Thân nương vào kinh Vô lượng thọ tạo bộ Tịnh độ vãng sanh luận, tán dương cảnh giới trang nghiêm thù thắng của Cực lạc và xiển dương pháp tu Ngũ niệm môn (lễ bái, tán thán, phát nguyện, quán tưởng và hồi hướng) làm nhân tố cầu sanh. Ngoài ba kinh và một luận trên, còn có rất nhiều kinh luận Đại thừa khác như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bảo Tích…, Đại Trí Độ, Đại Tỳ Bà Sa… cung đều tán thán và đề cao tư tưởng cầu sanh Tịnh độ Phật A Di Đà.
Khi Phật giáo mới truyền sang Trung Hoa, pháp môn Tịnh độ đã sớm hòa nhập vào dòng tư tưởng của người bản xứ. Trung Hoa quả thật là một mảnh đất màu mỡ, để tông Tịnh độ đâm chồi nảy lộc. Sau Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, kế tiếp có các đại sư từ Ấn Độ sang, phụng sắc chỉ dịch các bộ kinh từ chữ Phạn sang Hán, kinh sách Tịnh độ cũng được theo đó mà truyền vào.
Thời Đông Tấn (317- 419), Pháp sư Đạo An (312- 385) đã làm sách luận về Tịnh độ, mở trường pháp phái nêu rõ chánh tông, phát huy những điểm đặc sắc của Tịnh độ. Dưới thời Tào Ngụy (220-280), Ngài Khang Tăng Khải (đến Trung Quốc năm 252) dịch kinh Vô Lượng Thọ. Đời Dao Tần (còn gọi Hậu Tần 354-417), bậc dịch kinh nổi tiếng Cưu Ma La Thập (344- 413), phụng dịch Phật thuyết A Di Đà kinh. Thời Lưu Tống (năm 420), Ngài Cương Lương Da Xá (383- 420) dịch Quán Vô Lượng Tho kinh. Từ đó, giáo nghĩa tông Tịnh độ đã hoàn bị. Vào đầu thế kỷ thứ năm, hệ tư tưởng hình thành tông phái tín ngưỡng Di Đà giáo đã chính thức khai nguyên; bậc cao Tăng được đăng quang lên ngôi vị khai tổ là đại sư Huệ Viễn (344- 415) ở chùa Đông Lâm Lô Sơn, lừng danh với hội Bạch Liên Xã mà âm hưởng còn vang vọng đến ngày nay.
Sau đó vào thời Tuyên Đế – Bắc Ngụy (500- 512), pháp sư Bồ Đề Lưu Chi (sang Trung Hoa vào năm 508) dịch bộ Tịnh độ vãng sanh luân của Bồ tát Thế Thân, là bộ luận căn bản, đến đây hệ thống giáo nghĩa của tông Tịnh độ đã hoàn thành.
Pháp môn Tịnh độ còn gọi là pháp môn niệm Phật. Ý nghĩa niệm Phật là đem tâm thanh tịnh mà tưởng nhớ đến công đức mầu nhiệm và thân tướng trang nghiêm của Phật. Chữ Niệm ở đây là một tâm sở trong năm biệt cảnh tâm sở, ý nghĩa của nó là nhớ nghĩ vào hiện tại, buộc tâm vào một đối tượng không rong ruổi theo niệm trần, nhưng niệm này không hê lụy vào một cảnh giới nào mà thông suốt ba đời, thường tỉnh thường giác hiện rõ trước mặt. Chữ Phật là chỉ cho bản thể bất sanh bất diệt, cái chân như thật tánh bình đẳng ở nơi chư Phật và chúng sanh. Hành giả niệm Phât là quán tưởng thân tướng hay niệm danh hiệu Phật, danh này bao trùm các công đức, trí tuệ, từ bi… của các Đức Phật.
Do đức lập, nhờ danh chiêu cảm đức. Lấy danh hiệu làm cảnh sở niệm, tâm thanh tịnh làm đối tượng năng niệm, thường trụ vào bản tánh bất sanh bất diệt ấy tất sẽ đạt đến cảnh giới an vui chân thật. Hành giả thường trụ vào câu Phật hiệu hay quán tưởng thân tướng trang nghiêm của Phật, với tâm thanh tịnh sẽ tạo thành một năng lực tuyệt đối nhiệm mầu, quét sạch mọi vọng tưởng điên đảo, khơi dậy tự tánh Di Đà bên trong của mỗi chúng sanh. Từ đây vọng tưởng quyết dứt trừ, cảnh giới an vui lặng mầu sẽ hiển lộ, như trong Quán vô lượng thọ kinh có dạy: “Chư Phật Như lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng chúng sanh, cho nên tâm các người tưởng Phật thì tâm ấy là ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, tâm ấy làm Phật tâm ấy là Phật. Biển chánh biến tri của Phật từ nơi tâm tưởng mà sanh, vì thế các ông phải nhớ nghĩ và quán tưởng kỹ thân của Đức Phật kia”.
Lập trường căn bản của tông Tịnh độ được kiến lập trên nền tảng của nhân quả, tức có gây nhân mới mong hưởng quả. Điều này xác quyết, hành giả nếu muốn mai hậu làm thánh chúng cảnh giới Cực lạc thì ngày hôm nay phải có tư cách của bậc thánh. Vì vậy, trong cuộc sống hiện tại, hành giả cần phải thường xuyên cải hóa ba nghiệp thân khẩu ý hướng đến chiều hướng thanh tịnh. Ví như học trò trong việc học tập phải có sự tiến bộ, từ lớp nhỏ tiến dần đến lớp lớn, có như vậy mới mong có ngày thành tài đỗ đạt. Người niệm Phật cũng thế, nếu hôm nay cứ sống trong sự buông thả, không chịu nỗ lực tinh tấn tu hành, mà cứ van xin và tin rằng ngày mai Phật sẽ cứu độ; nếu tin như thế thì thật trái với lý nhân quả, chẳng khác nào luận thuyết của ngoại đạo và hoàn toàn không phù hợp với giáo lý nhà Phât.
Vẫn biết, pháp môn Tịnh độ là pháp phương tiện siêu thắng, cho dù đến bậc Bồ tát Đẳng giác còn chưa thấu triệt rốt ráo, và nguyện lực tối thâm của Phật A Di Đà thật là vô tận, hàm nhiếp tất cả nguyện lực của mười phương ba đời chư Phật. Đối với nghiệp lực của phàm phu, ngay cả đến các bậc Sơ địa Bồ tát, nếu không nương vào oai lực tiếp độ của Phật, chỉ nương vào sức tự lực tu hành của mình cũng không thể vãng sanh. Nhưng tha lực đó chỉ thành tựu trên cơ sở hành giả phải có sức tự lực. Ví như người mẹ luôn nghĩ đến con, nhưng người con không nghĩ đến mẹ, thì dầu mẹ có thương con cũng đành cam chịu không thể cứu được. Tha lực của Đức Phật cũng thế, mặc dầu vô song, nhưng điều quan trọng ở điểm là hành giả có hội đủ tư cách tu trì, có chân thành tiếp nhận sự cứu độ đó hay không. Có rất nhiều người tu Tịnh độ, không nhận ra được lý này, rồi quan niệm Đức Phật như một đấng thân linh luôn ban ân cứu rỗi, và cảnh giới Cực lạc chẳng khác nào thiên quốc của thần giáo. Để rồi từ đó có lắm kẻ thiển cận cho rằng pháp tu Tịnh độ là pháp của ngoại đạo mê tín dị đoan, hoặc là hành môn của hạng hạ căn. Đây quả thật là những ngộ nhận sai lầm đáng tiếc đã xảy ra.
Tóm lại, người niệm Phật muốn vãng sanh Tịnh độ, ngoài lực hộ trì và tiếp dẫn của Phật, cần phải có sức tự lực tu tập, tức phải có chánh nhân Tịnh độ. Theo kinh Quán Vô lượng thọ, hành giả muốn được vãng sanh Tịnh độ phải hội đủ ba điều kiện: “Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, giữ lòng từ không sát hại, tu tập mười nghiệp lành. Hai là thọ trì ba pháp quy y, đầy đủ các giới không phạm oai nghi. Ba là phát Bồ Đề tâm, tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyên người khác cùng tu”. Ba điều trên đây gọi là chánh nhân Tịnh độ. Ba điều này có thể tóm thâu vào hai việc, một là phát Bồ Đề tâm, hai là nghiêm trì tịnh giới.
Việc đầu tiên của người niệm Phật là phát Bồ Đề tâm. Thế nào là phát Bồ Đề tâm? Tức phát tâm trên mong cầu quả vị Phật, dưới mong hóa độ các loài chúng sanh. Người tu Phật nếu không phát Bồ Đề tâm, dẫu có tinh tấn thực hành các hạnh lành cũng chỉ là nhọc công vô ích. Điều này trong kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Vong thất Bồ Đề Tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp” (Quên mất tâm Bồ Đề, dẫu tu các hạnh lành, cũng đều là nghiệp ma). Vì vậy, hành giả muốn thành tựu ước nguyện vãng sanh, thì trước hết phải phát tâm Bồ Đề mà niệm. Đây là điểm vô cùng quan trọng không thể thiếu đối với người tu Phật nói chung và người tu Tịnh độ nói riêng.
Điều cần thiết thứ hai của người niệm Phật là nghiêm trì tịnh giới. Tức mỗi người tùy theo giới luật bản thân đã thọ mà hành trì. Bởi vì bất kỳ tông phái nào trong đạo Phật cũng không thể ly khai tinh thần giới luật, vì giới là nền tảng nhập đạo, là thọ mạng của Phật pháp. Nếu không có giới thì định huệ cũng không từ đâu phát sanh. Giới định tuệ đã không phát sanh thì Pháp thân huệ mạng biết nương đâu thành tựu.
Lại đối với tông Tịnh độ, việc giữ giới lại càng thiết yếu, chúng ta có thể nói Luật tông và Tịnh độ tông là hai tông phái hỗ tương bao trùm và không thể tách rời nhau. Hai tông này tóm thâu toàn bộ tám tông khác của Đại thừa, như đại sư Thái Hư nói: “Luật là nền tảng của tam thừa, Tịnh độ là mái che chung tam thừa”. Hành giả nghiêm trì giới luật, từ đó câu niệm Phật mới hiển lộ hết công năng mầu nhiệm, như trong kinh Quán Vô lượng thọ có dạy: “Một câu niệm Phật, có thể tiêu trừ tám mươi vạn ức kiếp sanh tử trọng tội”.
Trên nền tảng của việc phát Bồ Đề tâm và nghiêm trì tịnh giới, hành giả phát tâm khát ngưỡng cầu sanh Tịnh độ. Tâm cầu sanh Tịnh độ này phải hội đủ ba đức tính quyết định là tín sâu, nguyện thiết và hạnh chuyên.
Tín là đức tin, là yếu môn để nhập đạo, là cội nguồn của mọi công đức. Người tu Phật thiếu mất yếu tố này sẽ không thoát ly sanh tử, đạt kết quả an vui giải thoát. Bởi tất cả công đức vô lậu đều nương nơi tín lập và do tín mà thành, như trong Khế kinh có dạy: “Phật pháp như biển cả do tín mà vào”. Hành giả niệm Phật ngoài việc có đức tin trong sạch tuyệt đối với Tam bảo, với sự tìm hiểu bằng kiến chiếu của trí tuệ Bát nhã kiên định không ngờ vực, trên nền tảng đó gia thêm lòng tin kiên cố vào pháp môn niệm Phật. Đức tin này được dựng lập trên ba điểm.
Thứ nhất hành giả tin tưởng Đức Phật Thích Ca là bậc đã thân chứng cảnh giới Tịnh độ, những lời dạy của Ngài về cảnh giới Cực lạc và khuyên chúng sanh phát nguyện cầu sanh là có thật. Hai là tin Đức Phật A Di Đà với bốn mươi tám đại nguyện vĩ đại tiếp độ chúng sanh, nếu ai có tâm mong về thế giới của Ngài thì người ấy sẽ được Phật tiếp độ. Ba là tin vào tự tánh thanh tịnh, vào khả năng sẵn có của mình, nếu hiện đời phát tâm niệm Phật thì mai hậu quyết định sẽ được vãng sanh Tịnh độ.
Trên cơ sở của tín, hành giả cầu sanh Tịnh độ cần phải có đủ yếu tố thứ hai là Khẩn thiết phát nguyện. Trong “Phát Bồ Đề tâm văn” của đại sư Tĩnh Am có dạy: “Nhập đạo yếu môn, phát tâm vi thủ, tu hành cấp vụ lập nguyện cư tiên. Nguyện lập tắc chúng sanh khả độ, tâm phát tắc Phật đạo kham thành” (Cửa yếu vào đạo lấy sự phát tâm làm trước, việc cấp thiết tu hành lấy lập nguyện làm đầu, nguyện có lập thì chúng sanh mới độ, tâm co phát thì Phật đạo mới thành). Lời dạy của Tổ sư đã cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của sự phát nguyện đối với việc tu hành như thế nào.
Tâm nguyện cầu sanh Tây phương theo Thiên Thai Trí Giả đại sư gồm hai điều là yêm ly và hân nguyện. Tâm yểm ly là tâm chán lìa. Hành giả phải luôn ý niệm sắc thân này vốn là hư tưởng, chỉ là sự tổ hợp của năm uẩn luôn nhuốm màu khổ đau và bất tịnh. Thân phận con người so với chư thiên chẳng khác nào bây dòi chen chúc trong hầm phẩn. Mọi phiền não cuộc đời luôn cấu xé tâm can, chúng như những mũi tên độc găm vào da thịt như những trận tra tấn cực hình. Nhờ thường xuyên quán sát như thế, hành giả sanh tâm nhàm chán, đối với thân xác và mọi thú vui dục lạc ở đời sẽ không sanh tâm đắm nhiễm.
Tâm chán bỏ thế giới Ta bà càng lớn thì chí nguyện cầu sanh càng mạnh. Người niệm Phật trước sau chỉ có một ước nguyện duy nhất là mong cầu sớm thoát khoi lao tù Ta bà hiện tại, nguyện thác sanh về Cực lạc ngày mai. Tâm tha thiết cầu sanh đó ngàn trâu kéo không lại. Chẳng khác nào như kẻ tha phương trông ngóng cố hương, người xa cha mẹ mong ngày đoàn tụ, như trong Di Đà sớ sao có câu: “Trông về Cực lạc như nhớ cố hương, ngưỡng mến đức Từ tôn như cha mẹ”.
Tín nguyện đã đầy đủ nhưng thiếu phần Hạnh, người tu Tịnh độ cũng khó thành tựu, vì vậy cần phải chú trọng vấn đề hành trì. Đại sư Ngẫu Ích tưng dạy: “Được vãng sanh hay không cũng đều do ở tín và nguyện; phẩm vị cao hay thấp là bởi ở chỗ hành trì có cạn hoặc sâu”.
Tín và Nguyện đã có, tức đã chuẩn bị tư lương, nhưng muốn đạt mục đích, hành giả cần phải thực hiên các sự nghiệp phước đức và trí tuệ. Đây là món tư lương thứ ba của người tu niệm Phật. Ngoài việc tu tạo phước đức trí tuệ và giữ gìn giới luật làm trợ hạnh vãng sanh, hành giả phải thực hành chánh hạnh. Chánh hạnh ơ đây là phát tâm thanh tịnh thường trì thánh hiệu Phật. Theo pháp môn Tịnh độ thì việc niệm Phật bao gồm bốn môn là Thật tướng niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật, Quán tượng niệm Phật và Trì danh niệm Phật.
Thật tướng niệm Phât là thể nhập vào đệ nhất nghĩa đế niệm tánh Phật bản lai của mình. Bản thể xưa nay vốn thanh tịnh vắng lặng không bị phiền não cấu nhiễm. Hành giả trụ tâm vào tánh Phật bản lai đó, khiến tâm không vọng động, không chạy theo niệm trần, tâm lần hồi trong sáng thể nhập vào cảnh giới nhất tâm.
Quán tưởng niệm Phật là hành giả quán tưởng Chánh báo và Y báo trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà và thế giới Cực lạc, cho đến khi mở mắt hay nhắm măt, cũng đều thấy cảnh giới Cực lạc rõ ràng.
Quán tượng niệm Phật là người tu luôn nhiếp tâm vào hình tượng của Phật A Di Đà, cho đến khi có đối trước hay không đối trước tượng, hình tướng oai nghiêm của Phật A Di Đà vẫn hiện ra trước mắt.
Sau cùng là trì danh niệm Phật, đó là niệm thầm hay niệm ra tiếng bốn chữ hay sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật”. Hành giả niệm Phật với tâm tha thiết chí thành không xen lẫn tạp niệm, chỉ chú tâm vào danh hiệu Phật lần hồi sẽ thể nhập vào cảnh giới nhất tâm.
So với ba môn trước thì pháp trì danh niệm Phật có phần giản dị dễ tu và dễ thành tựu. Đây quả thật là phương tiện thù thắng trong các phương tiện, là đường tắt tu hành trong mọi đường tắt, như trong Di Đà sớ sao có câu: “Ví như chim hạc tung mình đâu bằng đại bàng cất cánh, ngựa ký ruỗi vó đâu bằng rồng chúa tung bay”.
Bởi do căn tánh của chúng sanh có thiên sai vạn biệt, nên pháp trì danh được các bậc cổ đức chia thành nhiều cách, như Ký thập trì danh; Phản văn trì danh; Sổ châu trì danh; Tùy tức trì danh; Truy đảnh trì danh; Giác chiếu trì danh; Lễ bái trì danh; Liên hoa trì danh; Quang trung trì danh và Quán Phật trì danh. Trong đó có thể nói pháp Ký thập trì danh là pháp tu rất dễ thành tựu, dễ đưa hành giả chứng đắc Niệm Phật tam muội.
Sanh tiền, đại sư Ấn Quang thường khuyên các liên hữu nên ứng dụng cách thức này, đó là cách niệm ký số, cứ mười câu làm một đơn vị, người hơi dài có thể niệm thành hai lượt, một lượt năm câu, người hơi ngắn có thể chia thành ba lượt, hai lượt đầu ba câu và lượt sau bốn câu. Sau khi niệm đủ mười câu, thì đếm một vài lần cho đến khi được một trăm, tức niệm được một ngàn. Cứ như thế lại đếm từ đầu là một lại, từ đó có thể biết một ngày niệm được bao nhiêu vạn. Niệm theo lối này tâm đã niệm Phật lại còn ghi nhớ số. Như vậy dù không chuyên cũng bắt buộc chuyên, nếu không chuyên thì sẽ bị sai lạc số mục. Cho nên pháp này là một phương tiện cưỡng bức giúp cho hành giả chuyên tâm, rất có công hiệu và đưa đến thành tựu cho người niệm Phật một cách nhiệm mầu.
Ngoai ra, vấn đề quan trọng của pháp niệm Phật là trong khi niệm phải giữ tâm thanh tịnh, bởi tâm thanh tịnh là nhân tố quyết định cho việc thành tựu cảnh giới nhất tâm. Muốn đạt được điều này cũng theo tổ sư Ấn Quang: “Khi hành giả đề khởi câu Phật hiệu, tai phải nghe rõ ràng từng chữ, tâm phải trụ vào câu Phật hiệu, không chạy theo vọng trần và nhiếp tâm liên tục hành giả sẽ tiến sâu vào cảnh giới chánh định”. Theo đại sư Liễu Nhất: “Khi tâm chuyên chú vào câu Phật hiệu, quên cả thân tâm ngoại cảnh, tuyệt cả không gian thời gian, đến lúc sức lực công thuần ngay cả nơi niệm trần mà vọng hoặc tiêu tan, tâm thể bừng sáng, hành giả có thể chứng được niệm Phật tam muội”.
Qua những điểm trình bày sơ lược về ba yếu tô Tín, Nguyện, Hạnh của pháp môn niệm Phật, chúng ta thấy pháp môn này có phần đơn giản dễ thực hành mà kết quả lại cao tuyệt. Môn này quả thật là pháp môn siêu tuyệt, là thuyên từ ra khỏi Ta bà, là cửa mầu để vào Phật đạo: “Xuất Ta bà chi bảo phiệt, thành Phật đạo chi huyền môn”. Sự dễ tu dễ chứng so với các pháp môn khác được các bậc cổ đức đánh giá: “Tu các pháp môn khác, như con kiến bò dọc theo ống tre, hành trì môn Tịnh độ như con kiến đục thủng ống tre ra ngoài”.
Phải chăng, pháp môn Tịnh độ là pháp môn duy nhất trong thời mạt pháp, để cho chúng sanh y cứ tu tập thoát ly sanh tử luân hồi; như trong kinh Đại tập nguyệt tạng, Đức Phật có dạy: “Mạt pháp ức ức nhân tu hành, hãn nhất đắc đạo, duy y niệm Phật đắc độ sanh tử” (Thời mạt pháp vạn vạn người tu hành, song ít có người đắc đạo, chỉ nương vào pháp môn niệm Phật mà khỏi thoát luân hồi). Đó có phải là mật ý vi diệu, là tình thương bao la của bậc có trí tuệ bất tận đối với chúng sanh căn cơ hèn kém, như trong kinh Vô lượng thọ nói: “Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận, ngã dữ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chi trụ bách tuế. Kỳ hữu chúng sanh trị tư kinh giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ” (Trong đời tương lai, khi kinh đạo diệt hết, Ta dùng sức từ bi thương xót, riêng lưu trụ kinh này một trăm năm. Chúng sanh nao gặp, tùy theo sở nguyện, đều có thể đắc độ).
Vì tính cách khế lý khế cơ ấy mà từ trước đến nay không biết bao nhiêu người niệm Phật được kết quả vãng sanh. Sự mầu nhiệm đó như rồng bay phượng múa, ngọc chạm vàng khua mà trong “Tịnh độ thánh hiền lục” đã ghi lại rõ ràng. Pháp môn này lại bao quát cả ba căn, trên từ các bậc Đẳng giác Bồ tát, các bậc Đại đức cao tăng, dưới cho đến những kẻ cùng hung cực ác, nhẫn đến những loài súc sanh như nhồng, sáo, uyên ương, se sẻ… cũng nhờ trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà mà được thoát ly thân cầm thú sanh về cảnh giới Tịnh độ.
Trải qua bao thế hệ thăng trầm của dòng thời gian biến đổi, các tông phái khác có nguy cơ bị hoại diệt hoặc trở thành một triết lý hỗ tương. Riêng tông Tịnh độ có tính cách thiết thực, đã ngày càng đứng vững và phổ cập, trở thành một trong hai tông phái tu tập căn bản của Phật giáo Đại thừa là Thiền tông và Tịnh độ tông. Có thể nói đây là hai tông phái bao trùm toàn bộ tinh hoa, đường lối tu tập của Phật giáo Đại thừa.
Với sự tán dương truyền thừa tông Tịnh độ, từ trước đến nay đã có biết bao vị cao tăng thạc đức, các bậc văn nhân chí sĩ… đã làm các sớ giải, các luận văn, làm truyện, làm kệ, làm thi, làm phú… để khen ngợi và xiển dương tông phái này.
Ngoài ra, các bậc cao đức, chuyên tu tịnh nghiệp, cầu sanh Tây phương số lượng không sao kể xiết, như Ngài Bách Trượng Hoài Hải với bản Bách trượng thanh quy làm quy củ cho Thiền tông, cũng không ngoài ý nghĩa quy túc Tịnh độ. Các Tổ bên Thiền tông như Vĩnh Minh Diên Thọ; Thiên Như Duy Tắc; Thiên Thai Hoài Ngọc… Bên Luật tông như các Ngài Nguyên Chiếu; Hoài Tố… Bên Tam luận tông như các Ngài Cát Tạng; Đạo Lãng… Bên Duy thức tông như các Ngài Khuy Cơ; Hoài Cảm… Bên Mật tông như các Ngài Bất Không; Hồ Đồ Khắc Đồ… Bên Hoa Nghiêm tông như các Ngai Đỗ Thuận; Trừng Quán… Bên Pháp Hoa tông như các Ngài Trí Giả; Quán Đảnh… Các bậc cao tăng xướng lãnh các tông phái trên đây và vô số danh tăng khác, cũng đều phát nguyện cầu sanh cảnh giới Cực lạc.
Tại nước Việt Nam, pháp môn Tịnh độ đã sớm truyền vào và phát triển mạnh mẽ. Trong thế kỷ XI, có thiền sư Tĩnh Lực (thuộc phái Vô Ngôn Thông) là vị đã chứng niệm Phật tam muội. Cũng trong thế kỷ này, một lang tướng của Lý Thánh Tông đã dựng một tượng Phật A Di Đà cao hai thước rưỡi tây tại núi Lan Kha, huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Thiền sư Không Lộ (mất năm 1141) đã từng dựng tượng Phật A Di Đà ở chùa Quỳnh Lâm. Thảo Đường quốc sư, vị khai tổ dòng thiền thứ ba của Phật giáo Việt Nam (vào thế kỷ XI) đã khuyên đồ chúng nên tu Tịnh độ với bài Pháp ngữ thị chúng tuyệt vời. Tôn giả Huyền Quang tam tổ thiền phái Trúc Lâm cũng đã lập tháp Cửu phẩm liên đài tại chùa Bút Tháp để khích lệ tứ chúng cầu nguyện vãng sanh. Thời cận đại có các bậc cao tăng như HT. Tâm Tịnh, HT. Khánh Anh, HT. Hải Tràng, HT. Trí Thủ, HT. Thiền Tâm… đã tự tu và truyền bá pháp môn này từ Bắc chí Nam, làm cho Phật pháp được hưng thạnh và lan truyền cho đến ngày hôm nay.
Thiết nghĩ, trên bước đường tu tập người xuất gia lẫn tại gia, ai cũng mong muốn đạt đến kết quả giải thoát giác ngộ, nhưng thành tựu sở nguyện đó là điều không phải dễ dàng. Khi tự thân chúng ta luôn tràn đầy những nghiệp lực chi phối, cộng thêm hoàn cảnh xã hội bên ngoài, luôn có những năng lực tác động đưa con người đi vào trong quỹ đạo của dục vọng đê hèn. Chỉ một tập quán xấu nhỏ nhưng diệt trừ nó không phải đơn giản, hoặc một chút điều lành nhưng thực hiện không phải một sớm một chiều. Để rồi trong âm thầm, cuộc sống của chúng ta cứ trôi lăn trong vòng sanh tử, trong sự chỉ đạo của phiền não, tồn tại với bao ước vọng hão huyền, rồi một mai khi tấm thân tứ đại này tan rã, biết hướng về đâu mà nương tựa.
Chi bằng, đặt trọn tấm lòng thành hướng về với Tam bảo, mỗi niệm xả ly Ta bà, mỗi niệm cầu về Cực lạc. Quyết chí nương nhờ Phật lực, phát nguyện cầu sanh Tây phương, đến khi thành tựu quả vị Vô thượng Bồ Đề, trở lại Ta bà tiếp độ chúng sanh. Có như vậy mới hợp với bản hoài thị hiện của Đức Phật Thích Ca, đúng với hạnh nguyện tiếp dẫn của Đức Phật A Di Đà và không cô phụ tánh linh của mình.
Thích Nguyên Liên
47/68Đầu«...10...464748...50...»Cuối
Các Phúc Đáp Gần Đây