Chúng ta nói chuyện hộ niệm mà sao nói hoài không bao giờ hết! Ấy thế mới biết là muốn cứu một người vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc khó lắm, không có dễ đâu. Ta phải cố gắng tối đa, dùng đủ mọi cách để cho người có duyên phát được tâm nguyện đi vãng sanh về Tây Phương và người ta thực hiện đúng phương cách vãng sanh.
Nói cho rõ ra là Tín-Nguyện-Hạnh đầy đủ. Tất cả đều nằm trong ba điểm này chứ không có gì khác. Đến ngày nay vẫn có nhiều đọc tiếp ➝
Thường thường chúng tôi hay nói, “Tu” là bắt đầu từ đây tu thẳng cho đến ngày chúng ta vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, chứ không phải tu là trở về trong quá khứ, nhớ đến những lỗi lầm của mình. Tại vì:
– Nhớ đến cái lỗi của mình thì mình khổ!
– Nhớ đến những cái lỗi của mình thì thấy mình có lỗi!
– Nhớ những cái lỗi của mình thì mình đau khổ vì những cái nghiệp đó.
– Và đó là cái Duyên làm cho những cái nghiệp đó nó hiển hiện về và bắt ta phải hưởng cái hậu quả, tức là cái quả báo của nghiệp đó, vô tình ta cứ bị lăn lộn trong cái “Nghiệp Nhân Quả Báo” mà không thoát được!
Trong khi pháp môn niệm Phật là gì? Phật cho chúng ta gói những cái nghiệp đó lại. Gói bằng cách nào?
– Khi buồn hãy cất tiếng niệm Phật lên.
– Khi nhớ tới nghiệp thì hãy cất tiếng niệm Phật lên.
Giận gì đi nữa cũng phải cất tiếng niệm Phật lên. Luôn luôn nhiếp tâm vào câu A-Di-Đà Phật, chứ không phải luôn luôn nhớ tới cái lỗi của mình, tại vì nhớ tới cái lỗi của mình thì rất là nguy hiểm cho người ĐỚI NGHIỆP VÃNG SANH. Còn nếu chúng ta là người tu tự lực thì có quyền nhớ, tại vì nhớ nghiệp thì mình mới cố gắng diệt nghiệp. Nghĩa là lăn xả vào chuyện đấu tranh diệt nghiệp, gọi là ĐOẠN HOẶC CHỨNG CHƠN. Tự họ phải đi lấy. Đó là “Đường Tự Lực”. Còn ta là “Đường Nhị Lực”, là nương theo đại lực A-Di-Đà để mình về Tây Phương.
“Ức Phật, Niệm Phật, hiện tiền đương lai tất định kiến Phật”. Đây là câu của Đại-Thế-Chí nói trong kinh Lăng-Nghiêm, tức là: Tưởng Phật, nhớ Phật, nghĩ Phật, niệm Phật chứ không phải là nghĩ nghiệp, nhớ nghiệp, tưởng nghiệp, đau khổ vì nghiệp, lo sám hối vì nghiệp.
Sám hối cũng là một câu A-Di-Đà Phật niệm tới cùng. Khi câu A-Di-Đà Phật nhập vào tâm rồi thì tự nhiên câu A-Di-Đà Phật nó thải ra, thải ra, thải ra những cái nghiệp, nó thải ra những cái nhân chủng xấu của mình. Được hay không? Hết hay không? Không cần biết! Cứ cho nó thải ra, nó thải ra, nó bao lại, gọi là phủ nghiệp lại. Cho nên có câu: “Bất phạ Niệm khởi, đản phạ Giác trì” chính là ý nghĩa này. “Phạ” là sợ. Nếu mình cứ lo sợ tới cái nghiệp thì nhất định cái nghiệp nó sẽ hiện ra, nó hiện cho đến lúc mình lâm chung, nó quay mình như con vụ, gọi là trùng trùng duyên khởi! Cái nghiệp đó nó nổi lên bao vây mình trong lúc lâm chung. Nhất định mình bị trở ngại!
Bây giờ cứ nhớ tới câu A-Di-Đà Phật, nhớ tới Tây Phương Cực Lạc, nhớ tới hình ảnh A-Di-Đà Phật, một lòng mà niệm thì tự nhiên câu A-Di-Đà Phật nó chiếm trọn cái tâm chúng ta và nó sa thải những cái nghiệp ra, nó bao cái nghiệp lại, gọi là đới nghiệp, bao nghiệp mà đi vãng sanh, chứ không phải là sám hối cho hết nghiệp rồi mới nguyện vãng sanh. Hoàn toàn để tự câu A-Di-Đà Phật nó sám cho nó sám, tự câu A-Di-Đà Phật nó diệt sao thì diệt, kệ nó, mình chỉ lo nghĩ tới A-Di-Đà Phật, nghĩ tới về Tây Phương… Đây là đi thẳng.
Nhất định xin quý vị phải nhớ là: Không được quay trở lại trong quá khứ mà nhớ tới những cái lỗi lầm của mình. Không được quay vào những lúc mình làm bậy mà đau mà khổ!
Tại vì mình đau mình khổ thì lúc đó là cái nhân chủng xấu nó hiện ra và mình đang trả cái quả xấu. Nếu mình tiếp tục nghĩ như vậy đến lúc mình nằm xuống rồi, người ta tới khuyên:
– Anh ơi! Anh niệm Phật đi.
– Trời ơi! Trong quá khứ tôi sám hối chưa hết!.
Mình đang lo nghĩ cái nghiệp tức là mình đã trở về trong quá khứ, mình chìm vào trong đó, mình bị sai! Cho nên đi thì phải đi cho thẳng tắt. Nhất định A-Di-Đà Phật đã dành tất cả những năng lực của Ngài để đón những người nghiệp nặng tình sâu đi về Tây Phương thành đạo Vô-Thượng, vì thật ra đại nguyện của đức A-Di-Đà chính yếu là cứu những người tội chướng sâu nặng như chúng ta. Vì những người này thật ra họ là những vị Phật, nhưng mà “Vị Phật” đã mê rồi, nên họ làm những điều sai! Làm điều sai mà không cứu họ thì “Vị Phật” này sẽ tiếp tục lăn lộn trong lục đạo luân hồi và có thể bị đọa vào trong tam ác đạo! Đây là một điều mà chư Phật thương hại chúng sanh, không nỡ nào bỏ chúng sanh.
Hôm trước chúng ta có nói đến: “Tam Thế Phật: quá khứ, hiện tại, vị lai”. Phật vị lai chính là chúng ta. Phật vị lai chính là tất cả chúng sanh. Đó là hiểu nghĩa của đại thừa, chúng ta phải hiểu rõ như vậy. Cho nên mong chư vị đừng nên quá nhắm vào những chuyện sám hối.
Sám hối là “Bất Nhị Quá”. Sám hối là đừng làm như vậy nữa. Ví dụ: Trước đây ta nói chuyện sai lầm, nay nhất định không nói như vậy nữa. Thân khẩu ý cần gìn giữ, tức là sám hối. Sau đó, một lòng một dạ niệm Phật để đi về Tây Phương. Xin nhớ cho kỹ điểm này, đừng nên sơ ý mà đi ngược lại trong quá khứ thì chúng ta bị kẹt. Kẹt trong nhân quả, kẹt trong hậu quả xấu, chúng ta mất phần vãng sanh. Xin nhớ kỹ điểm này.
-“Có sám hối là bớt được nghiệp. Trước khi ta xả bỏ báo thân bớt rất nhiều”…
Đây là câu nói hay! Đây là lời nói chung. Nhưng trong khi sám hối, mà thấy vấn đề sám hối là cái hạnh nghiệp chính, thì chúng ta đã biến “Trợ Hạnh” thành “Chánh Hạnh“. Ở đây nếu chư vị quyết lòng ngày nào cũng lo sám hối, thì biến việc sám hối thành chánh hạnh, trong khi đó chánh hạnh của người niệm Phật là niệm câu A-Di-Đà Phật.
Làm thiện, làm Lành… tức là sám hối. Làm thiện làm lành phải là trợ hạnh. Nếu quý vị đưa chuyện làm thiện làm lành lên thành chánh hạnh thì nhất định tam thiện đạo thì hy vọng có thể tới, nhưng vẫn còn trong lục đạo luân hồi, nhất định không thể vượt qua tam giới, không thể đi về Tây Phương Cực Lạc.
Sám hối là làm thiện làm lành chứ không có gì cả. Như vậy làm thiện làm lành là cái quả báo trong lục đạo luân hồi. Niệm câu A-Di-Đà Phật là quả báo về Tây Phương thành đạo Vô-Thượng. Mình tưởng tượng về Tây Phương thành đạo Vô-Thượng còn làm được, huống chi là làm cái nghiệp lục đạo luân hồi. Cho nên, sám hối thì chư vị phải lo sám hối. Nhưng ví dụ như, cộng tu ở đây từ đầu cho tới cuối chúng ta thấy có sám hối đâu? Nhưng mà thật sự ta đã sám hối rồi. Vì sao như vậy? “Thành tâm niệm một câu A-Di-Đà Phật phá trừ tám mươi ức kiếp nghiệp chướng sanh tử trọng tội”. Xin thưa, đây không phải là sám hối sao?… Nếu mà cứ: ”Nam Mô A-Di-Đà Phật con xin thành tâm sám hối, con xin thành tâm sám hối”… Nếu đứng trước một người bệnh sắp sửa chết mà ta cứ nhắc những lời sám hối này, thì làm cho người ta cứ càng ngày càng nghĩ về cái lỗi lầm của họ, chìm vào trong những cái tội lỗi của họ, chìm vào những cái sai lầm của họ. Họ sẽ sợ mất hồn mất vía luôn! Họ không còn niềm tin nào để đi về Tây Phương Cực Lạc được. Chính vì vậy mà mới thấy, nếu quý vị coi trong phim cô Trần Thị Kim Phượng, tôi bày cho Cô đó sám hối như thế nào? Cô ta đã làm đại tội, Phá Thai! Trong khi cái thai gần bảy tháng rồi mà dám phá! Tình trạng gia đình sao đó không biết?…
Khi Cô khai lên, nếu mà người hộ niệm không biết, cứ bắt Cô sám hối đi, sám hối đi… Nhất định Cô đó bị đọa lạc! Tại vì Cô sợ!
Trong khi Cô khai ra. Tôi khen. Tôi nói, Cô thành tâm như vậy thì tốt lắm! Thôi bây giờ Phật đã tha cho Cô rồi đó, phải quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật đi, nhất định Cô sẽ về Tây Phương để Cô cứu lại những cái chuyện lỗi lầm của Cô. Quyết tâm đi nha. Đừng sợ nữa nha.
– Dạ! Như vậy con được về Tây Phương không?
– Được! Không sao hết. Bây giờ Cô đã thành tâm rồi. Bây giờ đừng nhớ cái này nữa nha. Hãy một lòng một dạ niệm câu A-Di-Đà Phật đi.
Cô quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật:
– Nam Mô A-Di-Đà Phật xin cho con được về Tây Phương trong đêm nay…
Cứ như vậy mà khen tặng Cô ta. Sau cùng rồi Cô ta được vãng sanh bất khả tư nghì.
Cho nên, nên nhớ là:
– Không được chìm cái tâm mình trong quá khứ.
– Không được chìm cái tâm mình trong tội lỗi.
Vì chúng ta đã là người có nghiệp chướng sâu nặng, tâm trí mê mờ, trước khi biết tu chúng ta đã làm quá nhiều điều sai lầm lắm rồi! Bây giờ nhất định phải quên cái đó đi, đừng làm cái đó nữa mà lo niệm Phật.
Nhiếp tâm niệm Phật, nhất định đi về Tây Phương. Nhiếp tâm nghĩ tới lỗi lầm nhất định bị chui vào những cái tội ác trong quá khứ mà trả nghiệp, sẽ đau khổ vô cùng!
Năng lực của mình (tự lực) có thể giúp cho chính mình được giải thoát vào lúc lâm chung:
Mọi người đều có năng lực tiềm tàng có thể giúp chính mình vượt qua khó khăn trắc trở lúc lâm chung. Phật Bồ Tát và các chư Tổ Sư thông rõ việc này nên các ngài bày ra pháp môn niệm Phật làm phương tiện giúp chúng sanh khai mở và sử dụng cái năng lực tiềm tàng vô biên mà nó có sẵn ở trong mỗi chúng sanh.
Phương tiện của các ngài là gì? Đơn giản, gọn gàng và dễ hiểu, đó chính là Tín – Nguyện – Hạnh. Đơn giản như thế đó mà nó lại có công năng độ trọn ba căn (thượng, trung và hạ) thì mới biết nó thù thắng như thế nào. Một giáo pháp viên đốn và thù thắng bậc nhất mà chính các Đẳng Giác Bồ Tát như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền ….v…v… cũng phải áp dụng nó mà sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc để có thể thành Phật.
Thế Tôn đã khai thị rõ ràng trong kinh Vô Lượng Thọ, kinh Thủ Lăng Nghiêm và kinh Hoa Nghiêm rồi, không cần nói rộng ra thêm. Vậy, cái công năng của Tín-Nguyện-Hạnh là gì? Nó chính là cách thức giúp qui động năng lực sẵn có của bạn để đạt được trạng thái thiền định ở trong bất cứ sinh hoạt nào (đi, đứng, nằm, ngồi và ngay trong khi đang ngủ). Vì vậy, pháp môn niệm Phật còn gọi là “Thâm Diệu Thiền”.
Dưới đây tôi xin trình bày cho bạn, làm sao mà Tín – Nguyện – Hạnh có thể giúp bạn quy động được toàn bộ năng lực Thiền Định của bạn để lúc lâm chung bạn có thể liễu sanh, thoát tử, vãng sanh Cực Lạc, một đời thành Phật.
Năng lực (Tự Lực) quy động từ Tín-Nguyện-Hạnh
• Tâm tín thành nơi Phật A Di Đà, cõi nước Cực Lạc chính là năng lực vô biên giúp bạn vượt qua tất cả khó khăn trở ngại trong việc niệm Phật để đạt thành tâm nguyện vãng sanh. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật dạy “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Khi bạn đặt một niềm tin tuyệt đối vào cái gì, thì cái đó nó sẽ thành. Tín có năng lực không thể nghĩ bàn; ví dụ, nếu bạn tin rằng bạn có thể trở thành một bác sĩ, thì chính niềm tự tin này là năng lực thúc đẩy bạn chăm học, chăm làm, vượt qua mọi khó khăn để đạt thành tâm nguyện.
• Nguyện lực tha thiết muốn sanh về nước Cực Lạc chính là năng lực vô lượng kéo bạn phải nhất tâm niệm Phật tha thiết ngày đêm không ngừng dứt. Cũng giống như một học sinh hiếu học vì muốn (nguyện) đạt thành công danh mà phải ngày đêm miệt mài bên đèn sách.
• Hạnh: Hạnh là năng lực kết tụ do công phu tu tập từ trong quá khứ cho đến nay; quá khứ có thể là từ nhiều đời nhiều kiếp về trước hay chỉ là quá khứ ở trong đời này. Người có công phu tu tập thì phải đoạn trừ tật đố tham lam, sân si, nghi mạn. Vì đây là chướng ngại làm cho tâm bạn bị dính mắc, không thể buông xả. Và chính nó là nguyên nhân và yếu tố đưa bạn vào trong trạng thái u-minh, mất chánh giác, rồi sau đó nó dẫn dắt bạn vào trong ba đường ác đạo (địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh).
Muốn cho tâm của bạn an trú không dính mắc, thư giãn, thư thái, thanh thản, thì bạn phải thực hiện các pháp như sau:
(a) Đoạn trừ bất cứ nghi hoặc, hối hận hay do dự trong lòng, Ngay cả những việc làm ác đã phạm cũng không cho nó vướng bận tâm bạn. Biết mình đã làm lỗi là giác. Biết lỗi rồi thì sửa lỗi quyết không phạm nữa, như vậy là làm xong cái công việc sám hối rồi. Làm xong rồi thì buông xả nó ra một cách rốt ráo, không để cho một chút gì còn sót lại, còn dính mắc lại trong tâm của bạn nữa.
(b) Ngay cả những việc thiện lành, khi làm xong rồi cũng buông nó ra luôn, không để cho nó dính mắc trong tâm, vì những suy nghĩ đều là vọng tâm làm tâm bạn không được rỗng lặng thanh tịnh. Đừng để những việc thiện này làm cho tâm bạn đắc ý mà sanh ra cái niệm hay hành động cống cao ngã mạn mà luống uổng tất cả công phu và công đức mà bạn đã tạo.
(c) Buông bỏ tất cả sự dính mắc đối với bất cứ ai mà bạn có mối quan liên mạnh mẽ nhất trong đời này, kể cả sự quan hệ thương hay ghét, thân hay oán.
(d) Nhiếp tâm niệm Phật không tán loạn, không vọng tưởng. Lấy danh hiệu Phật A Di Đà làm công cụ phá vọng, phá mê để đạt được và giữ được trạng thái thanh tịnh thư thả của tâm. Nếu bạn làm được như thế, thì mặc dầu thân bạn vẫn ở trong hình tướng con người, tâm bạn thì bình-đẳng với tâm Phật A Di Đà – rỗng lặng như hư không. Muốn làm được như vậy thì lúc niệm Phật nên dừng tất cả chuyện nói (làm người bị câm) mà niệm “A Di Đà Phật”. Niệm theo từng nhịp thở, từng cơn đau, từng cơn lạnh buốt giá, ngay cả lúc vui hay buồn …v…v… Khi bạn đang được an trụ vào trong câu Phật hiệu cũng chính là bạn đang được an trụ vào trong tự tánh của chính mình, không dính mắc và thư thái, không vọng tưởng. Lúc đó, bạn cố giữ cho tâm của bạn ở trong trạng thái vắng lặng, trống rỗng, chỉ còn giữ một niệm “A Di Đà Phật” ở trong tâm.
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn (viên minh), đó là tự tính của tâm bạn. Nhận biết tâm như thế, trở thành chắc chắn về tâm, đó là kiến (thấy/biết). Để duy trì không bị tán loạn trong trạng thái tịnh chỉ, không vọng niệm hoặc chấp thủ, đó là trạng thái thiền định. Ở trong trạng thái đó, không bị dính mắc vào chấp thủ hoặc tham luyến, chấp nhận hoặc đối kháng, mong cầu hoặc sợ hãi, đối với bất cứ vọng thức nào cả.
(e) Đừng gửi lòng ở các nơi cư trú của người sống bình thường; chỉ gửi lòng mình nơi cõi Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Đà mà thôi.
Vào thời điểm chết, bạn nên phải biết là bạn sẽ phải trải qua những cảm giác gì?
Vào lúc sắp lâm chung bạn phải trải qua nhiều cảm giác khổ đau cùng cực, những cảm giác này gây ra bởi những nguyên như sau:
1. Vào lúc địa đại hoà nhập (tan biến) vào trong thủy đại, thân thể trở nên nặng nề và thân không thể tự nương nhờ thân.
2. Vào lúc thủy đại hòa nhập vào trong hỏa đại, miệng và mũi khô khan, ngưng nói bí lời.
3. Vào lúc hỏa đại hòa nhập vào trong phong đại, thân nhiệt biến mất.
4. Vào lúc phong đại hòa nhập vào trong thức đại, bạn chỉ có thể thở ra khò khè và hít vào nấc nghẹn.
Vào lúc đó, bạn sẽ có cái cảm giác như: đương bị đè bởi một ngọn núi rất lớn, đương bị sập bẫy trong bóng tối, đương bị buông rơi vào vô tận của hư không. Nếu tâm bạn nghe nhận và niệm được câu Phật hiệu một cách thanh tịnh thì toàn thể bầu trời sẽ tự nhiên tươi sáng rực rỡ như một tấm gấm trải rộng. Những bóng tối và sự đè nặng trong tâm liền được tan biến. Nhiều hơn thế nữa, hình tướng của Phật A Di Đà tự nhiên hiện ra ở trong tâm của bạn, với những quang minh sáng diệu vô thượng như trăm nghìn mặt trời chiếu sáng cùng một lúc. Quang minh sáng rực, nhưng minh diệu lạ thường nó không làm bạn chói mắt khó chịu, mà ngược lại nó làm cho bạn tươi tĩnh, sáng suốt và rỗng lặng lạ thường. Tự nhiên bạn không còn cái cảm giác khổ đau gây ra do tứ đại của bạn đang phân ly nữa. Đây chính là thành quả của năng lực niệm Phật của bạn (tự lực) cùng năng lực tiếp dẫn của Phật A Di Đà (tha lực).
Vào lúc này, tính giác (viên minh) của bạn sẽ nhắc nhở bạn: Đừng bị tán loạn! Đừng xúc động! Không lâu nữa Phật A Di Đà sẽ đến tiếp dẫn bạn về cõi Cực Lạc. Bạn phải ráng giữ cho tâm của bạn luôn rỗng lặng tự nhiên và tiếp tục niệm Phật không ngừng, ngay cả khi gặp được Đức Phật A Di Đà xuất hiện. Tại sao vậy? Vì nếu bạn giữ được tâm rỗng lặng như hư không (không xúc động vì vui mừng theo thói tục của thế gian chúng sanh) khi gặp Phật, thì bạn sẽ sanh về cõi Cực Lạc với phẩm vị rất là cao. Vì ngay lúc này với sự trợ lực của Phật A Di Đà, bạn đã đạt được niệm Phật Tam Muội hay Nhất Tâm Bất Loạn. Nếu bạn còn có cái niệm vui mừng xúc động khi gặp Phật, phẩm vị vãng sanh của bạn bị hạ thấp xuống vì bạn còn dính mắc vọng tâm của người phàm phu.
Khi bạn thấy Phật A Di Đà xuất hiện, bạn cũng đồng thấy vô số Phật, Bồ Tát và Thánh Chúng đồng xuất hiện để nhiếp thọ tiếp dẫn bạn. Hình tướng và dung mạo của các vị Phật ở cõi Tây Phương cũng giống hệt như Phật A Di Đà. Hình tướng và dung mạo của các Bồ Tát cũng đồng giống hệt như Quán Thế Âm và Đại Thế Chí không có tướng sai khác. Bạn cũng được nghe tiếng của thánh chúng niệm Phật vang động cả bầu trời với những âm thanh vi diệu hòa nhã và tuỳ hỷ.
Nên lưu ý, trước khi gặp Phật, ma chướng (nghiệp chướng) cùng sinh của bạn sẽ loạn động cái tâm của bạn, làm chánh niệm của bạn bị sụp đổ, bạn muốn niệm Phật cũng rất là khó khăn hay chẳng niệm được; nó phát ra những âm thanh chói tai và uy mãnh và làm mê mờ bạn. Ở vào thời điểm này, bạn hãy tuệ tri điều này:
1. Cái cảm giác đương bị đè ép xuống bởi một ngọn núi thì không phải là đương bị đè ép xuống bởi một ngọn núi. Đó là chính các đại của bạn đang hòa nhập. Hãy đừng sợ hãi chuyện đó!
2. Cái cảm giác đương bị sập bẫy trong bóng tối thì không phải là bị sập bẫy trong một bóng tối. Đó là năm quan năng của bạn đang hòa nhập!
3. Cái cảm giác đương bị buông rơi vào trong vô tận của hư không thì không phải là đương bị buông rơi. Đó là tâm của bạn không có cái gì để nương nhờ bởi thân và tâm của bạn đã ly biệt và hơi thở của bạn đã ngừng lại.
Vậy bạn phải cố gắng nương vào câu Phật hiệu không gián đoạn để tâm của bạn không bị mê mờ bởi những cảm giác hư vọng này. Tất cả những quang cảnh, các hình tướng, các âm thanh, ánh sáng đều là của chính bạn đều là do tâm của bạn ảnh hiện do nghiệp lực chiêu cảm. Hãy đừng nghi hoặc gì về điều đó. Nếu bạn cứ cảm thấy nghi hoặc, bạn sẽ bị ném vào trong sinh tử luân chuyển. Quyết định sáng tỏ hơn để thấy chỉ là chuyện tự diễn-hiện, nếu bạn nương nhờ an trú vào câu Phật hiệu (nó cũng chính là tính viên minh trong chân không diệu hữu quang minh biến chiếu), thì trong tính chân không diệu hữu quang minh biến chiếu đó bạn sẽ chứng đạt ba thân – pháp thân, báo thân, ứng hoá thân – và trở thành giác ngộ. Ngay lúc đó nếu bạn có bị ném vào trong sinh tử luân chuyển, bạn cũng sẽ không đi vào đó.
Bạn nên biết rằng A Di Đà Phật chính là vị Phật bảo hộ và cũng là tự tánh hiện hữu của bạn để duy trì tâm bạn với chánh niệm không bị tán loạn. Từ thời điểm này, điều rất quan trọng là ở trạng thái không mong cầu và sợ hãi gì cả, không chấp và thủ cái gì cả đối với tất cả các đối tượng của những quan năng của sáu thức cũng như đối với những dẫn dụ mê đắm, hạnh phúc và sầu muộn. Và từ bây giờ trở đi, nếu bạn đã đạt “tịnh chỉ an định”, bạn sẽ có thể bắt đầu có khả năng đảm lĩnh bản tính ở trong trung hữu và trở thành giác ngộ. Thế nên điểm tối yếu cho sinh mệnh (của tuệ mệnh) là chấp trì câu hồng danh A Di Đà Phật liên tục, không gián đoạn, không tán loạn từ chính thời điểm này.
Ma chướng cùng sinh là tập khí hiện tại đưa đến vô minh, nghi hoặc và do dự của bạn. Vào lúc đó, lúc ở tử địa, bất cứ hiện tượng dễ sợ nào xuất hiện; Thí dụ: những âm thanh, những màu sắc và những ánh sáng, hãy đừng bị mê đắm dẫn dụ, hãy đừng nghi hoặc và hãy đừng sợ hãi. Nếu bạn bị rơi vào nghi hoặc dù chỉ một thời điểm, bạn sẽ lang thang trong cõi sinh tử luân chuyển, vì thế nên hãy đạt được “tịnh chỉ an định” hoàn toàn (không thay đổi và không bị chấm dứt bất thình lình).
Ở thời điểm này, những lối dẫn vào tử cung (cửa ngõ tái sinh) hiện ra như những cung điện cõi trời. Hãy đừng bị tham luyến đối với chúng. Hãy tin chắc chắn vào điều nhận biết sáng tỏ thấu suốt đó. Hãy tự tại không còn mong cầu và sợ hãi! Vào thời điểm đó, tính giác viên minh trong sáng thấu suốt của chính bạn (tự lực) cùng với quamg minh tiếp dẫn của Phật A Di Đà (tha lực) sẽ là cộng lực cứu độ bạn.
Khi đạt được pháp thân giống như hư không cho lợi ích chính mình, bạn sẽ thành tựu lợi ích cho tất cả hữu tình trong tận hư không vô lượng pháp giới. Bạn có thể hóa hiện các thứ báo thân và ứng hoá thân làm lợi ích cho tất cả hữu tình trong tận hư không vô lượng pháp giới, và lúc ấy tâm của bạn sẽ lan tỏa vạn hữu vô tận xứ.
Kết Luận:
Do vì tâm của chúng ta quá xa rời với giác ngộ và tỉnh thức, do vì nghiệp chướng và tội ác của chúng ta quá nhiều đến không thể tính kể, mà phước báu thì quá nhỏ bé như hạt mè. Do vì tập khí tham, sân, si, nghi, mạn của chúng ta quá nặng nề tạo thành một màn vô minh dầy đặc bao trùm che phủ Như Lai tánh thường chiếu. Cho nên, ở ngay trong cuộc sống hiện tại, chúng ta phải gặp nhiều ngang trái khổ đau, gặp các thứ hồ đồ lộn xộn. Cho đến lúc lúc lâm chung, chúng ta không biết nơi nào để đi để đến, bỏ mặc cho nghiệp lực dẫn dắt lang thang trong sáu nẻo luân hồi sanh tử. Nay nhờ chút phước mọn sót lại mà chúng ta gặp được pháp môn quảng đại thù thắng của Phật A Di Đà do Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tự trao truyền chỉ dạy. Những người có đại tín thành, đại nguyện lực, tinh tấn dũng mãnh, và thông tuệ, những người luôn luôn nhớ đến thầy của họ là Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, những người luôn luôn tín nhiệm vào Phật A Di Đà, những người thân tâm nỗ lực trong thực hành, những người có tâm an tịnh, và có khả năng buông bỏ các mối quan tâm đối với thế giới này. Chính những người này là những người được tất cả các đức Như Lai đồng thanh khen ngợi; vì họ, ở trong đời trước, đã từng gặp Phật quá khứ quy y, chiêm bái, cúng dường và họ cũng đã từng được Phật thọ ký Bồ Đề. Những người tin nhận và chân thật tinh tấn tu tập giáo pháp này chính là những người được thừa hưởng của cải vô tận của các đức Như Lai trong mười phương ba đời. Tại sao? Vì giáo pháp này đều được tất cả các đức Như Lai trong Mười Phương Thế Giới, mà mỗi Thế Giới có vô số vô lượng các đức Như Lai nhiều như cát của sông Hằng, đồng thanh khen ngợi và tán thán không thể nghĩ bàn, không có sai khác.
Đệ tử tục gia của Tam Bảo: thế danh Lưu Minh Trí, pháp danh Trí Thành, pháp hiệu: Giác Hiển.
Phục nguyện cho tất cả hữu tình trong thập phương pháp giới, tất cả ông bà, cha mẹ, họ hàng quyến thuộc và bạn hữu …v….v…. ở trong vô lượng kiếp quá hiện vị lai đều gặp pháp môn niệm Phật của Phật A Di Đà và đều sanh tâm hy hữu, tín, nhận và phụng hành.
Phục nguyện cho tất cả chúng sanh trong thập phương pháp giới đồng vãng sanh Cực Lạc, đồng thành Phật đạo, dứt trừ tận gốc cội rễ sanh tử khổ đau.
Lưu Minh Trí, Diệu Âm Trí Thành
Viết xong ngày 12 tháng 01, 2011 (Tây Lịch)
Một bức thư phúc đáp khắp nơi – Lời văn tuy quê thật, nhưng nghĩa lý vẫn căn cứ trong kinh. Nếu có ai y theo đây mà làm, sự lợi ích sẽ rộng lớn vô cùng! – Ấn Quang pháp sư.
– 1 –
Pháp môn Tịnh Độ trùm khắp cả ba căn, gồm thâu hàng lợi độn, là đại pháp của đức Như Lai, để mở phương tiện cho tất cả thánh phàm đều được giải thoát sanh tử, lên ngôi Bất Thối ngay trong hiện đời. Với pháp mầu nhiệm đặc biệt nầy mà không tin không tu, thật là đáng thương, đáng tiếc!!
Pháp môn Tịnh Độ lấy tín, nguyện, hạnh làm tông chỉ.
Tín là ta phải tin cõi Ta Bà có vô lượng sự khổ; tin cõi Cực Lạc có vô lượng điều vui; tin ta là phàm phu đầy nghiệp lực, quyết không thể nương cậy vào sức mình để dứt hoặc chứng chơn, thoát sanh tử ngay trong hiện đời; tin Phật A Di Đà có lời thề nguyền rộng lớn, nếu chúng sanh nào niệm danh hiệu Ngài, cầu về nước Ngài, khi mạng chung sẽ được Ngài tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.
Nguyện là ta nên nguyện mau ra khỏi thế giới nầy, nguyện sớm sanh về cõi vui kia.
Hạnh là ta phải chí thành khẩn thiết niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật, mỗi thời mỗi khắc đừng để tạm quên, tùy theo hoàn cảnh gấp hoãn lập một khóa trình, sớm tối lễ bái trì tụng trước bàn Phật. Ngoài thời khóa tụng, những khi đi, đứng, nằm, ngồi và làm những công việc không dụng tâm, đều nên niệm Phật. Lúc ngủ nghỉ phải niệm thầm, không nên ra tiếng và chỉ niệm bốn chữ A Di Đà Phật để dễ nhiếp tâm. Lại, những khi y phục không chỉnh tề, hoặc giặt rửa, tắm gội, đại tiểu tiện, cho đến lúc đi ngang qua chỗ không sạch sẽ, cũng đều phải niệm thầm. Chí tâm niệm thầm, công đức cũng đồng như niệm ra tiếng. Trong những lúc ấy nếu niệm ra tiếng thì chẳng hợp nghi thức và có lỗi không cung kính. Không luận niệm lớn tiếng, nhỏ tiếng, niệm Kim Cang hoặc niệm thầm, đều phải trong tâm ghi nhớ rành rẽ rõ ràng, miệng niệm rành rẽ rõ ràng và hai tai nghe rành rẽ rõ ràng. Niệm như thế thì tâm không còn dong ruổi theo cảnh ngoài, vọng tưởng lần dứt, câu niệm Phật lần thuần, công đức rất lớn.
– 2 –
Người niệm Phật phải hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành (Thân không sát sanh, trộm cướp, tà dâm; miệng không nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói hung ác; ý không tham dục, giận hờn, ngu si, tà kiến). Lại cần phải: cha lành, con thảo, anh em thương kính, chồng vợ thuận hòa, chủ nhân, tớ trung, mỗi người đều giữ tròn bổn phận. Ta chỉ nên làm hết nhiệm vụ mình, đừng so đo phiền trách người khác đối với mình có trọn cùng không. Nếu người nào đối với gia đình xã hội làm tròn thiên chức, đó là người lành. Người lành mà niệm Phật thì dễ có cơ cảm, quyết định khi lâm chung được Phật tiếp dẫn sanh về Tây Phương vì tâm hạnh hợp với Phật. Trái lại, những ai miệng tuy niệm Phật, song lòng không nhiễm đạo, đối với cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bạn bè làng xóm không tròn bổn phận thì tâm hạnh trái với Phật, khó được vãng sanh. Tại sao thế? Bởi người ấy tâm không điềm tịnh thuần hòa, tự sanh ra mối não phiền chướng ngại, nên khó được cảm thông với Phật, đó cũng là lẽ tất nhiên.
– 3 –
Người niệm Phật nên khuyên thân bằng quyến thuộc và tất cả đồng nhân đều niệm Nam Mô A Di Đà Phật và Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (Mỗi ngày như niệm Phật 1.000 câu thì niệm Quán Âm 500 câu, niệm Phật 10.000 câu thì niệm Quán Âm 5.000 câu. Niệm nhiều ít so theo đây mà gia giảm). Ta đã tìm được con đường giải thoát yên ổn, lại nỡ nào để cho đấng sanh thành, người quyến thuộc cùng tất cả đồng nhân mất sự lợi ích lớn, chìm trong biển khổ ư? Huống chi giữa cõi đời nhiều hoạn nạn, khó tránh sự hiểm nguy như hiện nay, nếu có thể thường niệm Phật và Quán Âm, tất sẽ được lượng từ bi ủng hộ, gặp dữ hóa lành. Giả sử không tai nạn mà chí tâm trì niệm, cũng sẽ được nghiệp tiêu trí sáng, chướng hết phước nhiều. Hơn nữa, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương, tức là thành tựu kẻ phàm phu làm Phật, công đức rất lớn, đem công đức ấy hồi hướng vãng sanh tất sẽ mãn nguyện.
– 4 –
Người niệm Phật khi tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối, cứu tai nạn, giúp kẻ nghèo, tất cả công đức lành đều phải hồi hướng vãng sanh Tây Phương, không nên cầu hưởng phước báo ở cõi trời, cõi người, trong hiện tại hoặc đời sau. Nếu có tâm niệm ấy thì mất phần vãng sanh và phải bị chìm đắm trong biển luân hồi khổ não. Nên biết, hưởng phước càng nhiều tất gây nghiệp càng lớn, qua một đời sau nữa quyết khó khỏi đọa vào đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Chừng ấy muốn trở lại làm thân người, được nghe pháp hiện đời giải thoát của môn Tịnh Độ, còn khó hơn lên trời. Phật dạy chúng sanh niệm Phật cầu về Tây Phương, là vì chúng sanh mà giải quyết vấn đề sanh tử ngay trong hiện kiếp. Nếu chỉ cầu đời sau hưởng phước báo ở cõi nhân thiên tức là trái với lời Phật dạy, như đem hạt bảo châu vô giá đổi lấy một thẻ đường để ăn, há chẳng đáng tiếc lắm ư? Kẻ tối tăm niệm Phật không cầu vãng sanh mà cầu hưởng phước báo, cũng như đây không khác.
– 5 –
Người niệm Phật không nên tập theo lối tham cứu của nhà tu Thiền. Vì kẻ tu Thiền hầu hết đều không chú trọng về việc tín nguyện vãng sanh. Dù có niệm Phật, họ chỉ chú trọng vào câu ‘Niệm Phật đó là ai?’ để cầu khai ngộ mà thôi. Ta chỉ nên niệm Phật cầu sanh Tây Phương, khi được thấy đức A Di Đà lo gì không khai ngộ? Nếu ở cõi này tu Thiền, như hoặc nghiệp dứt hết thì có thể thoát sanh tử; thảng như hoặc nghiệp chưa dứt thì đã không thể cậy vào sức mình để giải thoát, lại vì không tín nguyện nên không được nương nhờ sức Phật ra khỏi luân hồi. Hai bên tự lực và Phật lực đều không nhờ cậy được, người ấy đâu thể nào thoát khỏi trần lao? Nên biết bậc pháp thân Bồ Tát khi chưa thành Phật đều phải nhờ oai lực của Phật, huống chi ta là phàm phu đầy nghiệp chướng mà ưa luận về sức mình, không cầu sức Phật ư? Lời ấy tuy cao, song xét lại hành vi thật là thấp kém! Sự hơn kém của Phật lực và tự lực khác xa nhau như trời vực, nguyện đồng nhân nên thể tất nghĩa nầy!
– 6 –
Người niệm Phật không nên bắt chước kẻ ngu tối, làm những việc hoàn thọ sanh, gởi kho. Bởi sự hoàn thọ sanh trong Kinh Phật không có nói, do người sau bày đặt ra. Còn gởi kho là muốn cho mình khi chết rồi thành quỷ, nên mới sắm trước tiền của đồ vật cho thân quỷ dùng. Đã có tâm niệm muốn làm quỷ thì khó được vãng sanh. Như người nào chưa làm thì thôi, nếu đã làm, phải bạch rõ trước bàn Phật như vầy: ‘Đệ tử là… chỉ cầu vãng sanh, những đồ minh khố đã gởi khi trước, xin đem chẩn tế cho cô hồn.’ Như thế mới không chướng ngại cho sự sanh về cõi Phật.
Lại những thứ kinh: Thọ Sanh, Huyết Bồn, Thái Dương, Thái Âm, Nhãn Quang, Táo Vương, Thai Cốt, Phân Châu, Diệu Sa… đều là kinh ngụy tạo, không phải kinh của Phật nói, không nên trì tụng. Những kẻ quê tối, không chịu tụng Kinh Đại Thừa (như các kinh: A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Tâm Kinh, Kim Cang, Pháp Hoa, Dược Sư, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm v.v…) mà chỉ tin các thứ kinh ngụy tạo ấy, muốn làm những việc hoàn thọ sanh, phá địa ngục, phá huyết hồ, mới yên tâm. Nếu có người hiểu Phật Pháp khuyên bảo nói đó là những kinh ngụy tạo, họ cũng không nghe lời. Nên biết, làm các Phật sự, chỉ có niệm Phật là công đức rộng lớn, nên đem số tiền hoàn thọ sanh, phá địa ngục, phá huyết hồ ấy, thỉnh những vị tăng chơn chánh niệm Phật cho thì được lợi ích rất nhiều.
– 7 –
Người niệm Phật nên ăn chay trường, như chưa được thế, thì giữ lục trai hoặc thập trai, để lần lần bỏ hẳn các thứ thịt của chúng sanh, mới là hợp lý. Lục trai là các ngày: mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30; nếu thêm vào đó mấy ngày: mùng 1, 18, 24, 28 thì thành ngày thập trai. Những tháng thiếu, nên ăn trước một ngày. Lại, tháng giêng, tháng năm, tháng chín là ba trai nguyệt, nên ăn chay trường và làm các việc công đức. Dù chưa ăn chay được, cũng nên mua thịt cá đã làm sẵn, chớ sát sanh trong nhà. Nếu mỗi ngày sát sanh thì cái nhà ấy đã thành lò sát sanh, là chỗ oan quỷ tụ hội, không được an lành. Cho nên sát sanh trong nhà là điều rất cấm kỵ.
– 8 –
Người niệm Phật nên khuyên cha mẹ niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Muốn cho cha mẹ khi lâm chung quyết định được vãng sanh thì phải dặn trước người quyến thuộc về cách trợ niệm và chớ nên khóc lóc cùng bày vẽ những điều vô ích. Lại, lúc bình thời phải vì cha mẹ giảng rõ sự lợi ích của môn niệm Phật khiến cho song thân thường niệm không quên. Thế thì chẳng những cha mẹ được lợi ích, mà quyến thuộc hiện tại hoặc con cháu đời sau cũng được ảnh hưởng giải thoát an lành. Về phương pháp trợ niệm khi lâm chung, không luận già trẻ, đều phải làm đúng như thế.
– 9 –
Người nữ khi sắp sanh thường bị đau khổ không kham, có khi vài ngày sanh không được, hoặc chết vì sản nạn. Có người tuy sanh được nhưng lại bị huyết băng và nhiều bệnh nguy hiểm. Đứa con sanh ra thì bị các chứng cấp nạn, kinh phong v.v… Cho nên, người nữ lúc sanh sản, nên chí thành khẩn thiết niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Khi niệm cần phải to tiếng, không nên niệm thầm, vì niệm thầm do tâm lực kém nên sức cảm ứng cũng kém. Lại trong lúc ấy sản phụ đang dùng sức sanh đứa bé ra, nếu niệm thầm thì nín ép hơi phải mang bệnh. Nếu chí thành khẩn thiết mà niệm, quyết không có sự đau đớn, khó sanh, huyết băng, đứa con sẽ khỏi bệnh kinh phong, và các chứng nguy hiểm khác. Dù gặp trường hợp khó sanh, có nguy hiểm đến tánh mạng, sản phụ cùng những kẻ hộ sanh cũng phải đồng to tiếng niệm Quán Âm. Người quyến thuộc tuy ở nơi khác đều phải vì sản phụ niệm giúp. Như thế, không đầy giây phút, sản phụ liền được yên ổn mà sanh. Kẻ ngoại đạo không rõ lý nầy, chấp chặt một việc cung kính, chẳng biết căn cứ theo sự mà luận lý, khiến cho mấy bà lão niệm Phật xem sanh sản là việc đáng sợ, cho đến dâu con của mình sanh cũng không dám qua săn sóc, huống chi là niệm Quán Âm? Nên biết Bồ Tát lấy sự cứu khổ làm lòng, lúc sanh sản, tuy lõa lồ không sạch, nhưng đó là việc dĩ nhiên, không phải mình tự ý buông lung, nên niệm đã không có tội lỗi, mà lại khiến cho mẹ con sản phụ gieo trồng căn lành. Nghĩa nầy trong Kinh Dược Sư đã có nói, không phải tự tôi đưa ra điều ức kiến. Ấn Quang nầy chỉ là người đề xướng mà thôi.
– 10 –
Người nữ từ mười hai, mười ba tuổi đến bốn mươi tám, bốn mươi chín tuổi đều có nguyệt kinh. Có kẻ bảo: trong lúc nguyệt kinh, chẳng nên lễ bái trì tụng. Lời này rất không hợp tình lý. Thời kỳ có kinh, mau thì hai ba ngày, lâu đến sáu bảy ngày mới dứt; người tu trì cần phải niệm Phật không xen hở, đâu nên vì một chút bệnh nhỏ thiên nhiên mà bỏ lãng thời tu niệm ư? Khi có nguyệt kinh chỉ nên lễ bái ít (lễ bái ít chớ chẳng phải tuyệt nhiên không lạy), còn sự tụng kinh, niệm Phật đều chiếu theo lệ thường. Nên thường thay giặt vải dơ, phải rửa tay cho sạch sẽ, đừng dùng tay dơ mà lần chuỗi, lật kinh và đốt hương. Trong Phật Pháp, pháp pháp đều viên thông, hàng ngoại đạo chỉ chấp một bên lý, người đời phần nhiều lại ưa tin lời ngoại đạo, không rõ chánh lý Phật giáo, nên không được thấm nhuần pháp lợi.
– 11 –
Quán Thế Âm Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, tìm tiếng cứu khổ. Khi gặp những tai nạn: đao binh, nước lửa, đói kém, cào cào, ôn dịch, khô hạn, cướp bóc, oan gia, thú dữ, rắn độc, ác quỷ, yêu mị, nghiệp binh, kẻ tiểu nhơn hãm hại v.v… nếu phát tâm sửa lỗi làm lành, lợi mình lợi người, chí thành khẩn thiết niệm Quán Thế Âm không xen hở thì quyết định sẽ được nhờ sức từ bi ủng hộ tránh khỏi tai nguy. Nếu vẫn còn giữ lòng bất thiện, dù có xưng niệm, chẳng qua là gieo chút căn lành về sau, không được sự cảm ứng hiện tại, vì chư Phật, Bồ Tát thành tựu niệm lành cho người, tuyệt không thành tựu niệm ác cho người. Như không phát tâm sửa lỗi làm lành, lầm lạc muốn đem công đức niệm Phật, Bồ Tát, để cầu cho việc ác của mình thành tựu thì quyết không được cảm ứng. Rất không nên phát tâm điên đảo ấy.
Đã niệm Phật, cần phải giữ trọn nhơn luân, gìn lòng thành kính, dứt các điều dữ, làm các việc lành, giữ lòng tốt, nói lời tốt, làm việc tốt. Việc nào mình làm được thì thiết thật mà làm, như không làm được cũng nên phát lòng lành ấy, hoặc khuyên người có thế lực làm, hoặc thấy người làm sanh tâm vui đẹp. Thốt lời khen ngợi việc lành cũng thuộc về công đức của tâm và miệng. Nếu việc mình không thể làm, khi thấy người khác làm được mà sanh lòng ganh ghét, đó là tâm hạnh của kẻ tiểu nhơn. Như thế, quyết định phải bị mất phước tổn thọ, không được kết quả tốt, cần để ý răn chừa. Rất không nên giả mặt hiền lương để mua danh chuốc lợi, tâm hạnh ấy quỷ thần đều ghét, có thì mau cải, không thì nên cố gắng làm lành.
– 12 –
Có nhiều người nữ vì không rõ chánh lý, hoặc bất hiếu với cha mẹ chồng, khi dễ chồng, quá cưng yêu chiều chuộng con, ngược đãi tôi tớ, hoặc là mẹ ghẻ hiếp đáp, hành hạ con riêng của chồng. Những người ấy đâu biết rằng: hiếu thảo với cha mẹ chồng, kính trọng chồng, dạy dỗ con cái, ra ân huệ cùng hàng tôi tớ, an ủi nuôi dạy con riêng của chồng, chính là đạo thánh hiền ở thế gian mà cũng là phép tắc đầu tiên của đạo Phật. Nếu có đủ công đức ấy mà tu Tịnh Độ thì quyết định danh dự thêm nhiều, phước thọ bền vững, khi mạng chung được Phật tiếp dẫn về chín phẩm sen. Nên biết đã có nhân phải có quả, nếu ta gieo nhân hiếu kỉnh, từ ái, tự nhiên sẽ được quả hiếu kỉnh từ ái. Vì người tức là vì mình, hại người còn quá hơn hại mình, cho nên mỗi người đều phải làm tròn bổn phận, Phật trời tất sẽ chứng tri.
– 13 –
Trẻ con khi vừa khôn lớn, phải dạy cho chúng biết đạo lý hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ và việc ba đời nhân quả, sáu nẻo luân hồi. Như thế là làm cho chúng hiểu tâm của mình cùng tâm chư Phật, Bồ Tát, trời đất, quỷ thần, mỗi hơi thở thông nhau. Nếu khởi một niệm bất chánh, làm một việc không phải thì các vị ấy thảy đều biết, như đối trước gương sáng, hình ảnh tốt xấu hiện ra rõ ràng, không che giấu được. Đã hiểu như thế, tất nhiên chúng sẽ sợ hãi, gắng sức làm lành. Chẳng luận người nào, dù là con cái tôi tớ trong nhà cũng không nên đánh đập mắng chửi thô tháo. Phải tìm cách khuyến hóa, khiến cho chúng biết phụng thờ bậc trên, nhường thuận kẻ dưới, kính trọng giấy chữ, chẳng xài phá cơm gạo, quần áo, của tiền, yêu tiếc sanh mạng loài trùng kiến, không ăn vặt vãnh để khỏi mang bệnh. Nếu dạy được như thế, thì một ngày kia quyết định chúng sẽ thành người lương thiện. Trái lại lúc con cháu còn thơ ấu, cha mẹ chẳng chịu dạy dỗ, để mặc cho chúng buông lung, khi lớn lên nếu chúng nó không là kẻ dung ngu, cũng là hàng phỉ loại. Chừng ấy dù có ăn năn cũng vô ích. Lời xưa nói: ‘Giáo phụ sơ lai, giáo tử anh hài’ (Dạy con dạy thuở còn thơ, dạy vợ dạy lúc ban sơ mới về), tánh tình phần lớn là do ảnh hưởng của tập quán, cho nên phải cẩn thận từ bước đầu tiên. Cá nhân là phần tử của xã hội, trong thiên hạ bình yên hay loạn lạc, cội nguồn đều do sự hiền lương hoặc bạo ác của con người. Vậy những điều trên đây quan hệ, thiết yếu, không phải tôi bàn luận chuyện vô ích, xa vời…
– 14 –
Ấn Quang tôi năm nay đã quá già yếu, tinh thần mỗi ngày thêm suy kém, không còn đủ sức để phúc đáp những bức thơ gởi đến. Chỉ vì sự lưu thông thuận tiện, nên xa gần lầm nghe chút hư danh, gởi thơ hỏi đạo quá nhiều. Nếu tôi không đáp, vẫn tự hơi có phụ ý người gởi; như mỗi mỗi đều phúc đáp, thật ra cũng không đủ tinh thần. Vì thế, tôi cho in bức thơ dài nầy để phúc đáp cùng khắp. Trong đây, những điều quan hệ về sự tu trì, cách lập thân xử thế, đạo thờ cha mẹ, dạy con cái, tôi đều nói lược qua. Về sau, ai đưa tin đến hỏi đạo, tôi đều dùng thơ nầy phúc đáp, hoặc có vài điều đặc biệt, cũng chỉ nên thêm đôi hàng nơi bức thơ gởi đến mà thôi. Như thế, để cho đạo niệm đôi bên được thông nhau, mà tôi cũng đỡ bớt sự nhọc mệt. Nếu vị nào muốn hiểu suốt kinh nghĩa, xin thưa hỏi nơi các bậc Pháp Sư dựng cao tràng pháp, Tông Giáo kiêm thông. Nhưng nên biết, dù thông suốt kinh pháp, cũng chưa chắc được thoát sanh tử. Muốn thoát sanh tử luân hồi, phải chú trọng nơi sự tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương!
Trích Lá Thư Tịnh Ðộ
Nguyên tác: Ấn Quang Ðại Sư
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Có người hỏi rằng: “Chỉ cần thấy tánh ngộ đạo liền vượt qua sanh tử, cần chi phải chuyên tâm niệm đức Phật kia để cầu sanh qua phương khác?”
Đáp rằng: “Người tu hành chân chánh nên tự mình xem xét, cũng như người uống nước tự biết nóng hay lạnh. Nay còn có bài văn quy kính này, có thể dùng để phá đi nhiều sự sai lầm.
Này các vị! Nên tự xét chỗ hiểu biết và việc làm của mình, có thật được thấy tánh ngộ đạo, được Như Lai thọ ký, được nối ngôi vị Tổ sư, được như các ngài Mã Minh, Long Thọ hay chăng? Được tài biện thuyết không ngại, được Tam-muội Pháp Hoa như ngài Thiên Thai Trí Giả hay chăng? Tông chỉ và giảng thuyết đều thông, chỗ hiểu biết và việc làm đều đầy đủ như ngài Trung Quốc sư hay chăng? Các vị đại sĩ ấy đều để lại lời dạy rõ ràng, hết lòng khuyên bảo pháp vãng sanh. Đó thật là lợi mình lợi người, nào phải đâu dối người dối ta? Huống chi đức Phật đã ngợi khen, tự thân dặn dò cặn kẽ. Noi theo các bậc hiền xưa, kính vâng lời Phật dạy, quyết định không thể sai lầm. Lại như trong Vãng sanh truyện có ghi lại, xưa nay nhiều bậc cao sĩ, sự tích rõ rệt, nên thường đọc kỹ các truyện ấy để tự mình soi tỏ.
Lại nữa, phải thường tự biết mình, liệu rằng đến lúc mạng chung, sống chết gần kề, có chắc chắn sẽ được tự tại hay chăng? Nghiệp ác nặng nề từ vô thủy đến nay, liệu sẽ không hiện ra nữa chăng? Báo thân này liệu có chắc chắn được thoát khỏi luân hồi hay chăng? Trong ba đường dữ với các loài chúng sanh khác nhau, liệu có thể tự mình vào ra tự do, thoát mọi khổ não hay chăng? Trong mười phương thế giới, khắp cõi trời người, liệu có thể tùy ý thác sanh không ngăn ngại hay chăng? Nếu mình chưa được như vậy, đừng vì một lúc tự cao mà đến nỗi phải chịu chìm nỗi nhiều kiếp. Tự mình bỏ mất điều lợi tốt đẹp, rồi sẽ trách ai? Hỡi ôi! Thương thay! Than vãn cũng không kịp nữa!
Việc tu hành thường rơi vào một trong bốn trường hợp, xin chọn nêu ra dưới đây.
Một là:
Tu thiền, không Tịnh độ,
Mười người, lầm đến chín.
Cảnh âm vừa hiện ra,
Liếc qua, liền theo đó.
Nghĩa là: Nếu chỉ hiểu rõ lý tánh mà chẳng phát nguyện vãng sanh thì sẽ lưu chuyển trong cõi Ta-bà, chịu cái họa sa đọa. Cảnh âm đó là trong khi thiền định có ma ấm phát hiện ra. Như trong kinh Lăng Nghiêm có nói rõ: Do năm ấm mà sanh ra năm mươi cảnh ma. Người tu thiền khi mới thấy những cảnh ấy không rõ biết, nên tự nghĩ rằng đã chứng được Vô thượng Niết-bàn. Bị mê hoặc không biết, nên phải đọa vào địa ngục Vô gián.
Hai là:
Không thiền, chuyên Tịnh độ,
Muôn người không sai một.
Chỉ cần được thấy Phật,
Lo gì không chứng ngộ?
Nghĩa là: Nếu chưa rõ lý tánh, chỉ nên nguyện vãng sanh. Nhờ nương theo Phật lực, chắc chắn sẽ được về Tịnh độ, chẳng còn gì phải nghi ngờ.
Ba là:
Tu thiền, tu Tịnh độ,
Như cọp mọc thêm sừng.
Đời nay dạy dỗ người,
Đời sau làm Phật Tổ.
Đã hiểu sâu pháp Phật nên có thể làm bậc thầy dạy dỗ người khác. Lại phát nguyện vãng sanh, nên càng nhanh chóng lên địa vị Bất thối. Có thể nói là:
Lưng đeo tiền mười vạn,
Cưỡi hạc lên Dương châu.
Bốn là:
Không thiền, không Tịnh độ,
Giường sắt, cột đồng chờ.
Ngàn muôn kiếp trôi lăn,
Trọn không người cứu hộ.
Nghĩa là: Người đã chẳng rõ lý Phật, lại không nguyện vãng sanh thì muôn kiếp phải trầm luân, không do đâu mà ra khỏi.
Này các vị! Muốn vượt thoát sanh tử, mau chứng đạo Bồ-đề, trong bốn trường hợp nêu trên xin hãy chọn lấy trường hợp nào là tốt nhất để làm theo.
Trích chương Thiền sư Vĩnh Minh Thọ răn người chưa ngộ đừng khinh Tịnh độ
Sách QUY NGUYÊN TRỰC CHỈ
Tác giả: ĐẠI SƯ TÔNG BỔN
NGUYỄN MINH TIẾN dịch và chú giải
NGUYỄN MINH HIỂN hiệu đính Hán văn
Các Phúc Đáp Gần Đây